Thứ Tư, 6 tháng 7, 2011

Có nên bao cấp lòng yêu nước(*)

(*)Chủ blog tôi vừa nhận được e-mail của một người bạn-TS Phạm Gia Minh- một thành viên của nhóm mà chúng tôi gọi đuà là "Coffee Club". Thấy bài viết đề cập đến một chủ đề khá thú vị nên tôi xin mạn phép tác giả được post lên blog này để có thêm bạn đọc.
Quả thực có rất nhiều cách nhìn và góc độ nhìn về đất nước của chúng ta của ngày hôm nay. Nhưng có lẽ không thể và không nên bỏ qua những kinh nghiệm của quá khứ, đặc biệt là quá khứ gần đây. Và điều quan trọng hơn cả là phải biết dứt khoát từ bỏ những gì đã rõ mười mươi là là sai lầm ấu trĩ.

Với cách đặt vấn đề như vậy, chủ blog tôi trộm nghĩ, bài viết của TS Phạm Gia Minh cho thấy cách lập luận chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn: Lâu nay một bộ phận lớn dân ta vẫn quen chờ xem Đảng và Chính phủ chủ trương như thế nào trước mọi hành động dù là vô cùng ngang trái của phía Trung Quốc. Rất nhiều người vẫn cho rằng đó là việc của Đảng và Chính phủ...., mình là dân thì không việc gì phải lo lắng (?) Thật đáng buồn rằng khi giặc đã đến nhà mà vẫn phải chờ cấp trên cho lệnh đánh hay đàm thì e rằng ngay cả cái mạng sống cũng không giữ được, huống chi là giữ cái nhà (?). 
                            CÓ NÊN BAO CẤP LÒNG YÊU NƯỚC ?

Nhắc đến cụm từ “ cái thời của cơ chế quan liêu , bao cấp “ hẳn những ai ở độ tuổi trên
40 vẫn còn nhớ cảnh xếp hàng cả ngày chỉ để mua mấy lạng thịt hay cân gạo v.v…
theo tem , phiếu . Cán bộ hay thường dân đều được quy định tiêu chuẩn được mua bao
nhiêu lương thực, thực phẩm và các loại nhu yếu phẩm khác tùy theo cấp bậc với mức
giá do nhà nước quy định . Hàng ngũ cán bộ nhà nước thì được phân ra làm mấy cấp ,
chẳng hạn A – cán bộ cao cấp, hàm bộ trưởng trở lên, B- cán bộ cỡ thứ trưởng , C- cỡ
đứng đầu vụ , viện , còn thấp hơn thì là D, E .Dân thì được hưởng loại tem phiếu có
chữ N . Cưới hỏi hay ma chay cũng được nhà nước quy định bằng những tiêu chuẩn cụ
thể.
Hàng hóa thì thiếu nhưng sản xuất , lưu thông lại bi “ngăn sông , cấm chợ “ và động
lực mang tính bản ngã của con người là mưu cầu cho bản thân lợi ích vật chất và tinh
thần đã không được tính đến , thậm chí còn bị ngăn cấm hoặc ít ra là cũng bị cản trở bởi
sự cào bằng ai cũng như ai. Kết cục như thế nào và vì sao phải có công cuộc Đổi mới,
chúng ta ai cũng đã rõ , rõ tới mức là ngày nay rất ít người muốn quay lại cái thời bao
cấp mông muội , trái với quy luật tự nhiên ấy nữa.
Đã là quy luật thì phải qua một quá trình nhận thức , tìm hiểu, thậm chí là va đập phũ
phàng con người ta mới “ ngộ” ra . Suốt thời bao cấp chúng ta đã không hiểu ít nhất là
hai quy luật sau :
Con người bình thường ( chưa nói tới con người có giác ngộ cao, được giáo
dục và tu luyện đặc biệt ) trước tiên luôn hành động mưu cầu lợi ích vật
chất và tinh thần cho bản thân. Đặc điểm này là nền tảng cho lý thuyết “
bàn tay vô hình” của kinh tế thị trường. Xét toàn diện hơn , nhu cầu của con
người được thể hiện theo sơ đồ Maslow bao gồm 5 cấp bậc : 1. thỏa mãn
nhu cầu cơ bản về cơm ăn áo mặc, nhà ở…2. nhu cầu được an toàn về thân
thể và tinh thần 3. nhu cầu về xã hội ( tham gia vào các hoạt động cộng đồng, tổ chức tập thể , hội đoàn, học tập v.v…4. nhu cầu được tôn trọng
trong xã hội 5. nhu cầu được thể hiện năng lực , phẩm giá và sự sáng tạo
cống hiến cho xã hội.
Trong đời sống xã hội và hoạt động kinh tế các mối tương tác nảy sinh trong
quá trình vận động , phát triển nói chung là phức tạp ( các nhà khoa học hệ
thống tạm gọi đặc điểm này là tính “ phi tuyến tính và bất định” thậm chí
nhiều khi còn “ đa vòng “ – tức là không thể phân biệt đâu là nguyên nhân ,
đâu là kết quả vì hai khái niệm này luôn luôn hoán đổi vai trò ) .. Do vậy
ý tưởng mang tính bao cấp, đó là tập trung toàn bộ quá trình thu thập, xử
lý thông tin và ra quyết định từ một trung tâm chỉ là một ảo tưởng , mặc dù
đó là một ảo tưởng ngọt ngào và hấp dẫn trước khi bị va đập với thực tiễn
khắc nghiệt đòi hỏi phải thực hiện phân cấp hoặc “mạng lưới hóa “ các hoạt
động. Thực chất đây là quá trình dân chủ hóa xã hội xét theo mọi khía cạnh.
Khi trả lại cho con người cái quyền được tự do quyết định lựa chọn mục đích phấn đấu
của bản thân cũng như phương cách để đạt mục đích đó thì xã hội sẽ phát triển đúng
quy luật, nhà nước không còn phải bao cấp như trước để có thể tập trung vào việc đề
xuất ra những chính sách điều hành vĩ mô sáng suốt và giám sát thực thi chúng có hiệu
quả.
Một cách logic , từ bỏ cơ chế bao cấp trong hoạt động kinh tế sản xuất vật chất ( hạ
tầng xã hội ) ắt phải dẫn đến những thay đổi phù hợp trong các lĩnh vực thuộc phạm
trù chính trị, tâm linh hay văn hóa- xã hội v.v…( thượng tầng kiến trúc) . Ở đây những
bước đi sao cho phù hợp là cả một nghệ thuật , nó đòi hỏi những nhà lãnh đạo đất nước
phải có tâm sáng, trí đầy và bản lĩnh như trời biển. Nói tóm lại , sự xóa bỏ bao cấp
trong các lĩnh vực ở thượng tầng kiến trúc là cái điều tất yếu phải thực hiện một cách
thận trọng, khoa học nhưng kiên quyết, đúng thời điểm vì chúng ta không ai muốn xã
hội rơi vào cảnh hỗn loạn.
Những ngày này, khi làn sóng phản đối nhà cầm quyền TQ có những hành động vi
phạm thô bạo chủ quyền lãnh hải Việt nam và một số nước ASEAN, nhiều tầng lớp
nhân dân từ các nhà trí thức có tên tuổi đến các bạn thanh niên , sinh viên , công nhân,
nông dân …với nhiệt huyết yêu nước nồng nàn và ý thức bảo vệ tương lai dân tộc đã
xuống đường tuần hành một cách ôn hòa để đồng bào cả nước cùng thế giới thấy được
tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường “ không có gì quý hơn Độc lập, Tự do” của chúng
ta mỗi khi sơn hà nguy biến . Thiết nghĩ, đó là hành động đáng được trân trọng và động
viên . Tuy nhiên ở đâu đó vẫn có ý kiến rằng “ việc ngoại giao với nước ngoài đã có
nhà nước lo, nhân dân khỏi phải can dự vào cho thêm rách việc …” .
Nếu những lời khuyên can trên từ miệng một người dân thì tôi đánh giá người ấy là vô
cảm trước vận nước và kém cỏi . Còn nếu là ý kiến của quan chức nhà nước thì có lẽ
tư duy bao cấp trong đầu người đó hẳn còn rất nặng nề, chưa hề được gột sạch dù thực
tiễn cuộc sống ngày hôm nay đã khác trước, rất khác trước.
Không thể có chỗ đứng cho cơ chế bao cấp đối với lĩnh vực thiêng liêng nhất trong trái
tim và khối óc mỗi người Việt chúng ta , đó là lòng yêu nước . Bởi lẽ biển cả trí tuệ
và lòng dũng cảm của nhân dân bao giờ cũng vô địch, nó có thể đưa cả con tàu vượt
ngàn trùng nhưng cũng có thể lật thuyền ngay cả nơi nước cạn .

Bài do tác giả TS Phạm Gia Minh gửi từ Thành phố Hồ chí Minh 3/7/2011

--------------

Khóa V: Nhớ lại và suy nghĩ (*)

(*)Phát lại một tiểu phẩm của chủ blog tôi đã đạt giải nhất trong cuộc thi viết nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Học viện Ngoại giao (1959-1009)  Hay /dỡ... xin  được lượng thứ!

