Thứ Năm, 31 tháng 3, 2011

Lại bàn về nguồn cội dân tộc Việt Nam

Lang thang trên mạng gặp bài này đề cập một chủ đề mà tôi cũng đang quan tâm .., xin mạn phép tác giả dchph (tôi chưa biết rõ) được đưa lại nguyên văn trên blog này để nhiều người cùng đọc (Hơi tiếc là không up được mấy hình ảnh và lời tựa của bài gốc).

Một vài suy nghĩ về nguồn gốc dân Việt (On the Origin of the Vietnamese People)
dchph

Trong mỗi giai đoạn của quá trình phát triển của mỗi dân tộc, về mặt địa lý và lịch sử, có thể nhận thấy rằng thực thể dân tộc Việt Nam, phát triển song hành với sự thành hình của dân tộc Hán, càng xuống địa bàn phía Nam, tính hợp chủng với người dân bản xứ phía Nam càng đậm nét như khi đi sâu xuống tầng bản địa.

Nếu bạn sang viếng thăm các tỉnh thuộc miền nam của Trung Quốc ngày nay, nhất là Tỉnh Quảng Tây, bạn sẽ thấy người dân của tỉnh nầy, không khác biệt mấy với dân Việt Nam ta; thí dụ so về mặt thể chất, như là vóc người nhỏ nhắn so người Tàu phương Bắc cao lớn (do họ hoà chủng lần nữa với “rợ Hồ” thuộc gốc Tartar, người Altaic, người Kim, người Mãn châu, người Mông Cổ...) và tập quán ăn uống, thí dụ, cơm gạo và bún là món ăn chính của người phương Nam thay vì bánh bao làm bằng bột mì của “người Hán” phương Bắc. Cái điểm chung trong cái văn hoá ẩm thực của tất cả là ai cũng đều biết dùng “đũa” (một từ có cùng gốc với tiếng Hán), uống trà (“chè”), một đặc sản phát xuất từ phương Nam ở vùng Phúc Kiến, hay là nước Việt của Câu Tiễn ngày xưa. Cũng với cái nhìn tương tự, ở xứ ta, càng xuống sâu vào trong Nam của nước Việt thời hiện đại, yếu tố bản địa hoà chủng với dân bản xứ (người Lâm Ấp, người Chàm, người Môn, người Chân Lạp, v.v... thuộc các nền văn hoá khác nhau trong đó bao gồm nền các văn hoá Sa Huỳnh, Hồi giáo, Ấn Độ, Ốc Eo...) cũng dần dần hiện rõ nét hơn. Dường như nơi nào có địa danh bản địa nơi đó càng mang đậm nét bản xứ, thí dụ, Đà Nẵng, Quảng Đức, Buôn Mê Thuộc, Pleiku, Đắc Lắc, Phan Rí, Sóc Trăng, Hà Tiên...

Tưởng cũng nên nhắc lại là hầu hết những địa danh ở Việt Nam ngày nay, ngay cả tại những vùng mới được sát nhập vào lãnh thổ Việt Nam từ sau thế kỷ thứ 12 như từ Thuận Hoá trở vào miền Nam, từ Bắc chí Nam nơi nào cũng đầy rẫy những địa danh tiếng Hán Việt hoặc đối xứng hoặc đã có sẵn bên Trung Hoa từ ngàn xưa, thí dụ, Sơn tây, Thái Nguyên, Hà Nội, Hà Bắc, Hà Nam, Hà Đông (ta “chôm” luôn cả thành ngữ “sư tử Hà Đông”), Quảng Tín, Quảng Nam (đối xứng với Quảng Đông và Quảng Tây), Tây Ninh, v.v… quá nhiều kể không xuể; và điều gì đã buộc người ta không dùng địa danh bản địa đã có sẵn mà lại đặt những tên mới như vậy nếu chúng không mang một ý nghĩa đặc biệt nào đó với cư dân ở đó? Thành phần dân số từ đó cũng phản ảnh một cách chừng mực, thí dụ, bản sắc người thuộc Tỉnh Hà Đông khác với người vùng Tỉnh Sóc Trăng, dân Thuận Hoá dĩ nhiên là có những nét cá biệt khác với dân Phan Rang.

Ngày xưa người Tàu phương Bắc gọi những người phương Nam là “Nam Man”, nói chung là “man” là “mọi”. Tổ tiên của những người Kinh sống ở vùng đồng bằng Sông Hồng ngay từ xưa lại cũng dùng từ “mọi” để chỉ người dân thiểu số người Thượng sống trên miền thượng du, mà họ có thể đã từng là chủ nhân ông của vùng đồng bằng ruộng lúa màu mỡ và chỉ vì họ bị đàn áp, tàn sát, truy đuổi, bất hợp tác với người Hán thống trị cho nên đã bỏ chạy lên miền núi rừng thiêng nước độc (so sánh những biến cố xung đột sắc tộc ở miền Tây nguyên đã đẩy hàng ngàn người thuộc dân tộc thiểu số gốc Mon-Khmer sang Cam bốt 10 năm trước đây.)

Nếu quả thật là họ cùng gốc với tổ tiên của người Kinh sinh sống ở vùng bình nguyên thì người Kinh đã không gọi những người Thượng bằng cái danh từ “mọi” một cách trịch thượng có tính cách miệt thị như vậy (ngược lại cũng thế, Việt kiều sống ở Cam bốt trong lịch sử đã bị cáp duồn bao lần?) trong khi đó lịch sử cho thấy người Việt bao giờ cũng tử tế với “Hoa kiều” sống chung với họ mặcdù mẫu quốc của họ đã liên tục hiếp đáp dân Việt trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước!

Trước những biến cố dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1979, nhà nước CHXNCN Việt Nam lo ngại về một viễn tượng “đội quân Tàu thứ năm” ở trong nước nên đã có chính sách mở cửa biên giới và công khai khuyến khích, nhưng không ép buộc, Hoa Kiều rời bỏ Việt Nam. Bấy giờ chỉ có một số ít khoảng 100 ngàn kiều dân chấp nhận trở về cố quốc của cha ông mấy đời trước qua ngã Nam Quan và Móng cái, còn số hàng trăm ngàn người còn lại đều theo chân người Việt chọn quê hương thứ ba khác trên thế giới.

Tính cả thảy trong thập niên 1975-85, khi người ta nói hơn một triệu người dân Việt bỏ nước ra đi, có nghĩa là hơn nửa triệu người Hoa đã được bao gồm trong đó. Khi sang định cư ở nước ngoài, Hoa kiều Việt Nam tỵ nạn vẫn giữ sự giao du làm ăn với người Việt hơn là người Tàu đến từ các xứ khác.

Người Hoa sinh sống trong những nước Đông Nam Á rất nhiều, Phi Luật Tân, Nam Dương, Thái Lan, và đặc biệt là ở Mã Lai với dân số Hoa kiều chiếm trên 33 phần trăm (thống kê chính thức) so với người gốc Mã Lai bản xứ, mà sự hoà chủng ở những xứ đó có lẽ sẽ không lặp lại những gì đã xảy ra ở xứ ta—người Hán thống trị và xô đuổi dân bản địa lên miền rừng núi—vì lịch sử cho thấy khi kinh tế của những xứ đó mỗi khi có điều trục trặc gặp khó khăn là Hoa kiều ở đó bị “làm thịt” theo đúng nghĩa đen của từ này. Lịch sử ghi nhận trong quá khứ đã có hàng trăm ngàn Hoa kiều bị tàn sát ở Phi Luật Tân, Mã Lai, và Nam Dương. Chuyện này đã xảy ra ngay cả trong thời đại ngày nay tại Nam Dương thời thập niên 60 và chỉ mới 10 năm trước đây cho dù đa số người Hoa ở xứ đó đều mang tên họ người Nam Dương!
Trong khi đó, theo thống kê chính thức thì có bao nhiêu “Hoa kiều” ở Việt Nam? Chỉ mới hơn 1 phần trăm dân số! Nếu thế, ta có thể đặt câu hỏi là dân Tàu từ phương Bắc xuống Việt Nam từ xưa nay đã biến đi đâu hết rồi? Rõ ràng là số dân Tàu di cư đến Việt Nam trong suốt hơn hai ngàn năm nay đã biến thành một thành tố không phân biệt được trong cái tổng thể cấu thành dân tộc Việt Nam. Về mặt thể chất, bạn đã đến Mỹ và tự quan sát và đã thấy, trẻ con Việt Nam ngay cả của của thế hệ thứ nhất sanh ở Việt Nam nhưng lớn lên ở Mỹ đều có vóc người cao lớn, trắng trẻo, và chúng thường bị nhìn lầm là người Tàu giữa đám đông dân Á châu như người Việt thuộc thế hệ cha chú mới đến, người Phi, hay người Campuchia nào đó. Do đó, những lý luận bàn cải về nguồn gốc dân Việt thuộc giống dân Nam Á (aka “Bách Việt”) có phải là từ lục địa xuống hay từ các hải đảo miền Nam lên 10 ngàn năm trước (?) thì không ăn nhập gì tới sự kiện quan trọng là sự hoà chủng là giữa “Hán tộc” từ phương Bắc xuống với “Việt tộc” cho ra dân tộc Việt Nam ngày nay về mặt dân tộc học.

Vì vậy cách luận giải “người Việt là sự hoà chủng của người bản xứ (tức là dân Lạc Việt thuộc Bách Việt) với ‘người Hán-tạp pín lù’” có liên hệ mật thiết với sự kiện người Việt mang họ Tàu; nếu không, làm sao lý giải được sự kiện mỗi người trong chúng ta đều mang họ Tàu? Có người cho rằng nhiều họ đã được vua thưởng cho vì có công. Nhưng triều đại Việt Nam chỉ có ngần ấy họ, nhà Trần, nhà Lê, nhà Nguyễn... Còn họ của mấy ông vua thì các ngài lấy đâu ra, xin của ai, ai thưởng cho? Họ của người Việt chỉ có năm ba chục họ đổ lại, còn họ Tàu bên Tàu thì nhiều không kể xiết, không phải trăm họ mà cả hàng ngàn họ. Ta nhận thấy rõ họ Việt là một “sub-set” của hàng ngàn họ Tàu kia.

Thực ra ta có thể làm nghiên cứu và truy nguyên ra những họ Việt tương đồng cùng gốc của những họ của những nhóm người Hoa gốc Quảng Đông và Triều Châu, của những nhóm khác có tổ tiên làm quan bên Tàu bị đày ải đi đến chốn của bọn “man di mọi rợ”, và của những người thuộc vào số người còn lại khác để giúp ta có thể quy ra là có nguồn gốc từ dân di cư đã đến từ miền Nam nước Tàu, cũng như từ những đám lính viễn chinh hỗn hợp đủ các sắc tộc bên Tàu có tổ tiên đã bị “Hán hoá” (mà tôi gọi là “người Hán-tạp pín lù”) trước khi thừa lệnh đến xâm chiếm vùng đất Giao Chỉ. Đa số những kẻ tha hương đó—phần lớn là những trai tráng xuất thân cùng đinh cực khổ -- đã định cư vĩnh viễn ở vùng đất mới nơi đây.

Nên nhớ là thời xưa giao thông rất khó khăn, có người cả đời có lẽ chưa bao giờ rời xa quá 50 cây số khỏi làng mạc của họ, khi họ đã đến đây rồi họ sẽ khó mà có phương tiện để trở về cố quốc. Sau khi định cư lập ng hiệp họ đã lấy vợ người bản xứ và hoà nhập vào dòng “Việt tộc”, sanh cháu sanh chít, tất cả do đó đều mang họ Tàu. Khái niệm “Hán hoá” là một từ lội ngược dòng thời gian bao gồm luôn cả đa số người trong đám 500 ngàn lính viễn chinh của Tần Thỉ-Hoàng xuống chinh phục miền Nam Việt và đa số những người đó đã bị “Tần hoá” (Tàu hoá?) trước khi bị nhà Hán “Hán hoá”.

