Thứ Hai, 28 tháng 3, 2011

Ranh giới giữa sáng kiến và “tối kiến”(*)

  (*) đã được đăng tại http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-04-06-ranh-gioi-giua-sang-kien-va-toi-kien- 
                                                                                                         
Cách đây mấy hôm cả nước ta đã đồng loạt tắt điện trong 1 giờ nhân “Ngày trái đất”. Đó là lần thứ 3 thực hiện sáng kiến tiết kiệm điện kể từ năm 2009  mà trong đó mỗi người chỉ cần làm một động tác đơn giản và hoàn toàn tự nguyện là tắt điện trong gia đình mình. Nhưng kết quả  đưa lại  thật là ấn tượng và đầy ý nghĩa : Không chỉ tiết liệm được 400,000 Mw tương đương 500 triệu Đồng mà còn nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng !. Một việc làm như thế không xâm hại lợi ích của bất cứ ai và không ảnh hưởng đến bất cứ một hoạt động kinh doanh sản xuất  nào,  lại còn tao ra một niềm vui nho nhỏ trong các gia đình có dịp được quây quần bên nhau trong ánh sáng của ngọn nến.

Xin miến bàn về nguồn gốc xuất xứ hay động cơ của sáng kiến “Ngày trái đất”, ta có thể dẽ dàng đi tới nhất trí rằng đây chính là một SÁNG KIẾN ĐÍCH THỰC theo đúng nghĩa của nó. Do đó nó không chỉ được nhiều người tự nguyện hưởng ứng mà còn được duy trì phát huy lâu dài . Một sáng kiến như vậy không đòi hỏi bất cứ một nguồn vốn tài trợ nào nên cũng không có chuyện các “ bên” xông vào nhằm chia chát , xè xẻn rồi biến  thành những “hậu quả” như đã từng thấy. Thế mới hay, một ý tưởng mới chỉ có thể xác định là sáng kiến bằng kết quả và giá trị thực của nó, chứ không nên nhìn vẻ bề ngoài hoặc nghe những lời giới thiệu hoa mỹ về nó.

Tuy nhiên,  thực tế lâu nay ở nước ta đã và đang có vô số những việc làm được cao rao là “sáng kiến” có khi ở tầm cỡ những dự án tiêu tốn rất nhiều nguồn lực nhưng kết quả chẳng bao nhiêu, thậm chí còn gây ra những hậu quả khôn lường. Đơn cử như câu chuyện mua tàu cũ của nước ngoài đem về sửa chữa cải tạo thành tàu du lịch Hoa Sen mà VINASHIN đã từng làm và để lại hậu quả như ta đã thấy . Hay gần đây nhất là trường hợp khai thác bauxite Tây nguyên đang diễn tiến theo chiều hướng hậu quả hơn là kết quả. Khắp nơi trên đất nước này nếu có dịp đến cơ quan xí nghiệp nào cũng thấy treo đầy những bằng khen tặng sáng kiến xuất sắc,...nhưng không mấy ai biết rõ những hậu quả đằng sau những tấm bằng khen đó. Có những sáng kiến đưa lại một vài cái lợi trước mắt nhưng gây ra những hậu quả lâu dài.  Câu chuyện đóng/ mở, mở/đóng đói với các ngã tư đường phố của Thủ đô Hà Nội có lẽ cũng thuộc loại sáng kiến như vậy; nó không chỉ  gây nên những lãng phí về vật liệu, xăng dầu..., mà còn làm mất mĩ quan  đồng thời làm tăng độ ô nhiễm môi trường đô thị, đặc biệt là sự phản tác dụng đối với công tác giáo dục công dân về ý thức chấp hành luật lệ giao thông (tham khảo tại đây: http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-01-13-dem-ngu-van-mo-tay-nam-vo-lang-quay-chong-ca-mat- )

Có thể nói có tình trạng lạm dụng khái niệm sáng kiến ở nước ta trong nhiều năm nay. Đi kèm với nó là sự lãng phí nguồn lực một cách oan uổng. Có những sáng kiến tiêu tốn rất nhiều ở giai đoạn tiền khả thi để rồi bị "treo"  như “Thành phố ven sông Hồng”, “Trục Thăng Long-Ba Vì”, v.v... Vì thế, có người đưa ra một định nghĩa vui vui  rằng  sáng kiến là ý kiến đưa ra vào buổi sáng đến buổi tối đã  trở thành “tối kiến”!

Vẫn biết sáng kiến là một phạm trù đặc biệt, không thể thiếu nếu muốn thúc đẩy nhanh hơn tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Nhưng trong bối cảnh nước ta còn thiếu một cơ chế và năng lực để đánh giá, xét duyệt và quản lý quá trình thực hiện sáng kiến, thì trước hết phải hết sức thận trọng trong việc phê duyệt và áp dụng các sáng kiến đồng thời  phải biết kiên quyết chấm dứt kịp thời những sáng kiến nào đang biến thành “tối kiến”. /.
     
Trần Kinh Nghị

Thứ Hai, 21 tháng 3, 2011

Xấu chơi

Xấu chơi hay chơi xấu cũng vậy thôi. Đó là một thói xấu mà rất nhiều người làm ăn kinh doanh cần tránh (Tôi muốn nói đến người làm kinh doanh vì đối với họ nó quan trọng hơn nhiều đối với những người khác, vì nếu không khéo thì “gậy ông đập lưng ông”).

Hôm vừa rồi tôi có việc đi Pleyku mấy ngày rồi quay ra Hà Nội . Chuyến đi sẽ trôi chảy và khá thú vị , nếu không có một hiện tương (tôi nói là “hiện tượng” cho nó nhẹ bớt đi dù vẫn biết loại hiện tượng này rất phổ biến ở nước ta trong thời buổi kinh doanh chụp dựt vô nguyên tắc, vô đạo lý có thể gọi là "nhọm nhạm" trong nhiều năm nay). Nó khiến tôi cảm thấy rất chi là “tức cảnh” và phải ngồi lại viết đôi điều ít ra cũng để “xả xì-trét”.

Là người Nam sống ở Bắc nên tôi thường phải đi lại rất nhiều từ đầu đến gữa hoặc cuối cái đất nước có hình chữ S này, ít nhất cũng 2 lần mỗi năm. Ngày trước  do khó khăn tôi không ngại đi bằng bất cứ phương tiện nào. Ngày nay thuận tiện hơn, và bản thân cũng đã có tuổi, nên tôi hay đi máy bay, lại còn đi taxi ra vào sân bay nữa.

Tuy nhiên gần đây không hiểu vì tình hình khủng hoảng kinh tế hay lý do nào đó mà tôi sinh ra ý định sẽ đi từ sân bay về nhà bằng xe bus. Ý định này được “bà xã” rất hoan nghênh  bằng cách “tư vấn” cho tôi cách làm thế nào tìm được đúng loại và số xe tốt nhất.

Để cẩn thận, tôi định sẽ làm quen với một vài hành khách cùng tuyến để hỏi kinh nghiệm. Và cũng thật may, khi ngồi phòng chờ ở Pleyku tôi nhận ra một người trẻ tuổi mà tôi đã ngồi cạnh tại phòng đợi trong chuyến bay vào hôm trước. Anh ta cũng rất vui nhận ra tôi giữa cái sân bay tĩnh lẻ này .   Tôi chưa kịp nói hết “ý đồ” của mình thì anh bạn trẻ đã nhận lời sẽ giúp tôi ngay và cho biết anh ta vẫn thường xuyên đi xe bus sân bay. Vậy là tôi đã cảm thấy “yên chí lớn” giống như một cậu bé đến trường với sự diều dắt của cô bảo mẫu.

Khi xuống máy bay, thấy trời mưa, tôi hơi do dự muốn gọi taxi , bụng nghĩ  dù sao đi 2 người thì chi phí cũng bớt được ½. Nhưng anh bạn vẫn “kiên trì đường lối” và dẫn tôi đi nhanh về phía có nhiều xe bus to, nhỏ cách đó độ 300m. Khi đi ngang qua một chiếc minibus thì có mấy người xông ra níu kéo mời chào rất nhiệt tình. Thấy trên xe đã có khá đông người, có cả  người Tây…tôi tưởng đây là “đúng fốc” cái xe mà mình cần. Nhưng anh bạn tôi nhìn qua một cái  liền quay đầu đi tiếp. Tôi đành phải đi theo. Đến một chiếc bus loại to nhất thì dừng lại. Mà không dừng cũng không xong khi có mấy người cũng xông ra níu kéo mời chào . Lúc đó tôi thoáng nghe ai đó nói: “….xe này không đi qua đường Hoàng Quốc Việt đâu”. Tôi nghĩ  đây không phải là xe giành cho mình, nên đành chào anh bạn rồi quay lại với cái xe minibus lúc nãy, bụng bảo dạ: đàng nào họ cũng đang cần mình để đủ người đi…Mình cần họ, họ cần mình, thế là phải đạo.

Thế nhưng, không ngờ đó không phải là cái lô-gíc của những gã lơ xe kia. Họ nhìn tôi quay lại với một con mắt đầy hằn học…thậm chí muốn báo thù thì phải(?) Một gã bảo: “Lúc nãy bảo đi, không đi…Giờ thì không cho đi nữa! Một gã khác lại nói “Đã bảo không nghe…cho chết!”. Trong tôi nỗi lên một cảm giác như bị giội nước lạnh từ trên đầu giữa mùa Đông rét mướt. Không van xin cũng không cần giải thích, tôi buộc mồm quát lên: Sao xấu chơi thế!..., khiến mấy người Tây đang chờ đợi trên xe cũng giật mình. Trông họ có vẽ muốn cảm ơn tôi đã phần nào giúp họ bày tỏ sự bực tức đối với đám lơ xe. Lúc này trong đầu tôi lại hiện lên những lời nhận xét của một bài viết của một tác giả hải ngoại mà tôi đã tình cờ đọc được cách đây mấy tháng :”Người Việt xấu xí”…Đúng quả thật người Việt xấu xí…xấu từ ngoài vào trong. Có lẽ từ nay về sau tôi sẽ không bao giờ dám nghĩ đến việc đi bằng xe minibus sân bay nữa.

Nhưng sau đó khi ngồi trên một cái xe khác để vào thành phố, tôi nghĩ : Người Việt không những xấu xí mà còn rất yếu kém trong lĩnh vực kinh doanh (Tôi dùng chữ “yếu kém” cho nó lịch sự chứ thật ra là “không biết” thì đúng hơn). Mấy gã lơ xe kia chắc là ít học thì không biết đã đành, chứ các cơ quan chức năng  mà cũng không biết thì còn ai có thể biết (?)  Hà Nội có khá nhiều xe bus trống rỗng chạy nhông nhông giữa phố như "điên", mặt lái xe và lơ xe lúc nào cũng cau có...; nhà xe kêu "lỗ vốn" vì ít khách trong khi hành khách rất cần xe nhưng cũng rất lo sợ bị "hành" nên đành quy về với cái xe máy hay xe đạp (!) Có quá nhiều nghịch lý trong các ngành kinh doanh dịch vụ như vậy trên đất nước ta ngày nay./.              




