Thứ Ba, 31 tháng 1, 2012

Toan tính Trung-Việt tại Biển Đông


(Tiếp theo entry trước-" Chiến lược nước đôi của Hà Nội đang làm mờ nhạt tình hình Biển Đông", chủ blog thấy cần giới thiệu tiếp bài viết dưới đây để cung cấp cho bạn đọc một cách nhìn khác về thế trận của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay)

Tác giả: David Brown- nguyên là một nhà ngoại giao Mỹ đã về hưu có nhiều bài viết  về Việt Nam. Nguồn:  Asia Online, Asia Times
Người dịch: Trần Kinh Nghị 
Trong bối cảnh cuộc tranh cãi hàng hải dữ dội từ mùa xuân năm ngoái, người ta ngày càng hy vọng về một thỏa thuận giữa Trung Quốc và Việt Nam trong vấn đề  Biển Đông.
Các tàu tuần tra Trung Quốc đã gây ra những sự cố vào tháng Năm và tháng Sáu năm ngoái làm rúng động các cơ quan ngoại giao từ Đông Nam Á đến New Delhi, Canberra, Tokyo và Washington xa xôi. Hành động khiêu khích đó phần nào cho thấy rằng các phần tử cứng rắn đã điều khiển chính sách của Bắc Kinh đối với các vùng biển tranh chấp.
Bị thúc bách bởi cách trình bày thiên lệch về sự xâm phạm của Philippin và Việt Nam đối với các vùng lãnh thổ không thể tranh cãi của Bắc Kinh tại biển Đông, công luận Trung Quốc dường như muốn "dạy bài học" cho cả hai nước  láng giềng bị cho là không tuân phục này.
Trong mùa hè, một loạt các hoạt động ngoại giao của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã dẫn đến những lời hứa hẹn mới của Trung Quốc rằng họ sẽ tìm kiếm một giải pháp hòa bình đối với các đòi hỏi chủ quyền hàng hải chồng lấn nhau.
Hầu hết các nước trong khu vực thấy có rất ít khả năng giải quyết thực sự cuộc tranh chấp kéo dài âm ỉ này;  họ chỉ hy vọng tránh nổ ra một cuộc xung đột . Và mọi người  thở phào nhẹ nhõm trước việc Bắc Kinh đồng ý với "Phương hướng thực thi Bản Tuyên bố ứng xử” tại Biển Đông (DOC).
Hải quân TQ cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của VNtháng 7/2011
Những người hoài nghi suy đoán rằng sau khi thể hiện thái độ sẵn sàng ngăn cản mọi hoạt động thăm dò dầu khí ngay tại ngoài khơi bờ biển Việt Nam và Philippin, Trung Quốc đã quay lại giai đoạn hiền lành  với chiến lược  "vừa ăn cướp vừa la làng "   trong thời gian có mùa bão tại vùng Biển Đông.
Cuộc tranh chấp lãnh thổ này không chỉ là những sự  tranh giành đối với các rạn san hô và đảo nhỏ xa xôi không đáng kể mà chính là những điểm  tranh chấp  nằm ngang các  tuyến đường hàng hải  nhộn nhịp nhất thế giới, những vùng biển quan trọng  và được cho là những bể dầu và khí đốt khổng lồ chưa được khai thác
Nếu không kiểm soát  cuộc vận động dai dẳng về "chủ quyền bất di bất dịch" này thì sự  khẳng định chủ quyền có tính lịch sử dù là mong manh của Trung Quốc xuống tận vùng biển  phía nam Singapore có thể có khả năng dẫn đến những cuộc đụng độ chết người - không chỉ với các nước đối thủ đòi hỏi  chủ quyền  như Philippin, Brunei, Malaysia hay Việt Nam mà còn đối với cả với lực lượng hải quân Mỹ.