Nói đi nói lại kết luận chủ yếu vẫn là phần lớn dân Việt Nam chúng ta ngày nay là hậu duệ của dân bản xứ đã hoà chủng với những người Tàu (“người Hán-tạp pín lù”) đến vùng đất nầy ròng rã từ hơn hai ngàn năm đổ lại đây, tính luôn thời điểm kể từ khi nước Việt giành được độc lập từ năm 936, và như vậy dân tộc Việt Nam đã thực sự thành hình như ta thấy ngày nay là cái tổng thể hoà hợp chủng tộc của “thổ dân” và người đến sau từ phương Bắc trong suốt một ngàn năm Bắc thuộc và của những triều đại tiếp theo sau đó. Hãy so sánh cái “melting pot” của nước Mỹ, hay đúng hơn là của các nước Nam Mỹ, vì ta có thể nhận thấy mô hình chủng tộc của phần đông dân số các nước châu Mỹ La Tinh sau chỉ 300 năm bị người Tây Ban Nha (Spanish) thống trị và đồng hoá, thành phần “Hispanic” (dân bản xứ hợp chủng với người Tây Ban Nha da trắng) đa số mang họ Tây Ban Nha và nói tiếng Tây Ban Nha, còn dân bản địa vẫn là dân bản địa, có sự phân biệt rõ ràng, và ở xứ ta, dân bản địa chính là “dân Thượng”.

Nếu thế tại sao người Việt lại không “ưa” người Tàu? Bạn có “ưa” người Tàu ở Việt Nam không? Câu hỏi nầy thật khó trả lởi. Nói đúng ra là ta không ưa cái nước Tàu khổng lồ phương Bắc thường xuyên ăn hiếp nước ta chứ không phải cá nhân Hoa kiều nào cả. Bằng chứng là người dân xứ ta đã sống rất hoà đồng với nhiều cộng đồng người Hoa chung quanh, đa số là hậu duệ của những người mới di cư đến sau, cỡ từ 500 năm đổ lại đây, đó là người Quảng đông, người Hẹ, người Hải Nam, người Phúc Kiến, và người Minh hương bao gồm người Triều Châu, mà trên thống kê chính thức thiểu số người Hoa ở Việt Nam mới hơn khoảng 1 phần trăm dân số.

Bởi những lý do lịch sử, nước Việt dường như lúc nào cũng ở trong tư thế chuẩn bị để đối đầu với những đe doạ uy hiếp từ anh Tàu (để chỉ Trung Quốc) vì anh ta quá mạnh xưa nay, nhất là vào thời điểm của thế kỷ 21 ngày nay. Từ xưa đến nay nước Việt lúc nào cũng phải hoà hoãn tìm cách phòng vệ để khỏi bị Bắc thuộc một lần nữa. Ngày nay nhà nước CHXHCN Việt Nam chơi với anh Tàu, nhưng dân ta cũng như người Đài loan, người Tân Gia Ba, người Mã Lai—về mặt thời gian thì họ thuộc thời cận đại – không ai muốn trực thuộc Trung Quốc hết mặc dù thành tố người Tàu ở những xứ này rất là đông đảo. Mô hình chủng tộc của Việt Nam chính là hình ảnh của Đài Loan sau hai ngàn năm nữa, nếu xứ nầy còn tồn tại như một thực thể riêng biệt như ta thấy ngày hôm nay, dân của xứ này sẽ không nhận họ là “người Tàu” mà họ sẽ tự xem mình là dân Đài Loan (ngày nay đã thế) mặc dù thành phần dân bản xứ (“thổ dân”) Đài loan rất là ít (nếu bạn sang Đài loan và thấy rất nhiều người nhai trầu bỏm bẻm khắp nơi, đó là hậu duệ của dân Phúc Kiến, là hậu duệ của sắc tộc Âu Việt trong tộc Bách Việt đã hoà chủng với “người Hán-tạp pín lù” chứ không nhất thiết phài là “thổ dân” gốc Austronesian).

Có phải nói như vậy mọi người trong chúng ta mang họ Tàu đều có tổ tiên là người Tàu hết à? Trả lời thoả đáng câu hỏi nầy chưa có nghiên cứu đứng đắn nào trực diện với vấn đề một cách khách quan (không có đầ uóc thiên Tàu hoặc bài Tàu) và khoa học (như là lập bảng mô hình gene-DNA—không hiểu sao các ông khoa học gia nhà ta vẫn còn chưa thực hiện nổi dự án nầy—cũng như đồng thời tiến hành những nghiên cứu mới mẻ về lịch sử cổ đại của các dân tộc thuộc tộc Bách việt như đã được ghi chép rải rác và tản mạn trong cổ thư của Tàu nhưng chưa có nghiên cứu nào nhắc đến chúng, không cứ phải nhai đi nhai lại những điều đã có sẵn từ Hoàng Lê Thông nhất Chí, Đại Nam Sử Lược, Việt Nam Sử Lược, v.v...)

Tóm lại, dưới mắt nhìn của tôi, người Việt của nước Việt ngày nay chính là hậu duệ của một tổng thể thành tựu và kết tủa từ đám cháu chít của dân bản địa—tính luôn cả những nhóm đã bị hoà chủng hoàn toàn trước đó—họ là những người gốc Tàu đã hoàn toàn “An Nam hoá” từ nhiều đời liên tục trong suốt hơn hai ngàn năm trước và đã trở thành “người Kinh” hay “dân tộc Kinh”. Trong thời đại ngày nay cứ đơn giản nhìn quanh bạn những người quen biết là bạn thấy ngay tỷ lệ Tàu/Việt khá cao, đó là chưa kể những người gốc Tàu đã hoàn toàn Việt hoá. Thí dụ, bên ngoại của tôi, nguyên cũng là người gốc Hải Nam và ông ngoại tôi vẫn còn nói trọ trẹ tiếng Việt, nhưng nay tất cả gia đình phía cậu dì cùng anh em cậu mợ đều đã trở thành người Việt Nam 100 phần trăm, và dĩ nhiên là cái họ Diệp chưa hề bị thay đổi.

Còn “người Thượng”, họ là ai? Họ chính là những người dân bản địa bị đẩy lên vùng miền thượng du (tổ tiên của Mạc Đặng-Dung là người có thể thuộc dân tộc Tày—Dai, Tai, Thai—mà có sách gọi là dân tộc Đản thời cổ đại), trong số đó có cả “người Mường” (gần gũi với người Việt nhất, và Vua Lê Lợi có thể là người gốc Mường) là những người bất hợp tác với những người chủ mới trên đất đai của họ, là giai cấp thống trị của nhà Hán bắt đầu trước hơn thuở vùng đất Giao Chỉ được đổi tên thành Giao Châu vào khoảng năm 197.

Do đó từ câu chuyện nguồn gốc họ P. của tôi và họ Diệp bên ngoại tôi, nói thêm dăm ba câu nhàn đàm về họ Huỳnh của bạn, rồi nếu có tán thêm về họ Khổng, họ Đỗ, họ Võ, họ Cao, họ Đoàn, họ Trịnh, họ Lâm, họ Lê, họ Lưu, họ Phạm, v.v.. cuối cùng kết luận tất cả vẫn đều là những họ Tàu. Và nói chung, không có họ nào là họ Việt Nam thuần tuý cả, kể cả họ Nông. Người ta cũng cho rằng họ Nông là họ của người Nùng nhưng thực ra đó cũng là họTàu!
Nói về người Nùng, như đã kể trên, đây là nhóm dân tộc thiểu số có mặt khắp nơi từ trên miền thượng du Bắc bộ ở Việt Nam trải dài đến suốt cả vùng miền nam Trung Quốc. Dân tộc nầy ở Trung Quốc ngày nay người ta gọi là tộc Tráng, dù họ vẫn giữ bản sắc riêng thì đa số bây giờ cũng đã bị Hán hoá khá nhiều, tất cả hầu như ai cũng đều mang họ Tàu như ta. Cũng như sắc tộc Lạc Việt, tổ tiên của dân Nùng là một thành phần của các dân tộc Bách Việt của trên 4000 năm trước nằm trên địa bàn miền Nam Trung hoa vượt qua bên tả ngạn Sông Dương Tử lên tận đến vùng thuộc Tỉnh Sơn Đông miền Đông Bắc nước Tàu trước khi người Hán bành trướng đến chiếm lĩnh và đồng hoá. Trong thời đại ngày nay, dân tộc Tráng (Nùng) là một dân tộc có số dân thiểu số đông nhất thế giới, hơn 20 triệu người, sống trong một lãnh thổ mà họ không có quốc gia riêng (quốc gia riêng của họ ngày xưa đã bị thay thế bằng nước Sở cách đây trên 2500 năm). Địa bàn tập trung của dân tộc nầy ngày nay nằm trong khu vực tự trị của Tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Ngày xưa, người Nùng là người bất hợp tác với người Hán, số người chấp nhận sự Hán hoá, ngày nay đã trở thành người Quảng Đông, người Phúc Kiến!

Tôi đã từng hoài nghi là người Việt cổ đại của tổ tiên dân tộc Việt Nam ngày nay có máu mủ quan hệ với dân Nùng nhưng luận cứ nầy chỉ căn cứ trên những sự kiện văn hoá như di vật trống đồng mà cho tới ngày nay họ vẫn còn sử dụng vào các dịp lễ lạc (họ còn có cả chuyện cổ tích về nguồn gốc trống đồng), sự tích nỏ thần, và về mặt ngôn ngữ, ngữ pháp của tiếng Nùng có cấu trúc danh từ đi trước hình dung từ đi sau, và vết tích nầy vẫn còn hằn dấu trong tiếng Quảng Đông, thí dụ, “gà cồ” họ gọi là “cáy công” (tiếng Phước Kiến, Triều châu, và Hải Nam cũng đều có cách nói tương tự.) Có điều là khi tôi nghiên cứu từ nguyên đã không tìm thấy sự tương đồng nào đáng kể với các cụm từ cơ bản giữa tiếng Nùng và tiếng Việt, có lẽ vì từ nguyên tiếng Việt đã bị Hán lấn át gần hết.

Sở dĩ tôi dài dòng như vậy vì vấn đề ngôn ngữ và dân tộc đều có mối quan hệ mật thiết với nhau, ví dụ, sự tách rời người Kinh và người Mường từ người Việt cổ bản xứ giống y như sự tách rời của tiếng Việt ra khỏi ngữ chi Việt-Mường. Thực ra nhận thức này chỉ nảy sinh trong tôi sau những cố gắng truy tìm nguồn gốc tiếng Việt, cụ thể hơn, đó là từ nguyên tiếng Việt có gốc Hán. Tôi nhận thấy sự hình thành dân tộc Việt Nam và tiếng Việt có rất nhiều điểm chung, đó là cái nền Bách Việt, còn cụ thể thì tôi vẫn chưa biết cái nền nguyên sinh (aborginal stratrum) của Lạc Việt tiếp cận với thành phần sắc tộc thiểu số nào ngày xưa để bắt cây cầu nối bị đứt đoạn bắt đầu từ lúc dân Lạc Việt sau khi đã trải qua hết sự cai trị của 18 đời Hùng vương—kéo dài tối đa là 500 năm, tuổi thọ thời đó không cao—tình hình ở xứ Giao Chỉ thời bấy giờ đã ra sao trước khi hoà nhập vào nước Nam Việt của Triệu Đà? Đám dân bản xứ có ngón chân giao nhau đã biệt dạng chốn nào khi nhà Hán đến cai trị xứ nầy? “50 con lên núi?” Dân tộc đó có lẽ phải biết trồng lúa, ăn trầu, nhuộm răng, xâm mình, đánh cá, luyện đồng thau, đúc trống đồng, v.v... tuỳ theo thời điểm và không gian mà ta xác định là muốn bắt nguồn vùng Hồ Nam Động Đình Hồ hay chỉ tính từ vùng Châu thổ Sông Hồng, mà ở cả hai vùng đều có mặt những người thuộc sắc tộc Môn (thuộc Mon-Khmer) vì trong tiếng Việt đã giữ lại những dấu ấn đáng kể vì ngoài sự vay mượn từ vựng do sự giao tiếp ra còn phải có mối liên hệ cật ruột nào đó trước khi người Hán tới.

