Chủ Nhật, 5 tháng 6, 2011

Giàn khoan khổng lồ Trung Quốc định đưa vào Biển Đông

                          Hinh ảnh  giàng khoan CNOOC 981 đang trong giai đoạn hoàn thiện cuối cùng 

Theo tin tức báo chí Trung Quốc, nước này đã nghiên cứu, chế tạo được một giàn khoan dầu khổng lồ hoạt động ở vùng nước sâu và đã bàn giao cho Tập đoàn Dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNOOC) vào cuối tháng 5 vừa qua. Giàn khoan được đặt tên CNOOC 981, có tổng đầu tư khoảng 6 tỉ nhân dân tệ (923 triệu USD), dài 114 m, rộng 90 m, cao 137,8 m, tương đương tòa nhà 45 tầng và nặng 31.000 tấn.
Giàn khoan có khả năng hoạt động ngoài khơi ở vùng biển sâu tối đa 3.000 m, khoan sâu khoảng 12.000 m dưới đáy biển. CNOOC 981 được trang bị thiết bị hiện đại cùng hệ thống định vị toàn cầu, có thể chịu được những rung chấn do bão siêu cấp gây ra. Theo CNOOC, giàn khoan sẽ được lắp đặt trong vùng biển của biển Đông và bắt đầu thăm dò dầu khí từ tháng 7 tới.
Cho đến nay chưa có tin chính thức về vị trí nào trên Biển Đông mà giàn khoan sẽ hoạt động. Cũng có thể giàn khoan sẽ di chuyển và hoạt động tại các vị trí khác nhau. Nhưng điều này đang gây ra mối quan ngại rất lớntừ phía các nước ven bờ Biển Đông cũng như các nước có lợi ích hàng hải tại đây. Rất có thể đấy sẽ là một nhân tố tiếp theo gây căng thảng thêm tình hình tranh chấp chủ quyền biển đảo tại khu vực.   
--------------
*****

Thứ Bảy, 4 tháng 6, 2011

Không chỉ là “phép thử"

Theo dõi quá trình vi phạm của phía Trung Quốc đối với chủ quyền biển đảo Việt Nam trong mấy năm gần đây có thể thấy vụ phá hoại tàu Bình Minh 02 là nghiêm trong nhất nếu xét về  “tính chính thức”  vì  nó đi kèm với  lập luận  của  người phát ngôn Bộ Ngoại Giao
Ảnh:3 tàu hải giám TQ nhìn từ một tàu bảo vệ của Bình Minh 2           Trung Quốc đã được chuẩn bị sẵn nhằm xuyên tạc, đổi  trắng thay đen  đúng theo cách thức “vừa ăn cướp vừa la làng” như thể Trung Quốc là nạn nhân của Việt Nam vây!  

Tuy nhiên đó chỉ là một cao điểm của cả quá trình còn tiếp tục. Từ đó đến nay các loại tàu, kể cả tàu hải quân Trung Quốc đã đồng loạt hung hăng khiêu khích trên nhiều địa bàn khác nhau sâu bên trong vùng  đặc quyền kinh tế 200 hải lý, thậm chí có nơi sát bờ biển của Việt Nam, lại còn nổ súng ở Trường Sa nữa. Ngày 31/5 người phát ngôn bộ Ngoại giao Trung Quốc lại còn lên tiếng đòi Việt Nam “chấm dứt vi phạm”(?)
Điểu đáng lưu ý là, những hành động trên đây đã và đang diễn ra ngay trước  cuộc Đối thoại cấp Bộ trưởng Quốc phòng thường niên giữa 28 quốc gia  chủ chốt của khu vực Châu Á -TBD đang nhóm họp tại Sangri La (Singapore) từ 3-5/6 này- một sự kiện quan trọng bậc nhất về lĩnh vực an ninh khu vưc.  
Thông thường không ai dại gì lại khuấy động tình hình trước một dịp như vậy. Nhưng Trung Quốc đang  làm điều đó. Trong khi thẳng tay khiêu khích Việt Nam và Philippine thì Trung Quốc tỏ ra đấu diệu với Mỹ. Trong huyến thăm Mỹ mới đây  Tướng Trần Bỉnh Đức đã chủ động tuyên bố chấm dứt tình trạng ngưng quan hệ hai nước (do vụ Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan hồi năm 2010). Họ cũng thành công trong việc mua chuộc lôi kéo Myanma khỏi sự đồng thuận  ASEAN trong vấn đề Biển Đông nhân chuyến thăm của người đứng đầu Myanma đến Bắc Kinh ngày31/5 vừa rồi. Giờ đây bề ngoài có vẽ như  “không có vấn đề gì lớn” giữa 2 siêu cường, chỉ còn vấn đề giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN, nổi cộm là Việt Nam và Philipine vốn được coi là đang xâm phạm nhiều “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc.
Sau vụ tàu Bình Minh 2,  đã có một nhận định phổ biến  rằng  Trung Quốc đang “nắn gân”  hay “làm phép thử” đối với Việt Nam và ASEAN. Cũng có ý kiến cho rằng Trung Quốc chỉ “già nắn, rắn buông” mà thôi!  Nhận định như vậy không có gì sai, nhưng  có lẽ chưa đầy đủ.  Hành động của Trung Quốc nhằm  "hâm nóng" lại  đòi hỏi chủ quyền hình “lưỡi bò” vốn đã bị dư luận rộng rãi coi là phi lý, vô căn cứ, không có giá trị. Nó cũng cho thấy giờ đây  Trung Quốc thực sự  nôn nóng muốn kết thúc càng sớm càng tốt đòi hỏi chủ quyền của họ trước khi các nước ven bờ như Việt Nam và Philippine có cơ hội củng cố và xúc tiến việc khai thác tài nguyên trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của mỗi nước. Với mối lo lắng này Trung Quốc rất có thể “làm càn”, không loại trừ khả năng sử dụng vũ lực để đạt những gì  mà họ không thể đạt được bằng đấu tranh pháp lý. Nói cách khác phía Trung Quốc không chỉ "thử" và "nắn gân" mà  đang thật sự tiến hành các biện pháp lấn chiếm, chí ít tại những điểm mớc mà họ cho là quan trong ở 2 bên của chiếc "lưỡi bò"!

