Hiển thị các bài đăng có nhãn Chính sách. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chính sách. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 2 tháng 2, 2012

Không thể mãi dựa dẫm vào quá khứ

Đất nước ta đã ra khỏi chiến tranh ngót 1/2 thế kỷ rồi mà sao đến giờ vẫn phải viện dẫn toàn những "tấm gương" của quá khứ chiến tranh để áp dụng cho công cuộc xây dựng thời bình? Chẳng hạn, khi nói về đạo đức cán bộ công chức, không có cách nào khác là phải kêu gọi học tập "tấm gương Bác Hồ"; về ngoại giao, quân sự, ngay cả làm kinh tế, v.v...đều phải nêu gương Bác Hồ. Bất cứ một lĩnh vực gì dường như đều chỉ tìm thấy niềm tự hào từ trong quá khứ lịch sử, còn hiện tại thì đẫy rẫy khó khăn, phức tạp... Thực tế này cũng là một nghịch lý đối với đất nước ta ngày nay. Nó không chỉ khó hiểu mà còn gây mất lòng tin của quần chúng nhân dân.  

Vẫn biết không ai có quyền quên quá khứ . Nhưng nếu cứ cố tình bám víu và sống mòn vào quá khứ, thậm chí khi cần thì đỗ lỗi cho quá khứ để dũ bỏ trách nhiệm của hiện tại, là một câu chuyện hòan toàn khác. Chỉ có những đứa con kém cõi mới chịu sống mòn bằng cách gậm nhấm những di sản của ông cha. Tuy nhiên, mọi giá trị đều có giới hạn thời gian của nó; người ta không thể chỉ mặc một bộ quần áo và ăn cùng một món ăn trong cả cuộc đời. Nếu như trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp khi Cụ Hồ hô hào tiết kiệm, toàn dân hưởng ứng làm theo và đưa lại những kết quả cực kỳ lớn lao , nhưng bây giờ lãnh đạo hô hào mãi có ai  làm theo đâu? thậm chí còn làm ngược lại. Trong điều kiện kháng chiến ác liệt khẩu hiệu diệt "giặc dốt", "giặc đói" của Cụ Hồ đã đưa lại những hiệu quả rất thiết thực, nhưng thời nay dù nắm trong tay mọi nguồn lực, ngành giáo dục vẫn ì ạch và chìm sâu trong khủng hoảng, bế tắc; tình trạng chênh lệch giàu-nghèo ngày càng nghiêm trọng hơn . Nếu trước đây bản thân cụ Hồ và các vị lãnh đạo cấp cao thường đích thân tham gia và thể hiện quan điểm một cách đàng hoàng, minh bạch về mọi vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia khiến đối phương kính nể, dân chúng yên lòng,  thì ngày nay chỉ thấy "Người phát ngôn ngoại giao" lên TV đọc những "tuyên bố" cứng nhắc. Đó là chưa kể rất nhiều những vụ việc tai tiếng do bộ máy công quyền yếu kém gây ra khiến nhân dân ngày càng bức xúc.Có người ví chúng như những quả bom nỗ chậm đang được cài đặt, quả không sai!.   

Câu hỏi đặt ra là, phải chăng đang có một sự hẩng hụt trong cách tư duy và phong cách làm việc của giới lãnh đạo đất nước trong quá trình chuyển tiếp từ quá khứ chiến tranh sang xây dựng hòa bình? Chẳng lẽ các vị lãnh đạo ngày nay không đủ tài giỏi và không xứng đáng làm "tấm gương" hay sao mà cứ phải nhờ cậy mãi vào Cụ Hồ ? Hay vì họ mãi lo việc nhà hơn lo việc nước? Có thể do tất cả những điều này cộng lại./.

Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2012

Chiến thuật nước đôi của Hà Nội đang làm mờ nhạt tình hình Biển Đông


Bài do chủ blog địch và giới thiệu, không nhất thiết phản ảnh quan điểm của chủ blog.  

Tác giả: Rodion Ebbighausen- Deutsche Welle, số ra ngày 27/01/2012
Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại  Biển Đông (nguyên văn Biển Nam Trung Hoa) được cho là giàu có về trữ lượng dầu hỏa và khí đốt nên bị một vài nước đòi chủ quyền, trong đó có Trung Quốc  và Việt Nam.
Trung Quốc, Đài Loan và 4 quốc gia ĐNÁ, kể cả Việt Nam và Philipin  đều có những đòi hỏi xung đột lẫn nhau đối với các hòn đảo tại Trường Sa và Hoàng Sa. Khu vực này được cho là có những trữ lượng lớn về dầu  khí và cũng là một ngư trường trù phú . Hơn nữa, vùng này quan trọng xét trên phương diện địa chiến lược bởi vì nó nằm  giữa tuyến đường hàng hải nối ĐNÁ và miền nam TQ với Trung Cận Đông ,Châu Phi và Châu Âu. Khoảng 80% nguồn cung cấp dầu hỏa cho TQ đi qua tuyến đường này.
Những tranh chấp thường xuyên diễn ra trước đây với hàng chục binh sĩ hy sinh trong trận chiến Hoàng Sa năm 1974 giữa TQ và VN , nhưng đến gần đây tất cả các bên đòi hỏi chủ quyền đều chính thức nói rằng họ đang tìm kiếm một giải pháp hòa bình. Vào tháng 5/ 2011, Tổng thống Philipin Benigno Aquino đã công khai cảnh cáo người TQ về một cuộc chạy đua vũ trang và nói rằng nó có thể làm tăng mối căng thẳng trong khu vực . Hồi tháng Bảy các ngoại trưởng Hội các Quốc gia ĐNÁ –ASEAN và TQ đã thông qua phương hướng của “Tuyên bố về Quy tắc Ứng xử của các Bên tại Biển Đông" -DOC. Mặc dù quy tắc này rất mơ hồ, nhưng trong khuôn khổ của nó tất cả các bên đồng ý thúc đẩy hòa bình, ổn định, sự tin tưởng lẫn nhau và tìm  kiếm giải pháp hòa bình cho các cuộc xung đột giữa họ với nhau.

Mối căng thẳng Trung-Việt
Tuy nhiên điều này đã không ngăn chặn được hàng loạt các sự kiện mà trong đó các thuyền bè của người Việt Nam bị hải quân TQ bắn và buộc tội vi phạm, và điều này dẫn đến những cuộc phản đối giận dữ tại Việt Nam . Lê Trọng Phương  của Đại học Bonn nói với tờ  Deutsche Welle rằng những cuộc phản đối này cho thấy rõ sự thật là đại đa số nhân dân Việt Nam muốn thấy những “chính sách rõ ràng và quả quyết hơn” đối với Bắc Kinh . Hầu hết người Việt Nam muốn chính phủ bảo vệ những hòn đảo mà họ coi là chủ quyền lãnh thổ  của mình trước TQ, ông này nói.
Cơ sở đồn trú của TQ tại một bãi đá ởtTường Sa mà họ chiếm được trong cuộc chiến chớp nhoáng năm 1988
TQ đã không phản ứng rõ ràng trước sự phản đối đó, nhưng một bài báo trên tờ Hoàn Cầu bằng Anh ngữ của Đảng CS TQ kêu gọi một giải pháp quân sự.  “ Đối với những kẻ xâm phạm chủ quyền của chúng ta để ăn cắp dầu,chúng ta cần cảnh cáo họ một cách lịch sự và hành động nếu họ không đáp ứng. Chúng ta không nên lãng phí cơ hội để tiến hành một số cuộc chiến tranh quy mô nhỏ để có thể răn đe những kẻ khiêu khích không đi xa hơn”.

Chính trị bập bênh

Ông Gerhard Will của Học viện Quốc tế và An ninh của Đức nói với tờ  Deutsche Welle rằng việc Việt Nam không theo một đường lối nhất quán là một vấn đề lớn. Hà Nội đang tiến hành chính trị bập bênh – vừa tìm cách cân bằng giữa các bên khác nhau vừa giữ cho mình càng nhiều lựa chọn càng tốt.
Đầu tháng này , tình hình thậm chí đã trở nên phức tạp hơn  khi Ấn Độ và VN ký một hiệp định nhằm đẩy mạnh việc thăm dò dầu khí trong vùng hải phận của Việt Nam, và việc này đã khiêu khích thêm đối với TQ.
Đồng thời Tổng bí thư  Nguyễn Phu Trọng đã ký một thỏa thuận tại Bắc Kinh phác thảo ra những phương hướng cơ bản về việc các cuộc đàm phán trong tương lai sẽ được tiến hành như thế nào và các cuộc xung đột trong khu vực sẽ được giải quyết ra sao.  
Ông Lê Trọng Phong nói rằng “chiến lược hai mặt” của chính phủ và sự thiếu minh bạch trong quá trình ra quyết định cũng đã khiến công chúng khó hiểu và bực tức . Về phần mình Gerhard Will không tin rằng chính sách bập bênh của Hà Nội đang đóng góp gì nhiều  cho sự ổn định chính trị tại Biển Đông, và cảnh báo rằng Hà Nội sẽ không được gì nhiều từ một thế cân bằng dễ đổ vỡ tại khu vực.


Thứ Hai, 16 tháng 1, 2012

Hiểm họa đối với các quốc gia độc tài

Vì sao độc tài được dân chấp nhận?   
Các bài học luân lý Đông-Tây xưa nay đều cho rằng các chế độ độc tài dù ở bất cứ hình thức nào đều là xấu xa , và vì vậy sớm muộn cũng bị nhân dân vùng lên đánh đổ. Cũng đã có rất nhiều dẫn chứng về vấn đề có tính quy luật này, đó là sự sụp đổ của các thể chế cũ kĩ, lỗi thời trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, gần đây nhất là trường hợp Saddam Hussein ở I rắc, Mubarak ở Ai Cập và Gadhafi ở Libya.
Tuy nhiên còn có một thực tế khác, đó là nhiều thể chế độc tài chuyên chế vẫn trường tồn, thậm chí với sự ngưỡng mộ và thần phục của đông đảo dân chúng. Đó là trường hợp các vương triều như ở Bhuttan,  Botswana, Bruney, và cả các thể chế chính trị hiện đại nơi mà đói nghèo luôn đeo bám người dân, như Zimbabwe và Bắc Triều Tiên, v.v...Ở một số nước phát triển vẫn duy trì hình thức vua chúa vì nó còn hấp dẫn đối với dân chúng. Trước cảnh tượng người dân Bắc Triều Tiên than khóc như mưa sau cái chết của "lãnh tụ vĩ đại" Kim Jong-Il mới đây nhiều người không tin đó là khóc thật. Nhưng dù khóc thật hay giả, đó là một cách hành xử thường thấy trong cộng đồng các nền độc tài chuyên chế. Nó cho thấy những chế độ độc tài vẫn có cơ sở để tồn tại một cách vững chắc, thậm chí còn lâu hơn một số thể chế không độc tài.
Phụ nữ Botswana khoe sắc để được nhà vua chọn làm thê thiếp  
Vậy ra, không hẳn cứ là độc tài thì ắt sẽ bị quần chúng nhân dân đứng lên đánh đổ(?). Và điều này thể hiện khá rõ ngay cả ở trường hợp Sadam Husein và Gadhafi trong suốt thời kỳ cầm quyền của họ; lại càng rõ với trường hợp Bắc Triều Tiên, I-ran và một số quốc gia độc tài chuyên chế khác nơi mà mãi vẫn chưa thấy một phong trào quần chúng thật sự lớn mạnh lật đổ; trái lại còn được dân chúng một lòng ủng hộ. Trên thực tế hầu hết các vương quốc ngự trị bởi chế độ cha truyền con nối hoặc các chính thể độc tài chuyên chế không hề gặp phải sự phản kháng mạnh mẽ nào từ dân chúng, trái lại ở đó kẻ thống trị còn được người dân sùng bái hơn nhiều so với những gì mà các nguyên thủ ở các quốc gia dân chủ nhận được từ nhân dân của họ.
Người dân Bắc Triều Tiên vật vã tiếc thương Kim Jong Il
Người ngoài cuộc thường dễ dãi kết luận rằng đó là do sự đàn áp và bưng bít thông tin. Kết luận này đúng nhưng chưa đủ; còn phải tính đến đặc điểm tư duy của con người bị chi phối bởi yếu tố tinh thần mơ hồ về đạo đức, tín ngưỡng và quyền lợi....  Mặc khác, khách quan mà nói, ngay cả bản thân khái niệm độc tài cũng chưa hẳn nhất thiết phải như nhau giữa các dân tộc tùy trình độ phát triển và hoàn cảnh lịch sử, văn hóa-xã hội. Tất cả những điều đó dù muốn hay không đều góp phần tạo nên mãnh đất màu mỡ cho các chế độ độc tài chuyên chế sinh tồn. Chúng tồn tại ở nhiều dạng khác nhau, có trường hợp công khai, lộ liễu, thậm chí được tuyên bố; có trường hợp trá hình dưới những tên gọi mĩ miều với những chiêu bài chính trị, tôn giáo thần bí. Điểm chung nhất của chúng là tệ sùng bái cá nhân, tham quyền cố vị và tham nhũng bất chấp lợi ích của dân chúng. Để tồn tại chúng thường sử dụng các thủ đoạn tuyên truyền đạo đức giả kết hợp với các thủ đoạn đàn áp.    