Khóa V: Nhớ lại và suy nghĩ  

Ngày đầu nhập môn
Một ngày nắng nóng mùa hè năm 1964, theo giấy báo, tôi tìm đến địa chỉ Trường Cán bộ Ngoại giao-Ngoại thương để làm thủ tục nhập học. Đó là một khu khá rộng chỉ cách Chùa Láng quãng 200 mét, nằm lọt giữa vùng rau Húng Láng nổi tiếng. Khác hẳn với những gì tôi đã mường tượng , ở đó thấy toàn những dãy nhà cấp bốn đơn sơ cũ kĩ, trông giống một cơ sở sản xuất hơn là trường học. Nếu không có tấm biển hiệu nhỏ bên ngoài cổng trường (thời đó quay ra phía đường Pháo Đài Láng), chắc không mấy ai biết đây là trường đại học.
Đang ngỡ ngàng thì một người đàn ông trẻ tuổi cao lớn có khuôn mặt chữ điền với nụ cười cởi mở tiến đến bắt tay tôi và tự giới thiệu tên là Tâm. Anh mời tôi vào bên trong hành lang cho đỡ nắng, rồi lần lượt tiếp đón những người khác đang kéo đến. Khi thấy đã khá đông đủ, anh mời tất cả vào bên trong một căn phòng rộng hơn 30 mét, to hơn phòng bình thường nhưng chưa đến mức gọi là hội trường, để bắt đầu thủ tục nhập học. Căn phòng trang trí rất giản dị, nếu không nói là tuềnh toàng. Đúng ra đó chỉ là một cuộc họp để nghe đại diện nhà trường phổ biến các việc cần làm, chủ yếu là để hoàn tất các hồ sơ cá nhân và “chốt” danh sách cuối cùng của khoá học. Số là, do hoàn cảnh chiến tranh phá hoại đang leo thang, năm đó cả nước ta không tổ chức thi tuyển mà “chọn tuyển” và “cử tuyển” theo nhu cầu của các bộ/ngành; ngoại trừ những cán bộ được cơ quan cử đi học, các học sinh phổ thông hầu như chưa biết có ngành học ngoại giao. Bản thân tôi đã đăng ký ngành xây dựng và đang trong dánh sách “chờ” đi nước ngoài của Bộ Giáo dục, do đó hoàn toàn bất ngờ khi nhân được giấy gọi vào ngoại giao. Từ hôm nhận được giấy báo tôi thấy lo lo và có phần do dự. Thời đó, như đa số học sinh phổ thông, tôi thích chọn ngành kỹ thuật chứ không thích những ngành “ăn trắng mặt trơn”…; ngoài ra tôi còn có chút mặc cảm về chiều cao “khiêm tốn” của mình nên thực sự không thích làm ngoại giao. Tâm trạng thì vậy, nhưng vốn đã được giáo dục nhiều về “tinh thần, ý thức trách nhiệm” trong quá trình ở trường nội trú học sinh miền Nam nên tôi không dám từ chối. Và đó thực sự là một lựa chọn khó khăn đầu tiên trong đời tôi.
Hôm đó chúng tôi cũng được phổ biến rằng tuy không phải là trường nội trú nhưng nhà trường có thể bố trí chỗ ở tập thể cho các sinh viên ngoại tỉnh. Vậy là cũng may cho tôi vì lúc đó tôi không còn thuộc diện được ở trong trường nội trú học sinh miền Nam nhưng cũng không có gia đình ở Hà Nội. Và tôi đã quyết định xin được ở nội trú luôn hôm đó. Trong thâm tâm tôi cũng thích như vậy vì từ nhỏ toàn ở nội trú quen rồi.
Không khí buổi nhập học nói chung không có gì đặc biệt, nếu không nói là không được như mong đợi. Trường học tuềnh toàng, học sinh quá ít lại toàn nam giới khiến bọn trẻ chúng tôi mất cả hứng! Có lẽ chỉ có một chi tiết ít nhiều để lại một chút ấn tượng về “ngoại giao” theo quan niệm của tôi thời bấy giờ, đó là phong cách tiếp đón khách niềm nở của anh Tâm.
Sau này tôi mới biết thêm rằng cuộc nhập học diễn ra nhanh gọn và đơn giản như thế là vì nó được tổ chức riêng theo hai đơn vị Khoa Ngoại giao và Khoa Ngoại thương tại 2 địa điểm khác nhau; số học viên tuyển bên Khoa Ngoại thương đông hơn nhiều, chủ yếu là học sinh phổ thông và có khá nhiều nữ sinh. Điều này cũng có nghĩa là kế hoạch “tách trường” thực sự đã có từ lúc đó, nhưng gần 2 năm sau, khi Trường đang sơ tán ở Bắc Thái, mới thực hiện xong.
Khoá V còn được gọi là “Lớp Nghiệp vụ V”
Được biết, năm 1959 Bộ Ngoại giao có tổ chức một khoá đào tạo phiên dịch tiếng Anh chính quy đầu tiên tại một cơ sở nhỏ ở Bưởi nhằm kịp thời phục vụ nhu cầu công tác đối ngoại đang tăng lên sau hoà bình lập lại. (Nghe nói cựu Bộ trưởng Nguyễn Di Niên cũng thuộc khoá đó). Những năm sau Bộ gửi học viên ngoại giao vào Khoa Ngoại giao-Ngoại thương trực thuộc Trường Kinh tế Kế hoạch (nay là Đại học Kinh tế Quốc dân). Đến năm 1963 mới tách ra thành Trường Cán bộ Ngoại giao-Ngoại thương đóng trụ sở tại Láng.
Vì thế theo thứ tự, khoá tôi là Khoá V (thời gian học 5 năm, nhập học hè 1964, ra trường năm 1969). Đây là khoá bắt đầu có tuyển học sinh mới tốt nghiệp phổ thông (chứ không phải chỉ có “cán bộ cử đi học” như trước đây); tổng số ban đầu quãng 50 người, sau “rơi rớt” dần còn hơn 40 người. Tôi còn nhớ thành phần học viên rất khác nhau về tuổi tác và xuất xứ nghề nghiệp. Khoảng một nửa là học sinh mới tốt nghiệp năm 1964. Thuộc diện này ngoài tôi ra có Nguyễn Quý Bính, Đỗ Công Minh, Nguyễn Văn Sơn, Cao Danh Quyền, Ngô Văn Hoa, Đinh Quang Tiến, Nguyễn Văn Cung, Triệu Kỷ Nguyên và một vài người nữa tôi không còn nhớ rõ. Một số tốt nghiệp 1-2 năm trước, trong đó có Nguyễn Thành Châu, Nguyễn Văn Khoa, Đỗ Tất Chất, Thân Xuân Lê, Phạm Văn Nhữ, Phùng Mai, Nguyễn Hồng Phong… đặc biệt có hai người tên là Tung và Tăng - một sự trùng hợp thật thú vị! Diện cán bộ đi học gồm các anh Phạm Tấn Vọng, Hồ Liên (của Bộ Ngoại giao); các anh Sâm, Thực, Dong và Lân (Bộ Công an); có cả một số cán bộ chủ nhiệm HTX như anh Luân, anh Khổn, anh Hạt, anh Bảng; anh Tuyến và hai sĩ quan quân đội là Trần Hải (hải quân) và Ngô Ngọc Phiếu (pháo binh). “Phái yếu” chỉ có một người duy nhất là chị Tâm (cũng là cán bộ của Bộ Công An cử đi học). Khoá được biên chế thành 2 lớp theo ngôn ngữ Anh và Pháp trên cơ sở một phần theo nguyện vọng cá nhân một phần theo sự phân công của tổ chức; mỗi lớp trên dưới 20 người. Các môn chính trị, nghiệp vụ thì học chung như nhau.
Khoá V còn được gọi là “lớp nghiệp vụ V” từ khi có Khoá VI (niên khoá 1965-66). Khoá này gồm 2 loại lớp chuyên ngành là lớp Phiên dịch (chương trình học nặng về ngoại ngữ); và lớp Nghiệp vụ (năng về các môn nghiệp vụ).Vì thấy Khoá V cũng học nhiều nghiệp vụ hơn nên mọi người quen gọi là “Lớp nghiệp vụ V”, thế thôi.
Chưa ấm chỗ đã phải đi sơ tán
Đầu năm 1964, trước thất bại nặng nề tại chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ phát động chiến tranh phá hoại bằng không quân chống miền Bắc. Đầu tiên chúng tạo ra vụ “Vịnh Bắc Bộ” để lấy cớ dùng hải quân và không quân đánh phá ven biển Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ninh, Hải Phòng. Cuộc chiến tranh nhanh chóng “leo thang” ra toàn miền Bắc, đến cuối năm đó về cơ bản không còn giới hạn nữa; máy bay địch tuy chưa thật sự “chạm” vào Thủ đô nhưng ngày nào cũng nghe loa phóng thanh thông báo “máy bay địch cách thành phố…kilômét” với những cự ly ngày càng ngắn dần và nghe rõ tiếng bom và đạn rốc-két vang rền; trên bầu trời xuất hiện nhiều vệt khói của tên lửa phòng không hoặc máy bay chiến đấu của ta xuất phát từ các căn cứ quanh Hà Nội.
Trước diễn biến tình hình ngày càng nghiêm trọng, chúng tôi thực sự chỉ được ở lại Trường quãng hơn 1 tháng, chỉ đủ để chuẩn bị cho công cuộc sơ tán toàn trường “một cách triệt để và lâu dài” (theo cách nói của Lãnh đạo ta thời đó). Chúng tôi thực sự không thấy lo lắng gì về chuyện phải đi sơ tán, nên dù được ở lại trường trong thời gian ngắn vẫn hăm hở bắt đầu những buổi học đầu tiên, đặc biệt là môn ngoại ngữ. Ngoài giờ học tôi tranh thủ cùng vài người bạn đi tham quan một số địa điểm nổi tiếng như Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm, Văn Miếu, Quảng trường Ba Đình, Công viên Thống Nhất…, dạo qua cổng một số trường đại học lớn như Bách Khoa, Kinh tế Kế hoạch…, đi chơi Chợ Đồng xuân và khu phố cổ. Hồi đó tôi phân vân: Hà Nội đâu có gì đẹp và đáng yêu đến mức như được mô tả trong thơ ca và âm nhạc? Thế nhưng sau này khi rời Hà Nội đi sơ tán tôi mới hiểu điều đó; mỗi khi nghe một bài hát, bài thơ về Hà Nội tự dưng tôi cảm thấy xúc động vô cùng….Có lẽ Hà Nội luôn đáng yêu hơn nhiều khi ta xa nó - một thứ tình yêu mà khi đang sống ngay trong lòng nó ta có thể không nhận ra.
Chưa kịp “ấm chỗ” tại Láng thì khoảng cuối tháng 9 năm 1964 toàn trường (lúc đó vẫn gồm cả Khoa Ngoại thương) được lệnh sơ tán lên Bắc Thái. Chúng tôi di chuyển theo nhiều nhóm bằng các phương tiện khác nhau, chủ yếu là tàu hỏa và đi bộ (thời kỳ đó Mỹ còn đang “nắn gân” Trung Quốc nên chưa oanh tạc 2 tuyến đường sắt nối với Trung Quốc). Nhóm tôi đi tàu hỏa xuống ga Ba Hàng, Huyện Phổ Yên (cách Thị xã Thái Nguyên khoảng 30 km) đúng vào buổi chiều tối. Để giữ bí mật địa điểm sơ tán và đề phòng máy bay phát hiện, vừa xuống ga chúng tôi phải di chuyển ngay. Ngoài đồ đạc tư trang mỗi người phải mang vác thêm những dụng cụ bếp ăn tập thể như nồi niêu, xoong chảo, gạo, củi, … Tất cả tiến nhanh về phía bờ sông cách ga độ 2 km. Hôm đó trời sáng trăng và mùa nước sông cạn, nên chúng tôi cứ việc xắn quần lội qua một cách dễ dàng, có phần thích thú nữa. Qua sông chúng tôi lại cuốc bộ khoảng 7 km thì đến địa điểm tập kết tại làng Xuân Trù, xã Xuân Phong, sau đó đi về các hướng theo sự phân công từ trước. Chúng tôi đi xuyên qua một thôn tên là Cổ Pháp để tới một xóm nhỏ tên là Thái Cao là nơi đóng quân cuối cùng. Lúc đó đã quãng 11 giờ khuya, nhưng các gia đình vẫn thức chờ đón nhận sinh viên. Không khí vui vẻ, đầm ấm khiến chúng tôi quên cả mệt mỏi sau một ngày hành quân liên tục. Sau màn chào hỏi, anh Vọng, lớp trưởng phối hợp với mấy cán bộ địa phương công bố danh sách ai ở nhà nào…, rồi chúng tôi theo chân các bác chủ nhà về từng gia đình. Tôi cùng anh Hồ Liên và Ngô Văn Hoa được phân về ở với gia đình vợ chồng bác Tuấn. Đêm đó tuy đã khuya nhưng cả chủ và khách vẫn nán lại trò chuyện, có lẽ 2-3 giờ sáng mới đi ngủ.
Đến miền trung du xa tiếng bom đạn