Bàn đến vấn đề ngôn ngữ, sự hình thành một dân tộc thường đi đôi với sự hình thành tiếng nói của dân tộc đó. Những yếu tố cấu thành tiếng Việt hiện đại, trong quá trình phát triển, yếu tố mạnh sẽ lấn át những yếu tố yếu. Do đó, nghiên cứu về nguồn gốc dân Việt cần phải có sự hỗ trợ của những thành quả nghiên cứu về tiếng Việt. Và ngược lại đối với tộc Hán cũng thế vì người ta cũng đã tìm thấy rất nhiều dấu vết từ “Bách Việt” trong tiếng Hán (như yếu tố Mon-Khmer trong tiếng Việt).

Bài viết nầy chẳng phải là bài nghiên cứu về Việt ngữ cho nên những kết luận vắn tắt nêu ra ở đây là hệ luận rút tỉa từ những nghiên cứu của vấn đề đó mà ra. Tuy những nhà ngữ học Tây phương ngày nay—theo thiển ý, có điều phiến diện và thiếu “ngữ cảm”, tuy là “Tây” nhưng không nhất thiết mấy ổng đúng vì đa số dựa vào thông tin do “informants” hay “thông dịch viên” cung cấp, sử dụng công cụ ngữ học Ấn Âu một cách máy móc và cứng nhắc cũng như không “master” ngôn ngữ liên hệ mà họ nghiên cứu—đều kết luận là tiếng Việt có nguồn gốc Nam Á (Austroasiatic, aka “Bách việt”) thuộc ngữ hệ Mon-Khmer, ngữ chi Việt-Mường phát triển từ tiếng Việt cổ đại, hay là “Vietic”.

Trong tiếng Việt hiện đại tất cả những thành tố tiếng Hán cổ đại và hiện đại đều hiện diện rõ nét và được sử dụng tích cực, nhất là về mặt từ vựng, bao gồm luôn những từ căn bản, trong khi đó tiếng Việt lại cách xa rất nhiều với những ngôn ngữ thuộc hệ Mon-Khmer. Dù là trong bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới ngày nay đều có những yếu tố vay mượn ngoại lai, nhưng những từ cơ bản dùng trong sinh hoạt hằng ngày cũng như những khái niệm để chỉ những sự vật và hiện tượng xung quanh ít khi có sự vay mượn. Do đó sự tương đồng của những từ cơ bản này trong tiếng Việt với nhiều phương ngữ tiếng Hán cho thấy mối quan hệ của chúng không chỉ đơn giản là sự vay mượn thuần tuý mà có thể có mối bàng hệ vì lý do cả hai dân tộc Hán và Việt, như đã kể trên, hình thành do sự hoà chủng lẫn nhau. Sự kiện nầy cho ra kết quả phản ánh rõ nét trong hầu hết các phương ngữ tiếng Hán và tiếng Việt. Giống như về mặt dòng máu sắc tộc, càng tiến về phương Nam, yếu tố “Hán-phương Bắc” loãng dần và yếu tố “bản địa-phương Nam” đậm lên.

Cách sử dụng từ vựng ở miền bắc Việt Nam cho đến ngày nay vẫn còn bị ảnh hưởng tiếng Hán, cả cổ đại và hiện đại, một cách mạnh mẽ trong khi tiếng miền Nam biến âm và kết nạp nhiều ngữ tố bản địa, thí dụ “lợn” (Hán Việt “độn”) đối lập với “heo” (HV “hợi”); ngan | ngỗng; giời | trời, giăng | trăng; bố | tía; mợ | mẹ; xơi | ăn; tiểu | đái; đéo | đụ ... cho dù trong tiếng Nam vẫn còn lưu giữ những âm vị cổ như Việt | “Jiệt”, vô | “dô”... Đồng ý là số đếm “một” đến “năm” trong tiếng Việt đồng nguyên với các thứ tiếng Mon-Khmer, nhưng không có ông Tây nào biết “bánh chưng”, “bánh dày”, “dưa hấu”, “đậu phụng”, “bắp”, “chả lụa”, “ruốc”... đều đồng nguyên với tiếng Hán. Câu hỏi đặt ra ở đây là nếu trên 90 phần trăm từ vựng trong tiếng Việt có mối quan hệ trực tiếp với tiếng Hán, thành phần dân Việt có phải có cùng tỷ lệ?

Nhiều chủng tộc khác trên thế giới ngày nay như là người Ấn độ, người Châu Mỹ La tinh, như người Tàu và người Việt hiện đại (tôi cố ý lặp lại ở đây), đều có nguồn gốc hợp chủng! Tôi và bạn và những người Việt Nam ngày nay chỉ khác nhau ở chỗ là tổ tiên của mỗi người trong chúng ta di cư đến nơi nầy trước và sau mà thôi, giống như dân của Hợp chủng Quốc Hoa Kỳ vậy.

Người mà ta chính thức gọi là “Hoa kiều” hay “người Hoa” là những người có tổ tiên mới đến từ Tàu thời gian sau khi Triều Minh bên đó bị Nhà Mãn Thanh thôn tính. Một vài thế hệ nữa, những người Hoa này sẽ trở thành người Việt Nam hoàn toàn, hay nói đúng hơn, một người Tàu Việt Nam, hoặc là “người Việt gốc Hoa”, giống như bên Mỹ họ gọi “người Mỹ gốc Hoa”, “người Mỹ gốc Việt”, và thế hệ thứ hai thứ ba sinh đẻ ở Mỹ sẽ đơn giản gọi là người Mỹ.

Giống như lời bàn luận của anh NTK về sự hình thành của nước Mỹ và người Mỹ, thuở ban sơ bắt đầu từ dân Anh di cư nổi lên làmcách mạng dành độc lập. Thực tế là người Mỹ thuở ban đầu là người gốc Anh và sau khi họ giành được độc lập nước Anh và người Anh vẫn là người đồng minh tự nhiên của họ. Một trong những lý do là điều kiện địa lý xa xôi, Đế quốc Anh không vói tay tới Mỹ được để thuộc địa hoá lần nữa. Và nước nầy vẫn còn đang trong tiến trình trưởng thành để trở thành một nước hợp chủng đúng nghĩa. Nếu ta cứ giả dụ rằng những người Mỹ đến trước là người da vàng, thì thực thể chủng tộc sẽ không còn sự phân biệt nào nữa, y chang như sự cấu thành thành phần dân tộc Hán hay Việt Nam.

Tôi đưa sự kiện hình thành nước Hiệp chủng Quốc Hoa Kỳ, nhưng chưa tới 300 năm, để chúng ta dễ dàng nhận thấy dân Hán ở bên Trung Quốc ngày nay là một tổng thể hợp chủng “hiệp chủng Quốc” đã có và hình thành trong suốt hơn 5000 năm (Nhà Ân bị nhà Hạ tiêu diệt, nhà Thương lấy nhà Hạ, nhà Châu hạ nhà Thương, rồi nhà Châu bị suy yếu trong thời “Xuân thu chiếnquốc”, nhà Tần hùng mạnh lên diệt nhà Châu (“Đông chu liệt quốc”) tóm thu thiên hạ -- đa số là dân có nguồn gốc Bách Việt—rồi bị nhà Hán tiêu diệt, Hán hoá tất cả dân các nước xong họ tiếp tục bành trướng xuống phương Nam. Do đó ta thấy dân Hán tức là cái tổng thể hoà hợp đó, là cái “tạp pín lù” nát nhứ chín rục từ cái nồi súp với mọi thứ rau cỏ thịt thà trong đó. Phải nói đây là nồi súp de hoặc nối áp suất mới đúng, thứ gì bỏ vào đều bị tan rục: dân Rợ, dân Nam man, dân Kim, dân Mãn châu, dân Mông cổ, và suýt nữa là dân Nhật khi họ xâm lăng Trung Quốc trong thời Đệ nhị Thế chiến (cho dù họ có gọi là Đại Đông Á, Xứ Mặt trời mọc hay lặn hay là cái chi chi gì chăng nữa thì cái thành tố “Hán” vẫn còn đó bất kể dưới danh xưng nào.

Nước Việt may mắn là Vua Quang Trung không sống đủ lâu để thực hiện giấc mộng lấy lại hai vùng đất Lưỡng Quảng, nếu thành công và ngay cả cho dù có thâu tóm cả nước Tàu và gọi nước nầy là nước Đại Việt đi chăng nữa thì bản chất của nó vẫn là “Hán” như ta đã lặp đi lặp lại nhiều lần ở trên. Got the ideas, my buddy? Phải hiểu lịch sử hình thành nước Tàu từ xưa đến nay như thế nào mới không có những khái niệm lệch lạc về người Tàu.
Do đó ngày nay khi chúng ta bàn về ý đồ bành trướng với “chủ nghĩa đế quốc mới” của Trung Quốc, cũng đang nới rộng qua đến những nước Phi châu, ta biết rằng là trong tâm thức người Tàu (“người Hán hiện đại”) bao giờ cái ý tưởng bành trướng về phương Nam vẫn là con đường lý tưởng nhất và cần thiết để sinh tồn. Vì vậy, mối đe doạ “Bắc thuộc kiểu tân thời” là một hiện thực mà Việt Nam phải đối đầu thường trực, nếu không, 100 năm hay 200 năm nữa xứ ta không chừng sẽ trở thành một tỉnh của Trung Quốc, không khác gì Quảng Đông ngày nay.

Như đã nói trên, dân Quảng Đông bản xứ 2200 năm trước có thể là cùng gốc với người Nùnggiống như Việt và Mường vậy sau bị “người Hán” thống trị và Hán hoá nay trở ành “Đường nhân” hay là “Thòng dành”. Sở dĩ họ thường tự xưng như vậy là vì di dân từ khắp nơi vào vùng nầy nhiều nhất xảy ra vào đời nhà Đường, tiếng Quảng Đông là tiếng biến dạng của tiếng nói từ đời nhà Đường xây dựng trên cái nền “tiếng Nùng cổ đại”. Trong đám bạn của chúng ta có LVD và HHQ là người có thể người Quảng gốc Nùng đó, bạn hiền ạ.

Tôi không nghĩ là có nhiều người Việt Nam hiểu rõ nước Tàu và người Tàu như tôi đã trình bày, ở mỗi thời đại người Hán mỗi khác, và đa số những cái nhìn hạn hẹp nông cạn của những tay kỳ thị chủng tộc này nọ chỉ lặp đi lặp lại những quan điểm và cái nhìn của những những tay kỳ thị chủng tộc khác. Và đây là bài viết để những người đó hiểu sâu hơn chút nữa nếu họ chịu suy gẫm về những luận định của tôi.

Nếu không biết địch là gì và cũng chẳng biết ta là ai luôn, lúc đụng trận bị thua là cái chắc.

(Nguồn: Blog Sự thật và tri thức )

Thứ Hai, 28 tháng 3, 2011

Ranh giới giữa sáng kiến và “tối kiến”(*)

  (*) đã được đăng tại http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-04-06-ranh-gioi-giua-sang-kien-va-toi-kien- 
                                                                                                         
Cách đây mấy hôm cả nước ta đã đồng loạt tắt điện trong 1 giờ nhân “Ngày trái đất”. Đó là lần thứ 3 thực hiện sáng kiến tiết kiệm điện kể từ năm 2009  mà trong đó mỗi người chỉ cần làm một động tác đơn giản và hoàn toàn tự nguyện là tắt điện trong gia đình mình. Nhưng kết quả  đưa lại  thật là ấn tượng và đầy ý nghĩa : Không chỉ tiết liệm được 400,000 Mw tương đương 500 triệu Đồng mà còn nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng !. Một việc làm như thế không xâm hại lợi ích của bất cứ ai và không ảnh hưởng đến bất cứ một hoạt động kinh doanh sản xuất  nào,  lại còn tao ra một niềm vui nho nhỏ trong các gia đình có dịp được quây quần bên nhau trong ánh sáng của ngọn nến.

Xin miến bàn về nguồn gốc xuất xứ hay động cơ của sáng kiến “Ngày trái đất”, ta có thể dẽ dàng đi tới nhất trí rằng đây chính là một SÁNG KIẾN ĐÍCH THỰC theo đúng nghĩa của nó. Do đó nó không chỉ được nhiều người tự nguyện hưởng ứng mà còn được duy trì phát huy lâu dài . Một sáng kiến như vậy không đòi hỏi bất cứ một nguồn vốn tài trợ nào nên cũng không có chuyện các “ bên” xông vào nhằm chia chát , xè xẻn rồi biến  thành những “hậu quả” như đã từng thấy. Thế mới hay, một ý tưởng mới chỉ có thể xác định là sáng kiến bằng kết quả và giá trị thực của nó, chứ không nên nhìn vẻ bề ngoài hoặc nghe những lời giới thiệu hoa mỹ về nó.