Xu hướng sử dụng can thiệp bên ngoài để đánh đổ độc tài và hệ quả của nó
 
Nhìn lại hầu hết trường hợp sụp đổ của các chế độ độc tài gần đây tại Trung Đông và Bắc Phi ta thấy đều nhờ có sự can thiệp trên quy mô lớn của quân đội nước ngoài. Đó là sự can thiệp công khai, thậm chí trắng trợn, của một nước hoặc nhóm nước. Vẫn biết đó là cái giá mà những kẻ độc tài phải trả, nhưng khách quan mà nói, hầu hết các trường hợp can thiệp quân sự từ bên ngoài trong thời gian qua đều dẫn đến chiến tranh tàn khốc kéo dài, và nạn nhân chính là nhân dân ở các nước bị can thiệp.
Nguy cơ nội chiến kéo dài ở Libya


Có thể còn quá sớm để thế giới ngồi lại đặt vấn đề một cách nghiêm túc về câu hỏi nói trên. Nhưng trước mắt có thể thấy nguyên nhân từ hệ quả của trào lưu toàn cầu hóa cao độ đang xóa bỏ tình trạng biệt lập hoặc khác biệt quá xa giữa các quốc gia, đồng thời sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin đã tạo ra những hiệu ứng trực tiếp giúp con người mau chóng truyền đạt thông tin và tri thức xuyên quốc gia trên quy mô toàn cầu, trong đó internet là phương tiện hầu như không bị ngăn cách bởi biên giới hay chế độ chính trị-xã hội. Nói cách khác, bức tường ngăn cách thông tin giữa các quốc gia đã bị phá vỡ. Đó là cơ sở để nhanh chóng hình thành mối liên kết giữa các cá nhân và các nhóm chính kiến từ bên trong các quốc gia độc tài chuyên chế với thế giới bên ngoài và tạo nên tình huống cho sự hỗ trợ của các lực lượng từ bên ngoài . Phương cách can thiệp như vậy dường như đang tìm thấy lý do chính đáng và được hoan nghênh đơn giản vì vì nó có thể đánh sập nhanh một chế độ độc tài . Đó là những gì đã và đang diễn ra khi Mỹ và Đồng minh được cả LHQ chấp thuận sử dụng biện pháp chiến tranh để lật đổ các chế độ độc tài chuyên chế của các quốc gia có chủ quyền như ta thấy gần đây tại Trung Đông và Bắc Phi.

Vẫn biết các chế độ độc tài là xấu xa và cần phải loại bỏ càng sớm càng tốt, và trước sự cố kết để bám giữ của chúng thì sự can thiệp từ bên ngoài là cần thiết. Song cái gì cũng có ít nhất là hai mặt của nó. Trước hết cần khẳng định lại nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đó là mọi sự can thiệp quân sự  từ bên ngoài vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền đều là phi pháp. Thực tiễn cho thấy cách thức can thiệp như vậy suy cho cùng chỉ có lợi cho các nước lớn mạnh, và cũng được các nhóm lợi ích kình chống nhau trong nội bộ mỗi quốc gia lợi dụng, nhưng đại đa số nhân dân các nước bị can thiệp cũng như các nước đi can thiệp đều không có lợi ích gì, trái lại phải hứng chịu những hậu quả khôn lường .  Về mặt này cũng nên nhắc lại nguyên lý  "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng". Sự can thiệp của bên ngoài chỉ có thể chấp nhận một khi quần chúng bên trong một quốc gia đồng lòng kêu gọi. Nói cách khác, xấu-tốt, sớm-muộn, thành công hay thất bại, đều nên để nhân dân mỗi nước quyết định vận mệnh của họ. Khốn nỗi đó là một khái niệm mơ hồ, dễ nhầm lẫn giữa phong trào quần chúng thực sự với những nhóm lợi ích hay sắc tộc hoặc tôn giáo cố tình lợi dung sự can thiệp của bên ngoài. Mọi sự can thiệp dựa trên cơ sỡ "nhầm lẫn" như vậy đều không thể chấm dứt được nguồn gốc  độc tài  mà chỉ thay thế chế độ độc tài này bằng một chế độ độc tài khác hoặc gây ra một quá trình nội chiến và nạn nghèo đối kéo dài, thậm chí nguy cơ mất độc lập chủ quyền đối với các quốc gia bị can thiệp. Nguy cơ này đang thể hiện khá rõ trong trường hợp I-rắc sau Saddam Hussein,  Libya sau Gadhafi và cả Ai cập, Afghanistan cũng như đối với các nước khác đang trong quá trình của cái gọi là "cách mạng màu".

Tóm lại, các thể chế độc tài, chuyên chế và phi dân chủ là trở ngại phải loại bỏ để mở đường cho nhân dân tiến lên ấm no hạnh phúc. Nhưng cách thức đánh đổ chúng và hậu quả sau đó đối với quốc gia bị đánh đổ là một vấn đề đặt ra đối với thế giới hiện đại. Đây là bài học đối với mọi quốc gia dân tộc không may đang bị các chế độ độc tài chuyên chế ở các mức độ khác nhau thống trị. Bài học nhãn tiền là đất nước có thể rơi vào tình trạng bạo loạn và nội chiến, thậm chí mất cả độc lập tự chủ. Không phải dân tộc nói chung mà trước hết những kẻ độc tài chuyên chế phải nhận thức được điều này. Họ cần biết rằng ngày nay dân chúng có điều kiện tốt hơn để hiểu biết và giác ngộ về quyền lợi chính đáng của mình để nổi dậy. Và đó là cơ sở để bên ngoài can thiệp dù muốn hay không. Do đó, giải pháp ít xấu hơn là  họ phải tự thay đổi  hoặc chuyển giao quyền lực khi chưa quá muộn. Trường hợp Vua Nêpan đã tự nguyện thoái vị để nhường bước cho cho chế độ dân chủ hồi năm 2006 và mới đây giới quân sự Myanma cũng đã chuyển giao quyền lực một cách hòa bình cho giới dân sự khiến thế giới hết sức ngưỡng mộ. Sự sụp đổ của Liên Xô cũ và các nước Đông Âu những năm cuối thế kỷ trước dù sao cũng là một dạng chuyển giao quyền lực thành công một cách hòa bình  mà không cần sự can thiệp quân sự  từ bên ngoài. /.       


Thứ Hai, 9 tháng 1, 2012

Chán quá!



Gần tuần lễ nay blogger tôi không thể nào vào được "nhà" của mình. Thử vào blog khác thấy một số như Lều Thăng sắc, Tuanvn, v.v...cũng không được,nhưng vào Quechoa,Bauxitvn, Basam... vẫn bình thường.Hỏi tranhung09 bảo đó là do "trùng" với đợt chặn của nguồn cung cấp dịch vụ gì đấy..., và bày cho cách "vượt rào". Thế là hôm nay mới vào được... Nhưng thấy nhà trống vắng hẳn, chỉ có vài trăm readers cả tuần qua!

Từ ngày chuyển sang blogspot (tháng 3/2011) đây là lần "bị chặn" tệ hại nhất.Đáng lẽ không sốt ruột lắm nếu không có tâm trạng chờ đợi số reader 99.999!, và cũng lo bị ai đó "phá nhà"... Hiện giờ tạm thời "vượt rào", nhưng tốc độ rất chậm chạp và khó làm việc, cũng chẳng thấy mấy reader vào đọc. Nói chung là chán và nản với cái trò "ngăn sông cấm chợ"!

Nguồn lực CNTT của Việt Nam chỉ thiếu...một người



Đó là tiêu đề của một mẫu tin đăng trên Vietnamnet sáng nay (9/01/2012)
Tin cho hay tại cuộc Hội thảo Quốc gia về Công nghệ Thông tin & Truyền thông Việt Nam 2011 diễn ra ngày 7/1 tại Hà Nội, Ông Quách Tuấn Ngọc, Cục trưởng Cục CNTT (Bộ Giáo dục - Đào tạo khẳng định, nguồn nhân lực CNTT chỉ thiếu… “một người”.Tuy nhiên, đó lại là người quan trọng nhất: thủ trưởng, người đứng đầu, nhà lãnh đạo. Còn nhân lực số đông để thực hiện và triển khai, theo ông Ngọc, thì Việt Nam không hề thiếu.

Trước đây, một số báo có đưa tin về việc doanh nghiệp nước ngoài phàn nàn về chất lượng nhân lực Việt Nam. Trên thực tế, sau đó chính doanh nghiệp này phải gửi đi văn bản khẳng định lại là sinh viên VN sang Mỹ học rất giỏi, giành nhiều giải thưởng và có thành tích nghiên cứu xuất sắc. Như vậy rõ ràng là người VN không yếu về tố chất. Cái chúng ta yếu là phương pháp đào tạo, cách thức đào tạo, ông Ngọc chia sẻ

Hiện tại, theo thống kê, VN hiện có khoảng 10 triệu học sinh trung học, 2 triệu sinh viên và hơn một triệu sinh viên học nghề. Phát biểu tại Hội thảo, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân khẳng định đây chính là lực lượng nòng cốt để hình thành nên 16-20 triệu công dân điện tử trong giai đoạn 2015-2020, với các kỹ năng công nghệ thành thạo và nền tảng tri thức mạnh để kéo xã hội đi theo.