Tại một hội nghị gần đây ở Hà Nội, vị chuyên gia Mỹ được mời đến đã nêu lên mối quan tâm  mạnh mẽ của Washington trước những diễn biến tại  Biển Đông. Ông này nói" “Trung Quốc vênh vang tự mãn, và điều đó chỉ có lợi cho Mỹ trong  việc phát huy các nguyên tắc về tự do hàng hải và giải quyết hòa bình các tranh chấp... và tạo ra cho các nước Đông Nam Á nhiều lý do để cải thiện quan hệ song phương với Mỹ".
Nếu nền ngoại giao của ASEAN  yếu ớt và Mỹ cùng các đồng minh khu vực đang bị lôi kéo vào cuộc tranh cãi của khu vực, thì đâu là tia hy vọng? Niềm hy vọng ấy chỉ mới xuất hiện gần đây từ những dấu hiệu cho thấy rằng Việt Nam và Trung Quốc có thể tìm ra được một thỏa thuận song phương, hoặc ít nhất là hướng tới một Tạm ước (Vivendi modus).
Tám tháng sau khi xảy ra các mối đe dọa thương mại, giờ đây Trung Quốc và Việt Nam đang  bận rộn vào các cuộc đàm phán về phần phía bắc của Biển Đông - phần mở rộng mà không quốc gia nào khác tranh chấp. Đó là một trò chơi đầy rũi ro đối với các nhà lãnh đạo cộng sản của hai nước.
Vấn đề đặt ra là chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và các vùng biển lân cận. Quần đảo Hoàng Sa bao gồm các đảo, bãi cát và rạn san hô ở phía nam đảo Hải Nam của Trung Quốc và phía đông bờ biển phía nam miền trung Việt Nam. Ngư dân từ các quốc gia ven biển  thường xuyên lui tới các quần đảo trong nhiều thế kỷ, hành động này đã hình thành cơ sở  cho các đòi hỏi chủ quyền có tính lịch sử bởi cả Việt Nam và Trung Quốc.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thămTQ tháng 10.2011

Theo luật pháp quốc tế thì đòi hỏi dựa trên cơ sơr lịch sử của Việt Nam mạnh mẽ hơn bởi vì từ thời quân chủ của Việt Nam, rồi đến Pháp (thuộc địa hóa Việt Nam trong những năm 1800) và sau đó là Viêt Nam Cộng hòa (miền Nam Việt Nam) thực hiện chủ quyền không gián đoạn từ thế kỷ 16 cho tới năm 1974, khi một đơn vị đồn trú của miền Nam Việt Nam bị áp đảo bởi các lực lượng Trung Quốc.
Kể từ đó, mặc dù Hà Nội vẫn bám vào các đòi hỏi của mình, Trung Quốc đã mở rộng các công sự trên những đảo nhỏ và xây dựng các cơ sở cảng và bãi đáp máy bay. Tàu thuyền Việt Nam đã bị sách nhiễu, đôi khi bị bắt giữ để đòi tiền chuộc khi họ tìm cách  đánh bắt cá trong vùng biển gần đó.
Vì thế, điều  ngạc nhiên là Bắc Kinh, dù  được sở hữu trên thực tế đối với quần đảo Hoàng Sa và có  lực lượng hải, không quân mạnh hơn nhiều, đã phải đồng ý vào giữa tháng Mười vừa qua sẽ đẩy nhanh việc  phân định vùng biển ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ và ... tích cực thảo luận việc hợp tác phát triển chung tại vùng biển này"
Thậm chí còn ngạc nhiên hơn là (trong khi” bằng chứng lịch sử” sẽ được xem xét), Việt Nam và Trung Quốc sẽ "nỗ lực để tìm kiếm các giải pháp có thể chấp nhận được về cơ bản và dài hạn cho cả hai bên trong các vấn đề tranh chấp có liên quan đến biển"dựa trên chế độ pháp lý và các nguyên tắc quy định của pháp luật quốc tế, kể cả Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS)”.