Thứ Bảy, 19 tháng 3, 2011

Vì tiền? nhưng không thể bất cứ giá nào!


Căn lều dự  án mọc lên làm xấu cả phố phường
Tấm ảnh trên được chụp mới sáng nay tại con ngõ số 239 Phố Tô Hiệu, Quận Cầu Giấy, Thủ đô Hà Nội, cũng là con ngõ chính nối  Phố Tô Hiệu với Làng Quốc tế Thăng Long nên lúc nào cũng quá “nhộn nhịp” với dầy đặc hàng quán và xe cộ khiến người đi bộ luôn phải đi dưới lòng đường rất nguy hiểm. Đã có không ít vụ tai nạn xảy ra tại đây. Ấy vậy mà người ta đang hối hả xây chen tại đây ít nhất là 2 dự án chung cư nữa. Mảnh đất hẹp chỉ khoảng 400 m2  bên phải tấm ảnh này thuộc một “dự án” gồm 4 biệt thự đang được khởi công. Còn một dự án “khủng” hơn nhiều với gần 100 căn liền kề đang được lăm le khởi động ở phía đầu ngõ trên rẻo đất  hiện đang là hành lang bảo hiểm lưới điện 110KV giữa Làng Quốc tế Thăng Long và Phố Tô Hiệu.

Người viết bài này chỉ là một "phó thường dân" nên không đủ thẩm quyền “để biết” mọi ngóc ngách của hai dự án nói trên, nhưng cũng biết đủ để xin được sử dụng cái quyền “được bàn” như sau.

Người Hà Nội chắc đều biết Làng Quốc tế Thăng Long là một trong số ít khu chung cư cao cấp đầu tiên của Thủ đô. Nó vẫn còn đó dấu tích của những biệt thự mà Lã Thị Kim Oanh “biến hóa” từ một dự án chung cư cao tầng là chính. Mảnh đất nằm ở rìa ngoài nói trên cũng là một dấu vết còn sót lại sau nhiều lần đấu tranh giằng co, quãng năm 2006 nó đã được kết luận là “đất cây xanh…, không được xây nhà ở”.  Nhưng cách đây mấy tháng bỗng dưng có người đục tường  rào  vào trong sân dọn mặt bằng,  ai hỏi chỉ nói úp mở…. Nhưng mới đây đã lộ rõ nguyên hình là sự “hồi sinh” cái ý đồ của 10 năm trước, khác chăng là, trước đây định xây 2 biệt thự thì giờ thành 4 căn liền kề!
Vấn đề chưa rõ là ai cho phép xây và xây cho ai (?). Nhưng điều đã rõ  là dự án này vi phạm các quy tắc xây dựng cơ bản, và ắt hẳn có những khuất tất trong đó cần được làm sáng tổ và kịp thời ngăn chặn.

Trường hợp dự án thứ hai còn lớn hơn rất nhiều với quy mô gần 100 căn liền kề tạo nên một “bức tường” bằng nhà dài gần  ½ km chạy dọc sau phố Tô Hiệu và cũng cắt qua con ngõ nhỏ nói trên (theo sơ đồ thiết kế của công ty chủ quản INDECO).  Dư luận đàm tiếu rằng nếu được thực hiện, nó chắc sẽ là một “kiệt tác” nữa của nền kiến trúc chắp vá của Thủ đô ta. Xấu xí không giống ai là một chuyện. Nhưng chuyện đáng nói ở đây là sự vô lý của một dự án xây chen nhà ở trên diện tích đất lưu không đường điện cao thế (dù đang treo trên cao như hiện tại hoặc sẽ hạ ngầm sau này). Hơn nữa về mật độ dân cư đây là một khu vực đã được quy hoạch với Khu tập thể Nghĩa Tân một bên và Làng QTTL một bên, chẳng có lý gì để “chèn” thêm  một khu dân cư nữa vào giữa.     

Ai cũng biết thủ đoạn “xây chen” là một mánh kiếm tiền của các chủ thầu xây dựng. Nhưng trong hai trường hợp kể trên nó là sự vi phạm có tính toán mà những kẻ vi phạm  tỏ ra rất kiên trì bám đuổi phần lợi nhuận 200% của họ ( như luận điểm thời nào cũng đúng của Karl Max: Nếu đạt lãi xuất 200% thì nhà tư bản dù bị treo cổ cũng không từ bỏ).

Tuy nhiên,  cũng xin thưa, trong một xã hội pháp quyền, thiết nghĩ mọi hoạt động kinh doanh nhất thiết phải tuân thủ pháp luật. Và pháp luật không ngoài mục đích nhằm đảm bảo quyền sống và mọi quyền lợi chính đáng của công dân. Người cầm cân pháp luật không ai khác là các cơ quan chức năng của Nhà nước. Vậy nếu không có sự chấp thuận (dưới mọi hình thức nào đó) của một cơ quan nhà nước thì liệu các công ty xây dựng trên đây có thể liều lĩnh đổ vốn cho những phi vụ làm ăn mà họ biết chắc là không được sự đồng thuận của nhân dân?  

Nhưng qua những gì đang diễn ra cho dân thấy các chủ thầu đã và đang làm việc một cách đầy tự tin. Không rõ vì sao họ có thể đưa ra nhiều công văn giấy tờ có chữ ký và con dấu  của các cơ chức năng cho phép xây dựng nhà ở như vậy.  Nghe nói họ thậm chí đã “bán hết” các lô đất nền…(!). Trong khi đó người dân cảm thấy  rất bức xúc, lo lắng không biết điều gì sẽ xảy ra nếu cái gọi là “dự án” như vậy được tiến hành. Nhiều người cho rằng những kẻ đầu cơ chỉ cần cắm mốc và rào khoanh vùng để “xí phần”, sau đó chưa chắc đến lúc nào sẽ thực hiện, miễn là giá đất sẽ tiếp tục lên!  Suy luận này  hoàn toàn có cơ sở khi mà chưa một cơ quan Nhà nước nào đứng ra chính thức thông báo và giải trình về tính khả thi của dự án “hạ ngầm lưới điện 110 KV” trên phần diện tích đất của dự án nhà liền kề nói trên.   

Dân cư trong khu vực đã nhiều lần làm đơn kiến nghị gửi đến các cấp chính quyền từ Phường đến Thành phố; cũng đã có sự lên tiếng của báo chí. Nhưng cho đến nay tất cả vẫn rơi vào yên lặng. Ngoài một vài cuộc họp do Phường Dịch Vọng tổ chức mà trong đó chỉ để nghe ý kiến tranh cãi giữa người dân với đại diện Công ty có dự án, chưa hề có một văn bản hay một hình thức trả lời chính thức nào của các cấp chính quyền.

Thiết nghĩ, đất nước đang thực hiện đổi mới, trong đó Thủ đô là tấm gương về mọi mặt không lẽ nào cứ quẩn quanh mãi trong nếp làm xây dựng chắp vá? Một Hà Nội mở rộng với  hơn 3.300 km2 ngày nay không thể thiếu đất để phải cho xây chen,  xây ép các khu dân cư trong vùng nội thành. Cách làm này chỉ có lợi trước mắt cho những kẻ đầu tư bất động sản trục lợi, nhưng sẽ mãi mãi làm nhơ xấu hình ảnh của phố phường Hà Nội. Kiếm tiền ai cũng muốn, nhưng cái giá phải trả mới là vấn đề: Đó là hình ảnh xấu xí, lạc hậu của Thủ đô; đó là lòng tin của người dân vào nơi công quyền bị xói mòn./.           

Trần Kinh Nghị

Cơ hội để HLV nội lên ngôi?


Sự ra đi đột ngột của Huấn luyện viên (HLV) ngoại Calisto dù muốn hay không đã đặt Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) nói riêng và nền bóng đá nước nhà nói chung vào thế khó. Khó vì nhiều lẽ , nhưng có hai lý do chính: đó là thời gian còn quá ít từ nay cho đến khi Tuyển Quốc gia phải ra quân ( trước tiên là trận vòng loại cup châu Á vào tháng 5); và vì tâm lý “sính ngoại” không chỉ trong dân chúng, đặc biệt người  hâm mộ, mà còn cả trong làng bóng đá nước nhà.

Một lần nữa VFF lại đứng trước thế tiến thoái lương nan giữa hai lựa chọn: HLV nội hay ngoại?  HLV ngoại thì đã có nhiều tiền lệ rồi, nội thì hầu như chưa có kể từ thời “mở cửa”. Đối với Tuyển quốc gia, lâu nay HLV nội toàn làm “chân phụ” là chính ! Khó có thể nói dứt khoát vì lý do gì, nhưng có một sự thật  là, người ngoài bảo thì nghe nhưng người đồng chủng, đồng môn, đồng nghiệp, đồng chí bảo thì không “tâm phục khẩu phục”. Có lẽ vì thế mà dù muốn hay không, bàn đi tính lại, rốt cuộc đành phải chọn “của ngoại” cho được việc cái đã. Nhiều lúc đắt giá lắm mà cũng phải bấm bụng mở hầu bao (như trường hợp thuê  ông Lalisto gần đây nhất chẳng hạn- cò kè mãi cũng không dưới 24.000 đô/tháng!). Nhưng khốn nỗi,  đổi lại, rõ ràng ông ta đã đưa lại một kết quả đúng với cái giá của nó: tấm huân chương vàng Suzuki Cup 2008. Và cũng chính cái kết quả này đang “làm khó” thêm cho các nhà lãnh đạo Liên đoàn bóng đá Việt Nam trước tâm lý  “sính ngoại” đã được cũng cố hơn trong dân chúng.

Trên đây là một cách nhìn khách quan. Tuy nhiên người viết bài này lại muốn đưa ra một cách tiếp cận khác nhằm đi tới kiến nghị rằng Việt Nam vào lúc này tốt hơn hết là hãy chọn một HLV nội.  Xin được nêu lý do như sau:

Một là, thời gian đã quá gấp để một HLV ngoại (dù năng lực tốt bao nhiêu) có thể làm quen và nắm vững về mọi điều cần thiết nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ (ngay cả nếu bản thân người được chọn cam kết có thể làm được việc này). Ngược lại, với một HLV nội, việc này không khó khăn gì.  