Phát triển nguồn nhân lực CNTT cũng chính là một trong bốn trụ cột chính của đề án “Sớm đưa Việt Nam trở thành nước mạnh về CNTT”. Bên cạnh đó, một đề án lớn, độc lập là “Chương trình Máy tính nối mạng tri thức” cũng đang được Bộ Thông tin & Truyền thông soạn thảo, với mục tiêu đẩy mạnh, nâng cao trình độ sử dụng và nghiên cứu CNTT trong sinh viên, học sinh, thanh thiếu niên, giáo viên và cộng đồng nói chung.

Trả lời báo giới, ông Nguyễn Trọng Đường, Vụ trưởng Vụ CNTT (Bộ TT&TT) cho biết để phát triển nguồn nhân lực thì Nhà nước cần ưu tiên đầu tư và có cơ chế đặc thù để phát huy quyền tự chủ cho một số cơ sở đào tạo, nghiên cứu trọng điểm về CNTT, tạo điều kiện cho những cơ sở này đạt đến trình độ quốc tế.

Ý kiến này cũng nhận được sự đồng tình từ phía các chuyên gia tham dự hội thảo. Ông Mai Sean Cang, Tổng Giám đốc Intel Việt Nam khuyến nghị rằng đầu tư cho nguồn nhân lực nên tiến hành một cách có trọng điểm. Các chương trình phát triển giáo dục nên được đẩy mạnh đầu tư và đội ngũ Giáo viên thành thạo, có chất lượng cao về CNTT cần được hình thành trước tiên. “Bộ TT&TT có thể xem xét quỹ Viễn thông công ích để đầu tư, xây dựng lực lượng giáo viên và các cơ sở đào tạo đẳng cấp, từ đó mới lan tỏa, phát triển được đội ngũ nhân lực số lượng lớn là các sinh viên, học sinh”, ông Cang phân tích.

Bình luận về vấn đề này, ông Đường cho biết Bộ TT&TT đã nhận được ý kiến đóng góp từ nhiều phía. Chính vì vậy, sau một năm triển khai, một nhiệm vụ trọng tâm của Đề án “Sớm đưa VN trở thành nước mạnh về CNTT” trong giai đoạn tiếp theo sẽ là xây dựng các cơ chế, chính sách mới hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực CNTT và có những chương trình đào tạo “Kỹ năng thế kỷ 21” cụ thể, với kỹ năng sử dụng CNTT là yêu cầu bắt buộc.
Phóng viên:Y Lam

Thứ Ba, 3 tháng 1, 2012

Khi người đứng đầu nói mà không làm

Tại HN TW VI, khóa XI (từ 26-31/12/2011) đã đưa ra NQ về củng cố, chỉnh đốn Đảng,  Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài phát biểu vạch ra nhiều vấn đề yếu kém tồn tại..., coi đây là "vấn đề sống còn của Đảng ta, chế độ ta".

Nếu đọc kĩ, có thể thấy hầu hết nội dung bài phát biểu, kể cả cụm từ "vấn đề sống còn của Đảng, chế độ", đều đã được các vị lãnh đạo đảng và nhà nước cũng như nhân dân đã nói đến trong các dịp khác nhau với mức độ và cách thức khác nhau. Tuy nhiên bài của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lần này mang tính tổng kết súc tích, rõ ràng hơn cả. Nó lại được đưa ra tại một thời điểm "bức xúc" nhất của dư luận trước tình trạng suy thoái về tư tưởng trong bộ máy công quyền và trong Đảng . Có lẽ đây là lý do chính để ông nhận được sự hoan nghênh và cả niềm hy vọng từ công chúng.

Tuy nhiên, ngay cả những người lạc quan tin tưởng nhất vẫn không tránh khỏi tâm trạng hoài nghi về tính khả thi của nó. Nhân dân cần nhiều hơn và cụ thể hơn thế. Còn nhớ thời ông Lê Khả Phiêu đã từng nói rất mạnh về chống tham nhũng khi mới nhậm chức năm 1997 để rồi bị "thay ngựa giữa dòng" giữa nhiệm kỳ . Thời ông Nông Đức Mạnh khi mới lên cũng đã nói đến chống tham nhưng sau đó giống như "mất điện" và chỉ có thể tồn tại cho đến hết nhiệm kỳ mà chẳng làm được gì. Liệu ông Trọng có đi theo vết xe của các người tiền nhiệm?

Nếu được phép đưa ra lời khuyên, nhân dân mong rằng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, với lợi thế đang ở thời kỳ chín mùi nhất của "nguy cơ tồn vong của đảng và chế độ" như ông nhận định, hãy hành động trước khi quá muôn. Và hành động nếu có của ông, trước hết nên bắt đầu từ những việc cụ thể của bản thân và nơi ông trực tiếp điều hành, ví dụ, cắt giảm và tinh giản biên chế của các cơ quan chuyên trách Đảng, tách quỹ lương khỏi hệ thống hành chính công, bãi bỏ một số chế độ đãi ngộ vô lý, v.v... Từ đó chắc chắn ông sẽ tạo nên những tác động có tính lan tỏa được đông đảo nhân dân ủng hộ và không thế lực nào có thể ngăn cản . Thực tiễn Việt Nam cho thấy nếu thực hiện quy trình ngược lại, tức là người đứng đầu chỉ nói và ra chỉ thị cho các ngành các cấp...thì hãy đợi đấy!!!, họ sẽ bị các nhóm lợi ích tìm mọi cách chống trả làm vô hiệu hóa mọi quyết định dù là rất đúng đắn và chân thành của người đứng đầu. Trong trường hợp đó, hậu quả đối với xã hội còn tệ hại hơn; nó giống như mở banh một khối ung nhọt nhưng không có cách cứu chữa vậy!

Trần Kinh Nghị


Thứ Tư, 28 tháng 12, 2011

Tư liệu: Những phát ngôn ấn tượng năm 2011


Câu nói “cả một bầy sâu” của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang xứng đáng đứng đầu bảng top ten phát ngôn ấn tượng 2011. Một năm hết sức đặc biệt với quá nhiều những phát ngôn hết sức ấn tượng, ấn tượng hơn hẳn những năm trước. Hay do bệnh… “lở mồm”?

1- “Trước kia chỉ có một con sâu làm rầu nồi canh. Nay thì nhiều con sâu lắm! Nghe mà thấy xấu hổ. Không nhẽ cứ để mãi như vậy, mai kia người ta nói là cả một bầy sâu, tất cả là sâu hết. Thế đâu có được! Một con sâu đã nguy hiểm rồi. Một bầy sâu là chết cái đất nước này!”- Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
2- “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, … khác hẳn về bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản”- Giáo sư tiến sĩ Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan.
3- Việc Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 2 và Viking 2 của Việt Nam là thể hiện tình cảm “yêu cho đòn cho vọt”- Phó chủ nhiệm Ủy ban biên giới quốc gia Nguyễn Duy Chiến.
4- “Dân có vàng thì dân giàu, mà nhà nước giữ vàng (của dân) thì nước sẽ mạnh”- Thống đốc ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình.
5- “Biểu tình là ô danh… Việt Nam chưa phải là siêu cường kinh tế để có thể chi tiền đài thọ cho một sự ô danh”- Đại biểu quốc hội Lăng Tần Hoàng Hữu Phước.
6- “Xảy ra chuyện như Vinashin, cuối cùng Thủ tướng đứng ra nhận trách nhiệm. Tôi nhận trách nhiệm chính trị với tư cách người đứng đầu Chính phủ, chứ tôi cũng không ra quyết định nào sai”- Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
7- “Có thể nói kỳ họp nào chính phủ cũng báo cáo một bản báo cáo hết sức hoành tráng và có sức thuyết phục… Tình hình biển Đông diễn biến phức tạp. Quần đảo Trường Sa bây giờ do Trung Quốc chiếm… Làm sao để nhiệm kỳ này cố gắng lấy lại quần đảo Hoàng Sa”- Đại biểu quốc hội Nguyễn Bá Thuyền.
8- “Nói biển Đông không phải chỉ là biển Đông. Nói biển Đông không phải chỉ quan hệ ta với Trung Quốc. Nói biển Đông không phải toàn bộ vấn đề biển Đông, nó chỉ có một cái chỗ quần đảo Hoàng Sa với lại quần đảo Trường Sa …”- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
9- “Tôi chỉ thực hiện lời hứa với các nhà văn. Còn cụ thể vì sao cần có luật nhà văn (nhà thơ) thì tôi cũng… chưa nghĩ ra!”- Đại biểu quốc hội Nguyễn Minh Hồng, người đề xuất ban hành luật nhà thơ (nhà văn).

10- “Tôi vinh dự được Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương cho thôi chức danh Bộ trưởng khi tín nhiệm trong đội ngũ cán bộ chủ chốt của toàn ngành Thông tin và Truyền thông dành cho tôi đang ở đỉnh cao (93%)”- Lê Doãn Hợp, cựu Bộ trưởng TTTT.
2011 là năm khá đặc biệt, nhiều nhân vật ấn tượng và cũng quá nhiều phát ngôn ấn tượng. Không nhắc đến hoặc bỏ sót là một điều đáng tiếc. Vì thế xin giới thiệu thêm kế sau bảng “Top ten phát ngôn ấn tượng” là 10 phát ngôn ứng viên hụt (từ 11 đến 20), cũng không kém phần… ấn tượng!
11- “Ông Trương Tấn Sang trở thành vị tổng thống đầu tiên có tài hùng biện… là sự khởi đầu cho thời đại mới”- Đại biểu quốc hội Lăng Tần Hoàng Hữu Phước.
12- “Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất, xét xử 2 cấp nên nếu thấy quyết định trái pháp luật thì có quyền hủy, trừ quyết định của Thủ tướng”- Chánh án Tòa tối cao Trương Hoà Bình.
13- “Điểm lịch sử thấp là vấn đề của thời đại… Việc có hàng ngàn điểm 0 trong kỳ thi tuyển sinh đại học- cao đẳng vừa qua là vấn đề bình thường”- Bộ trưởng Giáo dục & đào tạo Phạm Vũ Luận.
14- “Trung Quốc không sợ bất kỳ quân đội nào của thế giới. Trung Quốc chỉ sợ quân đội của đảng Cộng sản Việt Nam…”- Đại biểu quốc hội Lăng Tần Hoàng Hữu Phước.
15- “Chủ nghĩa Marx đã nói đến một lúc nào đó đảng không còn mà nhà nước cũng không còn thì Đảng “muôn thuở” thế nào được”- Cựu Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc trả lời phỏng vấn BBC.
16- “Ta và Trung Quốc cần hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đoàn kết để hai dân tộc cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội”- Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.
17- “Bùi Thị Minh Hằng mà ị ngay nhà tôi tôi cũng nói là c. Bùi Hằng thơm quá”- Châu Xuân Nguyễn.
18- “Anh mà gọi nó bằng con là tôi dập máy đấy!”- GS rùa Hà Đình Đức trả lời phỏng vấn BBC về “cụ” rùa hồ Gươm.
19- “Tôi hiểu trong 7 thành viên của Hội đồng đó thì có người có thể là chưa bao giờ đọc kịch của tôi, chưa bao giờ xem kịch của tôi… còn người thứ hai không bỏ cho tôi, tôi cũng không ngạc nhiên, vì có thể là họ chưa bao giờ biết viết kịch, và họ chưa bao giờ làm đạo diễn cả… Có khi là trong một liên hoan sân khấu, tôi mời người này mà không mời người khác tham gia ban chỉ đạo, chỉ vì thành phần đã đủ hay vì tính chất cuộc liên hoan… bây giờ họ được ngồi trong Hội đồng, nhớ chuyện cũ và không bỏ phiếu cho tôi… tôi xứng đáng không chỉ dừng ở Giải thưởng nhà nước mà cả ở Giải thưởng Hồ Chí Minh”- Trung tướng Công an, anh hùng lao động, nhà văn, nhà báo, nhà thơ, nhà biên kịch, nhạc sĩ, họa sĩ Hữu Ước phát biểu sau khi bị loại khỏi danh sách ứng viên giải thưởng nhà nước..
20- “Đúng là quá bẩn, ăn chi toàn là đồ bẩn!”- Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến.
Nguồn: Blog Trương Duy Nhất




Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2011

Việt Nam thành lập dân quân biển

 
 
Theo nguồn tin các báo Tuổi trẻ, QĐND...  
Sáng 29-4, UBND huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi) đã tổ chức lễ thành lập Trung đội dân quân biển xã Phổ Thạnh theo Quyết định số 1902 của Thủ tướng Chính phủ.
Trung đội dân quân biển xã Phổ Thạnh

Trung đội dân quân biển xã Phổ Thạnh được thành lập với 28 thành viên là những ngư dân trong độ tuổi từ 18 đến 35 tuổi. Trung đội có nhiệm vụ phối hợp với lực lượng bộ đội Biên phòng, Hải quân và Cảnh sát biển tuần tra kiểm soát trên biển; thực hiện công tác cứu hộ, cứu nạn khi có yêu cầu; kịp thời nắm bắt thông tin và báo cáo cho đơn vị chức năng khi tham gia khai thác hải sản; tham gia huấn luyện khi đơn vị triệu tập…
Những dân quân này cũng sẽ được hưởng chế độ ưu đãi theo quy định của Luật Dân quân tự vệ. Xã Phổ Thạnh (Đức Phổ - Quảng Ngãi) là địa phương duy nhất trên địa bàn Quân khu 5 và là 1 trong 6 xã trên địa bàn cả nước tổ chức thành lập và đi vào hoạt động Trung đội dân quân biển.


Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2011

Sẽ không còn phân biệt "lề phải"-"lề trái" ?

Không biết mọi người có để ý một mẫu tin tại trang 2 báo của Tuổi trẻ sáng nay (29/10): "Mạng xã hội làm tăng tính đối thoại của báo chí"(!?)

Đây có thể là kết qủa cụ thể của cuộc hội thảo "Mạng xã hội và báo chí" do Bộ Thông tin Truyền thông phối hợp với Đại sứ quán Thụy Điển tổ chức tại Huế ngày 28/10, và cũng là kết quả chung cuộc của cả quá trình hình thành và phát triển  hệ thống mạng xã hội ở Việt Nam từ hơn chục năm nay.

Phát biểu tại Hội thảo, ông Lưu Vũ Hải-Cục trưởng Cục PTTH-TTĐT đánh giá: " Mạng XH đã buộc các cơ quan báo chí phải thay đổi cách suy nghĩ từ làm báo một chiều sang đối thoại hai chiều với đọc giả". Tôi nghĩ, đây là sự nhìn nhận chính thức đầu tiên của Nhà nước đối với vai trò của mạng xã hội; hy vọng nó cũng là một tín hiệu "tan băng" trong mối quan hệ giữa hai luồng truyền thông "chính thống" và "phi chính thống" thường được coi là "lề phải" và "lề trái", mà trong đó "lề trái" thường bị kỳ thị, thậm chí cấm đoán ...(?)

Mãi đến nay mới có một hội thảo như vậy là hơi muôn, nhưng dù sao cũng rất bổ ích trong bối cảnh đang diễn ra nhiều sự cố đến mức "xì-căng-đan" trong lĩnh vực công tác truyền thông Nhà nước vốn dĩ không chỉ quản lý mà "bao cấp" (ít ra  là về mặt lý thuyết) đối với toàn bộ thông tin các loại,từ đường lối-chủ trương- chính sách đến văn học- nghệ thuật, thể thao, phim ảnh,và cả kinh doanh tiếp thị.... Họ nói gì thì dân biết nấy, tin hay không là do "tài khéo léo" của những người làm công tác tuyên truyền!  Và có lẽ vì chưa khéo léo lắm nên vẫn thường xảy ra những vụ việc không mấy hay ho , như gần đây có vụ "bao cao su Cù Huy Hà Vũ", rồi vụ Đài TH Hà Nội bị thưa kiện, mới đây lại có chuyện một nhân vật quan trong của Báo QĐND trích Hiến pháp nói "có hai loại nhân dân"... khiến dư luận rất ngỡ ngàng.

Trong bối cảnh nói trên, có thể nói cuộc Hội thảo là một cơ hội tốt để nhìn nhận lại và có sự điều chỉnh cần thiết trong lĩnh vực công tác truyền thông Nhà nước phù hợp với thời đại bùng nỗ thông tin toàn cầu, mà trong đó mọi công dân đều có thể tiếp cận các nguồn tin rất đa dạng, đa chiều. Cũng hy vọng sẽ tiến tới xóa bỏ tình trạng phân biệt "lề phải", "lề trái"... trong lĩnh vực thông tin mà chỉ coi đó là CÁC NGUỒN THÔNG TIN. Làm được điều này không chỉ bổ sung thêm thế mạnh của cơ quan truyền thông Nhà nước mà còn góp phần tăng cường khối đoàn kết toàn dân cho mục tiêu xây dựng và bảo vệ đất nước, thực hiện nước giàu, dân mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.

Thứ Sáu, 28 tháng 10, 2011

Một cách nhìn về tình hình kinh tế VN hiện nay (*)




Trước cuộc Quốc Hội khóa 13 đã khai mạc kỳ họp thứ hai vào hôm thứ Năm ngày 20/10, ba tháng sau kỳ họp đầu tiên bầu lãnh đạo và nội các mới, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đọc một bài diễn văn dài về tình hình Kinh tế Việt Nam và thú nhận rằng “Nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô trở thành thách thức lớn”; Những điểm nguy cơ của Kinh tế được tóm tắt như sau: “Kinh tế vĩ mô chưa ổn định, lạm phát và lãi suất cao, nợ xấu của ngân hàng tăng, dự trữ ngoại tệ thấp, áp lực phá giá tiền đồng còn lớn; chứng khoán và bất động sản đều đi xuống trong khi tình hình sản xuất, kinh doanh còn rất khó khăn.”

Hôm 30/9, tờ Thời báo kinh tế Việt Nam dẫn lời nhà kinh tế kỳ cựu Lê Đăng Doanh, nguyên cố vấn kinh tế của chính phủ, rằng kinh tế Việt Nam đang trong tình hình tồi tệ nhất trong vòng 20 năm qua.

Đối với khối đại đa số dân chúng, ngay cả đối với 98% công chức thiếu ăn vì vật giá tăng vọt dù họ đã được tăng lương 8 lần rồi, vấn đề không phải là chỉ thú nhận một tình trạng tụt dốc Kinh tế, mà phải đền cái tội làm cho Kinh tế đi đến chỗ phá sản. Tỉ dụ đối với vụ Vinashin mất USD.4.4 tỉ, không thể tuyên bố mất trắng số tiền khổng lồ đó là đủ, mà phải lôi ra những người trách nhiệm, ...


Tình trạng tụt dốc, nguy cơ Kinh tế Việt Nam ở những phương diện chủ chốt nào ?

Lạm phát 23% cao nhất Á châu


Theo Bản Tin của Bloomberg ngày 08.07.2011, thì Ngân Hàng Thế Giới đã cảnh cáo Việt Nam về độ tăng Lạm phát “không thể tha thứ“ được (intolerable):

“The World Bank last month described price gains in Vietnam as “intolerable” and had called upon policy makers to maintain tight monetary conditions until inflation is sustainably below 10 percent.”

(Tháng vừa rồi, Ngân Hàng Thế giới đã vạch rõ vật giá leo thang ở Việt Nam như điều “không thể tha thứ “ và đã kêu gọi những người hữu trách hoặch định Kinh tế phải xiết chặt những điều kiện tiền tệ cho đến khi nào Lạm phát có thể chịu đựng nổi bên dưới 10%”


Ngày 04.07.2011, CREDIT SUISSE tiên đoán việc Lạm phát sẽ tăng vọt trong năm 2012:

“The State Bank of Vietnam said it lowered the rate to 14 percent from 15 percent effective today, according to an e- mailed statement.”

“The State Bank of Vietnam on July 4 lowered its repurchase rate to 14 percent from 15 percent.”

“Vietnamese inflation will be higher next year than previously forecast as a result of a central bank rate cut this week that was “premature” and may confuse investors, Credit Suisse Group AG (CSGN) said.”

(Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam tuyên bố hạ Lãi suất xuống 14% từ 15% có hiệu lực từ ngày hôm nay, theo khẳng định trong một E-mail.

Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam đã hạ Lãi suất vào ngày 04.07 từ 15% xuống 14%.

Lạm phát Việt Nam sẽ tăng cao hơn nữa so với ước tính trước đây do hậy quả của việc hạ Lãi suất của ngân hàng trung ương tuần này, việc này được coi như “sinh non“ và có thể làm hỗn loạn những người đầu tư, Credit Suisse Group (CSGN) đã tuyên bố như vậy) ...


2) Nợ xấu của ngân hàng tăng


Tình trạng nợ xấu này là nợ từ những Tập đoàn Kinh tế Nhà nước, từ những Tỉnh thi nhau thực hiện Dự án để có cơ hội ăn bẩn, cắt xén công quỹ. Như vậy, nợ xấu ở đây là NỢ CÔNG. Việt Nam đang đi đến khủng hoảng nợ công vừa cao vừa ăn quỵt nợ.

Theo các số liệu do Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại ( Bộ Tài chính ) công bố vào đầu tháng 7/2011, nợ công của Việt Nam- bao gồm vay của nước ngoài lẫn trong nước- năm 2010 là 56,7% tổng sản phẩm nội điạ GDP và theo dự kiến, năm nay sẽ tăng lên thành 58,7% GDP.

Hiện giờ, nhìn lại những năm gần đây, món nợ công đã tăng nhanh một cách đáng ngại, khoảng 25% tính từ năm 2007 đến cuối năm 2011, tức là trung bình tăng 5% mỗi năm. ( Số liệu Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia: nợ công 2007:33,8% GDP, 2008: 36,2% GDP, 2009: 41,9%, 2010: 56,7% GDP và 2011 dự báo 58,7% GDP ). Nợ công tăng nhanh trong bối cảnh mà ngân sách của Việt Nam luôn bị thâm hụt, buộc chính phủ phải vay nợ thêm, cho nên nợ nần sẽ chồng chất, lãi mẹ đẻ lãi con.