Sáng hôm sau, không ai bảo ai, chúng tôi đều thức dậy thật sớm. Tôi rất nôn nóng muốn nhìn rõ cảnh quang ban ngày và biết thêm về gia đình mà mình sẽ ở trong thời gian tới. Quang cảnh không có gì đặc biệt lắm, nhưng khác biệt so với những làng quê đồng bằng Bắc Bộ mà tôi đã từng qua. Đó là một vùng trung du với đầy đủ những đặc điểm riêng của nó: những quả đồi nhấp nhô xen giữa các thung lũng trong đó có ruộng lúa, nương ngô và bãi cỏ. Đồng ruộng ở đây rất hẹp chứ không thẳng cánh cò bay như ở vùng đồng bằng. Xa xa là những rặng núi màu xanh thẫm báo hiệu ranh giới với vùng Tây Bắc. Những đồi thông khiến quang cảnh ở đây khác hẳn với miền xuôi. Hầu hết nhà dân đều ở trên đồi; vùng đất trũng để trồng lúa hoặc ngô; vùng đất ven đồi trồng khoai, sắn, đậu… Dạo đó là đầu mùa đông, trời đã khá lạnh, nhưng bầu trời thật quang đãng. Tôi cảm thấy thích nơi đây, thấy nó như một miền quê đẹp, thoáng đãng và thơ mộng .
Đang mải ngắm cảnh và nghĩ ngợi mung lung thì có tiếng mời gọi của cô con gái bác chủ nhà: “Mời các anh vào ăn con củ héo với nhà em”… Có lẽ đó là lời mời chào lạ lẫm nhất mà tôi từng nghe trong cả cuộc đời…Tôi thật sự tò mò muốn biết “con củ héo” là gì…Và phải mất cả một quá trình từ nhìn, nếm và nghe giải thích tôi mới thực sự hiểu đó là khoai lang được treo cho đến khi khô kiệt thì đem luộc chín, để nguội rồi mới ăn. Ăn như thế khoai sẽ ngọt như mật và rất thơm ngon.
Từ đó về sau (mặc dù không phải là nhà nhân chủng học) tôi cũng muốn tìm hiểu xem người vùng trung du Bắc Bộ và miền Nam có gì liên quan với nhau (?)…Và tôi đã mạo muội kết luận là có. Ví dụ, từ “con củ” ở đây gần giống với từ “củ lang” ở quê tôi, và có sự trùng hợp hoàn toàn ở các từ “bắp” (ngô), “củ mì” (sắn)…và một số tên các loài vật và dụng cụ khác. Đăc biệt, như ở quê tôi, dân vùng này cũng lấy tên người con cả để gọi cha mẹ; cũng kéo cày, bừa bằng 2 trâu hoặc bò (chứ không phải 1 con như ở đồng bằng Bắc bộ). Có lẽ chỉ các nhà chuyên môn nhân chủng học và khảo cổ học mới giải thích được những hiện tượng trùng hợp như vậy. Dù sao đối với tôi đó là một phát hiện mới khá lý thú.  
Trong bữa ăn sáng với “con củ héo” đầu tiên đó, chúng tôi được hiểu thêm về gia chủ. Bác Tuấn có 4 người con: 2 trai, 2 gái. Con trai lớn tên là Tuấn đang chuẩn bị cưới vợ trước khi đi nghĩa vụ quân sự, cô con gái tên là Tuyên, mới 12 tuổi nhưng đã lộ vẻ e ấp của một cô thôn nữ, tiếp đến là một cô con gái nữa và cậu út tên Chinh mới 2 tuổi. Có thể thấy đó là một gia đình “khá giả” trong điều kiện của nông thôn miền Bắc thời kỳ trước chiến tranh phá hoại. Nhà có 3 gian, 2 chái và một căn nhà ngang dùng làm bếp, có sân gạch phía trước và vườn ba bên với luỹ tre bao quanh. Ở gần bếp có một giếng khơi, nước rất trong, mát và sạch. Nhà được xây bằng gạch và gỗ xoan, lợp ngói trông rất chắc chắn và “hợp thời”; tuy không quá rộng nhưng diện tích đủ chỗ tối đa cho 8-9 người ở. Gia chủ dành hẳn gian bên phải để kê 3 cái gường nhỏ chừa một lối đi hẹp ở giữa cho 3 khách sinh viên. Gian giữa kê ban thờ và bộ bàn ghế tiếp khách chung cho cả nhà. Gian trái kê một chiếc sập gỗ và môt chiếc chõng tre. Hai gian chái là nơi ở chính và cũng là kho đồ đạc, thóc gạo của gia đình. Bếp núc và ăn uống hầu hết đều ở nhà ngang, chỉ khi nào có cúng giỗ, tiệc tùng thì mới ăn ở nhà trên.
Cùng ăn cùng ở,… Dân đi làm, sinh viên đi học
Cả Khoá được chia ra thành các nhóm 2-3 người đến ở cùng các gia đình khác trong cái xóm nhỏ không quá 20 nóc nhà. Nhiều trường hợp giữa chừng có thay đổi chỗ ở, nhưng riêng tôi ở nhà bác Tuấn từ đầu đến cuối nên còn nhớ rõ địa chỉ bưu điện là “nhà Ông Tuấn - xóm Thái Cao, Thôn Cổ Pháp, Xã Xuân Phong, Huyện Phổ Yên, Tỉnh Bắc Thái”.
Có một điều tôi luôn thán phục là thái độ bao dung, rộng lượng của các gia đình có sinh viên ở mặc dù trong quá trình đó chắc chắn chúng tôi đã gây ra rất nhiều khó khăn, bất tiện cho họ. Chúng tôi từ đâu đâu bổng đến sống trong nhà của họ, làm đảo lộn tất cả nếp sống của họ, thậm chí ăn bớt khẩu phần thức ăn vốn đã khan hiếm của họ…, vậy mà lúc nào họ cũng vui vẻ chấp nhận chúng tôi. Không những thế, càng ở lâu mối quan hệ “chủ-khách” càng thân tình, sâu nặng như người trong một nhà. Bây giờ nhớ lại, không sao lý giải nổi tại sao thời đó người dân tốt đến thế? và tại sao mọi người đều dễ dãi và mọi thứ đều đơn giản như vậy?....Có lẽ chỉ những người trong cuộc mới có thể hình dung được, nhưng chưa chắc ai cũng có thể trả lời một cách thoả đáng những câu hỏi trên.          
Ngay từ hôm sau khi đến nơi sơ tán, chúng tôi bắt tay vào việc đào hầm trú ẩn và lên rừng kiếm vật liệu về làm lớp học đồng thời kết hợp kiếm củi đun. Chỉ vài tuần sau đã có một lớp học “dã chiến” rộng gần trăm mét vuông, nửa ngầm, nửa nổi trên mặt đất, trông cũng khá đẹp mắt. Bàn ghế chủ yếu làm bằng tre, bương, vầu, nứa…; cũng có bục giảng và bảng đen khá hoành tráng. Một nhà bếp tập thể cũng được nhanh chóng dựng lên với đầy đủ “trang thiết bị” như lò đun, giá để nồi niêu, xoong chảo và cả bàn ghế ăn…, tất thảy đều làm bằng tre, bương, lá và đất bùn trộn rơm rạ. Chính nơi đây đã để lại nhiều kỷ niệm nhất về quãng đời sơ tán của sinh viên chúng tôi. Tôi còn nhớ, người trực tiếp chăm sóc bếp núc cho Khoá V là bác Liễu, một cấp dưỡng không chỉ giỏi tay nghề mà còn chuẩn mực về phong cách nghề nghiệp. Bác lúc nào cũng ăn mặc chỉnh tề, đầu tóc chải mượt, làm gì cũng gọn gàng, sạch sẽ, ngăn nắp. Nghe nói, bác nguyên là một đầu bếp “lưu dung” từ thời Pháp, sau làm ở Nhà khách Chính phủ ta, toàn những chỗ có sẵn nguyên liệu, thực phẩm tươi ngon. Ấy vậy nhưng khi đi sơ tán bác Liễu rất giỏi trong việc cải tiến các món “mầm đá”. Trong hoàn cảnh thiếu thốn mọi thứ, bột mì thường mốc và hôi, chỉ có ít tóp mỡ hoặc bì lợn, nước mắm là thứ “xa xỉ”…, nhưng bác Liễu vẫn chế biến làm sao để bữa nào chúng tôi ăn cũng thấy ngon miệng. Thế mới hay chứ! Phụ bếp với Bác có chị Luân, chị Bảy, cũng là những người chúng tôi luôn biết ơn và quý mến .
Những ngày đầu chưa có lớp học, chúng tôi tranh thủ học ngay trong nhà dân với môn ngoại ngữ. Ít lâu sau có hội trường dã chiến cả Khoá bắt đầu tập trung học các môn nghiệp vụ. Trời mùa đông ở Bắc Thái rất lạnh, nhưng sáng nào thầy trò cũng đều có mặt đúng giờ và đông đủ; không khí dạy và học rất hào hứng, một phần vì thời đó không có thú vui gì để đánh lạc hướng chúng tôi. Trong mắt tôi, các thầy tiếng Anh ai cũng giỏi và có phong cách hấp dẫn. Ngoài các thầy cũ từ Hà Nội lên đây, lớp tôi còn được bổ sung thêm mấy thầy của khoa Ngoại thương. Tôi rất thích một vài thầy trẻ tuổi với phong cách và giọng phát âm “chuẩn” như thầy Nghĩa, thầy Thạch. Tôi cũng thích thầy Bích, thầy Mỹ Điền vì ngoài việc dạy tiếng Anh, các thầy còn nói nhiều chuyện lý thú về cây cảnh, vật nuôi…
Học các môn nghiệp vụ thường dễ buồn ngủ vì chỉ lắng nghe thụ động. Hôm nào gặp bài kém hấp dẫn thì càng dễ buồn ngủ hơn. Nghe giảng vào mùa hè gió mát thì lại càng dễ bị ngủ thiếp lúc nào không hay. Hồi đó ngủ gật trong lớp hay vắng mặt đều bị phê bình rất nặng. Có quá nhiều thầy thay nhau lên lớp các môn chính trị và nghiệp vụ nên khó có thể nhớ hết như với các thầy ngoại ngữ. Người chúng tôi nhớ lâu nhất có lẽ là thầy Bát dạy môn Sử quan hệ quốc tế vì mỗi khi vào lớp thầy đã thấp lùn lại hay cúi gập người chào như Hề Sạc-lô, tưởng chừng sắp lộn người xuống đất! Nhưng chúng tôi rất mến thầy vì thầy rất hiền và nhiệt tình. Môn luật của Thầy Vệ có lẽ là một trong những “môn buồn ngủ” nhất. Những lúc buồn ngủ quá mọi người chỉ mong có báo động máy bay. Nghe hài hước, nhưng đó là sự thật, vì được giải toả cơn buồn ngủ! Những tình huống như thế thường xảy ra vào các năm 1967-68, những năm cao điểm của cuộc chiến tranh phá hoại. Căm thù giặc là một chuyện, nhưng chúng tôi cũng rất thích “mục kích” cảnh máy bay gầm rú giữa làn đạn tên lửa phòng không hoặc những cuộc không chiến. Đã có một số máy bay rơi xuống vùng sơ tán và chúng tôi được dịp cùng dân quân vây bắt phi công Mỹ. Thời đó mỗi năm có một hai đợt tập quân sự kéo dài hàng tháng, nhưng chúng tôi vẫn không ngại, trái lại còn lấy làm thích thú. Những hoạt động quân sự như thế chúng tôi coi như được “thay đổi không khí” và cảm thấy rất hào hứng tham gia..
Có một khó khăn lớn đối với chúng tôi để học tốt môn ngoại ngữ. Đó là chúng tôi phải học trong điều kiện hầu như không có trang thiết bị nghe nhìn và tài liệu tham khảo. Để khắc phục, thầy trò luôn tìm nhiều cách khác nhau; một trong những cách tốt nhất là đọc to và học thuộc lòng. Học môn nào cũng thế, bọn chúng tôi thường cầm sách ra cánh đồng, ở đó tha hồ đọc to mà không ảnh hưởng đến người khác. Bếp cũng là nơi học lí tưởng, nhất là vào mùa Đông hay những ngày mưa. Chỉ khi cần viết thì mới ngồi trên giường. Buổi tối có thể nằm nhẩm bài, rất hiệu quả mà không tốn dầu đèn. Về cách học này, tôi phục nhất là Ngô Văn Hoa ở cùng nhà. Hắn có thể ngâm nga cả buổi mà không mỏi mồm, thuộc lòng đến nỗi khi trả bài có thể đọc lại nguyên xi không thiếu dấu chấm phẩy! Hắn còn có tài nói chuyện đến mức “kiến trong lỗ cũng chui ra”, khiến cô con gái tuổi trăng tròn của chủ nhà cứ nghếch mắt lên mà nghe! Cách học nói to như thế, nhất là với môn ngoại ngữ, lúc đầu làm dân làng buồn cười, nhưng rồi họ cũng thấy quen và trở thành bình thường. Thời đó chúng tôi học được rất nhiều về ban đêm, đơn giản vì không học thì cũng chẳng có thú vui gì khác để bận tâm. Âu đó cũng là một “lợi thế” của sinh viên thời sơ tán! 