Tuy nhiên,  thực tế lâu nay ở nước ta đã và đang có vô số những việc làm được cao rao là “sáng kiến” có khi ở tầm cỡ những dự án tiêu tốn rất nhiều nguồn lực nhưng kết quả chẳng bao nhiêu, thậm chí còn gây ra những hậu quả khôn lường. Đơn cử như câu chuyện mua tàu cũ của nước ngoài đem về sửa chữa cải tạo thành tàu du lịch Hoa Sen mà VINASHIN đã từng làm và để lại hậu quả như ta đã thấy . Hay gần đây nhất là trường hợp khai thác bauxite Tây nguyên đang diễn tiến theo chiều hướng hậu quả hơn là kết quả. Khắp nơi trên đất nước này nếu có dịp đến cơ quan xí nghiệp nào cũng thấy treo đầy những bằng khen tặng sáng kiến xuất sắc,...nhưng không mấy ai biết rõ những hậu quả đằng sau những tấm bằng khen đó. Có những sáng kiến đưa lại một vài cái lợi trước mắt nhưng gây ra những hậu quả lâu dài.  Câu chuyện đóng/ mở, mở/đóng đói với các ngã tư đường phố của Thủ đô Hà Nội có lẽ cũng thuộc loại sáng kiến như vậy; nó không chỉ  gây nên những lãng phí về vật liệu, xăng dầu..., mà còn làm mất mĩ quan  đồng thời làm tăng độ ô nhiễm môi trường đô thị, đặc biệt là sự phản tác dụng đối với công tác giáo dục công dân về ý thức chấp hành luật lệ giao thông (tham khảo tại đây: http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-01-13-dem-ngu-van-mo-tay-nam-vo-lang-quay-chong-ca-mat- )

Có thể nói có tình trạng lạm dụng khái niệm sáng kiến ở nước ta trong nhiều năm nay. Đi kèm với nó là sự lãng phí nguồn lực một cách oan uổng. Có những sáng kiến tiêu tốn rất nhiều ở giai đoạn tiền khả thi để rồi bị "treo"  như “Thành phố ven sông Hồng”, “Trục Thăng Long-Ba Vì”, v.v... Vì thế, có người đưa ra một định nghĩa vui vui  rằng  sáng kiến là ý kiến đưa ra vào buổi sáng đến buổi tối đã  trở thành “tối kiến”!

Vẫn biết sáng kiến là một phạm trù đặc biệt, không thể thiếu nếu muốn thúc đẩy nhanh hơn tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Nhưng trong bối cảnh nước ta còn thiếu một cơ chế và năng lực để đánh giá, xét duyệt và quản lý quá trình thực hiện sáng kiến, thì trước hết phải hết sức thận trọng trong việc phê duyệt và áp dụng các sáng kiến đồng thời  phải biết kiên quyết chấm dứt kịp thời những sáng kiến nào đang biến thành “tối kiến”. /.
     
Trần Kinh Nghị

Thứ Hai, 21 tháng 3, 2011

Xấu chơi

Xấu chơi hay chơi xấu cũng vậy thôi. Đó là một thói xấu mà rất nhiều người làm ăn kinh doanh cần tránh (Tôi muốn nói đến người làm kinh doanh vì đối với họ nó quan trọng hơn nhiều đối với những người khác, vì nếu không khéo thì “gậy ông đập lưng ông”).

Hôm vừa rồi tôi có việc đi Pleyku mấy ngày rồi quay ra Hà Nội . Chuyến đi sẽ trôi chảy và khá thú vị , nếu không có một hiện tương (tôi nói là “hiện tượng” cho nó nhẹ bớt đi dù vẫn biết loại hiện tượng này rất phổ biến ở nước ta trong thời buổi kinh doanh chụp dựt vô nguyên tắc, vô đạo lý có thể gọi là "nhọm nhạm" trong nhiều năm nay). Nó khiến tôi cảm thấy rất chi là “tức cảnh” và phải ngồi lại viết đôi điều ít ra cũng để “xả xì-trét”.

Là người Nam sống ở Bắc nên tôi thường phải đi lại rất nhiều từ đầu đến gữa hoặc cuối cái đất nước có hình chữ S này, ít nhất cũng 2 lần mỗi năm. Ngày trước  do khó khăn tôi không ngại đi bằng bất cứ phương tiện nào. Ngày nay thuận tiện hơn, và bản thân cũng đã có tuổi, nên tôi hay đi máy bay, lại còn đi taxi ra vào sân bay nữa.

Tuy nhiên gần đây không hiểu vì tình hình khủng hoảng kinh tế hay lý do nào đó mà tôi sinh ra ý định sẽ đi từ sân bay về nhà bằng xe bus. Ý định này được “bà xã” rất hoan nghênh  bằng cách “tư vấn” cho tôi cách làm thế nào tìm được đúng loại và số xe tốt nhất.

Để cẩn thận, tôi định sẽ làm quen với một vài hành khách cùng tuyến để hỏi kinh nghiệm. Và cũng thật may, khi ngồi phòng chờ ở Pleyku tôi nhận ra một người trẻ tuổi mà tôi đã ngồi cạnh tại phòng đợi trong chuyến bay vào hôm trước. Anh ta cũng rất vui nhận ra tôi giữa cái sân bay tĩnh lẻ này .   Tôi chưa kịp nói hết “ý đồ” của mình thì anh bạn trẻ đã nhận lời sẽ giúp tôi ngay và cho biết anh ta vẫn thường xuyên đi xe bus sân bay. Vậy là tôi đã cảm thấy “yên chí lớn” giống như một cậu bé đến trường với sự diều dắt của cô bảo mẫu.

Khi xuống máy bay, thấy trời mưa, tôi hơi do dự muốn gọi taxi , bụng nghĩ  dù sao đi 2 người thì chi phí cũng bớt được ½. Nhưng anh bạn vẫn “kiên trì đường lối” và dẫn tôi đi nhanh về phía có nhiều xe bus to, nhỏ cách đó độ 300m. Khi đi ngang qua một chiếc minibus thì có mấy người xông ra níu kéo mời chào rất nhiệt tình. Thấy trên xe đã có khá đông người, có cả  người Tây…tôi tưởng đây là “đúng fốc” cái xe mà mình cần. Nhưng anh bạn tôi nhìn qua một cái  liền quay đầu đi tiếp. Tôi đành phải đi theo. Đến một chiếc bus loại to nhất thì dừng lại. Mà không dừng cũng không xong khi có mấy người cũng xông ra níu kéo mời chào . Lúc đó tôi thoáng nghe ai đó nói: “….xe này không đi qua đường Hoàng Quốc Việt đâu”. Tôi nghĩ  đây không phải là xe giành cho mình, nên đành chào anh bạn rồi quay lại với cái xe minibus lúc nãy, bụng bảo dạ: đàng nào họ cũng đang cần mình để đủ người đi…Mình cần họ, họ cần mình, thế là phải đạo.

Thế nhưng, không ngờ đó không phải là cái lô-gíc của những gã lơ xe kia. Họ nhìn tôi quay lại với một con mắt đầy hằn học…thậm chí muốn báo thù thì phải(?) Một gã bảo: “Lúc nãy bảo đi, không đi…Giờ thì không cho đi nữa! Một gã khác lại nói “Đã bảo không nghe…cho chết!”. Trong tôi nỗi lên một cảm giác như bị giội nước lạnh từ trên đầu giữa mùa Đông rét mướt. Không van xin cũng không cần giải thích, tôi buộc mồm quát lên: Sao xấu chơi thế!..., khiến mấy người Tây đang chờ đợi trên xe cũng giật mình. Trông họ có vẽ muốn cảm ơn tôi đã phần nào giúp họ bày tỏ sự bực tức đối với đám lơ xe. Lúc này trong đầu tôi lại hiện lên những lời nhận xét của một bài viết của một tác giả hải ngoại mà tôi đã tình cờ đọc được cách đây mấy tháng :”Người Việt xấu xí”…Đúng quả thật người Việt xấu xí…xấu từ ngoài vào trong. Có lẽ từ nay về sau tôi sẽ không bao giờ dám nghĩ đến việc đi bằng xe minibus sân bay nữa.

Nhưng sau đó khi ngồi trên một cái xe khác để vào thành phố, tôi nghĩ : Người Việt không những xấu xí mà còn rất yếu kém trong lĩnh vực kinh doanh (Tôi dùng chữ “yếu kém” cho nó lịch sự chứ thật ra là “không biết” thì đúng hơn). Mấy gã lơ xe kia chắc là ít học thì không biết đã đành, chứ các cơ quan chức năng  mà cũng không biết thì còn ai có thể biết (?)  Hà Nội có khá nhiều xe bus trống rỗng chạy nhông nhông giữa phố như "điên", mặt lái xe và lơ xe lúc nào cũng cau có...; nhà xe kêu "lỗ vốn" vì ít khách trong khi hành khách rất cần xe nhưng cũng rất lo sợ bị "hành" nên đành quy về với cái xe máy hay xe đạp (!) Có quá nhiều nghịch lý trong các ngành kinh doanh dịch vụ như vậy trên đất nước ta ngày nay./.              




Thứ Bảy, 19 tháng 3, 2011

Vì tiền? nhưng không thể bất cứ giá nào!


Căn lều dự  án mọc lên làm xấu cả phố phường
Tấm ảnh trên được chụp mới sáng nay tại con ngõ số 239 Phố Tô Hiệu, Quận Cầu Giấy, Thủ đô Hà Nội, cũng là con ngõ chính nối  Phố Tô Hiệu với Làng Quốc tế Thăng Long nên lúc nào cũng quá “nhộn nhịp” với dầy đặc hàng quán và xe cộ khiến người đi bộ luôn phải đi dưới lòng đường rất nguy hiểm. Đã có không ít vụ tai nạn xảy ra tại đây. Ấy vậy mà người ta đang hối hả xây chen tại đây ít nhất là 2 dự án chung cư nữa. Mảnh đất hẹp chỉ khoảng 400 m2  bên phải tấm ảnh này thuộc một “dự án” gồm 4 biệt thự đang được khởi công. Còn một dự án “khủng” hơn nhiều với gần 100 căn liền kề đang được lăm le khởi động ở phía đầu ngõ trên rẻo đất  hiện đang là hành lang bảo hiểm lưới điện 110KV giữa Làng Quốc tế Thăng Long và Phố Tô Hiệu.

Người viết bài này chỉ là một "phó thường dân" nên không đủ thẩm quyền “để biết” mọi ngóc ngách của hai dự án nói trên, nhưng cũng biết đủ để xin được sử dụng cái quyền “được bàn” như sau.

Người Hà Nội chắc đều biết Làng Quốc tế Thăng Long là một trong số ít khu chung cư cao cấp đầu tiên của Thủ đô. Nó vẫn còn đó dấu tích của những biệt thự mà Lã Thị Kim Oanh “biến hóa” từ một dự án chung cư cao tầng là chính. Mảnh đất nằm ở rìa ngoài nói trên cũng là một dấu vết còn sót lại sau nhiều lần đấu tranh giằng co, quãng năm 2006 nó đã được kết luận là “đất cây xanh…, không được xây nhà ở”.  Nhưng cách đây mấy tháng bỗng dưng có người đục tường  rào  vào trong sân dọn mặt bằng,  ai hỏi chỉ nói úp mở…. Nhưng mới đây đã lộ rõ nguyên hình là sự “hồi sinh” cái ý đồ của 10 năm trước, khác chăng là, trước đây định xây 2 biệt thự thì giờ thành 4 căn liền kề!
Vấn đề chưa rõ là ai cho phép xây và xây cho ai (?). Nhưng điều đã rõ  là dự án này vi phạm các quy tắc xây dựng cơ bản, và ắt hẳn có những khuất tất trong đó cần được làm sáng tổ và kịp thời ngăn chặn.