Trong thời gian qua, nhiều chuyên gia đã lên tiếng khuyến cáo chính phủ về nguy cơ nợ công vượt khỏi tầm kiểm soát. Trả lời phỏng vấn tờ Thanh Niên đầu tháng 10 vừa qua, tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc nghiên cứu của Chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright, giải thích rằng nguyên nhân khiến tỷ lệ nợ công ngày càng tăng là do “tỷ lệ đầu tư của VN trong những năm qua trung bình từ 40-42% GDP, trong đó khu vực công chiếm khoảng 45%. Tỷ lệ đầu tư lớn, tăng liên tục nhiều năm trong khi ngân sách luôn ở tình trạng thâm hụt “báo động đỏ” (trên 5% GDP) khiến chính phủ phải đi vay nợ. “

Tiến sĩ Nguyễn Quang A, trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ từ Hà Nội, nhấn mạnh rằng, tốc độ tăng nhanh của nợ công Việt Nam là dấu hiệu đáng ngại: “Nói rằng nợ công dưới 60% GDP là an toàn, thì tôi không nghĩ là như vậy. Bởi vì tỷ lệ nợ công có thể thấp hơn mức đó mà không có khả năng trả nợ, tức là có khả năng vỡ nợ, thì như thế là không an toàn. Còn cho dù nó có lên tới 80% GDP mà có khả năng trả nợ thì cũng không sao. Tức là phải xét khả năng trả nợ, bởi vì những khoản vay là có thời hạn. Với tình trạng nợ công gia tăng nhanh như vậy, đó là một lời cảnh báo rất nghiêm túc đối với chính phủ là phải hết sức thận trọng với nợ công. Trong bối cảnh mà Hy Lạp, rồi Ý bị hạ mức tín nhiệm và nợ của chính phủ các nước trong Liên Hiệp Châu Âu đang lan sang hệ thống ngân hàng, chính phủ Việt Nam càng cần phải lưu ý."

Trong bài phỏng vấn với Thanh Niên, tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh lưu ý rằng nợ công của Việt Nam chỉ là nợ của chính phủ, trong khi theo thông lệ quốc tế, nợ công phải bao gồm cả nợ của doanh nghiệp Nhà nước (DNNN ), nhất là ở Việt Nam nợ của DNNN có quy mô xấp xỉ với nợ của chính phủ, nên càng không được loại nó ra khỏi nợ công.

Theo tiến sĩ Nguyễn Quang A: Nếu tính các khoản vay của ngân hàng Việt Nam và của ngoại quốc thì con số có thể lên rất cao. Còn nếu tính toàn bộ nợ của chính phủ trung ương, các chính quyền địa phương, những khoản do Nhà nước bảo lãnh, những khoản của các doanh nghiệp quốc doanh, thì tỷ lệ không còn là năm mươi mấy phần trăm GDP nữa."

Theo tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, nợ công của Việt Nam hiện có nhiều rủi ro: “ Rủi ro lớn nhất xuất phát từ việc chi tiêu và đầu tư công kém hiệu quả. Rủi ro thứ hai là một bộ phận rất lớn nợ công của các DNNN chưa được đưa vào trong các thống kê về nợ công. Khi không đo lường được và không hiểu hết “tảng băng chìm” này, thì cũng không thể quản lý rủi ro mà nó có thể gây ra. Rủi ro thứ ba là nợ công tăng quá nhanh, trong khi thâm hụt ngân sách luôn ở mức rất cao. Điều này vi phạm một nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ công, đó là nợ ngày hôm nay phải được trang trải bằng thặng dư ngân sách ngày mai. Ở Việt Nam còn có một vấn đề nữa, mà có lẽ cũng gần giống như ở Trung Quốc, tức là chi tiêu công có phần của chính phủ trung ương và phần của các chính phủ địa phương. Có lẽ phải xem xét lại việc phân cấp như thế nào để làm sao có thể kiểm soát được, chứ nếu không, 61 tỉnh thành mà đều nợ tùm lum thì rất là nguy hiểm. Tỷ lệ nợ của các chính quyền địa phương thường là cao hơn trung ương. Đó là những căn bệnh đã xảy ra rất nhiều ở Việt Nam. Tỉnh nào cũng có cảng, tỉnh nào cũng muốn xây sân bay, trong khi chỉ cách nhau chưa tới 100 cây số! Làm như thế thì thật vô cùng lãng phí “ ...

Trên tờ Tiền Phong , số ra vào đầu tháng 10, chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành cũng cảnh báo là “nợ công tăng cao mà không có khả năng trả nợ thì có thễ dẫn đến vỡ nợ như Hy Lạp bây giờ”. Ông Bùi Kiến Thành nhấn mạnh : “ Ở Việt Nam đang có vấn đề cực kỳ nghiêm trọng, đó là nạn tham nhũng và rút ruột các công trình đầu tư từ nợ công”. Chuyên gia kinh tế này cho biết, theo báo cáo của Quốc hội, công trình nào cũng bị rút ruột 5, 10, 20%, thậm chí đến 30% !

Mặt khác, ông Bùi Kiến Thành lưu ý là báo cáo của Phòng thương mại và công nghiệp cho thấy là 30% doanh nghiệp đang đứng trước nguy cơ phá sản và 50% doanh nghiệp gặp khó khăn. Ông đặt câu hỏi: “ Nếu tình hình kinh tế đình đốn như thế này thì lấy đâu ra nguồn thu để trả nợ công?”

Trong khi đó nhiều tập đoàn Nhà nước lại đang trong tình trạng báo động về nợ. Tờ Dân Trí, số ra tháng 9 vừa qua, có trích dẫn dự thảo báo cáo của Đảng ủy khối doanh nghiệp Trung ương về tình hình 8 tháng đầu năm 2011 của các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng thuộc khối này. Kết quả cho thấy là chỉ trong 8 tháng đầu năm, nhiều đơn vị đã lỗ tới hàng nghìn tỷ đồng như Tập đoàn Điện lực Việt Nam EVN, Vinashin, Petrolimex… Đứng đầu là EVN nợ gần 11,7 nghìn tỷ đồng.”


3) Dự trữ ngoại tệ thấp


Theo tuyên bố của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế (IMF/FMI) vào tháng 4 năm 2011, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam chỉ còn đủ nhập siêu không tới một tháng rưỡi. Sở dĩ dự trữ ngoại tệ xuống thấp như vậy là vì những Tập đoàn Kinh tế nhà nước đã không sản xuất những linh kiện cần thiết tại chính trong nước, mà chỉ mua những linh kiện từ nước ngoài về để ráp nối. Một số những Tập đoàn sản xuất, thay vì sản xuất, lại mua hàng có sẵn từ nước ngoài về để bán lại. Họ trở thành những Tập đoàn phấn phối, nhất là hàng hóa Trung quốc, thay vì sản xuất lấy. Nhập siêu còn là cơ hội để tham nhũng bằng tăng giá để mua.


4) Áp lực phá giá tiền đồng


Tiền ĐỒNG là tiền độc tài do quyền lực Chính trị quyết định. Ai áp lực để phá giá đồng tiền ? Chính là Chính phủ, để tiếp tục các Tập đoàn Kinh tế nhà nước, để có thể trả lương công chức, quân đội, công an, vì bệnh thành tích muốn có độ tăng trưởng Kinh tế cao, đã tự mình phá giá tiền tệ bằng bơm tiền mới vào lưu hành.

Ngày 16.09.2011, theo bản tin trên báo Thanh Niên, Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam sẽ bơm thêm vào thị trường tài chính 300,000 tỉ đồng để các ngân hàng thương mại có thể cho vay với tổng số tiền lên đến 59,500 tỉ đồng một tháng. Lạm phát tại Việt Nam cứ tháng sau cao hơn tháng trước vì tín dụng cấp phát bừa bãi cho các công ty quốc doanh và kinh tài đảng đoàn. Lạm phát tháng 8, 2011 lên đến 23.20%, cao thứ nhì trên thế giới nhưng cao nhất tại Á Châu.

Xin đọc:

VIỆT NAM BƠM 300 NGÀN TỶ ĐỒNG VÀO THỊ TRƯỜNG



Trong hoàn cảnh bí lối về ngân sách, thường sử dụng biện pháp phá giá đồng tiền, đây là quyết định ăn cướp tiết kiệm của dân đó là ý kiến của Giáo sư Florin AFTALION, là người quan sát và kinh nghiệm về những nước bắt đầu phát triển vào những năm 1980, thời kỳ mà Lạm phát Tiền tệ ở Phi Châu và Nam Mỹ lên tới 1000%...

”... dans les pays en développement le controle de la création monétaire est le plus souvent entre les mains du pouvoir politique, et non de banques centrales indépendantes. L’inflation est un moyen de fiancement très commode. Elle est apprécìee par les hommes politiques dans la mesure òu elle permet à court terme d’accorder les hausses de salaires et des subventions, de mettre de l’huile dans les rouages.” (LE MONDE Mercredi 31.10.2007, page 2)

(... tại những nước đang phát triển, việc kiểm soát phát hành tiền tệ thường nằm trong tay của quyền lực chính trị, và không ở những ngân hàng trung ương độc lập. Lạm phát là một cách thế tài trợ rất thuận tiện. Nó được ưa chuộng bởi những người làm chính trị ở phương diện nó cho phép trong ngắn hạn tăng lương và trợ cấp các Công ty, cho phép bỏ dầu vào guồng máy.)


5) Chứng khoán đi xuống


Bản Tin của FreeVietNews ngày 07.09.2011 đã nói về tình trạng sụp đổ của Thị trường Chứng khoán Việt Nam như sau:

Ngay trong tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam tụt điểm liên tục và không có khả năng gượng dậy, nhiều chuyên gia kinh tế cho biết dấu hiệu của một thời kỳ sụp đổ đang tới. Một trong những lý do quan trọng là việc thiếu minh bạch trong báo cáo tài chính của các công ty tham gia và cách quản lý thị trường yếu kém của các nhà quản lý đất nước. Dự kiến, nếu các sàn chứng khoán trong nước bị sập, dẹp, thì quả là kinh tế Việt Nam bị thụt lùi 20 năm.

Gần đây, một trong những vụ phá sản lớn của doanh nghiệp Nhà nước là Công ty Dược Viễn Đông đang kéo theo bao nhà đầu tư mất trắng. Nhưng đó chỉ là một trong hàng trăm trường hợp từ đầu năm đến nay. Các công ty thanh tra tài chính buộc phải ghi rõ trong các báo cáo về nghi vấn của họ là chẳng có xứ nào mà Kế toán trưởng lại lương cao như tại Việt Nam, có nhiều cổ phiếu, và giàu có như tại Việt Nam. Ở Việt Nam, vào được chức vụ kế toán này rất khó, vì phải biết làm giả các con số, lừa gạt các công ty audit, chạy vay tiền ngân hàng và xã hội đen, biết cách hối lộ cho Thuế vụ, Hải quan để giảm thuế, lừa gạt cổ đông nhẹ dạ…

Hầu hết các công ty, ngân hàng đều giấu nhẹm sự thật là họ đã thất bại và lỗ lã thế nào. Việc hào nhoáng bên ngoài của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay giống như một cái bẫy để rút ruột những cổ đông có tiền nhưng thiếu thông tin. Gần đây, 1 chi nhánh của Agribank, môt trong những hệ thống ngân hàng lớn nhất của Việt Nam, bị phát hiện ra rằng đã lỗ đến 3000 tỉ đồng Việt Nam, trong khi 2 năm qua (đây là 2009 mà thôi, chưa tính 2010, 4 tháng đầu 2011) họ vẫn luôn thông báo về những mức lời lớn, làm hoa mắt không ít nhà đầu tư.