Trong thời gian chờ đợi một thỏa thuận dứt khoát nhằm giải quyết vấn đề lãnh thổ, hai bên sẽ tích cực thảo luận về hợp tác cùng phát triển". Căn cứ vào giá trị bề nổi, điều này dường như cho thấy rằng Trung Quốc rút lui khỏi tuyên bố về "chủ quyền bất di bất dịch" của mình trên toàn bộ khu vực trong phạm vi đường cong nổi tiếng hình chữ U chín gạch, một khẳng định bao gồm hơn 80% Biển Đông.
Các chuyên gia pháp lý cho  rằng, bất kể bên nào kiểm soát, quần đảo Hoàng Sa  không đủ rộng để tạo nên một "vùng đặc quyền kinh tế". Vì vậy, theo các nguyên tắc của UNCLOS, sự phân chia  các khu vực tranh chấp giữa hai bên sẽ có thể  ở vào khoảng dọc theo đường phân định giữa đảo Hải Nam của Trung Quốc và ven biển miền Trung của Việt Nam. Điều này sẽ phân chia các vùng biển thành các phần  tương đương bằng nhau.
Nếu Trung Quốc quan tâm nghiêm chỉnh đến việc dàn xếp một thỏa thuận song phương, họ cũng có thể phải thừa nhận sự kiểm soát các rạn san hô và đảo nhỏ của Việt Nam ở phần cuối phía tây của quần đảo Hoàng Sa, khu vực phía tây của đường trung tuyến.

Khả năng một giải pháp song phương
Liệu Trung Quốc có thực sự đồng ý với sự phân giới như vậy? Tối thiểu có bốn lý do  tại sao họ có thể đồng ý.
Trước tiên, là vì có một tiền lệ. Năm 2000, sau bảy năm tranh cãi, Trung Quốc và Việt Nam đã tìm cách để thỏa thuận được với nhau trong việc  phân định biên giới trên biển tại Vịnh Bắc Bộ - khu vực có hình ngón tay của Biển Đông nằm giữa các tỉnh phía  Bắc Việt Nam và bờ biển phía tây đảo Hải Nam. Ngoài ra, hai nước đã thiết lập việc tuần tra quản lý  nguồn thủy sản chung. Kết quả là, một gạch thứ mười đã được xoá hoàn toàn trên "bản đồ đường chữ U" mà Trung Quốc sử dụng để minh họa cho đòi hỏi của mình tại vùng biển phía Nam.
Thứ hai, Trung Quốc đã từng nhấn mạnh rằng vấn đề chủ quyền lãnh thổ phải được giải quyết song phương. Nói một cách khác, là họ sẽ không đàm phán về các tuyên bố chồng lấn nhau tại  phần phía nam của Biển Đông với tất cả hoặc một nhóm  nước ASEAN. Nếu  thu xếp được một thỏa thuận công bằng song phương với Việt Nam đối với một phần của khu vực biển, nơi chỉ bị đe dọa bởi sự tranh chấp giữa hai nước sẽ làm tăng đáng kể uy tín của Bắc Kinh.
Thứ ba, việc duy trì mối quan hệ dân sự với các nhà lãnh đạo Việt Nam là hệ trọng đối với Trung Quốc. Chế độ Hà Nội là một loại chế độ duy nhất thứ hai trên thế giới quyết tâm xây dựng "chủ nghĩa xã hội thị trường" dưới sự lãnh đạo độc quyền của một đảng cộng sản. Dưới sự bảo trợ của  Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt -Trung, mức độ quan hệ  hai chiều rất lớn thông qua các chuyến thăm viếng lẫn nhau nhằm xây dựng các mối liên kết hữu nghị giữa các Bộ, các tỉnh lân cận, các cơ quan  chức năng, lực lượng vũ trang, và tất nhiên các tổ chức đảng.