Tái hiện nguy cơ cuộc chiến Trường Sa

Có thể nói, chừng nào Trung Quốc còn nuôi tham vọng độc chiếm Biển Đông chừng đó vẫn còn nguy cơ xung đột quân sự  tại khu vực Biển Đông nói chung và tại quần đảo Trường Sa nói riêng.  Với Trung Quốc, việc chiếm toàn bộ quần đảo Trường Sa là một cứu cánh duy nhất để vin vào đó khẳng định chủ quyền sâu xuống phía Nam của Biển Đông trong trường hợp họ không thể thực hiện ý đồ lấn chiếm quá sâu vào  lãnh hải và đặc quyền kinh tế 200 hải lý hợp pháp của Việt Nam và Philippine. Lúc đó, nếu không được  "lưỡi bò", họ vẫn còn cái "lưỡi rắn"! 
Do đó kịch bản đánh chiếm tgoàn bộ Trường Sa luôn nung nấu trong đầu các tướng lĩnh bành trướng. Tuy nhiên, họ biết cuộc chiến  Trường Sa  nếu xảy ra sẽ giống như  một con dao hai lưỡi có thể không chỉ phá hỏng  tham vọng độc chiếm Biển Đông mà còn ảnh hưởng cả ý đồ độc chiếm Biển Đông cũng như tiến trình “trỗi dậy hòa bình” . Vì một khi nỗ ra chiến tranh quy mô lớn, đối thủ thực sự của Trung Quốc sẽ không phải  là Việt Nam, Philippine thậm chí cả khối ASEAN mà  là Mỹ và  các cường quốc bên ngoài khu vực có thể là Nga, Nhật Bản , Ấn Độ... Nói cách khác đây là một vấn đề quốc tế chứ không phải chỉ là vấn đề giữa Trung Quốc với các nước ASEAN.  Đó là lý do tại sao Trung Quốc luôn phải do dự và ra sức trì hoãn việc quốc tế hóa vấn đề tranh chấp Biển Đông và không thực lòng muốn hoàn thiện bản quy tắc ứng xử Biển Đông (DOC).    
Nhưng với cách nhìn nhận và đánh giá riêng của họ, nhất là khi đã đủ sức mạnh và sự nôn nóng ,  họ có thể liều lĩnh tấn công chớp nhoáng  để chiếm nốt các đảo còn lại ở Trường Sa, chí ít là những đảo lớn có vị trí chiến lược, bất kể đang thuộc Việt Nam hay Philippine, (nhưng chưa cần đánh các đảo do Đài Loan đang chiếm giữ vì trước sau cũng thuộc về trung Quốc).
Có thể vấn đề duy nhất khiến Trung Quốc do dự là, nếu cùng lúc đánh cả Việt Nam và Philippine thì sợ Mỹ can thiệp; nếu chỉ đánh Việt Nam thì có nhiều khả thi hơn, nhưng vẫn chưa hoàn toàn chắc chắn 100%, và trong quá trình  cuộc chiến không loại trừ khả năng hình thành sự liên kết và can thiệp của bên thứ ba (đang là ẩn số) khiến Trung Quốc có thể  mất quyền kiểm soát tại các đảo khác, kể cả Hoàng Sa, và cuộc chiến kéo dài, vấn đề trở nên phức tạp và bất lợi. Đánh hay chưa chỉ là vấn đề thời điểm.      
Lựa chọn nào cho Việt Nam?
Như phân tích ở phần trên, Việt Nam luôn ở thế  yếu và bị động  trước Trung Quốc. Trước những diễn biến tình hình mới, vu tàu Bình Minh 2 là tiếng chuông cảnh báo về khả năng leo thang xung đột  trực diện giữa Việt nam và Trung Quốc, kể cả một cuộc chiến nữa tại Trường Sa.                  Ảnh: một cuộc tập trận của hải lục không quân Việt Nam
Dĩ nhiên một khi định  đánh chiếm Trường Sa, Trung Quốc sẽ có thể ém quân gây sức ép dọc biên giới phía Bắc và Vịnh Bắc Bộ, nhưng không nhất thiết để tiến hành  chiến tranh tổng lực với Việt Nam, chí ít trong thời kỳ đầu. 
Có 2 yếu tố chính ảnh hưởng đến lựa chọn của Trung Quốc, đó là: a) mức độ phản ứng  quốc tế, đặc biệt của Mỹ và tập thể ASEAN;
b) Mức độ sẵn sàng đáp trả của bản thân Việt Nam.  Đó cũng là hai mặt trận  mà Việt Nam cần khẩn trường chuẩn bị, nhất là quỹ thời gian chuẩn bị của Việt Nam giờ đây không còn nhiều.
Vào lúc này bất cứ sự chuẩn bị nào cũng không thừa.  Sự nghiệp bảo về độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam giờ đây chính là  sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo- đặc biệt là 2 quần đảo Hoàng Sa và trường Sa. Để làm đươc sứ mệnh này, Việt Nam không thể chỉ dựa vào lực lượng của riêng mình mà nhất thiết phải vận dụng sức mạnh tổng hợp của dân tộc kết hợp với việc tranh thủ tối đa  sự hỗ trợ  của bạn bè, đồng minh quốc tế và khu vực. Thế mạnh pháp lý và tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh này thuộc về Việt Nam và đó là một lợi thế mà kẻ thù không bao giờ có.
Trong nhiều việc phải làm, có những việc cần làm ngay, đó là:
  •  Đã đến lúc không thể mơ hồ về địch/ta, bạn/thù.  Cũng đừng nghĩ kẻ thù  chỉ "nắn gân" mà chúng đang thực sự dùng chiến thuật "biển người" để tiến hành lấn chiếm trên thực địa ngư trường và tài nguyên biễn của ta, uy hiếp ngư dân ta không dám bén mảng đến đó nữa rồi từ đó họ độc chiếm lâu dài. Do đó, trong đấu tranh, ngoài sự mền dẽo khôn khéo, ta cũng cần  kiên quyết đáp trả mọi hành động lấn lướt của đối phương khiến chúng cũng bị thiệt hai thì mới chùn bước.  
  •  Trên mặt trận đối ngoại,  không chỉ người phát ngôn mà các vị lãnh dạo nhà nước phải lên tiếng tùy mức độ, nội dung và tình huống... (như Philippine, Malaysia đã thể hiện); đưa vấn đề ra các diẽn đàn quốc tế và khu vực  đồng thời khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại trong vụ phá cáp tàu Bình Minh 2; tăng cường công tác tuyên truyền đối ngoại nhằm phát huy tính chính nghĩa và lợi thế pháp lý của Việt Nam liên, tranh thủ sự đồng tình của dư luận quốc tế như đã từng làm trong quá trình kháng chiến chống Mỹ trước đây.
  • Trong đấu tranh, cần phân biệt: Đối với vùng tranh chấp của 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hoặc trên hải phận quốc tế, ta cần có biện pháp nhằm giảm thiểu các vụ việc xung đột, tranh chấp không cần thiết. Nhưng  đối với  vùng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế từ 200 hải lý trở vào, ta kiên quyết  bảo vệ  bằng mọi lực lượng có thể,  kiên quyết đáp trả  thích đáng mọi hành động xâm phạm của đối phương với tinh thần tất cả vì sự nghiệp bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo của tổ quốc.    
  •  Lịch sử cho thấy, đoàn kết toàn dân là nhân tố quan trọng nhất để chiến thắng kẻ thù xâm lược. Tuy nhiên chưa bao giờ khối đoàn kết dân tộc lại suy yếu như bây giờ khi mà dường như không còn nữa một sự đồng cảm giữa người dân và lãnh đạo. Lãnh đạo nghĩ gì dân không biết nên hoang mang mất lòng tin trở nên bức xúc và chống đối , tạo nên vòng xoáy của tình trạng bất bình, bất an không cần thiết. Trong bối cảnh gần đây vị cựu tướng quân-Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã nêu ra một  lời khuyên và cũng là kinh nghiệm xương máu: " SỢ LÀ MẤT CHỦ QUYỀN". Có thể ông đang nhìn thấy ai đó đang sợ?    
------------
*****