Theo hồ sơ mật của Ủy ban chứng khoán Việt Nam, thì có ít nhất là 8 trên 10 ngân hàng Việt Nam đã hoàn toàn phá sản lúc này, tức là tổng tài sản disposable của họ không bằng số họ nợ người gởi vào. Những sự hỗn loạn của ngân hàng Việt Nam đang hiện ra rất rõ. Tuy nhiên, nếu như các Ngân hàng có sụp đổ đi chăng nữa, các quan to chức lớn không sao cả, vì họ đã "tự thưởng" cho họ các món tiền khổng lồ, Tết năm nay họ lãnh mỗi người bạc tỉ đồng là chuyện thường. Chỉ có dân chúng mang họa, hiện nay, nếu 1/3 số người dân đang gởi tiền ngân hàng quyết định rút ra, thì các ngân hàng sẽ bị sập ngay tức khắc.

Một kịch bản bí mật chuẩn bị để cứu thị trường chứng khoán Việt Nam đã được Nhà nước Cộng Sản Việt Nam chuẩn bị. Một quan chức ngân hàng giấu tên cho biết, giả sử dân chúng bất tín vào hệ thống ngân hàng và quyết định rút ra. Chính quyền Cộng Sản Việt Nam sẽ bung một lượng tiền lớn ra cứu, và như vậy lại gây lạm phát nặng nề. Thảm trạng này sẽ đánh thẳng vào túi tiền của mọi người dân, và khi đó, chỉ có dân chúng là người sẽ phải chịu hậu quả kinh khủng nhất.(SBTN)”

Thêm vào tình trạng sụp đổ này, đó là khủng hoảng tài chánh đang làm Hoa kỳ, Liên Au điêu đứng, nghĩa là Thị trường Chứng khoán Việt Nam không còn vốn nước ngoài vào mua nữa.


6) Tình hình sản xuất, kinh doanh rất khó khăn


Viết về Lạm phát, vật giá tăng vọt tại Việt Nam, chúng tôi luôn luôn tìm thấy ba lý do chính:

-Lý do thứ nhất là Lãnh vực Kinh tế thực: các Tập đoàn Kinh tế quốc doanh yếu kém hiệu lực sản xuất. Vì yếu kém sản xuất, nên đồng vốn rót vào không tương xứng, nghĩa là số vốn không có tương đương hàng hóa, dịch vụ. Do đó vật giá tăng lên.

-Lý do thứ hai là Nhà Nước, để giữ thể diện, thành tích của các Tập đoàn quốc doanh, nên càng đổ thêm vốn vào. Số vốn thêm mà sản xuất không có hiệu lực, thì vật giá tăng, lạm phát nhẩy vọt.

-Lý do thứ ba là khi Nhà Nước đổ vốn ra hoài, nên cạn kiệt, đành phải phá giá đồng bạc bằng cho vào lưu hành tiền mới in ra. Đây là lạm phát hoàn toàn về lãnh vực Tiền tệ.

Trở lại tình trạng yếu kém hiệu lực sản xuất của những Tập đoàn Kinh tế quốc doanh, chúng tôi muốn trích dẫn chính những nhận định của Tiến sĩ LÊ ĐĂNG DOANH.

Trong bài Phỏng vấn do Ký giả Mặc Lâm thực hiện, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh đã khẳng định một câu then chốt kết án cả một hệ thống Tập đoàn nhà nước, đó là việc yếu kém hiệu năng của những Tập đoàn này:

“Hiện nay tình trạng chi tiêu kém hiệu quả và đầu tư kém hiệu quả ở Việt Nam là tương đối nghiêm trọng và công luận cũng đã chỉ ra rất là nhiều công trình sau khi vừa mới cắt băng khánh thành xong thì đã hư hỏng và không bảo đảm các tiêu chuẩn như là đã có cam kết”.

Kém hiệu năng có nghĩa là phía Lượng Hàng hóa, Dịch vụ trao đổi giảm xuống. Điều này làm cho Lạm phát, vật giá tăng .

Cái hiệu năng thuần túy Kinh tế được đo bằng Độ lớn rộng của Biên độ Lợi nhuận (Marges Bénéficiaires) chứ không phải Tổng lượng bán hàng. Trong Thế giới cạnh tranh hiện nay, nhất là Việt Nam đã vào WTO /OMC, việc cạnh tranh ở Thị trường rất xít xao đến nỗi các Công ty tham dự khó lòng tăng giá bán để Tổng lượng bán hàng tăng lên cao. Theo Kinh tế gia Paul SAMUELSON, Giáo sư Kinh tế Havard và Nobel Kinh tế, thì Biên độ Lợi nhuận (Marge Bénéficiare) đi đến triệt tiêu trong lâu dài ở Thị trường cạnh tranh.

Vì vậy, để có thể có được Biên độ Lợi nhuận nới rộng, các Công ty đặt trọng tâm ở việc quản trị Giá thành thấp xuống, chứ không phải ở chỗ tăng Giá bán. Chính vì điểm quan trọng là quản trị Giá thành mà các Tập đoàn quốc doanh có những sai lỗi, yếu kém không thể chữa trị được. Nó thuộc vào Cơ chế CSVN. Những Tập đoàn quốc doanh phạm vào việc quản trị Giá thành yếu kém sau đây:

* Cơ sở Tập đoàn đồ sộ tốn kém, thiết bị sản xuất quá mức sánh với hàng hóa, dịch vụ cung cấp. Tất cả để lấy cái danh cho Tập đoàn chứ không theo chỉ tiêu Kinh tế. Đây là Chi tiêu cố định (Charges fixes) quá quan trọng sánh với lượng hàng hóa hay dịch vụ sản xuất. Chi tiêu cố định là những Chi tiêu giết chết xí nghiệp (Les Charges fixes sont des charges qui tuent l’Entreprise)

* Về những Linh kiện và Nguyên vật liệu, thì phần lớn lại nhập cảng từ nước ngoài khiến Giá thành tăng lên cao, và do đó làm giảm Biên độ Lợi nhuận.

* Lý do quan trọng hơn cả là Tham nhũng và Lãng phí mỗi khi xây Cơ sở hay mua thiết bị, mua những Linh kiện hay Nguyên vật liệu. Những người trách nhiệm Tập đoàn nhằm có những mua bán để Tham nhũng và Lãng phí. Đây là việc dễ dãi có vốn và không bị kiểm soát gắt gao từ Nhà Nước vì cùng đảng bao che cho nhau, hay chia phần tham nhũng, lãng phí cho nhau.


7) Tình trạng phá sản Ngân Hàng


Đây là điểm mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không dám nói trước Quốc Hội. Nhưng nếu các phương diện thuộc Kinh tế đang tụt dốc như ông Nguyễn Tấn Dũng đã liệt kê ra, thì hậu quả sẽ làm cho hệ thống Ngân Hàng phá sản.

Thực vậy, câu nói của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “Nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô trở thành thách thức lớn” có nghĩa là Kinh tế Việt Nam tụt dốc, đang trong thời kỳ Khủng hoảng trầm trọng.

Cuộc Khủng hoảng Tài chánh/ Kinh tế Thế giới năm 2008, bắt đầu bằng NỢ TƯ, đã làm giới Ngân Hàng điêu đứng, thậm chí phá sản như Lehman Brothers. Cuộc Khủng hoảng NỢ CÔNG Hoa Kỳ và Liên Âu năm 2011 đang đi đến mất mát lớn cho các ngân hàng, thậm chí Ngân Hàng DEXXIA đã vỡ nợ.

Tình trạng NỢ CÔNG tại Việt Nam mà không hoàn trả được tất nhiên sẽ làm một số Ngân Hàng phá sản.

Theo nhận định FITCH mà RFI (Thụy My) loan tin (http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20111010-fitch-cac-ngan-hang-viet-nam-can-tiep-tuc-tang-von ), thì các ngân hàng lớn của Việt Nam đang có nguy cơ bị lỗ nặng, và nhất thiết phải tiếp tục tăng vốn. Trên đây là nhận định của cơ quan thẩm định tài chính Fitch được đưa ra hôm nay 10/10/21011. Tổng lượng tín dụng của các ngân hàng Việt Nam hiện nay tương đương 120% tổng sản phẩm nội địa, tính đến cuối năm 2010.

Trong bản thông báo, cơ quan thẩm địn tài chính Fitch cho là « Các nỗ lực hiện nay nhằm tăng vốn của các ngân hàng chủ chốt ở Việt Nam là tích cực, vì hiện nay vốn của các ngân hàng này chưa đạt yêu cầu » so với tỉ lệ trong khu vực.

Tuy vậy theo Mikho Irawady, một nhà phân tích của Fitch, thì cho dù tăng trưởng tín dụng năm 2010 đã chậm lại, và đã được bơm thêm vốn, nhưng « Một lượng vốn dự phòng cao hơn là hết sức cần thiết, trước khả năng bị thất thoát vốn, và các kế hoạch phát triển trong tương lai ».

Tổng lượng tín dụng của các ngân hàng Việt Nam hiện nay tương đương 120% tổng sản phẩm nội địa, tính đến cuối năm 2010. Đây là tỉ lệ cao đối với một nước đang phát triển. Nhà phân tích trên nói thêm : « Điều này sẽ làm chất lượng cổ phiếu của các ngân hàng có nguy cơ bị sa sút và nếu tình hình chung đang khó khăn, thì sẽ tồi tệ hơn ».

Hồi cuối tháng 9, Ngân hàng Nhật Mizuho Corporate Bank đã loan báo mua lại 15% vốn của Vietcombank, tức Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, ngân hàng lớn nhất trên thị trường chứng khoán trong nước. Các chuyên gia lo ngại rằng số nợ xấu của các ngân hàng có thể cao hơn con số chính thức.

Phải đối mặt với nạn lạm phát hiện ở mức 22%, cộng với thâm hụt thương mại 12,4 tỉ đô la năm ngoái, và đồng tiền quốc gia liên tục mất giá, chính quyền Việt Nam đành từ bỏ mục tiêu tăng trưởng kỳ vọng. “


(*) Trích đăng bài viét của Giáo sư Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Phúc Liên từ Geneva ngày 26/10/2001.






Thứ Năm, 27 tháng 10, 2011

VN và PLP tăng cường hợp tác về Biển Đông

|
MANILA- Reuters - 26 /10. 2011:  Thay vì những hiệp ước quân sự chính thức về các vùng biển tranh chấp có thể dẫn đến sự phản đối từ TQ, PLP và VN hôm thứ tư đã ký với nhau thỏa thuận mở rộng hợp tác phi quân sự giữa các lực lượng hàng hải hai nước tại Biển Đồng. Hai chính phủ cũng đã thảo vềnguyện vọng thúc đẩy quan điểm đa phương và dựa trên cơ sở luật lệ trong việc giải quyết xung đột tại Biển Đông. Manila mời Ha Nội đầu tư vàokhoảng 15 lô dầu khí đang được chào hàng để khai thác tại các vùng nằm ngoài các vùng biển tranh chấp  của Biển Đông.

Tổng thống  PLP  Benigno Aquino and Chủ tịch nước Việt Nam Truong Tan Sang đã chứng kiến lễ ký kết 4 văn bản thỏa thuận , kể cả một kế hoạch  hợp tác 5 năm trong  13 lĩnh vực bao gồm nông nghiệp,năng lượng và công nghệ .