Trường hợp dự án thứ hai còn lớn hơn rất nhiều với quy mô gần 100 căn liền kề tạo nên một “bức tường” bằng nhà dài gần  ½ km chạy dọc sau phố Tô Hiệu và cũng cắt qua con ngõ nhỏ nói trên (theo sơ đồ thiết kế của công ty chủ quản INDECO).  Dư luận đàm tiếu rằng nếu được thực hiện, nó chắc sẽ là một “kiệt tác” nữa của nền kiến trúc chắp vá của Thủ đô ta. Xấu xí không giống ai là một chuyện. Nhưng chuyện đáng nói ở đây là sự vô lý của một dự án xây chen nhà ở trên diện tích đất lưu không đường điện cao thế (dù đang treo trên cao như hiện tại hoặc sẽ hạ ngầm sau này). Hơn nữa về mật độ dân cư đây là một khu vực đã được quy hoạch với Khu tập thể Nghĩa Tân một bên và Làng QTTL một bên, chẳng có lý gì để “chèn” thêm  một khu dân cư nữa vào giữa.     

Ai cũng biết thủ đoạn “xây chen” là một mánh kiếm tiền của các chủ thầu xây dựng. Nhưng trong hai trường hợp kể trên nó là sự vi phạm có tính toán mà những kẻ vi phạm  tỏ ra rất kiên trì bám đuổi phần lợi nhuận 200% của họ ( như luận điểm thời nào cũng đúng của Karl Max: Nếu đạt lãi xuất 200% thì nhà tư bản dù bị treo cổ cũng không từ bỏ).

Tuy nhiên,  cũng xin thưa, trong một xã hội pháp quyền, thiết nghĩ mọi hoạt động kinh doanh nhất thiết phải tuân thủ pháp luật. Và pháp luật không ngoài mục đích nhằm đảm bảo quyền sống và mọi quyền lợi chính đáng của công dân. Người cầm cân pháp luật không ai khác là các cơ quan chức năng của Nhà nước. Vậy nếu không có sự chấp thuận (dưới mọi hình thức nào đó) của một cơ quan nhà nước thì liệu các công ty xây dựng trên đây có thể liều lĩnh đổ vốn cho những phi vụ làm ăn mà họ biết chắc là không được sự đồng thuận của nhân dân?  

Nhưng qua những gì đang diễn ra cho dân thấy các chủ thầu đã và đang làm việc một cách đầy tự tin. Không rõ vì sao họ có thể đưa ra nhiều công văn giấy tờ có chữ ký và con dấu  của các cơ chức năng cho phép xây dựng nhà ở như vậy.  Nghe nói họ thậm chí đã “bán hết” các lô đất nền…(!). Trong khi đó người dân cảm thấy  rất bức xúc, lo lắng không biết điều gì sẽ xảy ra nếu cái gọi là “dự án” như vậy được tiến hành. Nhiều người cho rằng những kẻ đầu cơ chỉ cần cắm mốc và rào khoanh vùng để “xí phần”, sau đó chưa chắc đến lúc nào sẽ thực hiện, miễn là giá đất sẽ tiếp tục lên!  Suy luận này  hoàn toàn có cơ sở khi mà chưa một cơ quan Nhà nước nào đứng ra chính thức thông báo và giải trình về tính khả thi của dự án “hạ ngầm lưới điện 110 KV” trên phần diện tích đất của dự án nhà liền kề nói trên.   

Dân cư trong khu vực đã nhiều lần làm đơn kiến nghị gửi đến các cấp chính quyền từ Phường đến Thành phố; cũng đã có sự lên tiếng của báo chí. Nhưng cho đến nay tất cả vẫn rơi vào yên lặng. Ngoài một vài cuộc họp do Phường Dịch Vọng tổ chức mà trong đó chỉ để nghe ý kiến tranh cãi giữa người dân với đại diện Công ty có dự án, chưa hề có một văn bản hay một hình thức trả lời chính thức nào của các cấp chính quyền.

Thiết nghĩ, đất nước đang thực hiện đổi mới, trong đó Thủ đô là tấm gương về mọi mặt không lẽ nào cứ quẩn quanh mãi trong nếp làm xây dựng chắp vá? Một Hà Nội mở rộng với  hơn 3.300 km2 ngày nay không thể thiếu đất để phải cho xây chen,  xây ép các khu dân cư trong vùng nội thành. Cách làm này chỉ có lợi trước mắt cho những kẻ đầu tư bất động sản trục lợi, nhưng sẽ mãi mãi làm nhơ xấu hình ảnh của phố phường Hà Nội. Kiếm tiền ai cũng muốn, nhưng cái giá phải trả mới là vấn đề: Đó là hình ảnh xấu xí, lạc hậu của Thủ đô; đó là lòng tin của người dân vào nơi công quyền bị xói mòn./.           

Trần Kinh Nghị

Cơ hội để HLV nội lên ngôi?


Sự ra đi đột ngột của Huấn luyện viên (HLV) ngoại Calisto dù muốn hay không đã đặt Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) nói riêng và nền bóng đá nước nhà nói chung vào thế khó. Khó vì nhiều lẽ , nhưng có hai lý do chính: đó là thời gian còn quá ít từ nay cho đến khi Tuyển Quốc gia phải ra quân ( trước tiên là trận vòng loại cup châu Á vào tháng 5); và vì tâm lý “sính ngoại” không chỉ trong dân chúng, đặc biệt người  hâm mộ, mà còn cả trong làng bóng đá nước nhà.

Một lần nữa VFF lại đứng trước thế tiến thoái lương nan giữa hai lựa chọn: HLV nội hay ngoại?  HLV ngoại thì đã có nhiều tiền lệ rồi, nội thì hầu như chưa có kể từ thời “mở cửa”. Đối với Tuyển quốc gia, lâu nay HLV nội toàn làm “chân phụ” là chính ! Khó có thể nói dứt khoát vì lý do gì, nhưng có một sự thật  là, người ngoài bảo thì nghe nhưng người đồng chủng, đồng môn, đồng nghiệp, đồng chí bảo thì không “tâm phục khẩu phục”. Có lẽ vì thế mà dù muốn hay không, bàn đi tính lại, rốt cuộc đành phải chọn “của ngoại” cho được việc cái đã. Nhiều lúc đắt giá lắm mà cũng phải bấm bụng mở hầu bao (như trường hợp thuê  ông Lalisto gần đây nhất chẳng hạn- cò kè mãi cũng không dưới 24.000 đô/tháng!). Nhưng khốn nỗi,  đổi lại, rõ ràng ông ta đã đưa lại một kết quả đúng với cái giá của nó: tấm huân chương vàng Suzuki Cup 2008. Và cũng chính cái kết quả này đang “làm khó” thêm cho các nhà lãnh đạo Liên đoàn bóng đá Việt Nam trước tâm lý  “sính ngoại” đã được cũng cố hơn trong dân chúng.

Trên đây là một cách nhìn khách quan. Tuy nhiên người viết bài này lại muốn đưa ra một cách tiếp cận khác nhằm đi tới kiến nghị rằng Việt Nam vào lúc này tốt hơn hết là hãy chọn một HLV nội.  Xin được nêu lý do như sau:

Một là, thời gian đã quá gấp để một HLV ngoại (dù năng lực tốt bao nhiêu) có thể làm quen và nắm vững về mọi điều cần thiết nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ (ngay cả nếu bản thân người được chọn cam kết có thể làm được việc này). Ngược lại, với một HLV nội, việc này không khó khăn gì.  

Hai là, hãy coi đây là một dịp tốt để thử thách năng lực thực sự cũng như các tố chất khác giữa HLV ngoại và HLV nội. Riêng đối với HLV nội đây là một cơ hội để được thể hiện mình, nhất là khi nước ta đang có một thế hệ HLV còn trẻ tuổi nhưng “lớn lên” từ thưc tiễn với những thành tích cao trong quá trình thi đấu khu vực và quốc tế như Lê Huỳnh Đức, Nguyễn Hồng Sơn… 

Ba là, dù thành bại, đây là một cơ hội để trãi nghiệm về tâm lý: nên tự cường hay tự ti mà lâu nay người Việt Nam từng vấp phải trong lĩnh vực bóng đá nói riêng cũng như trong các môn thể thao khác và cả  trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật, v.v…. Nói cách khác, mọi việc đều cần được liên tục thử nghiệm và kiểm nghiệm lại, chứ đừng mãi sống bằng kinh nghiệm của qúa khứ.

Bốn là, (có thể có người không tán thành) nhưng tôi nghĩ nên hy vọng  đây là một cơ hội để đáp lại lối “làm cao” của một số HLV ngoại mỗi khi họ muốn tìm việc làm với bóng đá Việt Nam. Trong chuyện này cá nhân tôi dù rất hâm mộ ông Calisto nhưng cũng không hài lòng với cái cách mà ông đã chọn thời điểm vừa rồi để “ra đi”.

Thiết nghĩ Việt Nam với gần 80 triệu dân hoàn toàn không phải là một nước nhỏ, lại có một truyền thống yêu bóng đá đầy nhiệt huyết và bản sắc riêng; về trí tuệ cũng đã được minh chứng bằng năng lực học tập và tiếp thu kiến thức thuộc loại cao nhất của thế giới. Thể lực và tầm vóc có thể ảnh hưởng ít nhiều đến thành tích thi đấu nhưng chắc chắn không ảnh hưởng đến nghề làm HLV.  Do đó  không có lý do gì để không sản sinh ra những HLV tầm cở quốc tế. Thậm chí về lâu dài ta hoàn toàn có thể “xuất khẩu “ HLV bóng đá ra thế giới./.
                                                  

Thứ Hai, 14 tháng 3, 2011

Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ: Trách nhiệm thuộc về ai?