Thứ tư, một thỏa thuận như vậy sẽ hậu thuẩn cho lý thuyết  rằng các hành động khiêu khích vào mùa xuân năm ngoái chỉ là công việc của các diễn viên cấp dưới, đó là   các đơn vị bảo vệ bờ biển và các công ty dầu mỏ của Trung Quốc vốn thiếu  hiểu biết về mục tiêu rộng lớn hơn của Trung Quốc tại khu vực. Khi đạt đến mức khiến các thành viên ASEAN tin rằng đó là sự thật, họ sẽ trở lại  tin tưởng vào kịch bản "trỗi dậy hòa bình" của Bắc Kinh và thôi không quan tâm đến vai trò của Mỹ, Nhật Bản và Úc và khép lại màn diễn của  vở kịch Biển Đông như nó đang diễn ra.
Múc độ nguy hiểm là rất cao đối với Bộ Chính Trị tại Hà Nội. Kể từ xa xưa, việc điều hành  mối quan hệ bất bình đẳng với người láng giềng khổng lồ phương bắc luôn  là mối quan tâm chủ chốt đối với các nhà cầm quyền Việt Nam. Điều đó có nghĩa họ cần thuyết phục Trung Quốc tin rằng Việt Nam sẽ chiến đấu nếu sự toàn vẹn lãnh thổ của mình bị đe dọa, trong khi cũng biết khi nào cần tỏ ra tôn trọng và thương lượng.
Có nhiều thành phần ở Việt Nam, trong đó có những người “phóng khóang" ngay trong nội bộ đảng cầm quyền luôn sẵn sàng công kích các nhà lãnh đạo hiện nay nếu họ tỏ ra mềm yếu  đối với Trung Quốc. Và, Bộ chính trị hẳn phải lo lắng rằng những người Trung Quốc yêu nước cực đoan, đặc biệt là thành phần hiếu chiến trong lực lượng hải quân của Trung Quốc, đang phá hỏng mọi việc để tiến hành chiến tranh.
Từ đó, chiến lược của Việt Nam là không nhân nhượng  cho đến khi Bắc Kinh đặt lên bàn nghị sự một đề nghị thực tế đủ để xem xét. Trong khi đó, Hà Nội đã và đang xây dựng quốc phòng , từng bước đưa các vấn đề quan trọng với Trung Quốc vào thế chờ đợi, đồng thời phô trương việc xây dựng các mối quan hệ chặt chẽ hơn với Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và Úc trong khi cho phép công chúng bày tỏ tình cảm yêu nước xung quanh Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội.
Tuy nhiên, hiện nay có vẻ như đã hình thành các yếu tố cho một thỏa thuận có thể chấp nhận được, và với toàn bộ uy tín của hai bộ chinh trị đều đặt cả vào đó. Chuyến viếng thăm cấp cao của lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đến Bắc Kinh vào tháng Mười, và chuyến thăm của Tập Cận Bình- nhân vật kế vị rõ ràng của Trung Quốc đến Hà Nội hồi tháng Mười hai năm ngoái, nhấn mạnh rằng các nhà đàm phán đã được chỉ đạo để thi hành "nhận thức chung của lãnh đạo hai nước".
Khi Trung Quốc đạt được khả năng quân sự để hậu thuẩn các đòi hỏi chủ quyền rộng khắp tại Biển Đông, thì một cuộc chiến tranh nóng dường như ngày càng có thể xảy ra một cách có tính toán hoặc ngoài ý muốn. Cho đến nay, Bắc Kinh dường như không quan tâm đến việc phấn đấu cho một một thỏa thuận nhằm dọn đường cho các nước ven biển đầu tư năng lực của họ vào việc khai thác chung về thuỷ sản và nguồn năng lượng.
Và khi Hoa Kỳ từ bỏ sự can dự tại Iraq và Afghanistan, sự sắp đặt  của Washington nhằm can thiệp vào cuộc xung đột ngày càng trở nên rõ ràng. Nhưng hiện nay lại có những hy vọng rằng Việt Nam và Trung Quốc đang di chuyển theo hướng giải quyết ít nhất là một phần của vấn đề./.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hoan nghênh mọi ý kiến thảo luận, nhưng làm ơn viết tiếng Việt có dấu và không chửi tục.

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này