Trong thiếu thốn, khó khăn, vất vả nhưng “cuộc đời vẫn đẹp sao, …”
Trường cán bộ Ngoại giao-Ngoại thương sơ tán trên một địa bàn rất rộng; trên thực tế chỉ là danh nghĩa trong quãng 2 năm đầu với một số hoạt động chung như sinh hoạt Đảng-Đoàn, phân bổ giảng viên, trao đổi tài liệu, giáo trình, v. v.. Riêng Khoa Ngoại giao năm đầu sơ tán có 3 khoá (3, 4 và 5) nhưng tổng số học viên chỉ quãng 200 người. Ít lâu sau Khoá III, rồi Khoá IV lần lượt ra trường, thay vào bằng các khoá Trung cấp chuyên nghiệp văn thư kế toán ngoại giao. Niên khoá 1965-66 tuyển tiếp Khoá VI (đại học). Lực lượng học viên nhanh chóng được “trẻ hoá” và điều này ít nhiều cũng đã “thổi” một luồng gió mới vào không khí nơi sơ tán.      
Khoá V chúng tôi đóng quân toàn bộ ở xóm Thái Cao, khá tách biệt với Trường và Khoa nên cũng hạn chế trong đi lại giao lưu; hàng tháng chỉ một vài dịp sang làng Cổ Pháp (nơi có hội trường rộng hơn) để họp, nghe phổ biến thời sự hoặc nghe giảng một số môn học chung. Đó cũng là nơi để tổ chức văn nghệ hoặc hội họp. Những cuộc họp qúa đông với nhân dân địa phương thì phải tổ chức ngoài trời tận bên thôn Xuân Trù. Chúng tôi không ngại đi họp xa như thế, vì đó là những dịp đông vui, được gặp lại bạn bè và trao đổi kinh nghiệm rất bổ ích và lý thú. Nhưng những dịp như thế thật là hiếm hoi.
Tôi còn nhớ, trong bối cảnh sơ tán với bao cách trở, khó khăn, thiếu thốn nhưng vẫn luôn tồn tại một lĩnh vực hoạt động có thể nói không hề bị ảnh hưởng bởi chiến tranh. Đó là văn nghệ. Hồi đó tuy chỉ có ánh đèn măng-xông với phông màn, đạo cụ và trang phục “tự chế” chúng tôi vẫn có những đêm văn nghệ không kém phần hấp dẫn so với bất cứ đêm văn nghệ của bất cứ thời nào. Tôi còn nhớ tuy ít người và chỉ có một nữ nhưng Khoá V có thể tham gia biểu diễn hầu hết các thể loại ca, múa, nhạc, kịch…, khi cần đóng giả luôn các vai nữ! Hát đồng ca thì hầu như ai cũng tham gia được; hát hay thì có Hoa, Viêm; chèo có Tuyến, Lương; nhạc cụ có Minh, Hải; thơ có Thân Xuân Lê… Một lần chúng tôi dàn dựng cả vở “Hòn đảo thần vệ nữ” trong đó tôi thủ vai cậu Gioóc với câu: “Hết ngày dài lại đêm thâu, chúng tôi đi trên đất Phi Châu…” (và không ngờ sau này tôi đã có 3 năm công tác ở đất Châu Phi buồn tẻ như thế!). Một lần khác tôi lên sân khấu với một tiết mục “xiếc” tự nghĩ ra, bắt đầu bằng việc biến một chiếc cốc rỗng thành cốc có nước…Tiết mục đó trông thật quá khiến một anh Khoá IV xung phong lên sân khấu để bị tôi dùng nhọ nồi (vì thời đó lấy đâu ra son phấn) bôi lên mặt biến thành một còn …mèo! Sau vụ đó tôi phải trốn mấy ngày trước sự lùng sục của anh ta. Kể ra tôi đã hơi quá đáng khi “lừa” một bậc đàn anh như thế.
Chúng tôi cũng đã ra những tờ báo tường với rất nhiều bài bình luận, chuyện ngắn, thơ ca. hò vè, tranh vẽ, v.v… thật phong phú! Bây giờ mỗi khi gặp lại nhau chung tôi vẫn còn nhắc lại những tác phẩm “bất hủ” đó. Quả thật giờ đây nghĩ lại khó ai có thể lý giải được tại sao chúng tôi vẫn rất lạc quan yêu đời trong suốt quá trình gian nan vất vả kéo dài như vậy.
Tôi cũng rất nhớ các buổi “ăn đêm” với những nồi cháo thịt chim, thịt cóc, thịt rắn…mà chúng tôi tự săn bắt được. Về chuyện này tôi phục nhất là Triệu Kỷ Nguyên về tài nghệ “hái lượm” và chế biến các món “sơn hào, hải vị đồng quê” như thế. Trong khung cảnh sơ tán, đối với chúng tôi, đó không chỉ là những bữa ăn cải thiện chất dinh dưỡng mà còn là những buổi liên hoan nho nhỏ rất vui và thân mật.
Trở về xây dựng lại mái trường xưa
Thấm thoát đã ngót 5 năm trôi qua với Khoá V tại nơi sơ tán. Ở đó tuy không quá xa Hà Nội nhưng chúng tôi không mấy dịp được trở về Hà Nội. Ở lâu quá hoá quen nên cũng không trông mong gì. Nhưng cái gì đến đã đến. Đó là khoảng giữa tháng 8 năm 1969 sau khi Tổng thống Mỹ Nixon buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc, Lãnh đạo Bộ đã cử Khoá V làm “tiền trạm” trong cuộc trở về Thủ đô. Thế là chúng tôi trở lại mái trường xưa ở Láng, cũng trong một cuộc hành quân khá vất vả, nhưng rất vui và hào hứng, đặc biệt là không phải “đề phòng máy bay địch” như lúc ra đi.
Khu trường trông hoang tàng so với lúc chúng tôi nhập học. Một xí nghiệp dệt đã “trưng dụng” nó trong những năm sơ tán vừa mới rút đi để lại những dãy nhà hoen ố với cơ man gach, đá, phế liệu và rác rưởi. Thế là chúng tôi đã là những người đầu tiên phải đứng ra khắc phục hậu quả, kể cả vụ “tranh chấp lãnh thổ” với người anh em Ngoại thương và một bộ phận công nhân còn ở lại . Vì lúc trở về đã chia tách thành hai trường nên khuôn viên trường cũ phải được chia đôi. Cơ sở vật chất vốn đã quá nghèo nên không có gì để tranh chấp, nhưng lãnh thổ thì bao giờ cũng khó thoả hiệp. Vì đông sinh viên hơn nên bên Ngoại thương đòi 2/3 diện tích; và bên Ngoai giao không thể bác bỏ điều này. Tuy nhiên khi vạch đường ranh giới cụ thể thì lại có vấn đề, vì đường này cắt qua 3 dãy nhà (trước đây là mặt sau, bây giờ là mặt tiền) nơi một bộ phận công nhân của xí nghiệp sơ tán chưa chuyển đi nên hàng rào phân chia phải dừng lại ở đó và cả hai bên đều chưa thể đưa người của mình vào. Tình trạng tranh chấp đã dẫn đến vài vụ xô sát giữa “ba bên” (sinh viên hai trường và công nhân). Cuối cùng, vì nhiều lý do khác nhau, phần diện tích tranh chấp đã thuộc về Trường Ngoại thương, mà dấu tích vẫn còn đến ngày nay với bức tường lệch sang phía Học Viên Ngoại giao hàng chục mét. Chúng tôi chỉ biết tự an ủi rằng, với chiếc cổng mới trổ ra phía Đường Láng, trường mình được “nở hậu”!
Tôi còn nhớ chỉ khoảng 2 tuần sau khi Khoá tôi trở về Hà Nội thì Bác Hồ mất và quốc tang diễn ra ngày 3/9/1969 (Nghe nói Bác đã thực sự ra đi vài ngày trước, nhưng Lãnh đạo ta chủ trương thông báo sau Quốc khách 2/9 để thuận bề làm quốc tang). Khoá V vì thế cũng chứng kiến sự kiện đau buồn vô hạn đó của đất nước. Chúng tôi không ai cầm được nước mắt khi nghe Tổng bí thư Lê Duẩn đọc bài điếu văn trong đó có trích đoạn Di chúc của Bác. Vậy là Bác Hồ đã vĩnh viễn ra đi mà không được chứng kiến ngày đất nước thống nhất.
Cuộc hội ngộ sau 40 năm
Sau nhiều lần dự định không thành, trước Tết Kỷ Sửu vừa rồi, Ban liên lạc cựu sinh viên Khoá V đã tổ chức thành công chuyến trở lại thăm nơi sơ tán 40 năm trước. Tuy chưa đủ tất cả, nhưng đó là lần hội ngộ đông đủ nhất của Khoá V với bà con Xóm Thái Cao kể từ ngày tạm thời chia tay năm 1969.
Chiếc xe thuê bao khởi hành từ Hà Nội lúc 7 giờ sáng đưa chúng tôi theo đường số 3 đến thị trấn Ba Hàng (Huyện Phổ Yên) rồi rẽ phải để vào xã Tiên Phong. Xe đi đến đâu mọi ngưòi bùi ngùi nhớ lại những kỷ niệm của thời sơ tán..., rồi thi nhau kể lại điều mình còn nhớ, cả những câu chuyện tiếu lâm và những bài thơ con cóc… Tất cả như một cuốn phim tái hiện lại đầy ắp những kỷ niệm xưa. Mải vui chuyện, xe chạy quá đoạn đáng ra phải rẽ lúc nào không hay. Nhưng thật ra, có để ý cũng không thể xác định kịp, vì quang cảnh đã hoàn toàn thay đổi với rất nhiều khu dân cư mới hình thành trong sự “biến mất” của những cánh rừng thông thơ mộng ngày xưa. Những quả đồi cũng dường như lún xuống trước sức nặng của nhà cửa và dân cư đông đúc. Phải sau 7- 8 lần dừng xe hỏi đường, cuối cùng chúng tôi mới đến đúng nơi cần đến, đó là ngã ba giữa xóm Thái Cao (xem ảnh)
image001
Chiếc xe vừa mới đỗ lại, như có một giác quan đặc biệt, chúng tôi và những người dân nơi đây đã nhận ra nhau ngay. Thế là chuyện hàn huyên nổ như ngô rang kể từ giây phút đó…
Để tranh thủ thời gian, chúng tôi liền chia nhau thành hai nhóm lần lượt vào thăm và tặng quà từng gia đình nơi có sinh viên ở. Kế hoạch là không để sót một gia đình nào nhưng phải kịp rời khỏi xóm trước 12 giờ trưa. Vì biết rằng sau từng ấy năm hầu hết các ông bà chủ nhà có sinh viên trọ nay đã qua đời và con cháu họ lấy chồng hoặc làm ăn nơi khác…, chúng tôi xác định đây là chuyến đi “khảo sát” nhằm nối lại quan hệ và cần thực hiện “chớp nhoáng” để không gây phiền phức nào đối với gia chủ hoặc chính quyền địa phương. Nhưng rốt cuộc chuyến thăm đã kéo dài hơn dự định mà vẫn chưa đủ để mọi người chuyện trò hàn huyên. Chủ, khách mừng mừng tủi tủi , xúc động vỡ oà trong nước mắt… Cũng may là hầu hết các gia đình đều có ít nhất một người con hoặc cháu ở lại nơi nền nhà xưa để đón tiếp chúng tôi.
Hai vợ chồng chủ nhà của tôi nay đều đã qua đời. Cậu con trai cả đã hy sinh trong chiến trường miền Nam, 2 cô con gái đều lấy chồng địa phương khác. Cậu út Chinh ngày xưa nay đã có rất đông con cháu nên đã xây nhà ở chỗ khác nhường lại nền nhà cổ cho người con trai cả của mình. Được thông báo, vợ chồng ông Chinh tất bật kéo đến để gặp chúng tôi. (xem ảnh ông Chinh và vợ bế cháu nội)
image002
Đúng ra chỉ có ông Chinh là người duy nhất của gia đình chủ nhà có thể nhận ra chúng tôi. Nhưng các thành viên khác trong gia đình đều tỏ ra biết khá rõ về chúng tôi như những người thân thiết của họ, vì họ vẫn thường nói chuyện với nhau về chúng tôi.
Chỉ tiếc thời gian quá ít; chủ khách chỉ kịp trao đổi thông tin về ai mất ai còn, đang làm gì ở đâu v.v… Chúng tôi chỉ kịp trao đổi số điện thoại và hen gặp lại vào dịp sau. Tôi đã kịp chụp một số ảnh bằng chiếc máy kỹ thuật số mang theo người, trong đó có ảnh cái giếng của bếp ăn tập thể thuộc “hệ thống công sự dã chiến” thời sơ tán. Nghe nói dân làng có ý giữ lại để làm kỷ niệm nên nó mới còn đến bây giờ (xem ảnh).
image004
Chuyến đi tuy ngắn ngủi nhưng thật sự ý nghĩa, đã phần nào giúp chúng tôi cởi bỏ được mặc cảm “vô ơn bội nghĩa” đối với nơi đã cưu mang mình trong suốt ngót 5 năm sơ tán.
Thay cho lời kết
Giờ đây ngoảnh lại đã tròn 45 năm kể từ Khoá V chúng tôi nhập học. Những gì đọng lại sâu nhất trong ký ức chúng tôi chính là những năm tháng sống và học tập trong hoàn cảnh sơ tán đầy khó khăn, thiếu thốn, vất vả nhưng rất đáng tự hào. Có thể nói, trong quá trình 50 năm phát triển và trưởng thành của Học viện Ngoại giao ngày nay, Khoá V có thể được coi là một trong những cột mốc đặc biệt với 5 đặc điểm riêng mà không phải khoá nào cũng có: Một là, khoá đầu tiên theo Trường đi sơ tán, và đầu tiên trở về khôi phục Trường sau 5 năm vắng chủ; hai là, khoá chứng kiến quá trình chia tách Ngoại giao-Ngoại thương và thành lập Trường cán bộ Ngoại giao; ba là, khoá có số học viên rất ít nhưng thành phần rất “đa dạng”về tuổi tác và xuất xứ nghề nghiệp; bốn là, tất cả sinh viên tốt nghiệp của khoá đều được phân công về Bộ Ngoại giao và một vài bộ/ngành quan trọng khác; năm là, khoá đầu tiên có tuyển học sinh phổ thông “cùng thời” với 2 cựu Tổng thống Mỹ: Clinton và Bush (sinh năm 1946, vào đại học năm 1964) - một sự trùng hợp khá thú vị!./.
(Đã được đăng tại tập san Học viện Ngoại giao:  http://www.dav.edu.vn/thanh-nien-sinh-vien/bai-viet-cua-sinh-vien/88-khoa-v-nho-lai-va-suy-nghi.html