Dưới đây là trích đoạn chuyện kể lại của một cựu chiến sĩ hải quân đã từng trực tiếp đối mặt với “giặc biển Trung Quốc” trong chiến dịch lẫn chiếm Trường Sa cách nay đúng 23 năm chẵn (đăng trên tuần vietnamanet nhân kỷ niệm lần thứ 23 ngày quân Trung Quốc lấn chiếm Trường Sa)
Trích dẫn:
Buổi sáng sớm ngày 14/3/1988, HQ 505 và HQ 604 đang neo giữ đảo Gạc Ma thì tàu Trung Quốc kéo đến. Anh Dương kể lại một cách lõm bõm: “Họ gọi loa bằng tiếng Việt: “K2 (mật danh của tàu HQ 604) rời đảo ngay. Đây là lãnh thổ của CHND Trung Hoa”. Tôi mới ngủ dậy, mặc độc cái quần đùi. Lúc đầu tôi còn trêu chọc họ cơ. Mình cầm bánh lương khô dứ dứ, họ cũng dứ lại, lương khô của họ còn to hơn! Thế rồi tàu Trung Quốc lùi lại cách đảo chừng hơn 1 hải lý (khoảng 1,8 km) rồi dùng tất cả hỏa lực bắn xối xả vào cả tàu và đảo. Anh Vũ Huy Lễ, thuyền trưởng của HQ 505, bèn lệnh cho tàu lao vào Cô Lin. Đối phương bắn như vãi đạn, đúng khi tàu ta đang đổ bộ…”. Cùng lúc đó ở hướng đảo Len Đao, hải quân Trung Quốc bắn rát vào chiếc tàu thứ ba, HQ 605.
HQ 505 cháy một mảng lớn. HQ 604 chìm dần. (Còn HQ 605 chìm vào ngày hôm sau, 15/3). Anh Dương cùng đồng đội nhảy xuống biển, bơi về phía đảo Gạc Ma. 9 người bị phía Trung Quốc dùng câu liêm kéo lên, bắt được. Riêng anh bị trúng một nhát câu liêm vào đầu, máu chảy loang đỏ nước, choáng tới mức chìm xuống rất sâu nhưng rồi bị sặc, lại cố ngoi lên, bơi vào bờ. Tới nơi thì do kiệt sức, mất máu, anh ngất đi, được đồng đội sơ cứu rồi dùng xuồng nhôm rút khỏi đảo.
Nguyễn Duy Dương may mắn chỉ bị thương nhẹ. Khi tỉnh dậy, anh mới biết không còn đồng đội nào trên tàu HQ 604 ở bên mình nữa. Người tử thương vì đạn, người chìm theo tàu, người bị bắt.
…….
Nghĩ lại về ngày 14/3 cách đây 23 năm, anh Dương trầm ngâm: “Nói rằng chúng tôi hồi đó hơi chủ quan thì không biết có đúng không, nhưng chẳng ai nghĩ là bên kia sẽ nổ súng, nã pháo, tấn công trên biển cả, cứ tưởng chỉ gây hấn thế thôi. Mỗi người được trang bị một khẩu AK nhưng lúc đó không ai mang súng theo người, để hết ở khoang hàng. Cuối cùng khi chiến sự xảy ra, bên tàu mình tay không, không một tấc sắt. Mà kể cả có vũ khí thì nói chung cũng không tốt, sự phòng bị về căn bản không đáng kể. Trang thiết bị của ta lúc đó đã quá cũ rồi. Tàu ta là tàu 400 tấn, nhập của Trung Quốc từ thời chiến tranh. Tàu đối phương khi ấy lớn gấp cả chục lần ta”.
Anh Dương thổ lộ: “Anh em chúng tôi mong bằng cách nào đó, Việt Nam phát triển tiềm lực quân sự, hải quân, chứ chiều dài đất nước hơn 3.200 km bờ biển mà lực lượng mỏng, trang thiết bị cũ kỹ thì nếu chẳng may có sự cố gì, sẽ ứng phó rất chậm”.
Hết trích dẫn
Trên đây chỉ là môt trong hàng trăn nhân chứng sống nói về các trận chiến không cân sức  giữa ta và địch Trung Quốc, không chỉ trên biển mà cả trên bộ, kể từ  sau ngày giải phóng miền Nam năm 1975. Qua đó toát lên một “thông điệp” chung nhất là sự yếu thế về quân số và hỏa lực là một chuyện, nhưng yếu do bị đánh bất ngờ mới là điều nguy hại hơn nhiều.
Hoàn toàn không thể trách cứ những người lính mà phải trách những người mang sứ mệnh chèo lái con thuyền đất nước. Không còn nghi ngờ gì nữa, bằng thực tiễn mấy chục năm nay đã cho thấy có sai lầm về đường lối trong cách ứng phó với chủ nghĩa bành trướng Phương Bắc, kẻ ngoài miệng luôn nói lời vàng, viết chữ son": đồng chí tốt, láng giềng tốt ... , nhưng trong lòng  lúc nào cũng coi ta là vật cản trên con đường bành trướng của họ. Họ sử dụng ta để đánh kẻ thù ...rồi lại bán đứng ta, chiếm đất và biển đảo của ta lúc nào họ muốn. Chỉ tiếc sao  ta quá chậm nhận ra điều này? Hay nhận ra rồi mà vẫn ảo tưởng vào lòng “từ bi” của họ? Hay nhận ra tất cả rồi nhưng chỉ vì  lơị ích cá nhân thiển cận nên đành chủ trương “dĩ hòa vi quý” một cách ươn hèn bất chấp lợi ích lâu dài của dân tộc? Vì ươn hèn mà nghĩ ra đủ cách để tránh né đối đầu với địch, thậm chí còn "dạy khôn" nhân dân rằng “phải mềm mỏng, khôn khéo với... kẻ thù! ”. Rõ là khôn quá hóa dại! Một khi đường lối không rõ, thái độ không dứt khoát  thì làm sao chỉ đạo cấp dưới sẵn sàng và kiên quyết chiến đấu (?). Còn nhớ bao lần bị quân Trung Quốc đánh, quân ta đều trong trạng thái bất ngờ. Ngay trước cuộc chiến tranh biên giới đầu năm 1979 Đặng Tiểu Bình đi Mỹ đã cố ý công khai ý đồ "đánh Việt Nam..." để thăm dò dư luận. vậy mà ta chẳng tin (?) Đến khi quân địch tràn qua biên giới,  quân ta vẫn trong tư thế như ngày thường, dân không kịp sơ tán… Mấy lần địch tấn công lấn chiếm Trường Sa cũng vậy. Câu chuyện của người Lính trên đây cho thấy rõ điều đó: Đi làm nhiệm vụ mà không mang theo vũ khí;  địch sắp bắn vào ta mà lính ta vẫn đùa với chúng…  Thật đau đớn!!!
Liệu quân dân ta còn bị bất ngờ đến bao giờ? 
                                                                                                         Hà Nội, ngày 14/3/2011

*****

Thứ Tư, 9 tháng 3, 2011

Sự khiếp nhược được che đậy bằng cái gọi là khôn khéo(*)

(*) Thấy bài này trên mạng hay... lôi về, nhưng xin lỗi tác giả
Nguyễn Quang Lập
được đề lại cái tiêu đề bằng câu kết (vì thấy nó đúng sự thật hơn chằng?)




Ai đục bỏ lòng yêu nước?



clip_image001
Hôm qua, báo Thanh Niên cho đăng bài “Lạng Sơn, những ngày tháng hai”, một ghi chép (không phải phóng sự) rất hay. “Đây là lần đầu tiên lễ kỷ niệm được tổ chức tại chính Lạng Sơn, mảnh đất tiền tiêu mà 32 năm trước đã diễn ra những trận đánh ác liệt nhất của quân và dân ta để giữ vững từng tấc đất biên cương Tổ quốc… Với nhiều đồng đội cũ, đây là cuộc gặp gỡ sau hàng chục năm xa cách. Người đã chuyển ngành, người vẫn phục vụ trong quân đội nhưng dường như mọi ký ức, tình cảm của những người lính Quân đoàn 14 vẫn còn vẹn nguyên như ngày nào”. Từng là người lính nhập ngũ trong thời kì “Chống Trung Quốc xâm lược”, tui rất cảm động. Nhiều đoạn rưng rưng nước mắt.
Đến khi nhìn thấy bức ảnh:”Tấm bia kỷ niệm chiến thắng tại đầu cầu Khánh Khê” thì sững sờ, rực lên một nỗi đắng cay.
Tấm bia kỉ niệm chiến thắng mà tan nát thế này a? Bốn chữ “Trung Quốc xâm lược” đã bị đục bỏ trắng trợn. Đỗ Hùng (báo Thanh Niên) đã viết trong blog của anh: “Từ “Trung Quốc” đã bị xóa gần như hoàn toàn, từ “xâm lược” cũng thế. Tấm bia ghi chiến tích đánh Trung Quốc của quân đội Việt Nam trong cuộc chiến tranh biên giới 1979 đã bị đục nát như là bằng chứng cho sự khiếp nhược đã tới mức không thể diễn tả bằng lời“. (Ở TP.HCM, tôi thấy những tấm bia ghi chiến tích đánh Mỹ đặt trước Lãnh sự quán Mỹ, khách sạn Park Hyatt vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt).”
Ai đục bỏ mấy chữ kia? Đỗ Hùng không nói, báo Thanh Niên cũng không nói, chỉ than thở nhẹ nhàng: “Những dấu tích của thời gian và con người đã xóa mờ một vài chỗ trên tấm bia”. Cái “con người” mà báo Thanh Niên nói,  đó là ai? Tại sao lại phải đục bỏ mấy chữ kia? Bởi vì một khi chủ trương đục bỏ bốn chữ  “Trung Quốc xâm lược”  trên tấm bia kỉ niệm chiến thắng tức là tự mình đục bỏ lòng yêu nước. Đỗ Hùng gọi đấy là sự khiếp nhược, quá đúng, sự khiếp nhược được che đậy bằng cái gọi là khôn khéo. Thảm hại thay!
N. Q. L.


08-03-2011

Thử tìm bài học từ lịch sử

Lịch sử cần lắm vai trò của Cơ quan chức năng
Cuối năm ngoái tôi có viết một bài báo nhan đề “Lịch sử cần Sự thật” đăng trên TuầnVietnam (xem http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-12-27-lich-su-can-su-that )  nêu lên một số ý kiến về lịch sử và cội nguồn dân tộc Việt Nam. Nhưng không ngờ bài báo đã thu hút sự quan tâm sâu rộng từ cộng đồng với nhiều ý kiến đóng góp rất đáng lưu tâm. Qua đó cho thấy đúng là có một tình trạng hiểu biết sơ sài và không đồng nhất về lịch sử và cội nguồn dân tộc đồng thời với một xu hướng tâm lý tự ti,  hoài nghi về sự thật lịch sử và các giá trị nhân văn của dân tộc mình ; và điều này diễn ra trong mọi tầng lớp, kể cá trí thức và người trẻ tuổi. Có thể nói lời cảnh báo “dân ta không biết sử ta” từ nhiều năm trước nay đã trở thành sự thực. Cảm nhận này  thôi thúc tôi muốn nói thêm đôi điều sau đây.   
Tìm hiểu kỹ hơn, ta nhận thấy nguyên nhân chính nằm ở sự bất cập của bộ sách giáo khoa và các tài liệu lịch sử nói chung vốn quá nặng về truyền thuyết và những khái niệm mơ hồ không được chứng minh bằng sử liệu và chứng cứ đủ sức thuyết phục. Đáng lẽ tập trung giải mã những “điểm khuất” thì người ta cứ tiếp tục “tô son trát phấn” cho những huyền thoại hoặc những quan điểm mơ hồ thiếu cơ sở khoa học khách quan.  Hậu quả là sự thất truyền, mai một của những sử liệu thật và  thay vào đó bằng những “sử liệu ảo”.
Khi mà người học, người đọc và người dân nói chung đều cảm thấy nhàm chán với bộ sách giáo khoa sử học và các tài liệu lịch sử cũ kỹ thì họ lại càng dễ  bị tác động bởi các văn hóa phẩm ngoại lai và bầu không khí lễ hội xô bồ, lệch lạc; và  do đó trở nên “mù mờ” về lịch sử và cội nguồn dân tộc mình.  Xin đơn cử một vài ví dụ: Có không ít người Việt Nam ngày nay dần tin rằng cội nguồn dân tộc ta phát từ Phú Thọ (vì ở đó có Đền Hùng) và
Bản đồ thời Nhà Hạ-nhà nước đầu tiên của TQ (2205-1767 TCN-
chỉ là một giọt dầu so với bản đồ TQ ngày nay (Nguồn: Wikipedia)