Hai là, hãy coi đây là một dịp tốt để thử thách năng lực thực sự cũng như các tố chất khác giữa HLV ngoại và HLV nội. Riêng đối với HLV nội đây là một cơ hội để được thể hiện mình, nhất là khi nước ta đang có một thế hệ HLV còn trẻ tuổi nhưng “lớn lên” từ thưc tiễn với những thành tích cao trong quá trình thi đấu khu vực và quốc tế như Lê Huỳnh Đức, Nguyễn Hồng Sơn… 

Ba là, dù thành bại, đây là một cơ hội để trãi nghiệm về tâm lý: nên tự cường hay tự ti mà lâu nay người Việt Nam từng vấp phải trong lĩnh vực bóng đá nói riêng cũng như trong các môn thể thao khác và cả  trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật, v.v…. Nói cách khác, mọi việc đều cần được liên tục thử nghiệm và kiểm nghiệm lại, chứ đừng mãi sống bằng kinh nghiệm của qúa khứ.

Bốn là, (có thể có người không tán thành) nhưng tôi nghĩ nên hy vọng  đây là một cơ hội để đáp lại lối “làm cao” của một số HLV ngoại mỗi khi họ muốn tìm việc làm với bóng đá Việt Nam. Trong chuyện này cá nhân tôi dù rất hâm mộ ông Calisto nhưng cũng không hài lòng với cái cách mà ông đã chọn thời điểm vừa rồi để “ra đi”.

Thiết nghĩ Việt Nam với gần 80 triệu dân hoàn toàn không phải là một nước nhỏ, lại có một truyền thống yêu bóng đá đầy nhiệt huyết và bản sắc riêng; về trí tuệ cũng đã được minh chứng bằng năng lực học tập và tiếp thu kiến thức thuộc loại cao nhất của thế giới. Thể lực và tầm vóc có thể ảnh hưởng ít nhiều đến thành tích thi đấu nhưng chắc chắn không ảnh hưởng đến nghề làm HLV.  Do đó  không có lý do gì để không sản sinh ra những HLV tầm cở quốc tế. Thậm chí về lâu dài ta hoàn toàn có thể “xuất khẩu “ HLV bóng đá ra thế giới./.
                                                  

Thứ Hai, 14 tháng 3, 2011

Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ: Trách nhiệm thuộc về ai?

Dưới đây là trích đoạn chuyện kể lại của một cựu chiến sĩ hải quân đã từng trực tiếp đối mặt với “giặc biển Trung Quốc” trong chiến dịch lẫn chiếm Trường Sa cách nay đúng 23 năm chẵn (đăng trên tuần vietnamanet nhân kỷ niệm lần thứ 23 ngày quân Trung Quốc lấn chiếm Trường Sa)
Trích dẫn:
Buổi sáng sớm ngày 14/3/1988, HQ 505 và HQ 604 đang neo giữ đảo Gạc Ma thì tàu Trung Quốc kéo đến. Anh Dương kể lại một cách lõm bõm: “Họ gọi loa bằng tiếng Việt: “K2 (mật danh của tàu HQ 604) rời đảo ngay. Đây là lãnh thổ của CHND Trung Hoa”. Tôi mới ngủ dậy, mặc độc cái quần đùi. Lúc đầu tôi còn trêu chọc họ cơ. Mình cầm bánh lương khô dứ dứ, họ cũng dứ lại, lương khô của họ còn to hơn! Thế rồi tàu Trung Quốc lùi lại cách đảo chừng hơn 1 hải lý (khoảng 1,8 km) rồi dùng tất cả hỏa lực bắn xối xả vào cả tàu và đảo. Anh Vũ Huy Lễ, thuyền trưởng của HQ 505, bèn lệnh cho tàu lao vào Cô Lin. Đối phương bắn như vãi đạn, đúng khi tàu ta đang đổ bộ…”. Cùng lúc đó ở hướng đảo Len Đao, hải quân Trung Quốc bắn rát vào chiếc tàu thứ ba, HQ 605.
HQ 505 cháy một mảng lớn. HQ 604 chìm dần. (Còn HQ 605 chìm vào ngày hôm sau, 15/3). Anh Dương cùng đồng đội nhảy xuống biển, bơi về phía đảo Gạc Ma. 9 người bị phía Trung Quốc dùng câu liêm kéo lên, bắt được. Riêng anh bị trúng một nhát câu liêm vào đầu, máu chảy loang đỏ nước, choáng tới mức chìm xuống rất sâu nhưng rồi bị sặc, lại cố ngoi lên, bơi vào bờ. Tới nơi thì do kiệt sức, mất máu, anh ngất đi, được đồng đội sơ cứu rồi dùng xuồng nhôm rút khỏi đảo.
Nguyễn Duy Dương may mắn chỉ bị thương nhẹ. Khi tỉnh dậy, anh mới biết không còn đồng đội nào trên tàu HQ 604 ở bên mình nữa. Người tử thương vì đạn, người chìm theo tàu, người bị bắt.
…….
Nghĩ lại về ngày 14/3 cách đây 23 năm, anh Dương trầm ngâm: “Nói rằng chúng tôi hồi đó hơi chủ quan thì không biết có đúng không, nhưng chẳng ai nghĩ là bên kia sẽ nổ súng, nã pháo, tấn công trên biển cả, cứ tưởng chỉ gây hấn thế thôi. Mỗi người được trang bị một khẩu AK nhưng lúc đó không ai mang súng theo người, để hết ở khoang hàng. Cuối cùng khi chiến sự xảy ra, bên tàu mình tay không, không một tấc sắt. Mà kể cả có vũ khí thì nói chung cũng không tốt, sự phòng bị về căn bản không đáng kể. Trang thiết bị của ta lúc đó đã quá cũ rồi. Tàu ta là tàu 400 tấn, nhập của Trung Quốc từ thời chiến tranh. Tàu đối phương khi ấy lớn gấp cả chục lần ta”.
Anh Dương thổ lộ: “Anh em chúng tôi mong bằng cách nào đó, Việt Nam phát triển tiềm lực quân sự, hải quân, chứ chiều dài đất nước hơn 3.200 km bờ biển mà lực lượng mỏng, trang thiết bị cũ kỹ thì nếu chẳng may có sự cố gì, sẽ ứng phó rất chậm”.
Hết trích dẫn
Trên đây chỉ là môt trong hàng trăn nhân chứng sống nói về các trận chiến không cân sức  giữa ta và địch Trung Quốc, không chỉ trên biển mà cả trên bộ, kể từ  sau ngày giải phóng miền Nam năm 1975. Qua đó toát lên một “thông điệp” chung nhất là sự yếu thế về quân số và hỏa lực là một chuyện, nhưng yếu do bị đánh bất ngờ mới là điều nguy hại hơn nhiều.
Hoàn toàn không thể trách cứ những người lính mà phải trách những người mang sứ mệnh chèo lái con thuyền đất nước. Không còn nghi ngờ gì nữa, bằng thực tiễn mấy chục năm nay đã cho thấy có sai lầm về đường lối trong cách ứng phó với chủ nghĩa bành trướng Phương Bắc, kẻ ngoài miệng luôn nói lời vàng, viết chữ son": đồng chí tốt, láng giềng tốt ... , nhưng trong lòng  lúc nào cũng coi ta là vật cản trên con đường bành trướng của họ. Họ sử dụng ta để đánh kẻ thù ...rồi lại bán đứng ta, chiếm đất và biển đảo của ta lúc nào họ muốn. Chỉ tiếc sao  ta quá chậm nhận ra điều này? Hay nhận ra rồi mà vẫn ảo tưởng vào lòng “từ bi” của họ? Hay nhận ra tất cả rồi nhưng chỉ vì  lơị ích cá nhân thiển cận nên đành chủ trương “dĩ hòa vi quý” một cách ươn hèn bất chấp lợi ích lâu dài của dân tộc? Vì ươn hèn mà nghĩ ra đủ cách để tránh né đối đầu với địch, thậm chí còn "dạy khôn" nhân dân rằng “phải mềm mỏng, khôn khéo với... kẻ thù! ”. Rõ là khôn quá hóa dại! Một khi đường lối không rõ, thái độ không dứt khoát  thì làm sao chỉ đạo cấp dưới sẵn sàng và kiên quyết chiến đấu (?). Còn nhớ bao lần bị quân Trung Quốc đánh, quân ta đều trong trạng thái bất ngờ. Ngay trước cuộc chiến tranh biên giới đầu năm 1979 Đặng Tiểu Bình đi Mỹ đã cố ý công khai ý đồ "đánh Việt Nam..." để thăm dò dư luận. vậy mà ta chẳng tin (?) Đến khi quân địch tràn qua biên giới,  quân ta vẫn trong tư thế như ngày thường, dân không kịp sơ tán… Mấy lần địch tấn công lấn chiếm Trường Sa cũng vậy. Câu chuyện của người Lính trên đây cho thấy rõ điều đó: Đi làm nhiệm vụ mà không mang theo vũ khí;  địch sắp bắn vào ta mà lính ta vẫn đùa với chúng…  Thật đau đớn!!!
Liệu quân dân ta còn bị bất ngờ đến bao giờ? 
                                                                                                         Hà Nội, ngày 14/3/2011

*****

Thứ Tư, 9 tháng 3, 2011

Sự khiếp nhược được che đậy bằng cái gọi là khôn khéo(*)

(*) Thấy bài này trên mạng hay... lôi về, nhưng xin lỗi tác giả
Nguyễn Quang Lập
được đề lại cái tiêu đề bằng câu kết (vì thấy nó đúng sự thật hơn chằng?)




Ai đục bỏ lòng yêu nước?



clip_image001
Hôm qua, báo Thanh Niên cho đăng bài “Lạng Sơn, những ngày tháng hai”, một ghi chép (không phải phóng sự) rất hay. “Đây là lần đầu tiên lễ kỷ niệm được tổ chức tại chính Lạng Sơn, mảnh đất tiền tiêu mà 32 năm trước đã diễn ra những trận đánh ác liệt nhất của quân và dân ta để giữ vững từng tấc đất biên cương Tổ quốc… Với nhiều đồng đội cũ, đây là cuộc gặp gỡ sau hàng chục năm xa cách. Người đã chuyển ngành, người vẫn phục vụ trong quân đội nhưng dường như mọi ký ức, tình cảm của những người lính Quân đoàn 14 vẫn còn vẹn nguyên như ngày nào”. Từng là người lính nhập ngũ trong thời kì “Chống Trung Quốc xâm lược”, tui rất cảm động. Nhiều đoạn rưng rưng nước mắt.
Đến khi nhìn thấy bức ảnh:”Tấm bia kỷ niệm chiến thắng tại đầu cầu Khánh Khê” thì sững sờ, rực lên một nỗi đắng cay.
Tấm bia kỉ niệm chiến thắng mà tan nát thế này a? Bốn chữ “Trung Quốc xâm lược” đã bị đục bỏ trắng trợn. Đỗ Hùng (báo Thanh Niên) đã viết trong blog của anh: “Từ “Trung Quốc” đã bị xóa gần như hoàn toàn, từ “xâm lược” cũng thế. Tấm bia ghi chiến tích đánh Trung Quốc của quân đội Việt Nam trong cuộc chiến tranh biên giới 1979 đã bị đục nát như là bằng chứng cho sự khiếp nhược đã tới mức không thể diễn tả bằng lời“. (Ở TP.HCM, tôi thấy những tấm bia ghi chiến tích đánh Mỹ đặt trước Lãnh sự quán Mỹ, khách sạn Park Hyatt vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt).”
Ai đục bỏ mấy chữ kia? Đỗ Hùng không nói, báo Thanh Niên cũng không nói, chỉ than thở nhẹ nhàng: “Những dấu tích của thời gian và con người đã xóa mờ một vài chỗ trên tấm bia”. Cái “con người” mà báo Thanh Niên nói,  đó là ai? Tại sao lại phải đục bỏ mấy chữ kia? Bởi vì một khi chủ trương đục bỏ bốn chữ  “Trung Quốc xâm lược”  trên tấm bia kỉ niệm chiến thắng tức là tự mình đục bỏ lòng yêu nước. Đỗ Hùng gọi đấy là sự khiếp nhược, quá đúng, sự khiếp nhược được che đậy bằng cái gọi là khôn khéo. Thảm hại thay!
N. Q. L.