Cácthỏathuânạ quan trọng hơn liên quan đến chia sẻ thông tin vàthiết lập một đường giây nóng xử lý cácvấn đề hàng hải như cướp biển , buôn lậu, ứng phó và bảo vệ thiên tai đối với tài nguyên biển.

Ông Aquino nói sau cáccuộc đàmphán song phương: "Các thỏa thuận về việc thiết lập một cơ chế liên lạc giữa các lực lượng bờ biển của chúng ta,và cácthỏa thuận liên kết hải quân của chúng ta đánh dấu tiến bộ quan trọng trong việc đảm bảo một khu vực hàng hải an toàn và an ninh hơn".

Ông Sang hứa chính phủ của ông sẽ ủng hộ đề  nghị của Manila vệ một Khu vực Hòa bình. Tự do, Hữu nghị và Hợp tác (ZoPFFC) tại Biển Đông . Đề nghi này sẽ bổ sung cho việc thực hiện các hướng chỉ đạo của một bộ quy tác ứng xử chính thức (an informal code of conduct) của ASEAN và TQ.

"Chúng tôi một lần nữa khẳng định tầmquan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh , an toàn và tự do hàng hải tại Biển Đông " Ông Sang đã nói như vậy và nói thêm rằng ông hy vọng ASEAN đi tới một một bộ quy tác có tính ràng buộc.

Việt Nam gọi Biển Nam Trung Hoa là Biển Đông , trong khi PLP gọi đó là Biển Tây Philipin.

Cácquan chức nói rằng ông Sang đã đảm bảo với ông  Aquino rằng bản thỏa thuận 6 điểm ký giữa VN và TQ tháng này về Biển Đông sẽ không trái với quan điểm song phương và dựa trên quy tắc mà Manila thúc đẩy trong việc giải quyết tranh chấp.

Manila và Hanoi hồi đầu năm đã phản đối các hành động của TQ tại Biển Đông , và cả hai bên đã đưa ra một kế hoạch chung  phản đối đồi hỏi của Bắc Kinh tại các vùng biển tranh chấp.

PLP, VN,TQ và hai quốc gia Đông NamÁ khác đang có những đòi hỏi xung khắc nhau đối với những bộ phận của Biển Đông , nơi đơợc cho là giàu tiềm năng dầu khí nằm rãi rộng trên nhưng tuyến đường vận tải biển then chốt.
(Phóng viên thực hiện Manny Mogato; Chủ bút: Rosemarie Francisco)
Chủ Blog địch và đăng.

Thứ Sáu, 14 tháng 10, 2011

Vài suy nghĩ về chuyến thăm TQ của TBT Nguyễn Phú Trọng

Dư luận trong nước và quốc tế rất quan tâm đến chuyến đi của TBT Nguyễn Phú trong đến TQ từ 11-15/10/2011. Riêng người Việt Nam thì ngoài vấn đề thời điểm và nội dung của chuyến thăm còn quan tâm đến cả những chi tiết lễ nghi, phong cách ứng xử ,v.v... Và trên thực tế đã hình thành một trào lưu phê phán ngay từ trước chuyến thăm. Những người phê phán  cho rằng đáng lẽ TBT chưa nên đi TQ vào lúc này khi mà Bắc Kinh vẫn tăng cường xúc tiến các biện pháp xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam với  hàng loạt vụ bắt giữ, phạt vạ ngư dân ta, cho tàu hải giám cắt cáp tàu dầu khí của ta, rồi đe dọa sự hợp tác giữa Việt Nam và Ấn Độ v.v… Đặc biệt, chỉ vài ngày trước chuyến thăm Tờ Hoàng Cầu (báo chính luận của đảng CSTQ) còn lên tiếng đe dọa “đánh Việt nam…”. Tóm lại chưa nên thăm khi mà phỉa nước chủ nhà không hề cho thấy dấu hiệu kiềm chế và thái độ tôn trọng cần thiết đối với nước khách, chí ít là vào thời điểm trước chuyến thăm.

Một bộ phận  đông đảo nhân dân, kể cả trí thức, cán bộ và bộ đội về hưu hoặc đương chức lo lắng trước xu hướng mà họ cho là "vô cảm" và nhu nhược trong một bộ phận giới lãnh đạo của đất nước trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và thực hiện tự cường dân tộc trước sự lấn lướt của cường quốc láng giềng phương Bắc. Phải chăng đó là do tàn dư của thời kỳ “ý thức hệ” mà trong đó lợi ích quốc gia bị đặt dưới lợi ích của "CNXH anh em"? Phải chăng đó là do "nỗi sợ hãi" mà lịch sử đã khiến người Việt phải duy trì mãi mãi trước một kẻ thù truyền kiếp ?  Phải chăng đó còn là do sự hình thành những "nhóm lợi ích xuyên quốc gia" đang dần có khả năng chi phối đường lối đối ngoại của đất nước? Phải chăng với tất cả những nguyên nhân nói trên khiến bất cứ người lãnh đạo nào của đất nước này đều sẽ rơi vào thế khó nói thẳng và nói mạnh  đối với cường quốc số 2, mặc dù trong khi hoàn toàn có thể làm như vậy đối với cường quốc số 1 là Hoa Kỳ? Đây chính là nỗi niềm băn khoăn, lo lắng ít nhiều đang hiện hửu trong mỗi con người Việt Nam dù ở trong và ngoài nước, nhất là trước những sự thật và thử thách trong thời gian gần đây. Nỗi niềm đó hoàn toàn có thể hiểu được.

Tuy nhiên, đã nói đi thì cũng phải nói lại; có một cách tiếp cận khác đối với chuyến thăm TQ của TBT. Đó là, khách quan mà nói, nếu xem xét mọi khía cạnh, ta thấy  chuyến đi của TBT Nguyễn Phú Trong sang TQ lúc này là việc “không thể đừng”, vì đó không chỉ là một cử chỉ xã giao giữa các quốc gia mà còn mang tính truyền thống trong quan hệ Việt – Trung. Hơn nữa, cái chính là chuyến thăm thực ra đã được sắp đặt một cách có tính toán và hợp lý nhất trong bối cảnh tình hình đối nội , đối ngoại của đất nước cũng như trong mối tương quan lực lượng quốc tế và khu vực hiện nay. Cụ thể, trước khi thăm TQ,  TBT Nguyễn Phú Trọng đã thăm  Lào,  đó là một thứ tự hoàn toàn khác với thời kỳ của TBT Nông Đức Mạnh cũng như nhiều đời TBT  trước đây. Hơn nữa cùng thời gian chuyến thăm TQ của TBT còn có là chuyến thăm đầy ý nghĩa thực tiễn của  Chủ tịch nước đến Ấn Độ - một động thái mà dư luận báo chí phương Tây cho là  Việt Nam "chọc giận" TQ!. Một sự kiện quan trọng nữa diễn ra đồng thời cùng thời gian này là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nghênh tiếp đoàn cấp cao CHLB Đức "để nâng quan hệ hai nước lên tầm cao đối tác chiến lược". Có một điều cũng lưu ý, đó là  phía nước chủ nhà mặc dù bận  đón Thủ tướng Nga Putin  nhưng vẫn dành những nghi thức và nghi lễ ngoại giao đầy đủ và trọng thị đối với cấp nguyên thủ của khách Việt Nam.

Trong thủ thuật ngoại giao và quan hệ quốc tế, những điều trên đây  đều phải được đem ra “đong đếm” đầy đủ trước khi đi tới những nhận định đánh giá nào đó, huống chi đây là phạm trù quan hệ Việt-Trung.  Thử  hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu một vị TBT mới của Việt Nam mà quá chậm trễ (hoặc không) thăm chào xã giao đối với nước lớn láng giềng phương Bắc ? Do đó,  có thể thấy rằng chuyến thăm TQ của TBT Nguyễn Phú Trọng vừa qua là một hoạt động cần thiết.
Xét về nội dung, ta thấy có 6 văn kiện hợp tác được ký kết, nhưng chỉ một văn kiện có tầm quan trọng thực sự đó là   "Nguyên tắc chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển".

Có những ý kiến phê phán nghi ngờ về việc soạn thảo quá nhiều văn kiện trong thời gian ngắn, có những ý kiến đi sâu phân tích phê phán từng câu chữ của các văn kiện, v.v…Sự phê phán như vậy có thể đúng một phần, nhưng không nhất thiết phải quá lo ngại về những chi tiết như vậy. Thực ra những văn kiện đó đều đã được các chuyên gia cấp dưới bàn bạc và thỏa thuận từ trước chuyến thăm, mà thực chất chỉ là "rượu cũ, bình mới” mà thôi! Nếu có chuyện đúng/sai về nội dung, kể cả những tiểu tiết hoặc sai sót trong nghi thức và giao tiếp. v.v…  thì chúng đều đã được thể hiện trong cả quá trình quan hệ hai nước từ lâu nay rồi. 

Không thể kỳ vọng gì hơn từ một chuyến thăm xã giao, nhất là trong bối cảnh mà ta đã bàn đến trên đây. Vấn đề là cách hiểu và sự vận dụng của mỗi bên vào thực thi các vấn đề cụ thể sắp tới. Thực ra nó phụ thuộc rất nhiều vào “thiện chí” của nước lớn, điều mà nhân dân Việt Nam bằng kinh nghiệm cay đắng của mình luôn cảm thấy rất mỏng manh, do đó dễ sinh ra nghi kỵ cũng là chuyện dẽ hiểu. Mục đích lớn nhất của  phía Trung Quốc đối với chuyến thăm như thường lệ vẫn là để "tạo dáng" hình ảnh của một "ông anh XHCN" đối với Việt Nam và một "cường quốc đàng hòang" đối với thế giới. Chuyện họ có "đánh" Việt nam nữa hay không hoàn toàn không phụ thuộc vào bất cứ câu chữ nào của các văn kiện vừa ký kết. Vì vậy, tốt hơn hết là, mọi người cần tiếp tục theo dõi quá trình sắp tới để rồi sẽ  kiểm nghiệm và kết luận tiếp.   

Với cách tiếp cận như trên, có thể nói chuyến thăm TQ của TBT Nguyễn Phú Trọng vừa qua thực sự chỉ là hình thức ngoại giao; nhưng cũng là một thắng lợi đối với Việt Nam trong cả quá trình đấu tranh đang tiếp diễn. Nó cũng có thể là một thắng lợi của Bắc Kinh theo cách nhìn của họ./.

Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2011

Cần có đổi mới lần hai

Đó là nhận định của  TS. Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương trong trả lời phỏng vấn của VnEconomy tại cuộc Hội thảo về các vấn đề kinh tế vĩ mô do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức cuối tuần qua tại Tp.HCM.

Là diễn giả đăng đàn thứ ba với chủ đề “Điều chỉnh kế hoạch 5 năm 2011 - 2015, tái cơ cấu và cải cách kinh tế” tại hội thảo này, ông Doanh đã hơn một lần nhấn mạnh rằng cần phải nhìn thẳng vào sự thật và “cần có đổi mới lần hai” một cách sâu sắc, toàn diện.