Thứ Tư, 1 tháng 6, 2011

Quẳng lưỡi bò vào nồi nước phở!

Có 2 vấn đề nhỏ nhưng cần lưu ý trong đấu tranh lập luận liên quan tranh chấp biển đảo giữa ta và Trung Quốc hiện nay.
Một là, cần hiểu đường 9 đoạn trông giống cái lưởi bò ở Biển Đông chỉ  là một ý tưởng hoang đường của Tưởng Giới Thạch đưa ra để nhằm chớp cơ hội đục nước béo cò sau chiến tranh thế giới II. Bản thân nó đã mang tính chất cơ hội láu cá của Tàu Tưởng, không ngờ lại được Tàu Mao tiếp quản (mặc dù chưa đủ sức tiếp quản bản thân cái hòn đảo sinh ra nó). Thật mĩa mai thay!

Cái xạo của người Tàu trước nay đã rõ: Hiềm cái gì không có, chưa có thì  cứ nói mãi cùng thành có! Vì thế họ cứ tung lên. Nhưng đến giờ thế giới chưa ai thừa nhận cả . Nên họ càng cay cú mới giỡ trò gây sự với mọi người, kể cả Mỹ.. (như Chí phèo) để tập trung sự chú ý. Có thế thôi!

Do đó, xin đề nghị bà con ta (cả chính thức và dân mạng) không cần thiết bàn cải về cái lưỡi bò..., mà tốt hơn hết vứt nó vào nồi phở. Đừng sa đà bàn cải về nó. là mắc mưu đối phương.  Thay vào đó phải lấy đường lãnh hải (200 hải lý) của mình và của nó ra để tranh cải thì mới hay. Nó sợ nhất cái này. Qua đó cũng giúp nhân dân ta hiểu rõ hơn về Luật biển để tự tin trong đấu tranh với các bên liên quan khác, như những khái niệm cơ bản về  'đường cơ sở", "đường trung tuyến", "thềm lục địa" v.v... Nên sử dụng các bản đồ loại này chẳng hạn (xem ảnh)

Hai là, phía Trung Quốc muốn "cả vú lấp miệng em". Sự kiện vi phạm lãnh hải và phá tàu thăm dò Bình Minh họ đã tính trước rồi nên chưa gì đã lu loa "Việt Nam vi phạm..."phải chấm dứt" này nọ. 

Nước ta yếu hơn họ về quân sự và cũng không chủ trương giải quyết bằng biện pháp chiến tranh, nhưng ta  mạnh hơn hẵn đối phường về lý lẽ. Do đó ta càng nên phát huy thế mạnh này bắt đầu bằng vụ tàu Bình Minh.,  coi đây là một "chiến dịch" và tập trung mọi nguồn lực chất xám và cả kinh phí nếu cần, kiên quyết đưa vấn đề ra công luận quốc tế. Làm việc này có tác dụng trực tiếp bảo vệ chủ quyền và đồng thời cũng phòng ngừa chiến tranh. Một diều lâu nay ta cần làm và muốn làm  nhưng chưa làm được;  nay đối phương tạo cớ sao ta không làm?        
*****

Giặc đã đến nhà!

                                      Hình minh họa một trận địa tên lửa phòng thủ bờ biển của Việt Nam

Còn nhớ hồi đánh Mỹ, đánh Pháp..., hễ có giặc là đánh, giặc đến nhà đàn bà cũng đánh...Ai có súng dùng súng, ai có gươi dùng gươm , không có thì dùng cuốc, thuổng , gậy gộc... Đánh thế mới thông minh, mới sáng tạo được . Và cái chính  là giặc nó mới sợ, lần sau nó xin chừa!

Sao giờ lại không thế? 

Quả đã có một thời (rất ngắn thôi) sau đại thắng 30/4/1975, quân dân ta ảo tưởng "từ nay sạch bóng quân thù" và không kẻ nào dám đụng đến VN nữa (!?) Nhưng không phải đợi lâu, chiến tranh biên giới Tây-Nam rồi chiến tranh biên giới phía Bắc đã liên tiếp nổ ra ...Đó là chưa kể hàng chục cuộc chiến nhỏ nhằm mục tiêu lấn đất, chiếm biển đảo của chúng khiến nước ta không lúc nàothực sự yên bình. Ai làm chuyện đó nếu không phải là giặc tàu? Nói cách khác, nước "Trung Quốc XHCN" đã chính thức thay các triều đại phong kiến phương Bắc cũng như đế quốc  Pháp , Mỹ để trở thành "ĐICH" của Việt Nam từ đó. Khác chăng là, kẻ địch giờ đây được ngụy trang bằng những tấm mặt nạ "vừa là đồng chí, vừa là anh em'"  hay  "4 tốt" và "16 chữ vàng"; đó là một loại địch lúc ẩn lúc hiện với những tấm mặt nạ trong ngày hội hoa đăng!  

Đó cũng là cái khó cho quân dân ta: Khi nào chưa xác địch dứt khoát địch/ta thì chưa thể chủ động đề phòng ngừa những đòn đánh từ đối phương. Ai cũng biết đòn bất ngờ thường khó đỡ và nguy hiểm như thế nào.

Cổ nhân từ kinh nghiệm thực tiễn đã đúc kết: "Biết địch biết ta trăm trận đánh trăm trận thắng". Đúng vậy! Lẽ ra trong tình huống cụ thể của 2 vụ tàu Bình Minh I và tàu Viking bị "tàu lạ" cắt cáp mới đây, ta đã có thể tranh thủ dạy lại kẻ thù một bài học nho nhỏ. Nhưng có lẽ vì ta vẫn trong tư thế chưa sẵn sàng chiến đấu. Chưa sẵn sàng vì chưa nhìn thấy địch và chưa biết về địch. Ngoài ra cũng có tâm lý lo sợ chiến tranh phá hỏng  thành quả xây dựeng hòa bình(?)...
Thực ra hoàn toàn không có gì phải lo ngại; có cát vàng giặc Tàu cũng chưa muốn  một cuộc chiến tranh tổng lựcvới VN vào thời kỳ này đâu! Đơn giản là vì họ biết rõ cái giá phải trả sẽ lớn hơn nhiều nếu nổ ra chiến tranh tổng lực. Họ chỉ dùng thủ đoạn lấy thịt đè người , cùng lắm là chiến tranh chớp nhoáng để lấn chiếm biển đảo mà thôi. Do dó ta cứcó thể  yên tâm chủ động với biện pháp phản ứng "đủ mạnh", kể cả dùng máy bay, tàu  chiến xua đuổi mấy cái tàu hải giám  vi phạm . Đó là hành động bình thường mà bất cứ một quyốc gia có chủ quyền nào dù mạnh, yếu đều cần làm và có thể làm. Nếu ta đã làm điều đó một lần chắc đã không có lần tiếp sau! Philipin chẳng đã làm như vậy một cách thành công đó sao? Có thể nói, ta đã không làm được điều cần làm vì chưa thực sự "biết địch viết ta". Mềm dẻo, khôn khéo là cần thiết , nhưng do dự hoặc lo sợ là  điều cấm kị đối với kẻ thù.