Hà Nội, tháng 3 năm 2009
Trần Kinh Nghị  


Thứ Bảy, 2 tháng 7, 2011

Lại bàn: Kinh dịch của ai?

Dưới đây xin được trích đăng lại nguyên văn bài viết của tác giả Nguyễn Thiếu Dũng mới đăng trên trang web An Việt Toàn cầu  với tiêu đề "bàn về tên gọi tám quẻ cơ bản của Kinh dịch".


Thiết nghĩ. nếu vồ vập, hồ đồ "nhận " một cái gì đó là của mình dứt khoát không phải là cách làm khoa học..., nhưng bàng quang, thờ ơ trước một sản vật của chính mình lại là thái độ vô trách nhiệm không thể chấp nhận được. Với tinh thần đó, hy vọng bạn sẽ tìm thấy một số thông tin bổ ích để tiếp tục lần tìm về nguồn gốc đích thực của Kinh dịch.

Đó cũng là tinh thần nên có đối với mỗi người Việt Nam khi tìm hiểu về cội nguyền và lịch sử dân tộc nói chung. Không thể dễ dãi tin rằng lịch sử dân tộc ta "hơn 4.000 năm" nhưng lại nghi ngờ về truyền thuyết 18 đời vua Hùng ( họ thực ra là ai, cương vực lãnh thổ thời kỳ đó từ đâu? v.v....) Không thể quá đơn giản nghĩ rằng sau đêm dài 1.000 năm Bắc thuộc... dân tộc "ta vẫn là ta" và bờ cõi không hề bị mất mát gì (nước Văn Lang vẫn còn đó đúng ở lưu vực châu thổ Sông Hồng?...). Nghe thì oanh liệt đấy, nhưng liệu có đúng sự thật không khi  mà nhiều dân tộc khác quanh ta chỉ vải trăm năm bị ngoại bang đô hộ đã có thể bị đồng hóa, thôn tính và vong quốc vĩnh viễn? Đó là chưa nói đến những nỗi sợ hãi vô hình khiến ai đó không dám đặt ra những dấu hỏi... Ngược lại, cũng không nên vì tinh thần dân tộc cuồng tín mà tìm cách "bấu víu" vào những chứng cứ mơ hồ  thiếu căn cứ vững chắc để suy diễn và "nhận vơ" về phần mình những gì không thực có.  