08-03-2011

Thử tìm bài học từ lịch sử

Lịch sử cần lắm vai trò của Cơ quan chức năng
Cuối năm ngoái tôi có viết một bài báo nhan đề “Lịch sử cần Sự thật” đăng trên TuầnVietnam (xem http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-12-27-lich-su-can-su-that )  nêu lên một số ý kiến về lịch sử và cội nguồn dân tộc Việt Nam. Nhưng không ngờ bài báo đã thu hút sự quan tâm sâu rộng từ cộng đồng với nhiều ý kiến đóng góp rất đáng lưu tâm. Qua đó cho thấy đúng là có một tình trạng hiểu biết sơ sài và không đồng nhất về lịch sử và cội nguồn dân tộc đồng thời với một xu hướng tâm lý tự ti,  hoài nghi về sự thật lịch sử và các giá trị nhân văn của dân tộc mình ; và điều này diễn ra trong mọi tầng lớp, kể cá trí thức và người trẻ tuổi. Có thể nói lời cảnh báo “dân ta không biết sử ta” từ nhiều năm trước nay đã trở thành sự thực. Cảm nhận này  thôi thúc tôi muốn nói thêm đôi điều sau đây.   
Tìm hiểu kỹ hơn, ta nhận thấy nguyên nhân chính nằm ở sự bất cập của bộ sách giáo khoa và các tài liệu lịch sử nói chung vốn quá nặng về truyền thuyết và những khái niệm mơ hồ không được chứng minh bằng sử liệu và chứng cứ đủ sức thuyết phục. Đáng lẽ tập trung giải mã những “điểm khuất” thì người ta cứ tiếp tục “tô son trát phấn” cho những huyền thoại hoặc những quan điểm mơ hồ thiếu cơ sở khoa học khách quan.  Hậu quả là sự thất truyền, mai một của những sử liệu thật và  thay vào đó bằng những “sử liệu ảo”.
Khi mà người học, người đọc và người dân nói chung đều cảm thấy nhàm chán với bộ sách giáo khoa sử học và các tài liệu lịch sử cũ kỹ thì họ lại càng dễ  bị tác động bởi các văn hóa phẩm ngoại lai và bầu không khí lễ hội xô bồ, lệch lạc; và  do đó trở nên “mù mờ” về lịch sử và cội nguồn dân tộc mình.  Xin đơn cử một vài ví dụ: Có không ít người Việt Nam ngày nay dần tin rằng cội nguồn dân tộc ta phát từ Phú Thọ (vì ở đó có Đền Hùng) và
Bản đồ thời Nhà Hạ-nhà nước đầu tiên của TQ (2205-1767 TCN-
chỉ là một giọt dầu so với bản đồ TQ ngày nay (Nguồn: Wikipedia)

quên mất gốc tích Hồ Động Đình (vì nó ở xa bên Trung Quốc). Những nhầm lẫn  tương tự cũng đang diễn ra với trường hợp Thánh Gióng, An Dương Vương, Hai Bà Trưng, và cả trường hợp Tiệu Đà* … Cứ đà này thì không thể nào tránh được sự nhầm lẫn cơ bản  rằng nước Văn Lang xưa chỉ bao gồm vùng châu thổ Sông Hồng và lâu lắm cũng chỉ từ thế kỷ thứ 7 TCN (như một trường phái lập luận đang khá thịnh hành gần đây). Nói về nguồn gốc dân tộc, thì ngoài khái niệm chung chung  “ cùng là con cháu của các Vua Hùng” thì mỗi người hiểu một cách khác nhau, người thì cho là ta “giống  Tàu”, người thì cho là ta “từ người Hán mà ra” hoặc “bị Hán hóa hết rồi còn đâu!”, v.v…, nghĩa là không còn biết mình là ai nữa. Từ đó sinh ra tâm lý hoài nghi về nguồn cội cũng như các giá trị nhân văn của chính dân tộc mình, thấy mình nhỏ bé, yếu kém, sợ hải và bị thuần phục …Thậm chí có người quan niệm rằng bị đô họ, bị ảnh hưởng của nước lớn láng giềng Phương Bắc là lẽ đương nhiên (!?)    
Nhưng đó cũng chưa phải là hậu quả cuối cùng; hậu quả tiếp theo sẽ là tương lai tồn vong của cả dân tộc. Bởi lẽ, sự hiểu biết đúng đắn về lịch sử và cội nguồn dân tộc không chỉ đơn thuần là sự hiểu biết về quá khứ mà còn là vốn quý báu nhất để từ đó dân tộc rút ra những bài học thiết thực trong suốt cuộc  hành trình vào tương lại.  Không biết hoặc biết sai lệch về lịch sử và cội nguồn dân tộc ắt sẽ khó tránh được những sai lầm trên con đường bảo vệ độc lập-chủ quyền và mưu cầu ấm no hạnh phúc cho dân tộc.       
Thực ra đã có nhiều ý kiến bày tỏ mối lo lắng trước thực trạng bất cập của nền sử học nước nhà; và đang có nhiều nhà nghiên cứu tư nhân hoặc các tổ chức phi chính phủ đã và thầm lặng tiến hành các công trình nghiên cứu nhằm góp phần bổ sung, bổ khuyết cho kho tàng sử liệu dân tộc mà họ quý trọng. gìn giữ. Nhưng đáng tiếc là những kết quả nghiên cứu của họ chưa thể phát huy hết tác dụng do thiếu  vai trò chủ đạo và sự ủng hộ thực chất của các cơ quan nhà nước chuyên trách. Thiết nghĩ, để giải quyết rốt ráo vấn đề này, không ai khác mà chính là các cơ quan chức năng các cấp phải tích cực chủ động “vào cuộc”. 
Cũng nên thống nhất quan niệm rằng đối với những người làm công tác nghiên cứu lịch sử, mọi sử liệu, kể cả truyền thuyết, ca giao tục ngữ, cho đến di tích khảo cổ, khoa học sinh học và gien di truyền, v.v… đều có giá trị nghiên cứu như nhau, và không thể bị coi thường, coi nhẹ cái nào. Vấn đề là cách thức kết hợp chúng với nhau như thế nào và vận dụng phương pháp luận nào để đi tới những kết quả khách quan và chính xác nhất. Thật là sai lầm nếu ai đó chỉ vì một vài phát minh mới mà đã vội từ bỏ những sử liệu hoặc luận điểm đã có từ trước. Ngược lại cũng không ổn nếu chỉ mãi hài lòng với truyền thuyết và những gì đã được ghi chép lại trong sử sách cũ (bới chúng dù sao cũng là do con người sao chép lại nên không thể không có sai sót do vô tình hay cố ý trong quá trình biến thiên hàng ngàn năm của lịch sử).
Liên quan đến công tác này, được biết Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tại buổi gặp mặt đầu năm Tân Mão với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã có ý kiến chỉ đạo rất kịp thời: “Tiếp tục những nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu những di sản, lịch sử còn ẩn chứa trong tâm hồn, nguồn cội của dân tộc Việt Nam để quảng bá, giới thiệu cho các thế hệ tiếp theo, nếu việc này bị xem nhẹ là sẽ tạo ra nguy cơ đối với sự tồn vong của dân tộc”. Chủ tịch nước cũng nhấn mạnh: “Đã là lịch sử thì phải đúng sự thật, trung thực và chính xác. Đối với những vấn đề trước đây công bố chưa chính xác thì khi đã có đủ tư liệu, cần có bước đi thích hợp để đính chính lại lịch sử” **

Bài học nào từ lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam?
Nếu  mỗi quốc gia dân tộc cũng có “số mệnh”, thì phải chăng số mệnh của dân tộc Việt Nam là phải chiến đấu chống ngoại xâm? Cái mệnh này gắn chặt đến nỗi mỗi con người Việt Nam sinh ra đều biết mình “có hơn 4.000 năm lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước” và thuộc lòng các niên đại bị ngoại xâm ở các thời Tần, Hán, Đường, Nguyên-Mông, Pháp, Nhật, Tàu Tưởng, Mỹ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.   
Trong số các kẻ thù xâm lược, có một kẻ mà dù muốn hay không, người Việt Nam vẫn phải chấp nhận chung sống cận kề đời đời kiếp kiếp, đó là nước Trung Quốc vĩ đại với dân số đông nhất thế giới vẫn tự phong là “vương triều” giữa thiên hạ. Lịch sử cho thấy, trong quá trình mở mang bờ cõi, nước láng giềng Phương Bắc này đã rất  thành công về hướng Nam nơi vốn đã là thánh địa của hàng trăm tộc người Bách Việt, trong đó có nước Văn Lang xưa và trở thành Việt Nam ngày nay. Nhân loại chứng kiến rất nhiều  trường hợp xâm lược và thôn tính lẫn nhau, nhưng trường hợp Hán tộc thôn tính các Việt tộc có lẽ là một trường hợp độc đáo cả về  quy mô, cung cách và tính triệt để của nó. Trong quá trình kéo dài hàng ngàn năm từ trước đến sau CN, các bộ tộc hoặc vương quốc Bách Việt đã lần lượt bị Hán tộc thôn tính và đồng hóa, chỉ còn lại Việt Nam . Tuy không bị đồng hóa nhưng Việt Nam đã bị dồn đẩy về phía Nam và bị các triều đại phong kiến Phương Bắc thay nhau đô hộ trong thời gian rất dài (được sử sách ghi là “hơn 1.000 năm”). Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng hận thù sâu sắc giữa hai quốc gia dân tộc mà trong đó người Trung Quốc thường nhìn người Việt Nam bằng con mắt miệt thị trong khi người Việt Nam luôn cảm thấy lo lắng, bất an trước sự khôn ngoan, lắm mưu sâu, kế hiểm của đối phương.  Quá trình đó cho ta ít nhất là 3 kinh nghiệm dưới đây:
Một là, mỗi khi Vương triều Phương Bắc thống nhất và mạnh lên thì họ đem quân sang chinh phạt Việt Nam. Cuộc xâm lược quy mô lớn đầu tiên diễn ra năm 218-208 TCN giữa thời kỳ hoàng kim của Nhà Tần. Hầu hết các cuộc xâm lược sau này cũng đều diễn ra vào những thời cực thịnh của các vương triều Phương Bắc. Đôi khi trong những cơn giận dữ, họ cũng mang quân “đánh hàng xóm”, như trường hợp chiến tranh biên giới năm 1979 mà nhà Lãnh đạo Đặng Tiểu Bình tuyên bố “để dạy cho Việt Nam một bài học”. Trong mấy chục năm gần đây, hễ có cơ hội là họ “đánh lớn, đánh nhỏ” nhằm lấn chiếm biên giới và biển đảo của Việt Nam.
Lịch sử cho thấy dẫu thắng thua thì bờ cõi nước Việt Nam cũng bị dồn đẩy về phía Nam. Và  cho đến ngày hôm nay chưa có cơ sở gì để khẳng định rằng điều này sẽ không lặp lại.
 