Thật sự làhơi tiếc nuối. Người Việt thông minh, giỏi tính toán mà sao trong chuyên này tính không ra?. Lúc nào cũng lưỡng lự bàn tính dại/khôn, khéo léo/vụng về...Với ai chứ với một kẻ địch thì chỉ cần hành động nhanh và dứt khoát là tốt nhất. Đừng để sự đã rồi, ngồi trách nhau cho nó mất đoàn kết nội bộ. Chủ blog tôi bình như vậy chủ yếu là để "xả sì tờ rét" ....Chứ biết rồi nói mãi: Chung quy chỉ tại "định hướng", mà phàm là định hướng (như XHCN, CN hóa, hiện đại hóa....và cả định hướng bạn/thù) đều là xơ cứng, xơ mướp ráo! Vậy xin nghiêm chỉnh đề nghị Bộ CT từ nay định hướng mọi "tàu lạ" có cắm cờ Tàu mà cố tình xâm phạm chủ quyền của ta đều là "tàu ĐỊCH". Chỉ cần thế, còn lại để nhân dân xử lý sáng tạo...Ô kêkê ?

Chủ Nhật, 29 tháng 5, 2011

Lại nói về người Việt

Thật ra đâu chỉ có Ngô Bảo Châu, Đặng Thái Sơn..., đâu chỉ hiện tại mà cả trong quá khứ , người Việt luôn cho thấy một nguồn gen tài năng ít ra  là không thua kém bất cứ một dân tộc nào khác trên hành tinh Trái đất.

Vậy nhưng cũng có một thực tế đầy nghịch lý là, những nhân tài đó đều chỉ có thể phát huy đầy đủ khi học tập và làm việc trong môi trường ngoại quốc (chứ không phải tại Việt Nam). Không những thế nhiều nhân tài có thể bị thui chột hoặc thậm chí bị bức tử trong các thời đại và triều đại nếu họ chỉ quẩn quanh trong nước. Ngay cả trường hợp cụ Hồ cũng phải bôn ba hải ngoại mấy chục năm về nước mới làm nên sự nghiệp. Vì sao vậy? Câu hỏi này xin nhường đường để có lẽ chỉ các nhà nghiên cứu nhân chủng  học, giáo dục học, xã hội học và các nhà học... cho ta lời lý giải thỏa đáng về thực tế này.

Trong bối cảnh những năm tháng gần đây, khi "Vương triều Phương Bắc" một lần nữa đang tác oai tác quái bắt nạt Việt Nam..., có lẽ mọi người Việt Nam yêu nước đều có một lúc nào đó chọt nhớ về Thánh Gióng hay chiếc nõ thần,...Mẫu tin dưới đây về sáng kiến của của một người Việt ở hải ngoại. Tôi coi đây là một dẫn chứng cho điểu cảm nhân nói trên. Ta hãy xem thông tin đó nói gì và nó khác gì so với người Việt đang ở trong nước.       
    
             Người Việt Giúp Hải Quân Mỹ Diệt Hoả Tiễn Đối Hạm   

Một Khoa Học Gia Gốc Việt, Tiến Sĩ Định Nguyễn, hiện là Trưởng Công Trình Nghiên cứu Chế tạo loại Vũ khí mới mang tên Free Electron Laser (FEL). Đây là loại Vũ khí mới để phá huỷ Hoả Tiễn tấn công của đối phương, kể cả Hoả Tiễn DF-21D của Trung Cộng hiện đang đe doạ các Hàng Không Mẩu Hạm và các Chiến Hạm Hải Quân Hoa Kỳ.
Trong bản Tường Trình trước Quốc Hội Hoa Kỳ { CRS Report for Congress } của Ronald O' Rourke ngảy 21 tháng 1 năm 2011, trang 38 có tường trình về Công trình nghiên cứu và sáng chế Vũ khí mới Free Electron Laser (FEL) program của Tiến Sĩ Định Nguyễn.
Trung Cộng đang ngạo mạn phô trương sức mạnh của Hoả Tiễn DF-21D, đe doạ các Hang Không Mẫu Hạm Hai Quan Hoa Kỳ! Nhưng họ đâu ngờ một loại Vù Khí mới mang tên Free Electron Laser (FEL) cùa TS Dinh Nguyen sè phá huỷ dược DF-21D, làm tiêu tan tham vọng Đại Hán của ho !
Tuy Free Electron Laser đang còn trong giai đoạn nghiên cứu, nhưng rất khả quan. Các Chiến Hạm Hải Quân Hoa Kỳ sẽ được trang bị sau này khi công trình sáng chế loại Vũ khí mới này thành công.