                                       Bàn về tên gọi tám quẻ cơ bản của Kinh Dịch 
 Ngày nay  một số các nhà Dịch học Trung Quốc đã nhận ra rằng đời Thương chưa có Kinh Dịch (Phùng Hữu Lan), hoặc chỉ có dạng quẻ chữ số tương đương với dạng quẻ tượng bát quái với điều kiện phải qua một lần chuyển đổi từ số ra tượng (Trương Chính Lãng)( điều này khó có thể xảy ra), nhiều người xác định Kinh Dịch chỉ có vào khoảng cuối Ân đầu Chu (Cố Hiệt Cương,Lý Kính Trì), có người còn cho rằng  Kinh Dịch phát xuất từ dân tộc Tráng (còn gọi là Choang, ở Quảng Tây) .Nói chung nguồn gốc của Kinh Dịch đang bị hoài nghi, nhiều nhà Dịch học Trung Quốc nhận ra rằng cần phải thẩm tra lại.
Một số các nhà Dịch Học Trung Quốc khác vẫn bám víu truyền thuyết cho rằng Phục Hy chính là người hoạ quái đã tạo ra bát quái (8 quẻ). Họ nhận ông vua trong thần thoại, vua đứng đầu tam Hoàng, đầu người mình rắn, là tổ tiên của họ .Nhưng các nhà dân tộc học Trung Quốc lại xác nhận rằng Phục Hy là tổ tiên của người Miêu, Dao ( ở miền nam Trung Quốc), người Trung Hoa đã mượn thuỷ tổ của những dân tộc mà ngày xưa họ gọi là man di làm tổ của mình.
Như vậy nếu nhận Phục Hy là người sáng tạo Kinh Dịch thì chính người Trung Hoa đã mặc nhiên thừa nhận họ không phải là dân tộc đã sản sinh ra Kinh Dịch .
Tuy  chưa tìm được đến tận ngọn nguồn đích thực của Kinh Dịch nhưng dẫu sao các nhà Dịch học Trung Quốc cũng gần đi đến một điểm chung : Kinh Dịch là sản phẩm của phương Nam chứ không phải là phương Bắc.
 Các nhà khảo cổ Việt Nam đã khai quật được hai cái nồi gốm tại di chỉ Xóm Rền thuộc nền văn hoá khảo cổ Phùng Nguyên, mỗi nồi có khắc ghi một quẻ Dịch. Điều này chứng tỏ cách đây khoảng 5000 năm  tổ tiên ta đã phát minh ra Kinh Dịch, về sau được truyền sang Trung Quốc. Người Trung Hoa nhận được Kinh Dịch như bắt được mỏ vàng ra công khai thác biến thành quốc bảo của họ, và thật sự họ đã có hơn hai nghìn năm để phát triển kinh Dịch rồi trở thành bậc thầy về bộ môn này, sau đó dạy lại cho các nước lân cận kể cả nước ta là nước đã khai sáng Kinh Dịch.
Ngày nay tại Trung Quốc việc nghiên cứu, tìm hiểu, ứng dụng Kinh Dịch càng ngày càng tăng tốc như vũ bão. Nhiều trường Đại Học Trung Quốc đều có dạy Kinh Dịch và có sở nghiên cứu Kinh Dịch. Trong khi đó tại nước ta việc nghiên cứu Kinh Dịch đã không được chú trọng đúng tầm mức. Đáng tiếc là chúng ta không ý thức được Kinh Dịch  là quốc bảo nên đã thờ ơ với nó, thành ra có của mà không biết dùng để người khác khai thác thụ hưởng , chẳng khác gì mình có quặng thô xuất ra nước ngoài rồi đi mua đồ tinh chế của họ với sự tán thưởng,khâm phục.
Trung Quốc có đặc điểm là vũ lực thường đi theo con đường từ bắc xuống nam còn triết học thì đi theo đường ngược lại từ nam lên bắc.
Các nhà khoa học, qua khảo cổ học , di truyền học đã bác thuyết người Việt Nam có nguồn gốc Trung hoa, chạy từ bắc xuống nam .Họ đề ra thuyết người Đông Nam Á có gốc từ Phi Châu, đến định cư tại đây từ 10.000 đến 100.000 năm trước, sau cơn hồng thuỷ di chuyển lên phương bắc, có nền văn minh lúa nước trước Trung Hoa, về sau bị người Hoa đánh đuổi lại lui về phương nam.
Vậy là Kinh Dịch (sản phẩm của văn minh nông nghiệp) do nước Văn Lang (Việt Nam) sáng tạo trực tiếp truyền lên Hoa Nam, người Hoa thâu nhận Kinh Dịch gián tiếp qua trung gian của người Hoa Nam nên lầm tưởng là Kinh Dịch do Phục Hy chế tác.
Âm Dịch là do âm Diệc đọc trại ra. Người Hoa đọc Dịch và Diệc cùng một âm. Diệc là một loại cò,l oài chim nước; tổ tiên ta mệnh danh cho sản phẩm trí tuệ của mình phát minh là Diệc-Kinh Diệc, người Hoa đọc là Dịch rồi suy diễn dịch là con tích dịch (loài thằn lằn hay biến đổi màu sắc), điều này có thể nhận thấy chứng cứ trên những con chim nước đứng bên những chiếc thuyền có mang dấu hiệu kinh Dịch /Diệc được khắc trên trống đồng Ngọc Lũ,Hoàng Hạ.
Dịch do từ Diệc, Diệc cũng đọc là Việt.
Vào thời kỳ mà người Trung Hoa chưa tìm thấy bản vẽ các quẻ trong Kinh Dịch thì tổ tiên ta đã khắc đầy đủ các quẻ Dịch trên đồ gốm Phùng Nguyên và đồ đồng Đông Sơn với hình tượng rất rõ ràng, tiến lên bậc cao hơn họ còn có thể trang trí những quẻ Dịch đó với nhiều hoạ tiết phong phú. Điều đó nói lên rằng họ đã quá nhuần nhuyển với quẻ Dịch để có thể biến hoá ra thiên hình vạn trạng.
Kinh Dịch được hình thành bởi hai hào âm dương, có thể nói không có hào âm hào dương, biểu thị cho hai năng lực đối lập trong vũ trụ, thì không thể tạo ra Kinh Dịch. Trong các bản kinh Dịch phổ thông ta thấy hào âm được biểu thị bằng vạch đứt, hào dương được biểu thị bằng vạch liền. Hào âm vạch đứt không phải là dạng nguyên thuỷ mà đã được người Hoa cải biến, thật ra trên trống đồng hào âm được khắc là hào có nhiều chấm ….., hoặc là vành trắng nằm giữa hai đường song song, không có hoa văn trang trí. Hào dương nguyên thuỷ do tổ tiên ta sáng chế là hào có vạch liền hoặc là hào nằm giữa hai đường song song và có hoa văn trang trí.
Quách Mạt Nhược cho rằng hào Dương lấy từ hình tượng sinh dục nam, hào âm là hình tượng sinh dục nữ. Suy diễn này kém thanh nhã, quá trần tục.Thật ra hào dương  được tổ tiên ta lấy từ hình tượng ngọn giáo, cây gậy hay khúc cây làm chày giả gạo, còn hào âm là hình tượng những lỗ đâm trên đất để gieo hạt.
Kinh Dịch được sáng tạo qua những đúc kết từ những kinh nghiệm lao động, nên hết sức giản dị, dần dần phát triển thành triết lý hướng dẫn nhân sinh càng ngày càng phức tạp.
Hai hào âm dương nếu lần lượt chồng lên nhau sẽ cho ra 8 quẻ đơn là Càn, Khảm, Cấn, Chấn , Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Nếu ta hỏi các nhà Dịch học Trung Hoa, tại sao quẻ có ba hào dương gọi là quẻ Càn, ba hào âm gọi là quẻ Khôn, Càn nghĩa là gì? Khôn nghĩa là gì? Các quẻ kia nghĩa thế nào? Họ sẽ ấp a ấp úng không trả lời được. Kinh Dịch lưu hành đã hơn hai nghìn năm, thế mà đến nay khi cố gắng đưa ra ánh sáng những “bí ẩn của bát quái” Vương Ngọc Đức còn đặt vấn đề: có cần thiết phải làm rõ vấn đề tên quái không? rồi lại lắc đầu”vấn đề nêu trên không thể một sớm một chiều làm rõ ngay được” (tr.61)
Các nhà Dịch Học Trung Hoa lúng túng khi muốn giải nghĩa danh xưng tám quẻ vì họ cứ tưởng đó là tiếng Hoa (Quách Mạt Nhược, Văn Nhất Đa thử giải quyết nhưng bất thông. Quách Mạt Nhược cho Càn là do chữ Thiên cổ bẻ ra ,Văn Nhất Đa cho Càn vốn là Oát biệt danh của sao Bắc Đẩu viết nhầm), thật sự đó chính là tiếng Việt  do chính người sinh thành ra  chúng đặt tên:
 Quẻ Càn còn đọc là Kiền hay Can, được đặt tên theo nghĩa hào  dương  do ba khúc cây được can lại, ghép lại với nhau. Người ta  can các thanh gỗ lại thành sàn (nhà)  hay giàn (đậu,bầu) cứng chắc, có thể  đi lại trên đó vẫn không gãy đổ. Qua đó suy ra quẻ Càn có đức tính kiện (cứng chắc), phát sinh nghĩa triết lý “thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”. Khi can các khúc cây lại với nhau để được chắc chắn, ta phải buộc chúng lại, chẳng hạn ta có thể buộc lại bằng những sợi lạt theo các nụt  hình chữ x .Chữ hào (còn đọc hiệu hay giáo) là hình hai chữ x chồng lên nhau, chính là do từ hình tượng các nụt lạt hình chữ x tạo ra.
Muốn tạo ra một quyển kinh Dịch đơn giản chỉ cần 6 khúc cây sơn màu đỏ để tạo 6 hào dương, 6 khúc cây sơn màu đen để tạo 6 hào âm. Với một tổ hợp 6 hào ta thay đổi vị trí các hào âm hoặc dương sẽ tạo ra 64 quẻ, toàn bộ Kinh Dịch nằm trong đó. (Có thể lấy 6 ống tre chẻ đôi ra, phần võ màu xanh là hào dương, phần ruột màu trắng là hào âm).
Gọi hào là khắc vạch là diễn tả cách người ta viết,hay khắc hay hoạ quẻ (quái). Thực tế thì người xưa làm Dịch chỉ cần mấy khúc cây, thanh gỗ, hay que củi, thẻ tre đánh dấu mặt dương, mặt âm rồi sắp lại với nhau, thay đổi lần lượt vị trí âm, dương là có thể nói chuyện về Dịch. Vì tổ tiên ta sắp xếp các que lại với nhau thành tổ hợp ba hay sáu que, nên gọi tổ hợp đó là quẻ.