Hai là, kẻ thù thường triệt để “khai thác”những thời điểm có bất hòa, bất ổn trong nội bộ Việt Nam để khởi binh xâm lược. Nhưng hễ khi nào bị xâm lược, người Việt Nam đều gác lại những bất hòa bất ổn trong nội bộ để tập trung chống kẻ thù chung.
Bản đồ  minh họa cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc
qua biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979- nguồn  Wikipedia

 
Thiết nghĩ, là dân nước Việt không ai có quyền phủ nhận truyền thống anh hùng chống ngoại xâm. Nhưng cũng nên nhận ra rằng phải kháng chiến là một sự lựa chọn bất đắc dĩ không nên có, bởi lẽ các chu kỳ chiến tranh lặp đi lặp lại quá nhiều ắt để lại những thiệt thòi truyền kiếp đối với cả dân tộc.   
Vậy nên có một lựa chọn tốt hơn là phải chủ động thực hiện “phòng ngừa từ xa” bằng cách không tạo ra cơ hội hấp dẫn đối với giặc ngoại xâm. Đó là tập trung xây dựng hệ thống chính quyền trong sạch vững mạnh, bài trừ tệ nạn quan liêu, tham nhũng, bè phái, tranh chức, tranh quyền và mọi  thói hư tật xấu trong hệ thống công 
quyền, trên cơ sở đó sẽ luôn giữ vững khối đoàn kết toàn dân và phát triển đất nước giàu mạnh.  Đó là phương sách thích hợp và cần thiết đối với một nước ở vị thế như nước ta
Ba là, dù thắng, bại các nhà nước Việt Nam chưa bao giờ thực sự tách khỏi “vòng cương tỏa” của cường quốc láng giềng Phương Bắc.
Lịch sử cho thấy không chỉ lúc thua mà cả lúc thắng các triều đại Việt Nam vẫn thực hiện  nghĩa vụ triều cống đối với nước láng giềng Phương Bắc, coi đó như một cử chỉ cầu hòa và chấp nhận chung sống lâu dài với họ. Có thể nói điều này đã trở thành một “quốc sách” của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên có điều trớ trêu là, phía đối phương chưa hề tỏ ra biết trân trọng quốc sách hòa hảo, phục thiện đó của dân tộc ta, trái lại còn coi đó là cử chỉ yếu hèn, nhu nhược***.
Thiết nghĩ, trong hoàn cảnh khu vực và quốc tế ngày nay, người Việt Nam cần suy ngẫm lại về cái triết lý bạn/ thù và đồng minh, để từ đó có sự điều chỉnh hợp lý nhằm thay đổi cục diện bất lợi cho mình, trong đó cũng nên tính đến cả câu ngụ ngôn xuất xứ từ Trung Quốc: “Người không thay đổi thì ta phải thay đổi”.    
Đồng thời hãy suy ngẫm về ba điều thực tiễn: a) Dân tộc Việt Nam được và mất gì nếu cứ quẩn quanh trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc?; b) Tại sao người Việt học tập và làm việc trong môi trường Âu - Mỹ thì năng lực bao giờ cũng được phát huy tốt hơn ? c) Vẫn biết mọi sự so sánh đều khập khiễng, nhưng Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản đều có thể tồn tại độc lập và phát triển vượt bậc; tại sao Việt Nam chưa làm được điều đó? 
Đây cũng chính là vấn đề mà các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các thế hệ đi trước đã đặt ra nhưng chưa giả quyết rốt ráo được. Phải chăng là do não trạng người Việt lúc nào cũng ám ảnh nỗi mặc cảm của ngàn năm Bắc thuộc, cho "mình từ họ mà ra" và  lúc nào cũng chờ đợi xem họ làm gì mà không dám chủ động vượt lên trước họ? 
Dù sao giờ đây người Việt lại một lần nữa có quyền hy vọng dân tộc sẽ bứt phá để làm được điều mà bao thế hệ chưa làm được. /.  
Tài liệu tham khảo:
- Bách khoa toàn thư mở-Wikipedia với nhiều kiên kết dẫn đến các nguồn khác nhau
- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
- Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim
- Bộ sách giáo khoa môn sử học phổ thông của Nhà XB Giáo Dục Việt Nam.
- Các website và blog có đăng bài viết “Lịch sử cần sự thật”trên Google
Ghi chú:
*(Trích đoạn trả lời của Hưng Đạo Vương : "Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam (thuộc lãnh thổ Trung Quốc ngày nay), còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời.”…. (Xem thêm tại  Wikipedia phần nói về Trần Hưng Đạo)
**Xem thêm tại Website Dòng họ Đỗ Viêt Nam, bản tin ngày 9/2/2011
*** tham khảo các bài viết của nhà nghiên cứu  Dương Danh Di, của cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh,  phát biểu của cựu lãnh tụ Đặng Tiểu Bình, phát biểu của Giáo sư Vương Hành Lĩnh.  Tham khảo Chuyện cổ Việt Nam; một số bài viết của các tác giả nước ngoài;câu chuyện sử liệu nói Tôn Trung Sơn là người Bách Việt.

22-02-2011

Có không tình trạng “dân ta không biết sử ta”?

Cuối năm ngoái tôi có viết một bài ngắn về công tác nghiên cứu và giáo dục lịch sử và cội nguồn dân tộc ở nước ta (xem http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-12-27-lich-su-can-su-that ) . Không ngờ bài báo đã nhận được sự quan tâm sâu rộng từ cộng đồng với nhiều ý kiến tranh luận rất đáng lưu tâm. Qua đó cho thấy đúng là có một tình trạng hiểu biết sơ sài và không đồng nhất về lịch sử và cội nguồn dân tộc đồng thời với xu hướng tâm lý tự ti và hoài nghi về sự thật lịch sử cũng như các giá trị nhân văn của chính dân tộc mình; và điều này diễn ra trong mọi tầng lớp, kể cá trí thức và người trẻ tuổi*. Có thể nói, lời cảnh báo “dân ta không biết sử ta” từ nhiều năm trước giờ đây đã thành sự thật. 

Tìm hiểu kỹ hơn ta nhận thấy nguyên nhân chính nằm ở sự bất cập của sách giáo khoa và các tài liệu lịch sử nói chung vốn nặng về truyền thuyết và những khái niệm mơ hồ không được chứng minh bằng sử liệu và chứng cứ đủ sức thuyết phục. Đáng lẽ tập trung giải mã những “điểm khuất” trong các quyến sử sao chép lại từ thời Bắc thuộc thì người ta cứ tiếp tục “tô son trát phấn” cho những huyền thoại hoặc những quan điểm mơ hồ thiếu cơ sở khoa học khách quan. Đó là chưa nói tệ nạn vận dụng lịch sử cho mục đích chính trị trước mắt mà không tính đến hậu quả lâu dài. Tất cả dẫn đến sự mai một hoặc thất truyền của những sử liệu thật và  thay vào đó bằng những “sử liệu ảo”.

Xin đơn cử một vài ví dụ: Có không ít người Việt Nam ngày nay tin rằng Vua Hùng xuất phát từ Phú Thọ (vì ở đó có Đền Hùng) và quên mất gốc tích Hồ Động Đình (vì nó ở bên Trung Quốc). Điều tương tự cũng đang diễn ra với trường hợp  Thánh Gióng, An Dương Vương, Hai Bà Trưng,… Thử hỏi, nếu có thật một Thánh Gióng đánh giặc Ân, tức thời  Nhà Thương của Trung Quốc (năm 1766 - 1122 trước CN) thì địa bàn trận đánh phải là vùng miền Nam Trung Quốc bây giờ (chứ không thể dưới tận Bắc Ninh cách Hà Nội 40 km(!?)...  Thiết nghĩ, rất cần tái nhìn nhận vai trò của Triệu Đà là một triều đại phong kiến Việt Nam như đã được chính Hưng Đạo Vương xác định, và sử Trung Quốc cũng không coi Triệu Đà là vua của họ.

Nếu ta thử hỏi và trả lời các câu hỏi tương tự sẽ thấy toàn là “kiến thức ảo” hoặc ngộ nhận ngây ngô, vô thức . Cứ đà này thì không thể nào tránh được sự nhầm lẫn "chết người" rằng nước Văn Lang xưa chỉ bao gồm vùng châu thổ Sông Hồng, và có lâu nhất cũng chỉ từ thế kỷ thứ 7 TCN trong khi ngày càng sinh ra nhiều nghi ngờ về 18 đời Hùng Vương. Ngoài khái niệm chung chung “cùng là con cháu của Vua Hùng”, còn lại đều là những dấu hỏi to tướng luôn gây tranh cãi mà người Việt thật sự vẫn chưa biết mình là ai**.   

Thực tế cho thấy, khi người học, người đọc và nhân dân nói chung đều cảm thấy nhàm chán với bộ sách giáo khoa sử học và các tài liệu lịch sử cũ kỹ thì họ lại càng dễ bị tác động bởi các văn hóa phẩm ngoại lai và bầu không khí lễ hội xô bồ, lệch lạc; và  do đó trở nên “mù mờ” về lịch sử và cội nguồn dân tộc mình là điều khó tránh khỏi. Nhưng đây cũng chưa phải là hậu quả cuối cùng; hậu quả tiếp theo sẽ là tương lai tồn vong của cả dân tộc. Bởi lẽ, sự hiểu biết đúng đắn về lịch sử và cội nguồn dân tộc không chỉ là sự hiểu biết về quá khứ mà chính là vốn quý để từ đó dân tộc rút ra những bài học thiết thực trong suốt cuộc  hành trình vào tương lại.  Nếu không biết hoặc biết sai lệch về lịch sử và cội nguồn dân tộc ắt sẽ khó tránh được những sai lầm trên con đường bảo vệ độc lập-chủ quyền và mưu cầu ấm no hạnh phúc cho dân tộc. 