                                          Ảnh minh họa

Và đây là bản gốc tiếng Anh của tin trên.
              Breakthrough in free-electron laser development
                                 Published 10 February 2011/Home Security Newswire 

Breakthroughs in Free-Electron Laser (FEL) technology could mean a virtually impenetrable defense system for Navy ships; the laser weapon has the capability to detect and engage incoming cruise missiles at the speed of light without running out of ammunition

FEL may make the fleet virtually impregnable // Source: foxnews.com

Breakthroughs in Free-Electron Laser (FEL) technology could mean a virtually impenetrable defense system for Navy ships. The laser weapon in development has the capability to detect and engage incoming cruise missiles at the speed of light without running out of ammunition. The Office of Naval Research (ONR) has been developing the anti-aircraft and missile directed-energy weapon since the 1980s with the goal of creating a megawatt (1 million W) laser weapon with continuous power.
The high-powered FEL uses a superconducting electron gun powered by a microwave tube to emit an intense emission of laser light. Last month, scientists at Los Alamos National lab demonstrated their capability to produce the necessary electrons needed to actuate megawatt laser beams. This development placed its researchers nine months ahead of schedule for its 2011 goals. In a news release, Dinh Nguyen, senior project leader for the Free Electron Laser program at the New Mexico lab said, “Until now, we didn’t have the evidence to support our models.”
Asides from its military applications, FEL has also been employed in the medical field. Research by Dr. Glenn Edwards and colleagues at Vanderbilt University’s FEL center in 1994 found that FEL could be used to excise sensitive tissues like skin, cornea, and brain tissue at wavelengths of approximately 6.45 micrometers. The technology is still being researched and improved upon to minimize and ultimately prevent collateral damage to adjacent tissue.
Quentin Saulter, research program officer at ONR said “the FEL is expected to provide future U.S. Naval forces with a near-instantaneous laser ship defense in any maritime environment throughout the world.” In a video produced by the ONR, Saulter mentions that the project’s workforce consists of experts that specialize in projection, accelerators, electron beam dynamics, and photo-optics.
Sarwat Chappell, research program officer at Air Warfare and Naval Weapons Applications described the FEL as versatile because of its ability to be tuned and generate multiple wavelengths the navy will need when encountering various scenarios across the world.


Góc nhìn pháp lý về vụ xâm phạm lãnh hải Việt Nam của Trung Quốc


Bài đăng trênTuần báo Vietnam ngày Chủ nhật, 29 tháng 05 năm 2011 | 07:58 (GMT+7)
Cắt cáp dầu khí của Việt Nam, Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng Công ước Luật Biển

Lô 148 hoàn toàn nằm trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam. Vị trí cáp thăm dò bị phía Trung Quốc cắt chỉ cách mũi Đại Lãnh, tỉnh Phú Yên khoảng 120 hải lý, tức là còn 80 hải lý nữa mới đến ranh giới 200 hải lý. Khác với tình hình trong Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan, ở khu vực miền Trung vào phía Nam, trong đó có lô 148, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hoàn toàn không chồng lấn với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của bất cứ quốc gia nào, kể cả Trung Quốc. Xin lưu ý là địa điểm tàu Bình Minh 02 bị cắt cáp ngày 26-5-2011 cách bờ biển đảo Hải Nam của Trung Quốc khoảng 340 hải lý.
Do đó, việc Trung Quốc cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 của Tập đoàn dầu khí Việt Nam vào sáng ngày 26-5-2011 đã xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền  của Việt Nam đối với thềm lục địa của mình. Là một thành viên của Công ước Luật Biển năm 1982 nhưng hành động này của Trung Quốc lại hoàn toàn trái với nghĩa vụ của mình theo Công ước này.
Vị trí tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02 của Việt Nam thể hiện rõ Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam đối với thềm lục địa của mình.
Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc đã quy định rõ phạm vi, quy chế pháp lý của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển cũng như vùng biển quốc tế. Theo Điều 76 của Công ước, thềm lục địa của quốc gia ven biển có chiều rộng tối thiểu 200 hải lý (mỗi hải lý bằng 1852m). Chiều rộng này được bảo đảm tuyệt đối kể cả khi ở trên thực tế rìa ngoài của thềm lục địa của quốc gia ven biển hẹp hơn 200 hải lý. Còn nếu rìa ngoài của thềm lục địa thực tế của quốc gia ven biển rộng hơn 200 hải lý thì quốc gia đó có quyền mở rộng phạm vi thềm lục địa đến 350 hải lý theo đúng các quy định của Công ước (cụ thể là các quốc gia liên quan phải gửi Báo cáo quốc gia đến Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên hợp quốc để Ủy ban này xem xét và ra khuyến nghị).