Người Hoa phiên âm quẻ thành quái. Họ lấy chữ khuê làm âm thêm chữ bốc biểu ý tạo thành chữ quái,  đây là chữ mới, trong Giáp cốt văn không tìm thấy chữ quái. Họ giảng quái là treo lên (quái giả quái dã), khi bói được một quẻ đem treo lên gọi là quái. Trương Huệ Đống nói là bói được một quẻ thì vạch trên đất (thổ) nên chữ quái mới có chữ khuê hai chữ thổ. Chữ Nôm cũng viết chữ que bằng chữ khuê (có âm tương tự) , viết chữ quẻ bằng chữ khuê hay chữ quế (mộc + khuê).
Rõ ràng là quẻ đẻ ra quái chứ không phải quái sinh ra quẻ. Người Hoa đã lấy âm khuê (gui) để ghi âm que ,quẻ của người Việt.
Tại sao không gọi hào là vạch, que, thanh, khúc, thẻ mà gọi là hào? vì hào diễn ý một vạch, một que, một thanh, một khúc có liên hệ ràng buộc qua lại với nhau như những nụt lạt buộc lại, âm dương giao dịch, chứ không đơn thuần là vạch, là que.
Quẻ Khôn : Khôn gồm ba hào âm, là hình tượng những lổ tra hạt hay hố trồng cây, nên được khắc bằng những nét chấm chấm …..,hoặc những lổ tròn ooooo. Đó là hình ảnh một khu đất, một thửa ruộng chứa đầy những lổ, những hố được con người cho hạt hay cây giống  vào .Từ những lổ, hố đó cây cối mọc lên đem lại lương thực cho họ, họ khen những lổ, hố đó là khôn ngoan biết chìu theo ý người. Cho nên quẻ toàn âm được gọi là Khôn. Khôn có đức quẻ là thuận, thuận theo ý người, rồi phát triển thành nghĩa triết học âm thuận theo dương. Trên đây là cách giải theo hình tượng hào âm.
Theo tự dạng chữ khôn gồm có chữ thổ (đất) + chữ thân (giờ thân, địa chi thân) thì ta có thể suy ra khôn là để diễn ý chôn, chôn là do hạt được chôn vào lổ, cây chôn vào hố. Nếu bộ thổ chỉ ý khôn là đất thì thân phải là từ chỉ âm nhưng khôn đọc là kun còn thân đọc là shen thì  sao gọi là tá âm được, gọi như vậy là không đúng với cách cấu tạo từ của Trung Hoa .Chữ thân đi với bộ thổ chỉ tạo một từ đọc là kun, còn thân (shen) đi với các bộ khác để làm âm thì có nhiều từ : thân (với bộ nhân) là duỗi ra, thân (với bộ khẩu) là rên rỉ, thân (với bộ mịch) là dải thắt lưng của đại phu. Trên trống Đông Sơn    hình cái trống da    dạng hình của nó giống như chữ trung, khi trống đánh xong nếu gát dùi trống vào giữa, như là chữ trung có gạch ngang ở giữa, thì trùng với tự dạng chữ thân. Tục lệ ngày xưa đánh trống xong thì chôn trống xuống đất, khi nào có lễ thì cúng tế rước trống lên. Tục lệ này có lẽ chỉ áp dụng cho trống đồng là loại trống đặc biệt dùng để tế lễ (nhờ vậy mà nhiều trống lễ đã thoát khỏi bàn tay phá huỷ của quân xâm lược). Phải chăng vì thế mà khôn được cấu tạo để diễn ý chôn (trống đánh xong chôn xuống đất).
Quẻ Ly  : Ly chỉ là chữ ký âm của lửa người Hoa đọc là , tổ tiên ta  hình dung hai hào dương tựa như hai khúc cây chà xác vào nhau tạo ra lửa (hình dạng hào âm). Quẻ này Bạch thư Chu Dịch  ghi là La, người Hoa đọc là luó cũng gần với âm lửa. Sở dĩ có sự khác nhau là vì quẻ Ly được hai người Trung Hoa thu nhận âm lửa vào những thời khắc khác nhau, không gian khác nhau nên ghi âm na ná nhau mà thôi. Chữ Nôm ghi âm lửa bằng chữ lã, cũng tương tự nhau. Lửa phải dựa vào vật khác mới phát sinh nên đức của nó là lệ (lệ thuộc, dựa vào)
Quẻ Khảm : ai cũng biết khảm là thuỷ nhưng tại sao người Hoa lại không dùng bộ thuỷ mà lại dùng bộ thổ để viết chữ khảm, hết sức vô lý, vậy khảm không phải là tiếng Hoa mà là tiếng Việt. Người Việt thường nói khảm thuyền qua sông (đưa thuyền qua sông), hoặc khảm xa cừ (gắn sâu xa cừ vào miếng gỗ để trang trí). Ta có thể hình dung hào dương ở giữa hào âm như chiếc thuyền  được khảm qua sông, hoặc là vật được khảm vào. Đức của quẻ khảm là hãm (trũng,lún), hào dương như bị hãm vào giữa hầm hố giống như bị đưa vào chốn hiểm nguy, từ đó phát sinh nghĩa triết học của quẻ khảm, hãm hiểm.
Quẻ Cấn : Rõ ràng cấn là tiếng Việt trong nghĩa cấn cái, quẻ được hình dung như một  khúc cây bị cấn trên miệng hố. Đức của quẻ Cấn là chỉ, nghĩa là dừng lại, là cấn (không di chuyển được). Từ đó phát sinh nghĩa triết học, tri chỉ.
Trung Hoa gọi quẻ Cấn là quẻ Sơn có tượng là núi nhưng trong hào từ quẻ Cấn không có hào nào nói đến núi.  Đây là nhận xét của Cao Hanh trong “Chu Dịch cổ kinh kim chú”:” Quái hào từ của quẻ Càn không câu nào nói về trời, Quái  hào từ quẻ Tốn không câu nào nói về gió, Quái hào từ quẻ Ly khgông câu nào nói về lửa, Quái hào từ quẻ Cấn không câu nào nói về núi. Quái hào từ quẻ Đoài không câu nào nói về đầm. Quái Khôn tuy liên quan đến đất nhưng không nói về đất. Quái Khảm tuy có liên quan đến nước nhưng không nói về nước. Chỉ có quẻ Chấn nói về sấm” (BABQ,tr 63).
Quẻ Cấn không nói đến núi nhưng cả 6 hào đều nói đến Cấn với nghĩa ngăn trở, cấn cái:
     -Thoán từ  : Cấn kỳ bối (lưng)
     -Sơ lục      : Cấn kỳ chỉ (ngón chân)
     -Lục nhị    : Cấn kỳ phì (bắp chân)
     -Cửu tam   : Cấn kỳ hạn (thắt lưng)
     -Lục tứ      : Cấn kỳ thân (mình)
     -Lục ngũ    : Cấn kỳ phụ (mép hàm)
     -Thượng cửu : Đôn (trên cùng, đỉnh đầu) cấn.
Quẻ Chấn : Đây là hình tượng cái trống đồng lật ngữa ra, hay là cái cối giả gạo, đánh trống hay giả gạo đều gây ra tiếng động ầm ầm như sấm. Vì vậy Chấn (zhèn)  dùng để ghi âm  sấm. Người Hoa gọi sấm là lôi nhưng vẫn giữ âm chấn (zhèn) để nhớ người Việt đặt cho quẻ đó là quẻ sấm. Chấn thành thuật ngữ. Cho nên do đó mà đức của quẻ Chấn là động  và tượng của quẻ là trống. Từ đó phát sinh nghĩa triết học của Chấn  là động, biến động không ngừng.
Quẻ Tốn : là hình tượng của những khúc cây ghép lai thành phên vách ,phía dưới bị thủng nhiều lổ (khuyết,mất ,tiêu tốn). Phên vách có lổ để gió lọt vào, tượng của quẻ Tốn là gió (phong), đức của quẻ Tốn là vào (nhập). Nghĩa triết học là nhập.
Quẻ Đoài : Đoài đọc là duì , quẻ có hình tượng đầm nước, nơi mọi người thường tụ họp ở đó để nấu ăn ,giặt rửa, hội hè, bơi chãi nên không khí rất vui, do đó đức của đoài là vui (duyệt). Đoài chỉ phương tây (theo Hậu thiên đồ), người Việt thường thích dùng tiếng đoài để gọi miền đất nằm ở phía tây; Sơn Tây được gọi xứ Đoài (Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm-Quang Dũng). Ca dao có câu “Làm trai cho đáng nên trai, xuống đông Đông tỉnh, lên đoài Đoài tan.
Nói cho cùng, người Trung Hoa chỉ dùng  các từ Dịch, Hào, Quái, Càn , Khôn, Ly, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn ,  Đoài như là những thuật ngữ chứ không hiểu đúng nghĩa của chúng, vì những từ đó chỉ để phiên âm tiếng Việt , do người Việt sáng chế, đặt tên cho chúng.
Kinh Dịch gồm có 8 quẻ đơn, 64 quẻ kép, các quái từ , hào từ cùng các đồ Tiên thiên,Trung Thiên, Hậu Thiên là di sản sáng tạo của tổ tiên người Việt Nam vào thời đại Hùng Vương. Chỉ có Dịch Truyện còn gọi là thập dực mới là sáng tác của người Trung Hoa , Truyện đó dùng để giảng giải phần Kinh ,cũng là một đóng góp rất lớn của Trung Hoa vào vũ trụ Kinh Dịch. Người Trung Hoa gồm chung Kinh Dịch và Dịch Truyện làm một , gọi chung là Chu Dịch, chữ Chu này phải hiểu là chu chuyển , chu nhi phục thuỷ ,như cách ta biến đổi quẻ Thuần Càn,Thuần Khôn ra 62 quẻ khác, rồi cũng quay lại trở về Khôn Càn như lúc khởi đầu. Đó là cách biến dịch vòng tròn. Nếu hiểu Chu là tên triều đại nhà Chu thì đó  chỉ là cách gọi xuyên tạc, không đúng. Người Trung Hoa thường dẫn câu trong sách Chu Lễ “Thái bốc nắm phép Tam Dịch: một là Liên Sơn, hai là Qui Tàng, ba là Chu Dịch”, nếu Liên Sơn và Qui Tàng chỉ biệt danh không phải chỉ triều đại,thì có lý nào Chu lại chỉ triều đại mà không chỉ biệt danh.
Sau cùng nếu ta đọc Dịch dưới góc độ Chữ Hán là chữ do chính người Việt sáng tạo, và ngôn ngữ Việt là bước khởi đầu của ngôn ngữ Hán thì mọi chuyện lại càng sáng tỏ hơn. Tuy nhiên vấn đề này không được bàn ở đây vì không thể nói hết trong một bài, chúng tôi sẽ làm rõ hơn ở những bài khác.
nguyễn thiếudũng