Nếu  mỗi quốc gia dân tộc có “số mệnh”, thì phải chăng số mệnh của dân tộc Việt Nam là phải chiến đấu chống lại sự lấn át của cường quốc láng giềng Phương Bắc? Cái mệnh này gắn chặt đến nỗi mỗi con người Việt Nam sinh ra đều nghe nói “có hơn 4.000 năm lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước”. Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu rồi đây dân ta lại được dạy rằng rằng dân tộc chỉ có hơn 2.000 năm lịch sử và nước Văn Lang  xưa chỉ bao gồm lưu vực Sông Hồng? Nếu cứ tuyên truyền rằng  bờ cõi nước Văn Lang luôn "bất khả xâm phạm", rằng ta không để mất tất đất nào  cho giặc ngoại xâm..., thì vô tình bưng bít sự thật của thời tiền sử. Chẳng lẽ ông cha ta bịa ra truyền thuyết Âu Cơ -Lạc Long Quân và các Vua Hùng với lịch sử với niên đại là năm 2879 TCM..., để  giờ đây con cháu lại nghi ngờ và  "khiêm tốn" chỉ nhận có hơn 2.000 năm lich sử ?  
Thiết nghĩ còn nhiều câu hỏi tương tự mà dân ta, trước tiên  là các nhà chức trách, nhà nghiên cứu và giáo dục bộ môn lịch sử, hãy suy ngẫm để có biện pháp khắc phục tình hình trước khi quá muộn./.

Tài liệu tham khảo:
- Bách khoa toàn thư mở-Wikipedia với nhiều kiên kết dẫn đến các nguồn khác nhau
- Bộ sách giáo khoa môn sử học phổ thông của Nhà XB Giáo Dục Việt Nam
-(*) tham khảo một số trang thảo luận có cụm từ “lịch sử cần sự thật” trên Google .
-(**)nguyenthaihocfoundation  

Bài này đãđược đăng trong Tuần báoThế giới &Việt Nam

http://www.tgvn.com.vn/Item/VN/toasoandocgia/2011/3/5437C0ADD71200F1/

Điều gì khó nhất?

Ngày Tết “nhàn cư vi bất thiện” thành ra suy ngẫm lung tung…dẫn đến cái chủ đề tưởng như đã quá quen nhưng không tự giải đáp được, đành đưa ra tranh thủ ý kiến mọi người: Theo bạn điều gì là khó nhất trong cuộc đời?
Tôi tin sẽ có ít nhất không dưới 1 tá câu trả lời với nội dung trái ngược nhau đối với cùng một câu hỏi này.  Dù sao xin mọi người hãy suy nghĩ thật kỹ rồi hãy trả lời nhé!
Tôi cũng  tin rằng ai rồi cũng sẽ rất đắc chí với câu trả lời của mình, đồng thời cũng sẽ có đủ lý lẽ để bác bỏ những câu trả lời khác. Phải chăng đó là vì tất cả chúng ta đều là con người với một thói xấu muôn thuở: luôn tự cho mình là đúng?
Về phần tôi, câu trả lời là: Điều khó nhất trong đời người là đảm bảo công bằng và hợp lý. Xin nhắc lại CÔNG BẰNG, HỢP LÝ (fair and reasonable).
Tôi tin chắc rằng sẽ có khá nhiều người không đồng ý với câu trả lời của tôi. Nhưng dẫu sao xin hãy cho tôi một cơ hội được giải thích như sau.
Ta hãy thử suy xét điều này với các dạng đối tượng sau đây theo thứ tự a,b,c… nhé: a) bạn và thế giới tự nhiên (tức là tất cả các vật thể không phải  con người); b) bạn và những người xa lạ; và c) bạn và bạn bè (như bạn học, đồng nghiệp, …);  d) bạn và người thân (vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị em, bà con họ tộc); và e) với bản thân mình (chỉ có bạn mà thôi).
Với loại a), thoạt nhìn tưởng sẽ không khó gì để mà công bằng, hợp lý với những đối tượng vô tri vô giác…Nhưng thưc ra, nó vô cùng khó vì nhiều lý do, và vì thiên nhiên không thể tự cãi lại con người!  Xin đơn cử một ví dụ: Ngày Tết mua được một cái cây cảnh về nhà bạn sẽ tha hồ mà cắt tỉa, uốn nắn…, rồi xoay xở đặt nó ở nơi này nơi kia,… Và khi bổng dưng không thích nó nữa, bạn liền vứt nó ra ngoài phố bất cần biết số phận của nó sẽ ra sao. Thử hỏi bạn làm như vậy có công bằng và hợp lý chưa?  Bạn không những không công bằng với cái cây mà còn không công bằng với môi trường sống và với cả cộng đồng… Rất nhiều hậu quả khác sẽ xảy ra liên quan đến cái cây vô tri giác như vậy mà tôi không tiện nói hết cả ra đây.
Với lọa b), khi ra đường gặp ai đó, bạn có xu hướng cho đó là “người lạ”, chẳng bà con chi, nên có biết gì về mình đâu, nói chung chẳng liên quan gì…. Có chăng, bạn sẽ căn cứ  vẻ bề ngoài hoặc cử chỉ, thái độ nào đó của đối phương, để mau chóng tính xem có cần đề phòng hoặc phớt lờ đi cho khỏe… hoặc ngược lại. Nếu tôi không nhầm thì cái gọi là “tình yêu sét đánh” đều bắt đầu từ “người xa lạ” như thế (?). Thôi thì dù là gì, đối tượng này chính là sự bắt đầu của những câu chuyện dài kỳ về cái sự vô tình vô lý của bạn. Hãy nghĩ đi, điều gì sẽ xảy ra với một trong những tình huống nói trên, và bạn sẽ thấy đó là một núi những bài toán khó về sự bất công, vô lý.
Với loại c)  Bạn bè ư? Đây là đối tượng mà bạn cho là không thể thiếu được. Thời thơ ấu mà không có bạn chắc bạn sẽ chết vì buồn; khi trưởng thành mà không có bạn bè, bạn sẽ chẵng làm nên trò trống gì; khi về già không có bạn, chắc điều ước duy nhất của bạn là có bạn. Thế mới biết bạn bè quan trọng nhường nào. Thế nhưng, cũng chính với loại đối tuợng này, bạn sẽ luôn rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan trong cách ứng xử hàng ngày để không mất họ, hoặc ngược lại, để biến họ thành kẻ thù. Nhiều người phải ân hận suốt đời chỉ vì một lần cư xử không công bằng, không hợp lý với bạn.
Với loại d (những người thân thích), Bạn nghĩ sao: dễ hay khó  để mà cư xử công bằng và hợp lý? Riêng tôi nghĩ đây là đối tượng khó nhất (mặc dù không thể chỉ ra cái lý do đích thực của nó). Phải chăng là do thói hay nhầm tưởng là “người của ta” thì muốn cư xử thế nào cũng xong? Nghĩ như vậy là thất bại ít nhất là 90% rồi!  
Dĩ nhiên  tôi có suy nghĩ của tôi, nhưng có lẽ riêng về dạng đối tượng này, tôi nên để dành lại cho mỗi người tự suy ngẫm thì mới đúng phương châm công bằng và hợp lý, đúng không ạ?
Cuối cùng loại d)- với bản thân mỗi người. Có thể có người quả quyết rằng không có vấn đề gì về chuyện công bằng hợp lý với bản thân. Nhưng chính đây mới là đối tượng khó đấy, thậm chí còn quá khó!. Thủ hỏi bạn có công bằng, hợp lý không, khi nếu bạn có bệnh tiểu đường mà vẫn tự cho phép mình ăn uống xả láng mỗi ngày? Bạn có hợp lý không khi cả ngày ngũ dài dài, ban đêm thì ngồi vi tính? v.v…và v.v… Càng nghĩ sẽ càng thấy cái sự thiếu công bằng hợp lý thường xảy ra một cách thầm lặng trong bản thân mỗi người chúng ta. Chính vì thế nó rất khó để loại trừ.
Bạn thấy đấy, chỉ đơn cử một số dạng đối tượng như trên mà ta đã thấy quả thật khó để đảm bảo thực hiện nguyên tắc công bằng hợp lý. Nếu ta  gọp lại nhiều dạng đối tượng với nhau sẽ còn phức tạp và khó hơn nhiều. Đó là khi bạn ở vào vị trí cha mẹ, ông bà đối với gia đình, hay bạn là thủ trưởng một cơ quan, tổng thống của một quốc gia thì sẽ khó biết nhường nào.    
Trên đây chỉ là vài câu trả lời ngắn gọn của cá nhân tôi. Có lẽ bây giờ tôi sẽ nên cố gắng  giữa một tâm trạng công bằng hợp lý để được lắng nghe ý kiến của mọi người. Xin chân thành cảm ơn/.
                                                                                                               Hà Nội, mùng 3 Tết Tân Mão (2011) 

 

Thứ Sáu, 26 tháng 11, 2010

Happy old days

Chưa bao giờ cuộc sống con người chuyển động nhanh như bây giờ. Nhịp sống thật hối hả, gấp gáp ...; tất cả đều hướng tới phát triển và tiêu thụ. Một ngày của bạn dường như trôi qua nhanh bằng nửa buổi của thời 50 năm trước; có lẽ một tuần bằng 3 ngày; 5 tháng bằng một năm...