quên mất gốc tích Hồ Động Đình (vì nó ở xa bên Trung Quốc). Những nhầm lẫn  tương tự cũng đang diễn ra với trường hợp Thánh Gióng, An Dương Vương, Hai Bà Trưng, và cả trường hợp Tiệu Đà* … Cứ đà này thì không thể nào tránh được sự nhầm lẫn cơ bản  rằng nước Văn Lang xưa chỉ bao gồm vùng châu thổ Sông Hồng và lâu lắm cũng chỉ từ thế kỷ thứ 7 TCN (như một trường phái lập luận đang khá thịnh hành gần đây). Nói về nguồn gốc dân tộc, thì ngoài khái niệm chung chung  “ cùng là con cháu của các Vua Hùng” thì mỗi người hiểu một cách khác nhau, người thì cho là ta “giống  Tàu”, người thì cho là ta “từ người Hán mà ra” hoặc “bị Hán hóa hết rồi còn đâu!”, v.v…, nghĩa là không còn biết mình là ai nữa. Từ đó sinh ra tâm lý hoài nghi về nguồn cội cũng như các giá trị nhân văn của chính dân tộc mình, thấy mình nhỏ bé, yếu kém, sợ hải và bị thuần phục …Thậm chí có người quan niệm rằng bị đô họ, bị ảnh hưởng của nước lớn láng giềng Phương Bắc là lẽ đương nhiên (!?)    
Nhưng đó cũng chưa phải là hậu quả cuối cùng; hậu quả tiếp theo sẽ là tương lai tồn vong của cả dân tộc. Bởi lẽ, sự hiểu biết đúng đắn về lịch sử và cội nguồn dân tộc không chỉ đơn thuần là sự hiểu biết về quá khứ mà còn là vốn quý báu nhất để từ đó dân tộc rút ra những bài học thiết thực trong suốt cuộc  hành trình vào tương lại.  Không biết hoặc biết sai lệch về lịch sử và cội nguồn dân tộc ắt sẽ khó tránh được những sai lầm trên con đường bảo vệ độc lập-chủ quyền và mưu cầu ấm no hạnh phúc cho dân tộc.       
Thực ra đã có nhiều ý kiến bày tỏ mối lo lắng trước thực trạng bất cập của nền sử học nước nhà; và đang có nhiều nhà nghiên cứu tư nhân hoặc các tổ chức phi chính phủ đã và thầm lặng tiến hành các công trình nghiên cứu nhằm góp phần bổ sung, bổ khuyết cho kho tàng sử liệu dân tộc mà họ quý trọng. gìn giữ. Nhưng đáng tiếc là những kết quả nghiên cứu của họ chưa thể phát huy hết tác dụng do thiếu  vai trò chủ đạo và sự ủng hộ thực chất của các cơ quan nhà nước chuyên trách. Thiết nghĩ, để giải quyết rốt ráo vấn đề này, không ai khác mà chính là các cơ quan chức năng các cấp phải tích cực chủ động “vào cuộc”. 
Cũng nên thống nhất quan niệm rằng đối với những người làm công tác nghiên cứu lịch sử, mọi sử liệu, kể cả truyền thuyết, ca giao tục ngữ, cho đến di tích khảo cổ, khoa học sinh học và gien di truyền, v.v… đều có giá trị nghiên cứu như nhau, và không thể bị coi thường, coi nhẹ cái nào. Vấn đề là cách thức kết hợp chúng với nhau như thế nào và vận dụng phương pháp luận nào để đi tới những kết quả khách quan và chính xác nhất. Thật là sai lầm nếu ai đó chỉ vì một vài phát minh mới mà đã vội từ bỏ những sử liệu hoặc luận điểm đã có từ trước. Ngược lại cũng không ổn nếu chỉ mãi hài lòng với truyền thuyết và những gì đã được ghi chép lại trong sử sách cũ (bới chúng dù sao cũng là do con người sao chép lại nên không thể không có sai sót do vô tình hay cố ý trong quá trình biến thiên hàng ngàn năm của lịch sử).
Liên quan đến công tác này, được biết Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tại buổi gặp mặt đầu năm Tân Mão với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã có ý kiến chỉ đạo rất kịp thời: “Tiếp tục những nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu những di sản, lịch sử còn ẩn chứa trong tâm hồn, nguồn cội của dân tộc Việt Nam để quảng bá, giới thiệu cho các thế hệ tiếp theo, nếu việc này bị xem nhẹ là sẽ tạo ra nguy cơ đối với sự tồn vong của dân tộc”. Chủ tịch nước cũng nhấn mạnh: “Đã là lịch sử thì phải đúng sự thật, trung thực và chính xác. Đối với những vấn đề trước đây công bố chưa chính xác thì khi đã có đủ tư liệu, cần có bước đi thích hợp để đính chính lại lịch sử” **

Bài học nào từ lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam?
Nếu  mỗi quốc gia dân tộc cũng có “số mệnh”, thì phải chăng số mệnh của dân tộc Việt Nam là phải chiến đấu chống ngoại xâm? Cái mệnh này gắn chặt đến nỗi mỗi con người Việt Nam sinh ra đều biết mình “có hơn 4.000 năm lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước” và thuộc lòng các niên đại bị ngoại xâm ở các thời Tần, Hán, Đường, Nguyên-Mông, Pháp, Nhật, Tàu Tưởng, Mỹ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.   
Trong số các kẻ thù xâm lược, có một kẻ mà dù muốn hay không, người Việt Nam vẫn phải chấp nhận chung sống cận kề đời đời kiếp kiếp, đó là nước Trung Quốc vĩ đại với dân số đông nhất thế giới vẫn tự phong là “vương triều” giữa thiên hạ. Lịch sử cho thấy, trong quá trình mở mang bờ cõi, nước láng giềng Phương Bắc này đã rất  thành công về hướng Nam nơi vốn đã là thánh địa của hàng trăm tộc người Bách Việt, trong đó có nước Văn Lang xưa và trở thành Việt Nam ngày nay. Nhân loại chứng kiến rất nhiều  trường hợp xâm lược và thôn tính lẫn nhau, nhưng trường hợp Hán tộc thôn tính các Việt tộc có lẽ là một trường hợp độc đáo cả về  quy mô, cung cách và tính triệt để của nó. Trong quá trình kéo dài hàng ngàn năm từ trước đến sau CN, các bộ tộc hoặc vương quốc Bách Việt đã lần lượt bị Hán tộc thôn tính và đồng hóa, chỉ còn lại Việt Nam . Tuy không bị đồng hóa nhưng Việt Nam đã bị dồn đẩy về phía Nam và bị các triều đại phong kiến Phương Bắc thay nhau đô hộ trong thời gian rất dài (được sử sách ghi là “hơn 1.000 năm”). Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng hận thù sâu sắc giữa hai quốc gia dân tộc mà trong đó người Trung Quốc thường nhìn người Việt Nam bằng con mắt miệt thị trong khi người Việt Nam luôn cảm thấy lo lắng, bất an trước sự khôn ngoan, lắm mưu sâu, kế hiểm của đối phương.  Quá trình đó cho ta ít nhất là 3 kinh nghiệm dưới đây:
Một là, mỗi khi Vương triều Phương Bắc thống nhất và mạnh lên thì họ đem quân sang chinh phạt Việt Nam. Cuộc xâm lược quy mô lớn đầu tiên diễn ra năm 218-208 TCN giữa thời kỳ hoàng kim của Nhà Tần. Hầu hết các cuộc xâm lược sau này cũng đều diễn ra vào những thời cực thịnh của các vương triều Phương Bắc. Đôi khi trong những cơn giận dữ, họ cũng mang quân “đánh hàng xóm”, như trường hợp chiến tranh biên giới năm 1979 mà nhà Lãnh đạo Đặng Tiểu Bình tuyên bố “để dạy cho Việt Nam một bài học”. Trong mấy chục năm gần đây, hễ có cơ hội là họ “đánh lớn, đánh nhỏ” nhằm lấn chiếm biên giới và biển đảo của Việt Nam.
Lịch sử cho thấy dẫu thắng thua thì bờ cõi nước Việt Nam cũng bị dồn đẩy về phía Nam. Và  cho đến ngày hôm nay chưa có cơ sở gì để khẳng định rằng điều này sẽ không lặp lại.
 
Hai là, kẻ thù thường triệt để “khai thác”những thời điểm có bất hòa, bất ổn trong nội bộ Việt Nam để khởi binh xâm lược. Nhưng hễ khi nào bị xâm lược, người Việt Nam đều gác lại những bất hòa bất ổn trong nội bộ để tập trung chống kẻ thù chung.
Bản đồ  minh họa cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc
qua biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979- nguồn  Wikipedia

 
Thiết nghĩ, là dân nước Việt không ai có quyền phủ nhận truyền thống anh hùng chống ngoại xâm. Nhưng cũng nên nhận ra rằng phải kháng chiến là một sự lựa chọn bất đắc dĩ không nên có, bởi lẽ các chu kỳ chiến tranh lặp đi lặp lại quá nhiều ắt để lại những thiệt thòi truyền kiếp đối với cả dân tộc.   
Vậy nên có một lựa chọn tốt hơn là phải chủ động thực hiện “phòng ngừa từ xa” bằng cách không tạo ra cơ hội hấp dẫn đối với giặc ngoại xâm. Đó là tập trung xây dựng hệ thống chính quyền trong sạch vững mạnh, bài trừ tệ nạn quan liêu, tham nhũng, bè phái, tranh chức, tranh quyền và mọi  thói hư tật xấu trong hệ thống công 
quyền, trên cơ sở đó sẽ luôn giữ vững khối đoàn kết toàn dân và phát triển đất nước giàu mạnh.  Đó là phương sách thích hợp và cần thiết đối với một nước ở vị thế như nước ta
Ba là, dù thắng, bại các nhà nước Việt Nam chưa bao giờ thực sự tách khỏi “vòng cương tỏa” của cường quốc láng giềng Phương Bắc.
Lịch sử cho thấy không chỉ lúc thua mà cả lúc thắng các triều đại Việt Nam vẫn thực hiện  nghĩa vụ triều cống đối với nước láng giềng Phương Bắc, coi đó như một cử chỉ cầu hòa và chấp nhận chung sống lâu dài với họ. Có thể nói điều này đã trở thành một “quốc sách” của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên có điều trớ trêu là, phía đối phương chưa hề tỏ ra biết trân trọng quốc sách hòa hảo, phục thiện đó của dân tộc ta, trái lại còn coi đó là cử chỉ yếu hèn, nhu nhược***.
Thiết nghĩ, trong hoàn cảnh khu vực và quốc tế ngày nay, người Việt Nam cần suy ngẫm lại về cái triết lý bạn/ thù và đồng minh, để từ đó có sự điều chỉnh hợp lý nhằm thay đổi cục diện bất lợi cho mình, trong đó cũng nên tính đến cả câu ngụ ngôn xuất xứ từ Trung Quốc: “Người không thay đổi thì ta phải thay đổi”.    
Đồng thời hãy suy ngẫm về ba điều thực tiễn: a) Dân tộc Việt Nam được và mất gì nếu cứ quẩn quanh trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc?; b) Tại sao người Việt học tập và làm việc trong môi trường Âu - Mỹ thì năng lực bao giờ cũng được phát huy tốt hơn ? c) Vẫn biết mọi sự so sánh đều khập khiễng, nhưng Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản đều có thể tồn tại độc lập và phát triển vượt bậc; tại sao Việt Nam chưa làm được điều đó? 
Đây cũng chính là vấn đề mà các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các thế hệ đi trước đã đặt ra nhưng chưa giả quyết rốt ráo được. Phải chăng là do não trạng người Việt lúc nào cũng ám ảnh nỗi mặc cảm của ngàn năm Bắc thuộc, cho "mình từ họ mà ra" và  lúc nào cũng chờ đợi xem họ làm gì mà không dám chủ động vượt lên trước họ? 
Dù sao giờ đây người Việt lại một lần nữa có quyền hy vọng dân tộc sẽ bứt phá để làm được điều mà bao thế hệ chưa làm được. /.  
Tài liệu tham khảo:
- Bách khoa toàn thư mở-Wikipedia với nhiều kiên kết dẫn đến các nguồn khác nhau
- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
- Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim
- Bộ sách giáo khoa môn sử học phổ thông của Nhà XB Giáo Dục Việt Nam.
- Các website và blog có đăng bài viết “Lịch sử cần sự thật”trên Google
Ghi chú:
*(Trích đoạn trả lời của Hưng Đạo Vương : "Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam (thuộc lãnh thổ Trung Quốc ngày nay), còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời.”…. (Xem thêm tại  Wikipedia phần nói về Trần Hưng Đạo)
**Xem thêm tại Website Dòng họ Đỗ Viêt Nam, bản tin ngày 9/2/2011
*** tham khảo các bài viết của nhà nghiên cứu  Dương Danh Di, của cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh,  phát biểu của cựu lãnh tụ Đặng Tiểu Bình, phát biểu của Giáo sư Vương Hành Lĩnh.  Tham khảo Chuyện cổ Việt Nam; một số bài viết của các tác giả nước ngoài;câu chuyện sử liệu nói Tôn Trung Sơn là người Bách Việt.

22-02-2011

Có không tình trạng “dân ta không biết sử ta”?

Cuối năm ngoái tôi có viết một bài ngắn về công tác nghiên cứu và giáo dục lịch sử và cội nguồn dân tộc ở nước ta (xem http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-12-27-lich-su-can-su-that ) . Không ngờ bài báo đã nhận được sự quan tâm sâu rộng từ cộng đồng với nhiều ý kiến tranh luận rất đáng lưu tâm. Qua đó cho thấy đúng là có một tình trạng hiểu biết sơ sài và không đồng nhất về lịch sử và cội nguồn dân tộc đồng thời với xu hướng tâm lý tự ti và hoài nghi về sự thật lịch sử cũng như các giá trị nhân văn của chính dân tộc mình; và điều này diễn ra trong mọi tầng lớp, kể cá trí thức và người trẻ tuổi*. Có thể nói, lời cảnh báo “dân ta không biết sử ta” từ nhiều năm trước giờ đây đã thành sự thật. 