Về quy chế pháp lý của thềm lục địa, Điều 77 của Công ước Luật Biển năm 1982 quy định quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với thềm lục địa của mình. Họ có quyền thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên ở trong thềm lục địa của mình. Các tài nguyên thiên nhiên này bao gồm tài nguyên khoáng sản và tài nguyên phi sinh vật khác ở đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Các quốc gia ven biển cũng có quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình ở thềm lục địa của mình. Cách thức thực hiện quyền chủ quyền này hoàn toàn do các quốc gia ven biển quyết định. Có khi các quốc gia này tự mình tiến hành thăm dò và khai thác tài nguyên ở thềm lục địa. Có khi các quốc gia ven biển cấp phép cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài thăm dò và khai thác.
Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc là một điều ước quốc tế nên một khi đã tham gia Công ước này, các quốc gia ven biển phải chấp nhận sự ràng buộc của Công ước. Điều này có nghĩa là đồng thời với việc hưởng các quyền chủ quyền đôí với thềm lục địa của mình, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tôn trọng các quyền chủ quyền của các quốc gia thành viên khác đối với thềm lục địa của họ. Quyền và nghĩa vụ phải song hành với nhau. Không thể chỉ hưởng thụ các quyền mà bỏ qua nghĩa vụ tương ứng. Đó cũng là lẽ thường tình trong cuộc sống.
Yêu cầu thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế không phải là ngoại lệ của Công ước Luật Biển năm 1982 mà chính là một trong các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế hiện đại. Đó là nguyên tắc "pacta sun servanda" đã được pháp điển hóa trong Công ước năm 1969 của Liên hợp quốc về Luật Điều ước quốc tế giữa các quốc gia. Yêu cầu này cũng chính là một nghĩa vụ của 192 thành viên Liên hợp quốc theo Hiến chương của tổ chức này.
Căn cứ vào các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, Việt Nam có quyền chủ quyền đối với thềm lục địa tối thiểu 200 hải lý của mình. Đoạn 4 trong Tuyên bố ngày 12-5-1977 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đã tái khẳng định điều này. Thực hiện quyền chủ quyền theo đúng Công ước Luật Biển năm 1982, từ những năm 80 của thế kỷ XX Nhà nước Việt Nam đã triển khai các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của mình. Hiện nay, hàng chục công ty dầu khí từ nhiều nước khác nhau trên thế giới (Nga, Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Canada, Úc, Singapore v.v...) đang hợp tác với Tập đoàn dầu khí Việt Nam để thăm dò, khai thác tại các lô dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam. Việc làm này của Việt Nam là hết sức bình thường. Các quốc gia khác ven Biển Đông như Trung Quốc, Phillippines, Indonesia, Brunei, Campuchia, Thái Lan, Malaysia cũng đang thăm dò, khai thác thềm lục địa của mình.
Năm 2002, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc đã long trọng ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (gọi tắt là DOC). Việc Trung Quốc cho tàu vũ trang cắt cáp thăm dò địa chấn của tàu Bình Minh 02, phá hoại hoạt động kinh tế bình thường của Việt Nam ngay trong thềm lục địa Việt Nam cũng đã vi phạm nghiêm trọng Tuyên bố này. Theo DOC, ASEAN và Trung Quốc đã cam kết không làm phức tạp thêm tình hình ở Biển Đông, không sử dụng vũ lực. Trong nhiều Tuyên bố chung giữa ASEAN và Trung Quốc, Lãnh đạo cao cấp của ASEAN và Trung Quốc đều tái khẳng định tuân thủ tăng cường nỗ lực để thực hiện toàn diện DOC, tiến tới xây dựng một văn kiện pháp lý cao hơn là Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (Code of Conduct, gọi tắt là COC).
Tóm lại, xét từ góc độ pháp lý quốc tế, đến góc độ chính trị cũng như góc độ quan hệ láng giềng thân thiện, việc tàu Trung Quốc cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 ngày 26-5-2011 hoàn toàn không thể biện minh được. Điều rõ ràng là, dù vì bất kỳ lý do gì và với bất kỳ động cơ gì, thì việc làm nói trên của Trung Quốc cũng hoàn toàn không có lợi cho quan hệ hữu nghị và hợp tác đang phát triển tốt đẹp giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc, không đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước, không phù hợp với nỗ lực thúc đẩy thực hiện toàn bộ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông năm 2002 giữa ASEAN và Trung Quốc, và cũng không có lợi cho việc duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và khu vực.
*****

Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2011

Trung Quốc không thể mãi hành xử như một kẻ khổng lồ vô trách nhiệm


Nếu tôi không nhầm thì TVT1 là cơ quan đầu tiên phát ra thông tin về tàu Trung Quốc viphạm lãnh hải và phá hoại cơ sở vật chất của ngành dầu khí Việt Nam. Đó là quảng 12 giời trưa ngày 26/5 vào đúng giời ăn trưa của các gia đình Việt Nam. Sau đó nhiều người đã gọi điện thoại hỏi nhau…như sắp có "giặc đến nhà" vậy!
Quả vậy, nếu so sánh các vụ việc vi phạm của phía Trung Quốc từ sau cuộc xâm lược Trường Sa năm 1988 thì có thể nói, đây là sự kiện nghiêm trong nhất, bởi nó không chỉ diễn ra rất sâu trong lãnh hải Việt Nam mà còn với một cách thức rất ngang ngược trắng trợn bất chấp nguy cơ xung đột song phương và đa phương có thể nỗ ra. Và hành động này đã được tính toán trước với một đội hình 3 chiếc tàu- 1 tiến vào trước, 2 hộ tống phía sau. Dù là "tàu hải giám" nhưng cuộc tấn công được tiến hành theo chiến thuật hải chiến hẵn hoi.

Tôi tin rằng các lực lượng vũ trang Việt Nam đã biết rõ về sự kiện này nhưng đã kiềm chế(!?) Cũng không khó để hiểu tại sao họ phải kiềm chế. Điều gì đã xảy ra nếu các lực lượng vũ trang Việt Nam đã sử dụng quyền can thiệp để bảo vệ tài sản quốc gia một cách bình thường và hoàn toàn đúng luật pháp quốc tế? Nhật Bản, Philippine đều đã làm như vây. Việc này thiết nghĩ nên để các cơ quan chức trách Việt Nam liệu tính.