Bởi vì bạn có quá nhiều việc để làm và phải làm. Bạn vừa muốn đọc sách nhưng không thể tránh được sự cám dỗ của chiếc máy tính hoặc màng hình TV. Mở máy ra bạn vừa muốn đọc tin, nhưng cũng rất muốn biết xem có ai đó để chat, lướt xem có bao nhiêu bức thư mới trong mail -box, và những thư đó của ai, thấy cầnthìphải đọc ngay xem nó  nói gì…có những thư  đòi hỏi bạn phải trả lời ngay tức khắc (nhất là khi bạn đang yêu hoặc đang theo đuổi một công chuyện làm ăn quan trong…). Với những người "chơi" blog thời gian lại càng quý hiếm khi mãi mê đọc, viết... Sẽ bận hơn nữa nếu bạn cũng là người mê bóng đá hay phim truyên trên truyền hình mà lúc nào cũng sẵn với chất lượng hình tuyệt hảo được truyền phát qua cable TV (chứ không phải cái enten hay bi gió lung lay trên nóc nhà của ban như xưa).
Cả thế giới giờ đây trong tầm tay của bạn. Chỉ một cú nhấn chuột là bạn có thể "gặp mặt" và trao đổi, thậm chí ký kết một hợp đồng làm ăn với đối tác từ bất cứ quốc gia nào. Với chiếc điện thoại di động bé xíu lọt thỏm trong lòng bàn tay, bạn không bao giờ bị rơi vào thế bị động hoặc cô đơn dù đang ở đâu và làm gì. 
Có thể nói, trái đất - không gian sống của loài người - dường như đang  thu nhỏ lại và nhanh chóng trở nên chật hẹp! Thời gian cũng trở nên "quý hiếm". Chưa hết ngày thứ Năm bạn đã nghĩ đến chiều tối thứ Sáu và kỳ nghĩ cuối tuần... Dịp nghĩ cuối tuần nào của bạn cũng đầy ắp những cuộc vui hoặc việc làm bổ ích cho bản thân mà bạn không thể làm vào các ngày trong tuần. Thoát cái đã hết Chủ nhật …Và bạn phải cố lắm mới thu xếp được một giấc ngũ vừa đủ để ngày mai thứ Hai giậy sớm đi làm.
Trên đường đi làm, văng vẳng bài hát tuổi thơ “ thứ hai là ngày đầu tuần, thứ Ba…, thứ Tư … thứ Năm…”. Nhưng bạn hãy chú ý vào tay lái đấy nhé! Xe bạn đang lao vào vùng tắc nghẽn…, cần phải tập trung vừa để tránh va chạm vừa để tìm lối thoát nhanh nhất để không bị đến nơi làm việc quá muôn, nhất là nếu bạn đã trót có một cuộc hẹn vào đầu giờ. Nếu đó là một ngày đẹp trời và bạn gặp may thì đó sẽ là một ngày mới bắt đầu của một tuần lễ may mắn. Nhưng rất có thể đó là một ngày mưa dầm dề, cộng với một vài điềm gỡ…, bạn sẽ phải “chiến đấu” mệt mõi đấy..., đôi khi quên luôn dịp nghĩ cuối tuần đó nghe! Với một cặp vợ chồng trẻ có con nhỏ, thì thứ Hai là ngày cực kỳ bận rộn…nhưng cũng đầy hưng phấn, nhất là lúc bạn đưa “thiên thần bé nhỏ” đến trường vì đối với bạn, dù có vất vã bao nhiêu, thì những kỳ vọng mà bạn đặt vào thiên thân bé nhỏ sẽ giúp bạn vượt qua tất cả...

Cứ như thế bạn sẽ đi qua 1 tháng lúc nào không hay. Rồi 1 năm của bạn cũng sẽ nhanh thôi mà! Bạn sẽ lại bận tít mù lo cho cái Tết mà trong đầu vẫn còn nhớ như in mình đã làm gì trong Tết trước. Bạn sẽ hỏi: Sao nhanh thế?... Tết để làm gì nhĩ?... Chắc không phải để có dịp mà ăn..., vì bạn rất sợ ăn, nhất là của béo và ngọt, những thứ mà bạn tin rằng hế đụng vào là sẽ lên cân ngay. Cũng chẳng phải để nghĩ ngơi ..., vì tuần nào cũng có 2 ngày nghĩ cuối tuần rồi; với lại còn vài việc phải làm gấp với phía đối tác nước ngoài vốn không coi Tết là ngày nghĩ… À, có lẽ chỉ còn một lý do là để về quê viếng mộ tổ tiên hoặc đi lễ chùa chủ yếu để cầu may cho công việc làm ăn của bạn. Có khi bạn lại muốn Tết mau mau qua đi…để đỡ láng phí thời gian vàng ngọc...

Chà chà, cứ như thế liệu cuộc đời bây giờ có “ngắn” hơn so với trước? Hình như có đấy! Chả thế mà ngày xưa 60 tuổi đã được coi là “lão”, 70 tuổi là “cỗ lai hi”… Giờ 80, 90 vẫn còn “ham sống sợ chết”!
Nhưng để lựa chọn, bạn sẽ chọn cuộc sống xưa hay nay?

Nghe nói, dân tộc nào trên thế giới cũng có một cách tư duy na ná nhau theo kiểu người Anh gọi là “happy old days” (những ngày xưa tươi đẹp). Tuy nhiên để ý một chút thì thấy rằng chỉ những người có tuổi mới dễ đồng ý với câu đó trong khi hầu hết người trẻ tuổi có thể cho đó là “lẩm cẩm”… Có lẽ vì, chỉ người già mới có ngày xưa, còn người trẻ thì chưa có.
Vậy, ta thử quyết tâm không theo cách tư duy của người già xem sao (?)

Nói thì nói vậy, nhưng ta không sao quên được quá khứ, nhất là những gì tốt đẹp. Ta vẫn hằn sâu trong ký ức với những ngày trôi qua thật thú vị biết bao, khi ta dùa dỡn hay tắm mát cùng lũ bạn bên dòng suối trong mát ven rừng hay dạo chơi trên cánh đồng xanh ngút ngàn trong làn gió mát quyện mùi hương đồng nội, hoặc chỉ đơn giản là nằm nằm ngủ say sưa trên chiếc chỏng tre ngoài hiên nhà… Mỗi khi ra phố, ta thấy phố vừa đẹp vừa thanh bình với nhiều thứ không thấy có ở nông thôn. Hồi xưa phố thì ra phố, nông thôn là nông thôn chứ không lẫn lộn như bây giờ. Những con phố có vĩa hè thoáng rộng và yên tịnh, có ồn chăng chỉ là tiếng ve sầu nghe cho đõ nhớ khi đi xa! Các nơi công cộng không chen chúc xô bồ, đầy rác rưỡi và bụi bậm... Đồ ăn thức uống thì tuy không nhiều thứ để lựa chọn, nhưng thứ gì cũng thơm ngon đậm đà khiến ta mỗi khi đã được ăn thì nhớ mãi. Hồi xưa không ai lại sợ mắc bệnh hiểm nghèo hay sợ béo...vì ăn... Mà ăn là thưởng thức, thế thôi!

Phải chăng thời xưa con người có nhiều thời gian và không gian hơn để thưởng thức cuộc sống, và do đó thấy cuộc đời trôi qua chậm rãi, đầy thi vị và quyến rũ...? Có lẽ vì thế mà cảm giác thời gian như dài ra và cuộc đời cũng dài hơn. Chả thế mà người ta đã lấy khái niệm “Tết” để ám chỉ một việc gì đó còn lâu mới xảy ra...

Tôi cứ lan man lục lọi ký ức, hồi tưởng và so sánh với hiện tại (mặc dù biết rằng “mọi sự so sánh đều là khập khiểng”), với hy vọng tìm thấy những cái tốt đẹp hơn giữa ngày nay và ngày xưa …thử tìm cách bác bỏ cách tư duy “happy old days”... Nhưng thật khó! Đó là chưa nói có cái còn phải chờ vài chục năm nữa mới kết luận được, chẳng hạn, liệu "các thiên thần" của chúng ta (giờ được chăm sóc tốt chắc sẽ cao, to, đẹp và thông minh hơn thế hệ trước) lại sẽ gửi cha mẹ vào các trại dưỡng lão (như đang diễn ra ở các nước phát triễn)?
Mọi người hãy cùng suy ngẫm xem có lý lẽ nào để bác bỏ "happy old days". /.
(Bài chuyễnb từ blog cũ sang)
*****

Thứ Hai, 15 tháng 11, 2010

Khi học giả nói thật

Mô phỏng cương vực TQ thời nhà Hạ
           Trước tình hình tranh chấp Biển Đông ngày càng căng thẳng, tiếp theo cuộc Hội thảo quốc tế về Biển Đông lần thứ nhất (năm 2009), cuộc Hội thảo lần thứ hai có tên “Biển Đông: Hợp tác vì An ninh và Phát triển Khu vực” do Học viện Ngoại Giao và Hội luật gia Viêt Nam đứng ra tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 10 đến 12/11/2010. Hội thảo lần này được

dư luận trong và ngoài nước hết sức quan tâm không phải chỉ vì nó diễn ra ngay sau Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 27 mà còn vì tầm
quan trong của một diễn đàn mà tôi cho là “đúng lúc, đúng việc và đúng người”. Tuy nhiên, với bài viết ngắn ngũi này tôi xin được miễn trình bày toàn bộ sự kiện mà chỉ nêu lên một hiện tượng để mọi người cùng suy ngẫm.
Bản đồ mô phỏng cương vực Bách Việt thời kỳ trước CN
Ngay trong ngày đầu của Hội thảo, dư luận đã ngỡ ngàng trước lập luận của phía Đoàn Trung Quốc nói chung, đặc biệt khi tiến sĩ Vương Hàn Lĩnh của Viên Luật pháp Quốc tế thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc trả lời phỏng vấn ngoài hành lang của Vietnamnet đã tuyên bố: “Nên nhớ rằng cho đến năm 1885, Việt Nam vẫn là thuộc quốc của Trung Quốc”. Cũng chính vị tiến sĩ này trước đó đã giảng giải một cách tự tin rằng  “Anh có thể tự lựa chọn cách giải quyết tranh chấp mà anh cho là tốt nhất, có thể phân định được lãnh hải bằng cách này hay cách khác, nhưng chắc chắn là anh không thể tự lựa chọn được hàng xóm. Hai nước Trung Quốc và Việt Nam mãi mãi là hàng xóm, qua biết bao thế hệ và còn tiếp tục với rất nhiều thế hệ nữa”. Rồi vị tiến sĩ không quên “chốt“ lại: “Nếu không chọn cách giải quyết như tôi vừa nêu, các anh sẽ phải hứng chịu các xung đột bằng vũ lực, hoặc thậm chí chiến tranh. Điều này không hề tốt cho tương lai”. (xem thêm tại www.tuanvietnamnet ngày 11/11/2010).
Giữa lúc đang phân vân không hiểu tại sao vị học giả Trung Quốc lại có ý kiến “lạ lẫm” như vậy thì tôi  thấy trên mạng có một tin nói về kết quả của một cuộc khảo sát  vừa mới được hãng thông tấn  Mỹ- Global Times thực hiện để lấy ý kiến của hơn 1.300 người dân tại 6 tỉnh thành lớn của Trung Quốc là Bắc Kinh, Quảng Châu, Thành Đô, Trường Sa, Tây An và Thẩm Dương về giải pháp cho vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo có liên quan đến Trung Quốc. Kết quả khảo sát cho thấy, trong hơn 90% người tham gia trả lời có 39,8% cho rằng phải chiến đấu khẳng định chủ quyền; 35,3% khác cho rằng nên đặt vấn đề tranh chấp chủ quyền qua một bên và cùng nhau phát triển trong khi vẫn tiếp tục lên tiếng khẳng định chủ quyền; chỉ có 18,3% đồng ý xác định lại biên giới lãnh hải cùng với các quốc gia hữu quan. Cuộc thăm dò cũng cho thấy nhiều người dân Trung Quốc xếp Việt Nam là quốc gia thứ 3 cần đề phòng (sau Mỹ và Nhật Bản)!
Một số người trả lời khảo sát cho rằng có thể việc giáo dục lịch sử cũng như tình trạng kiểm soát thông tin tại Trung Quốc đã dẫn đến nhận xét trên…., bởi vì thực tế đối với không ít người dân ở Trung Quốc, khi còn ngồi trên ghế nhà trường, họ đã được giáo dục rằng chủ quyền của hai quần đảo Nam Sa và Tây Sa (Trường Sa và Hoàng Sa) là thuộc về Trung Quốc, nhưng bị Việt Nam và các nước khác chiếm đoạt.
Bình luận về kết quả khảo sát nói trên, Tiến sĩ  June Teufel Dreyer, Giảng viên Khoa học Chính Trị của trường đại học Miami  cho rằng "Sách của Trung Quốc đã phá hỏng lịch sử một cách nặng nề bởi vì Việt Nam đang nắm giữ Trường Sa vào thời điểm mà Trung Quốc dùng bạo lực để chiếm lấy nó vào khoảng những năm 1974 – 1975. Vì vậy, tôi không hiểu vì sao mà người ta có thể nói rằng các quần đảo trên là của Trung Quốc. Tuy nhiên, nhiều người đã đọc sách giáo khoa của Trung Quốc thì nói rằng có nhiều điều không hẳn là đúng sự thật".     
Tiến sĩ Dreyer cũng nhận xét: “Mặc dù mọi cuộc khảo sát đều mang tính tương đối, nhưng trước con số khá cao mang tính thể hiện sự đồng lòng của người dân Trung Quốc đối với các quyết định của chính quyền khiến người ta không khỏi đặt câu hỏi về sự thành công của chính sách giáo dục và sự kiểm soát thông tin hữu hiệu của Bắc Kinh trong mục tiêu phục vụ cho chính trị. Vấn đề ở chỗ, hy sinh dân trí để đạt được mục tiêu chính trị lại không phải là lựa chọn của một xã hội dân chủ và văn minh”.
Qua theo dõi tin tức tôi thấy rất nhiều bạn đọc Việt Nam và nước ngoài đã rất ngỡ ngàng và bất bình trước cách diễn đạt quan điểm thật nhưng sai lệch về lịch sữ và mang màu sắc “nước lớn” của vị tiến sĩ  nọ. Đáng lo lắng hơn là, đó không chỉ là ý kiến của một cá nhân mà còn  phản ánh một quan niệm khá phổ biến tại một nước lớn như Trung Quốc. Nó khiến dư luận lo lắng về một mối hiểm họa đang đến gần. Dẫu sao tôi cũng muốn hy vọng rằng đó không phải là quan điểm chính thống của Nhà nước Trung Quốc./. 