Phải nói thẳng

Thưa ông, nhận định nền kinh tế đang ở tình trạng “xấu nhất từ năm 1991” đã được “kiểm nghiệm” ở diễn đàn nào chưa?
Chưa đâu, đây là lần đầu tiên tôi đưa ra nhận định này.
Các ý kiến tại hội thảo đều rất dễ dàng thống nhất là nền kinh tế đang rất khó khăn, song nếu khái quát như ông thì liệu có vội vàng quá không?
Thì bạn đã nghe cả tại hội thảo rồi đấy. Phải nói thẳng là tình hình đang rất xấu.
Xét về tất cả các tiêu chí kinh tế vĩ mô như lạm phát, bội chi ngân sách, thâm hụt thương mại, cán cân thanh toán quốc tế, nợ nước ngoài và nợ công, tỷ giá đồng tiền Việt Nam cũng như sự giảm sút niềm tin của người dân, nhà đầu tư trong nước và ngoài nước… đều đang ở mức trầm trọng.
Đáng chú ý là sức khỏe của hệ thống ngân hàng bộc lộ nhiều vấn đề, tỷ lệ nợ xấu tăng lên. Mức tín nhiệm của Việt Nam bị các công ty nước ngoài hạ thấp đến mức B-, tức là mức thấp nhất trước mức C.
Xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam bị giảm 6 bậc trong năm 2011, xuống vị trí 65 trên 142 nền kinh tế. Tích lũy từ nội bộ kinh tế liên tục giảm sút, để duy trì mức đầu tư cao, nước ta đã tăng vay mượn nước ngoài, không chỉ qua nguồn ODA mà còn cả qua các kênh bán trái phiếu chính phủ trên thị trường tài chính quốc tế và bảo lãnh cho doanh nghiệp nhà nước vay mượn thương mại với lãi suất cao. Số nợ của khu vực doanh nghiệp nói chung, kể cả doanh nghiệp tư nhân kinh doanh bất động sản cũng tăng cao rồi.
Nợ nước ngoài lên đến 42% GDP, cao nhất từ 1998 đến nay. Nếu tính thêm nợ của các doanh nghiệp nhà nước mà chính phủ bảo lãnh và phải trả nợ thay khi doanh nghiệp chưa trả được, như trường hợp xi măng Đồng Bành vừa qua, thì tổng số nợ đã vượt quá 100% GDP.
Một vấn đề nữa rất đáng chú ý hiện nay là chênh lệch giàu-nghèo tăng lên rõ rệt. Đặc biệt, bên cạnh những người nghèo gặp khó khăn rất lớn trong đời sống, chữa bệnh, cho con đi học..., đã xuất hiện những hiện tượng phô bày sự giàu có, xa hoa theo kiểu trọc phú, rất xa lạ với truyền thống dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước.
Rồi, tội ác hình sự, các hành vi bạo lực và các tệ nạn xã hội tăng nhanh, tình hình trật tự xã hội có diễn biến phức tạp, người dân lương thiện cảm thấy kém an toàn khi đi ra đường hay đến nơi đông người.
Nhưng thưa ông, chúng ta vẫn thường nghe các đánh giá là kinh tế - xã hội đang có chuyển biến tích cực?
Tất nhiên hiện thực là bức tranh nhiều màu sắc. Bên cạnh những “khoảng tối” như tôi vừa nói thì cũng có điểm sáng, như sản xuất nông nghiệp đạt khá, xuất khẩu, trong đó có xuất khẩu gạo… vẫn tăng.
Bên cạnh hàng nghìn doanh nghiệp phải ngừng sản xuất thì cũng có doanh nghiệp làm ăn được. Ví dụ doanh nghiệp Mỹ Lan ở Trà Vinh chế ra vật liệu nano xuất khẩu, hay gốm sứ Minh Long cũng có công nghệ tiên tiến, sản phẩm có năng lực cạnh tranh…
Những điểm sáng như vậy có thể tìm thấy ở tất cả các lĩnh vực, các địa phương, nhưng chính những doanh nghiệp này cũng đang gặp khó khăn vì lãi suất cao, lạm phát làm chi phí đầu vào tăng nhanh.
Những điểm sáng đó mình phải thừa nhận, song một vài con én nhỏ không làm nên mùa xuân, không làm thay đổi được cục diện.
Vậy nên đã đến lúc nhìn thẳng vào sự thật, phải có sự chuyển hướng chiến lược để khôi phục lại niềm tin của dân và các nhà đầu tư.

“Đổi mới lần hai”

Xin mạn phép hỏi ông, ông nghĩ sao khi có ý kiến cho rằng, dù sao khi đã nghỉ hưu rồi thì cũng dễ “nói mạnh” hơn khi còn đương chức?

Với tôi thì không phải, tôi luôn luôn nói sự thật, vì thế nhiều phen sóng gió lắm rồi đấy, nhưng chắc bạn không biết rõ vì khi ấy bạn còn trẻ.
Còn ở tình thế hiện nay thì tôi thấy cả các anh đương chức cũng nói thẳng là chúng ta không nên ảo tưởng nữa, và nếu không điều chỉnh cho sát thực tế hơn thì kế hoạch 5 năm tới sẽ không thể thực hiện được.
Bởi thế nên ông mới kiến nghị “tình hình kinh tế-xã hội rất không bình thường này cần được phản ánh trung thực với Quốc hội để có quyết sách thích hợp cho 5 năm tới và năm 2012”?
Theo tôi thì đã đến lúc Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất cần có quyết định cải cách mạnh mẽ, mà tôi tạm gọi là đổi mới lần thứ hai, để tránh khủng hoảng.
Như đã nói, cần điều chỉnh kế hoạch 5 năm tới. Trước mắt, cần có kế hoạch ổn định kinh tế vĩ mô gắn liền với tái cơ cấu và cải cách toàn diện trong ít nhất là hai năm 2012-2013, trước khi tiếp tục thực hiện các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2011-2015.
Mục tiêu của kế hoạch này là giảm lạm phát, bội chi ngân sách, nhập siêu, cải thiện rõ rệt các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô bằng những cải cách mạnh mẽ trong thu-chi ngân sách, cắt giảm mạnh mẽ đầu tư công, thực hiện công khai minh bạch trong chi tiêu ngân sách, hoạt động đầu tư, thực hiện tinh giảm bộ máy nhà nước đã phình to lên nhanh chóng trong thời gian qua, cắt giảm biên chế hành chính.
Cần sửa đổi, bổ sung Luật Ngân sách, giảm hẳn các khoản chi tiêu còn để ngoài ngân sách, thực hiện sự giám sát đầy đủ, chặt chẽ của Quốc hội và các cơ quan dân cử về chi tiêu ngân sách. Cần sửa đổi, bổ sung Luật Mua sắm công, ban hành Luật Đầu tư công nhằm hạn chế tham nhũng, lãng phí, chia chác trong nhóm lợi ích.
Khâu trọng tâm là cải cách các tập đoàn kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh cổ phần hóa, thực hiện mô hình quản lý‎ dựa trên kết quả, công khai minh bạch như những công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Khác với lần đổi mới thứ nhất - chủ yếu là cởi trói và giải phóng sức sản xuất, được sự ủng hộ của đông đảo nông dân và quảng đại quần chúng - đổi mới lần này đòi hỏi phải nâng cao chất lượng của bộ máy, chính sách, phải tiến hành phẫu thuật, cắt bỏ những ung nhọt đang gây ra những căn bệnh kéo dài của nền kinh tế và xã hội.
Có thể, một số nhóm lợi ích đang được hưởng lợi lớn sẽ không ủng hộ một cuộc đổi mới như vậy. Đó là nhiệm vụ khó khăn cần phải vượt qua, và cũng là sứ mệnh vẻ vang của thế hệ lãnh đạo hiện nay.

Phản biện chính sách cần được làm chu đáo hơn

Trong số các giải pháp để “chữa bệnh” bất ổn, nhiều ý kiến đặc biệt nhấn mạnh đến việc giảm thu, giảm chi và tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước, ông có chia sẻ?
Giảm thu, giảm chi thì rất đúng rồi. Tập trung ổn định vĩ mô và phải khoan sức dân, bớt thuế bớt chi tiêu đi.
Tôi cho rằng cần phải phát động phong trào toàn dân cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một vị giáo sư người Nhật nói với tôi trước đây ông ấy đến Việt Nam thì được mời rượu Johnnie Walker đỏ, còn bây giờ thì họ mời Chivas giá mười mấy triệu. Và ôtô người Việt đi cũng sang hơn trước đây nhiều. Ở Nhật, không bao giờ một quan chức nào có thể mời bạn uống rượu sang như vậy bằng tiền ngân sách.
Vì thế cần phải tiết kiệm, trong đó thì cơ quan nhà nước cần gương mẫu trước.
Còn về tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước thì tôi đã nói nhiều lần là cơ chế quản lý của doanh nghiệp Việt Nam rất kém, nhưng không phải là không khắc phục được.
Đi Trung Quốc, tôi được Phó thủ tướng phụ trách công nghiệp của Trung Quốc cho biết là đã áp dụng chế độ quản lý theo hiệu quả, nhưng doanh nghiệp nhà nước bên đó cũng còn rất nhiều vấn đề.
Hỏi thế làm thế nào để khắc phục thì ông ấy cho biết là yêu cầu một nhóm các nhà khoa học, các chuyên gia khảo sát và đề ra1 hệ tiêu chí, như phải tăng năng suất bao nhiêu, đổi mới công nghệ thế nào, lương thưởng bao nhiêu… sau đó công khai đăng lên. Ai có phương án thì gửi đến, rồi mời hội đồng nghe báo cáo, bỏ phiếu kín, người được phiếu cao nhất thì bổ nhiệm làm lãnh đạo 3 năm. Năm đầu làm không tốt thì không lên lương, năm thứ hai vẫn không làm được thì hủy hợp đồng không cho làm nữa và thay băng người khác.
Tại sao họ làm được mà Việt Nam mình chưa làm được?
Nhân nói đến vai trò của các nhà khoa học và chuyên gia kinh tế, có chuyên gia tự phê là ý kiến nào cũng nhấn mạnh phải tái cơ cấu nền kinh tế, nhưng để góp ý cho Chính phủ tái cơ cấu bắt đầu từ đâu thì đội ngũ các nhà khoa học cũng chưa làm được nhiều. Ông có thấy “chạnh lòng” không ạ?
Lần gần đây nhất được mời đến hội nghị tham vấn cho Chính phủ thì tôi lại đang hội thảo ở nước ngoài nên không dự được, rất tiếc.
Đóng góp cá nhân thì có cũng có thể chưa đáp ứng được yêu cầu, nhưng tôi nghĩ chúng tôi luôn cố gắng đóng góp.
Chỉ có điều vai trò phản biện cũng chưa được coi trọng đúng mức, thể hiện ở cách làm vội vã. Thông báo trước hai ngày bảo mời anh đến thì làm sao mà chuẩn bị tốt được. Lẽ ra anh phải đặt hàng trước một số vấn đề để người tư vấn có thời gian chuẩn bị thật tốt. Sản phẩm 24 tiếng dĩ nhiên phải khác với sản phẩm được nghiên cứu nghiêm túc trong 2, 3 tháng chứ.
Cho dù như vậy thì có còn hơn không, thưa ông?
Rõ ràng chứ, chỉ có điều cần mở rộng hơn nữa. Tôi tin là nếu có quyết tâm cải cách, chúng ta sẽ làm được, làm tốt.

Nguồn: Vn Economy được Cà phê cuối tuần đưa lại ngày 01/10/2011)

Tran Kinh Nghi

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này