Nhưng riêng tôi nghĩ rằng với "sự đã rồi" như hiện nay, Công ty Dầu khí Việt Nam cần đứng ra kiện phía Trung Quốc và đòi bồi thường cho những thiệt hại mà tàu hải giám của Trung Quốc vừa gây ra. Đồng thời Chính phủ ta chính thức tố cáo nhà cầm quyền Trung Quốc trước cộng đồng quốc tế, cụ thể qua các tổ chức như ASEAN, LHQ, APEC… Đã đến lúc cộng đồng quốc tế, đặc biệt các nước lớn có trách nhiệm và cộng đồng các nước ASEAN không thể đứng khoanh tay nhìn Trung Quốc tiếp tục hành xử như một tên khổng lồ vô trách nhiệm.


Mời xem chi tiết tại Tuổi Trẻ:
Ngày 27-5, trong cuộc trả lời phỏng vấn báo chí tại Hà Nội, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) Đỗ Văn Hậu đã thông báo việc sáng ngày 26-5, các tàu hải giám Trung Quốc đã vi phạm lãnh hải thuộc chủ quyền của Việt Nam, gây thiệt hại lớn về kinh tế và cản trở hoạt động của PVN.

Thực hiện kế hoạch PVN đã phê duyệt chương trình thăm dò khai thác dầu khí năm 2011, Tổng công ty cổ phần Dịch vụ kỹ thuật dầu khí, một thành viên của PVN, đã cử tàu địa chấn Bình Minh 02 triển khai khảo sát địa chấn tại khu vực lô 125, 126, 148, 149 ở thềm lục địa miền Trung của Việt Nam.

Cả 4 lô này đều nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Tàu địa chấn Bình Minh 02 đã khảo sát 2 đợt tại đây, đợt 1 vào năm 2010 và đợt 2 bắt đầu từ ngày 17-3-2011. Quá trình khảo sát những ngày vừa qua được tiến hành trôi chảy và tàu Bình Minh đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.

Tuy nhiên, vào lúc 5g5 ngày 26-5, ra-đa tàu địa chấn Bình Minh 02 đã phát hiện có tàu lạ đang chuyển động rất nhanh về phía khu vực khảo sát và sau đó 5 phút thì phát hiện tiếp 2 tàu nữa đi từ phía ngoài vào.

Đó là ba tàu hải giám của Trung Quốc chạy thẳng vào khu vực khảo sát mà không có cảnh báo. Trên cơ sở tốc độ di chuyển của tàu hải giám Trung Quốc, tàu Bình Minh thấy có khả năng sẽ ảnh hưởng đến thiết bị của tàu, nên đã quyết định hạ thấp thiết bị để tránh thiệt hại.

Vào lúc 5g58, tàu hải giám Trung Quốc đã chủ động chạy qua khu vực thả dây cáp, cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02. Vị trí mà ba tàu hải giám Trung Quốc phá hoại thiết bị của tàu Bình Minh 02 của PVN, chỉ cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên) khoảng 120 hải lý, nằm hoàn toàn trong vùng lãnh hải thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Phó Tổng Giám đốc PVN cho biết thêm: Ba tàu Hải giám Trung Quốc đã làm ảnh hưởng, cản trở hoạt động bình thường của tàu địa chấn Bình Minh 02, sau đó tiếp tục uy hiếp tàu Bình Minh 02, thông báo là tàu Bình Minh đã vi phạm chủ quyền của Trung Quốc.

Nhưng tàu Bình Minh của PVN cương quyết bác bỏ luận điệu của tàu hải giám Trung Quốc và khẳng định rằng tàu Bình Minh đang nằm trong vùng lãnh hải thuộc chủ quyền của Việt Nam. Tuy nhiên, việc tiếp tục công việc ngay lúc đó của tàu Bình Minh 02 vẫn bị ba tàu Hải giám Trung Quốc cản trở cho tới 9g sáng 26-5 khi 3 tàu này rời khỏi khu vực khảo sát.

Tàu Bình Minh 02 và các tàu bảo vệ đã phải dừng công việc trong ngày 26-5 và thu lại các thiết bị bị hỏng để sửa chữa. Dưới sự chỉ đạo của PVN và Tổng công ty dịch vụ kỹ thuật dầu khí, tàu Bình Minh 02 đã sửa chữa thiết bị tại chỗ và tới 6g sáng 27-5, tàu Bình Minh 02 đã trở lại hoạt động.

Phó Tổng Giám đốc PVN khẳng định: Việc các tàu hải giám Trung Quốc vào rất sâu trong lãnh hải của Việt Nam để phá hoại, cản trở các hoạt động thăm dò khảo sát bình thường của PVN là một hành động hết sức ngang ngược, vi phạm trắng trợn đối với quyền chủ quyền của Việt Nam, gây thiệt hại lớn về kinh tế và cản trở hoạt động của PVN.

PVN đã báo cáo và đề nghị Chính phủ, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có các biện pháp phản đối mạnh mẽ nhất có thể đối với phía Trung Quốc, yêu cầu phía Trung Quốc dừng ngay các hành động cản trở hoạt động của PVN, đồng thời hỗ trợ PVN thực hiện nhiệm vụ thăm dò, khai thác của mình.

PVN khẳng định các công việc khảo sát địa chấn ở khu vực này sẽ được tiến hành bình thường vì đây là khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam. PVN sẽ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan để bảo đảm cho hoạt động của tàu Bình Minh 02 được hiệu quả, an toàn.

Tàu địa chấn Bình Minh 02 được PVN đầu tư trang bị từ năm 2008 và đã tiến hành các đợt khảo sát trên vùng thềm lục địa thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này