Tìm hiểu kỹ hơn ta nhận thấy nguyên nhân chính nằm ở sự bất cập của sách giáo khoa và các tài liệu lịch sử nói chung vốn nặng về truyền thuyết và những khái niệm mơ hồ không được chứng minh bằng sử liệu và chứng cứ đủ sức thuyết phục. Đáng lẽ tập trung giải mã những “điểm khuất” trong các quyến sử sao chép lại từ thời Bắc thuộc thì người ta cứ tiếp tục “tô son trát phấn” cho những huyền thoại hoặc những quan điểm mơ hồ thiếu cơ sở khoa học khách quan. Đó là chưa nói tệ nạn vận dụng lịch sử cho mục đích chính trị trước mắt mà không tính đến hậu quả lâu dài. Tất cả dẫn đến sự mai một hoặc thất truyền của những sử liệu thật và  thay vào đó bằng những “sử liệu ảo”.

Xin đơn cử một vài ví dụ: Có không ít người Việt Nam ngày nay tin rằng Vua Hùng xuất phát từ Phú Thọ (vì ở đó có Đền Hùng) và quên mất gốc tích Hồ Động Đình (vì nó ở bên Trung Quốc). Điều tương tự cũng đang diễn ra với trường hợp  Thánh Gióng, An Dương Vương, Hai Bà Trưng,… Thử hỏi, nếu có thật một Thánh Gióng đánh giặc Ân, tức thời  Nhà Thương của Trung Quốc (năm 1766 - 1122 trước CN) thì địa bàn trận đánh phải là vùng miền Nam Trung Quốc bây giờ (chứ không thể dưới tận Bắc Ninh cách Hà Nội 40 km(!?)...  Thiết nghĩ, rất cần tái nhìn nhận vai trò của Triệu Đà là một triều đại phong kiến Việt Nam như đã được chính Hưng Đạo Vương xác định, và sử Trung Quốc cũng không coi Triệu Đà là vua của họ.

Nếu ta thử hỏi và trả lời các câu hỏi tương tự sẽ thấy toàn là “kiến thức ảo” hoặc ngộ nhận ngây ngô, vô thức . Cứ đà này thì không thể nào tránh được sự nhầm lẫn "chết người" rằng nước Văn Lang xưa chỉ bao gồm vùng châu thổ Sông Hồng, và có lâu nhất cũng chỉ từ thế kỷ thứ 7 TCN trong khi ngày càng sinh ra nhiều nghi ngờ về 18 đời Hùng Vương. Ngoài khái niệm chung chung “cùng là con cháu của Vua Hùng”, còn lại đều là những dấu hỏi to tướng luôn gây tranh cãi mà người Việt thật sự vẫn chưa biết mình là ai**.   

Thực tế cho thấy, khi người học, người đọc và nhân dân nói chung đều cảm thấy nhàm chán với bộ sách giáo khoa sử học và các tài liệu lịch sử cũ kỹ thì họ lại càng dễ bị tác động bởi các văn hóa phẩm ngoại lai và bầu không khí lễ hội xô bồ, lệch lạc; và  do đó trở nên “mù mờ” về lịch sử và cội nguồn dân tộc mình là điều khó tránh khỏi. Nhưng đây cũng chưa phải là hậu quả cuối cùng; hậu quả tiếp theo sẽ là tương lai tồn vong của cả dân tộc. Bởi lẽ, sự hiểu biết đúng đắn về lịch sử và cội nguồn dân tộc không chỉ là sự hiểu biết về quá khứ mà chính là vốn quý để từ đó dân tộc rút ra những bài học thiết thực trong suốt cuộc  hành trình vào tương lại.  Nếu không biết hoặc biết sai lệch về lịch sử và cội nguồn dân tộc ắt sẽ khó tránh được những sai lầm trên con đường bảo vệ độc lập-chủ quyền và mưu cầu ấm no hạnh phúc cho dân tộc. 

Nếu  mỗi quốc gia dân tộc có “số mệnh”, thì phải chăng số mệnh của dân tộc Việt Nam là phải chiến đấu chống lại sự lấn át của cường quốc láng giềng Phương Bắc? Cái mệnh này gắn chặt đến nỗi mỗi con người Việt Nam sinh ra đều nghe nói “có hơn 4.000 năm lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước”. Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu rồi đây dân ta lại được dạy rằng rằng dân tộc chỉ có hơn 2.000 năm lịch sử và nước Văn Lang  xưa chỉ bao gồm lưu vực Sông Hồng? Nếu cứ tuyên truyền rằng  bờ cõi nước Văn Lang luôn "bất khả xâm phạm", rằng ta không để mất tất đất nào  cho giặc ngoại xâm..., thì vô tình bưng bít sự thật của thời tiền sử. Chẳng lẽ ông cha ta bịa ra truyền thuyết Âu Cơ -Lạc Long Quân và các Vua Hùng với lịch sử với niên đại là năm 2879 TCM..., để  giờ đây con cháu lại nghi ngờ và  "khiêm tốn" chỉ nhận có hơn 2.000 năm lich sử ?  
Thiết nghĩ còn nhiều câu hỏi tương tự mà dân ta, trước tiên  là các nhà chức trách, nhà nghiên cứu và giáo dục bộ môn lịch sử, hãy suy ngẫm để có biện pháp khắc phục tình hình trước khi quá muộn./.

Tài liệu tham khảo:
- Bách khoa toàn thư mở-Wikipedia với nhiều kiên kết dẫn đến các nguồn khác nhau
- Bộ sách giáo khoa môn sử học phổ thông của Nhà XB Giáo Dục Việt Nam
-(*) tham khảo một số trang thảo luận có cụm từ “lịch sử cần sự thật” trên Google .
-(**)nguyenthaihocfoundation  

Bài này đãđược đăng trong Tuần báoThế giới &Việt Nam

http://www.tgvn.com.vn/Item/VN/toasoandocgia/2011/3/5437C0ADD71200F1/

Điều gì khó nhất?

Ngày Tết “nhàn cư vi bất thiện” thành ra suy ngẫm lung tung…dẫn đến cái chủ đề tưởng như đã quá quen nhưng không tự giải đáp được, đành đưa ra tranh thủ ý kiến mọi người: Theo bạn điều gì là khó nhất trong cuộc đời?
Tôi tin sẽ có ít nhất không dưới 1 tá câu trả lời với nội dung trái ngược nhau đối với cùng một câu hỏi này.  Dù sao xin mọi người hãy suy nghĩ thật kỹ rồi hãy trả lời nhé!
Tôi cũng  tin rằng ai rồi cũng sẽ rất đắc chí với câu trả lời của mình, đồng thời cũng sẽ có đủ lý lẽ để bác bỏ những câu trả lời khác. Phải chăng đó là vì tất cả chúng ta đều là con người với một thói xấu muôn thuở: luôn tự cho mình là đúng?
Về phần tôi, câu trả lời là: Điều khó nhất trong đời người là đảm bảo công bằng và hợp lý. Xin nhắc lại CÔNG BẰNG, HỢP LÝ (fair and reasonable).
Tôi tin chắc rằng sẽ có khá nhiều người không đồng ý với câu trả lời của tôi. Nhưng dẫu sao xin hãy cho tôi một cơ hội được giải thích như sau.
Ta hãy thử suy xét điều này với các dạng đối tượng sau đây theo thứ tự a,b,c… nhé: a) bạn và thế giới tự nhiên (tức là tất cả các vật thể không phải  con người); b) bạn và những người xa lạ; và c) bạn và bạn bè (như bạn học, đồng nghiệp, …);  d) bạn và người thân (vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị em, bà con họ tộc); và e) với bản thân mình (chỉ có bạn mà thôi).
Với loại a), thoạt nhìn tưởng sẽ không khó gì để mà công bằng, hợp lý với những đối tượng vô tri vô giác…Nhưng thưc ra, nó vô cùng khó vì nhiều lý do, và vì thiên nhiên không thể tự cãi lại con người!  Xin đơn cử một ví dụ: Ngày Tết mua được một cái cây cảnh về nhà bạn sẽ tha hồ mà cắt tỉa, uốn nắn…, rồi xoay xở đặt nó ở nơi này nơi kia,… Và khi bổng dưng không thích nó nữa, bạn liền vứt nó ra ngoài phố bất cần biết số phận của nó sẽ ra sao. Thử hỏi bạn làm như vậy có công bằng và hợp lý chưa?  Bạn không những không công bằng với cái cây mà còn không công bằng với môi trường sống và với cả cộng đồng… Rất nhiều hậu quả khác sẽ xảy ra liên quan đến cái cây vô tri giác như vậy mà tôi không tiện nói hết cả ra đây.
Với lọa b), khi ra đường gặp ai đó, bạn có xu hướng cho đó là “người lạ”, chẳng bà con chi, nên có biết gì về mình đâu, nói chung chẳng liên quan gì…. Có chăng, bạn sẽ căn cứ  vẻ bề ngoài hoặc cử chỉ, thái độ nào đó của đối phương, để mau chóng tính xem có cần đề phòng hoặc phớt lờ đi cho khỏe… hoặc ngược lại. Nếu tôi không nhầm thì cái gọi là “tình yêu sét đánh” đều bắt đầu từ “người xa lạ” như thế (?). Thôi thì dù là gì, đối tượng này chính là sự bắt đầu của những câu chuyện dài kỳ về cái sự vô tình vô lý của bạn. Hãy nghĩ đi, điều gì sẽ xảy ra với một trong những tình huống nói trên, và bạn sẽ thấy đó là một núi những bài toán khó về sự bất công, vô lý.
Với loại c)  Bạn bè ư? Đây là đối tượng mà bạn cho là không thể thiếu được. Thời thơ ấu mà không có bạn chắc bạn sẽ chết vì buồn; khi trưởng thành mà không có bạn bè, bạn sẽ chẵng làm nên trò trống gì; khi về già không có bạn, chắc điều ước duy nhất của bạn là có bạn. Thế mới biết bạn bè quan trọng nhường nào. Thế nhưng, cũng chính với loại đối tuợng này, bạn sẽ luôn rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan trong cách ứng xử hàng ngày để không mất họ, hoặc ngược lại, để biến họ thành kẻ thù. Nhiều người phải ân hận suốt đời chỉ vì một lần cư xử không công bằng, không hợp lý với bạn.
Với loại d (những người thân thích), Bạn nghĩ sao: dễ hay khó  để mà cư xử công bằng và hợp lý? Riêng tôi nghĩ đây là đối tượng khó nhất (mặc dù không thể chỉ ra cái lý do đích thực của nó). Phải chăng là do thói hay nhầm tưởng là “người của ta” thì muốn cư xử thế nào cũng xong? Nghĩ như vậy là thất bại ít nhất là 90% rồi!  
Dĩ nhiên  tôi có suy nghĩ của tôi, nhưng có lẽ riêng về dạng đối tượng này, tôi nên để dành lại cho mỗi người tự suy ngẫm thì mới đúng phương châm công bằng và hợp lý, đúng không ạ?
Cuối cùng loại d)- với bản thân mỗi người. Có thể có người quả quyết rằng không có vấn đề gì về chuyện công bằng hợp lý với bản thân. Nhưng chính đây mới là đối tượng khó đấy, thậm chí còn quá khó!. Thủ hỏi bạn có công bằng, hợp lý không, khi nếu bạn có bệnh tiểu đường mà vẫn tự cho phép mình ăn uống xả láng mỗi ngày? Bạn có hợp lý không khi cả ngày ngũ dài dài, ban đêm thì ngồi vi tính? v.v…và v.v… Càng nghĩ sẽ càng thấy cái sự thiếu công bằng hợp lý thường xảy ra một cách thầm lặng trong bản thân mỗi người chúng ta. Chính vì thế nó rất khó để loại trừ.
Bạn thấy đấy, chỉ đơn cử một số dạng đối tượng như trên mà ta đã thấy quả thật khó để đảm bảo thực hiện nguyên tắc công bằng hợp lý. Nếu ta  gọp lại nhiều dạng đối tượng với nhau sẽ còn phức tạp và khó hơn nhiều. Đó là khi bạn ở vào vị trí cha mẹ, ông bà đối với gia đình, hay bạn là thủ trưởng một cơ quan, tổng thống của một quốc gia thì sẽ khó biết nhường nào.    
Trên đây chỉ là vài câu trả lời ngắn gọn của cá nhân tôi. Có lẽ bây giờ tôi sẽ nên cố gắng  giữa một tâm trạng công bằng hợp lý để được lắng nghe ý kiến của mọi người. Xin chân thành cảm ơn/.
                                                                                                               Hà Nội, mùng 3 Tết Tân Mão (2011) 

 

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này