Thứ Ba, 25 tháng 5, 2010

Phòng chống tham nhũng từ kinh nghiệm chống chuột

Căn nhà gia đình tôi ở gần 20 năm nay hầu như lúc nào cũng có chuột; có thời kỳ nhung nhúc cả đàn. Chúng luôn rình rập sẵn sàng tấn công vào bất cứ thứ gì “gậm nhấm” được, không chỉ thức ăn mà cả quần áo, sách vở, đồ đạc…. Đêm đến chúng tha đủ thứ vào trong chiếc đàn piano để “ăn chơi nhảy múa” cùng nhau. Để đạt mục tiêu gậm nhấm lũ chuột thường lục lọi và phá hoại tất cả những gì trên đường di chuyễn, đồng thời làm mất vệ sinh và gây ra bệnh tật... Chúng thật nguy hại và đáng ghét!
Vì thế nghe ai mách bảo phương cách gì là tôi đều cố gắng thực miễn sao diệt trừ được lũ chuột quái ác. Mèo do ông trời sinh ra để "trị " chuột..., nhưng không hiểu sao bây giờ mẽo cũng sợ chuột, có khi còn bị chuột đánh trả làm đổ tung đồ đạc trong nhà...! Vậy nên chỉ còn cách dùng bẫy. Nào là bẫy sập, bẫy cài, bẫy gỗ, bẫy sắt, đến thuốc chuộc các loại và keo dính. Qua đó tôi nhận thấy các loại bẩy dường như đã bị lũ chuột tinh ranh “rút kinh nghiệm”, keo dính tuy đơn giản nhưng có lẽ hiệu quả hơn. Nhưng nói chung là, không thể tiêu diệt hết lũ chuột bằng bất cứ cách nào, vì chúng là một loài vật có sức sinh tồn rất mạnh lại rất tinh ranh. Biểu hiện rõ nhất là, những con nào đã từng một lần bị “chết hụt” sẽ trở nên rất tinh quái và hầu như không bao giờ bị mắc bẫy lần thứ hai. Trong nhà tôi từng có một con bị bẩy què chân nhưng sau đó chính nó là con sống lâu và phá hoại nhiều nhất. Đã thế, lũ chuột thường di chuyễn theo bầy đàn nên sức phá hại của chúng càng lớn. Theo quy luật tự nhiên, hầu hết các loài vật đều có mặt lợi mặt hại, nhưng riêng chuột là loài chỉ ăn tàn phá hại mà chẳng có ích lợi gì; chúng lại rất khó (nếu không nói là không thể) bị tiêu diệt!
Tuy nhiên, cho đến một ngày gần đây khi tôi tình cờ xem một chương trình động vật hoang dã trên tuyền hình. Chương trình đó nói về những loài vật vốn chỉ quen sống trong rừng hoặc vùng đất hoang, nhưng gàn đây lại di cư hàng đàn về sống chung với các gia đình người dân bên nước Úc. Chúng đặc biệt thích sống dưới tầng hầm, tầng trệch hoặc đơn giản là ngoài vườn. Chúng có thể là các loài rắn, chiêm, sóc, cangaru,… đến chó sói, gấu, và cả hổ, báo, v.v... Lý do đơn giản là vì chúng phát hiện ra rằng không đâu lại có sẵn nguồn thức ăn dồi dào cho chúng bằng cách "ở chung" với nhà dân. Theo quy luật sinh tồn chúng đã tự điều chỉnh môi trường sống. Ban đầu người dân có vé thích thú trước sự xuất hiện của chúng, nhưng ít bao lâu sau đã phát hoảng trước sự lan tràn về số lượng và sự “tự nhiên như người”. Người dân bắt đầu chịu không nỗi và phải tìm mọi cách đánh đuổi chúng đi mà không được. Nghe nói tình trạng tương tự cũng đang lan tràn ở các nước phát triển, nơi mà người dân vốn rất yêu động vật và cũng có nhiều đồ ăn thức uống thừa mứa.
Thật không ngờ đoan phim nói trên đã cho tôi một "ý tưởng" để phòng chống lũ chuột trong nhà. Tôi nghĩ, nguồn thức ăn là nguyên nhân chính, chứ không phải bản thân lũ chuột! Và tôi bắt đầu thử nghiệm bằng cách cất dấu thật kín mọi loại thức ăn, kể cả những đồ thừa bỏ đi, đồng thời chú ý tránh để rơi vãi bất cứ thứ gì “gặm nhấm” được trên bàn, trên sàn nhà hay trong chậu rữa…
Điều gì đến đã đến! Những ngày sau đó, cứ mối sáng dậy tôi thấy các vật che chắn đều hằn dấu vếtcắn phá của chuột. Các bao bì và giây buộc bị cắn nát, những chiếc nắp đậy được chèn kỹ cũng bị bật tung ra… Sau mỗi ngày tôi rút kinh nghiệm và cất dấu kỹ hơn, khiến lũ chuột dù đã cố hết sức phá phách nhưng không thể tiếp cận được nguồn thức ăn nào nữa. Chúng vẫn đến rồi đi trong quảng 1 tuân hay 10 ngày tiếp theo. Sau đó không hề thấy bóng dáng con chuột nào trong nhà nữa. Thì ra chúng không có gì để ăn nên không đến “thăm” nhà tôi nữa (mặc dù vẫn thấy chạy lúc nhúc ngoài vườn và bờ tường nhà hàng xóm). Cả nhà thực sự ngạc nhiên trước cái chiến công “không đánh mà thắng” như vậy! Tôi nghĩ nếu các nhà xung quanh đều làm như vây chắc chắn lũ chuột sẽ di chuyển đi vùng khác.

Trên đây chỉ là một kinh nghiệm nhỏ nhưng cụ thể và thiết thực mà tôi muốn kể lại để mọi người cùng áp dụng trong cuộc chiến chống nạn chuột trong gia đình. Nhưng đồng thời tôi cũng nghĩ rằng kinh nghiệm chống chuột trong nhà tuy nhỏ nhoi nhưng có thể áp dụng trong công cuộc chống tham nhũng ở một cơ quan, một địa phương và một đất nước, đơn giản là vì, những kẻ tham nhũng cũng không khác gì lũ chuột; họ sẽ không bao giờ bị diệt hết và thậm chí còn phát triển đông hơn ở nơi nào có sẵn “nguồn thức ăn”- tức là tài sản công dưới mọi hình thức. Trong khi họ thực hành cái “tham” tất nhiên họ cũng gây “nhũng nhiễu” như lũ chuột. Do đó, cách chống thiết thực và hửu hiệu nhất là hãy ngăn chặn không cho họ tiếp cận “nguồn thức ăn”; nếu để họ “ăn” rồi mới xử tội thì không bao giờ cho xuể!. Nói cách khác biện pháp phòng chống quan trọng và có tính quyết định, chứ không phải đợi xảy ra mới xử lý. Trước các biện pháp phòng ngừa hửu hiệu, lúc đầu chắc chắn các thế lực tham nhũng sẽ lồng lộn lên, có thể phá phách để chống lai… Nhưng nhất định chúng sẽ phải thua cuộc như lũ chuột vậy. Nếu làm được như thế trên quy mô cả nước thì chắc chắn điều kỳ diệu sẽ đến với nước ta!
Vậy biện pháp phòng chống là gì và cần được tiến hành như thế nào? Đây trước hết là vấn đề của các cơ quan Nhà nước, kế đến là sự ủng hộ của người dân. Những biện pháp ngăn chặn trước tiên có lẽ là tăng cường các thể chế bảo vệ đồng thời thực hiện minh bạch hoá môi trường công sở. Đây là một lĩnh vực đòi hỏi sự quyết tâm chính trị cao từ phía Chính quyền và sự đồng thuận của toàn dân. Các biện pháp cần thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, ví dụ, tại các nước phát triển người ta đang thí đỉểm mô hình công sở với các khối nhà kính trong suốt mà trong đó các phòng ban là những “quầy” có vách ngăn lững bằng kính…, trông rất ấn tượng!
Bài đã được đăng trên Dân trí  http://dantri.com.vn/c202/s202-328738/phong-chong-tham-nhung-tu-kinh-nghiem-chong-chuot.htm
Trần Kinh Nghị

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này