Trần Kinh Nghị
                                                                                     *****

Thứ Tư, 29 tháng 6, 2011

Trở lại thế giới ảo

Từ ngày 08 đến hôm nay 28/6, có lẽ do số mệnh(?), chủ blog tôi đã buộc phải rời "ngôi nhà" của mình  để vào bệnh viện. Đó là sự  tạm biệt không mong muốn với  thế giới ảo để đi vào thế giới thật của bệnh tật và chết chóc!

Nhưng  may thay, đó chỉ là một lần tạm biệt . Và giờ đây blogger tôi đã được trở về (có thể nói là từ cõi chết) với việc làm đầu tiên là vào thăm lại "ngôi nhà" của mình.... Thật vui khi thấy nó vẫn còn đó, tuy với số lượng visitor giảm sút đáng kể nhưng vẫn đều đặn. Xin cảm ơn mọi người vẫn còn quan tâm đến ngôi nhà của tôi kể cả khi chủ nhân đi vắng nhé!.

Có rất nhiều chuyện muốn nói. Riêng thời gian 3 tuần lễ làm bệnh nhân trãi qua các "công đoạn" của guồng máy bệnh viện, bản thân được chứng kiến và chiêm nghiệm....rất nhiều điều cũ và mới cũng như bao sự thật lạ lẫm.  Chúng tồn tại giữa sự sống và cái chết, giữa lòng nhân đạo và sự tham lam ác độc, giữa cái đẹp và cái xấu, giữa bóng tối và ánh sáng .... Tất cả đều  vừa vô lý, vừa có lý cùng tồn tại một cách dững dưng như thể vô tình, vô cảm... Và tất cả đang thầm lặng lan tỏa và ăn sâu bám rễ như một căn bệnh trầm kha trong toàn bộ hệ thông y tế của đất nước chúng ta ngày nay. Nhiều người cho rằng đó là lẽ đương nhiên của một nước nghèo, kể cả việc tại sao hễ một người ốm thì cả nhà phải theo vào bệnh viện để chăm sóc trong khi bệnh viện nào cũng kêu thiếu gường, thiếu cơ sở vệ sinh, hạ tầng..., người đông đến nỗi phải lập ra một bộ phận "quản lý người nhà bệnh nhân" (?).

Nhưng thực ra không phải hoàn toàn vì nghèo; nó là lỗi của con người từ hai phía nhà chức trách và nhân dân, mà trong đó cả thầy thuốc và bệnh nhân cũng đều là vừa là "nạn nhân" vừa là nguyên nhân, của một lối tư duy công tác sai lầm có tính hệ thống, đó là chỉ chăm chăm lo giải quyết cái ngọn mà không bắt đầu từ cái  gốc. 

Blogger tôi nghĩ, có lẽ lúc nào khỏe hơn và có trang thái tinh thần thư thả hơn sẽ bàn thêm về chuyện này để chia sẻ cùng mọi người. Nhưng lúc này đây chỉ xin được nói lời chào gặp lại với cộng đồng blogger thân mến!

--------------
*****

Thứ Tư, 8 tháng 6, 2011

Lại một bài "chân gỗ"?(*)

(Tự bloggẻ tôi xin mạn phép sửa lại tiêu đề bài viết để phản ánh đúng hơn nội dung muốn nói, tránh hiểu nhầm nếu không đọc kỷ. Toàn bộ nội dung bài viết và bản đồ trích ở dưới (chữ đen nhỏ hơn) là nguyên văn của tác giả Đài Loan chứ không phải của blogger tôi)  

Mới đây website Nghiên cứu Biển Đông có đăng một bài viết nói nguồn của Vượng báo (Đài Loan) nhan đề  "Thế kẹt của Trung Quốc ở Biển Đông". Sau đó nó đang được loan truyền trên mạng và có thể cả báo viết của Việt Nam....với sự tán thưởng thì phải (?)

Blogger tôi đã đọc đi đọc lại vài lần và "trộm nghĩ": Bài viết này "dỡ dơi dỡ chuột"...,  ở chỗ nói như thể phía Trung Quốc đang khó khăn trong vấn đề Biển Đông lắm... Nhưng nhân đó  đưa ra các chứng cứ bịa đặt có lợi cho phía Trung Quốc, đồng thời nêu lên những luận cứ và cách gải quyết theo kiểu "vẽ đường cho hưu chạy" hoặc là thanh minh cho phía Trung Quốc. Nói cách khác nó giống như một tài liệu tuyên truyền của Trung Hoa lục địa, chứ không phải một tài liệu nghiên cứu khách quan của Đài Loan.

Mới đọc qua người đọc (nhất là Việt nam) dễ có cảm tưởng Trung Quốc đang "kẹt" (tức là khó khăn trong âm mưu bành trướng ở Biển Đông), và do đó  sinh ra "lạc quan tếu". Nhưng thực chất bài báo cố ý nêu lên rằng độc chiếm Biển Đông tuy khó nhưng là một nhu cầu sống còn của Trung Quốc ngày nay; và muốn đạt được Trung Quốc cần làm một cách  bài bản thế này thế kia...   

Rất có thể đây lại là một "chân gỗ" nữa của tình báo Hoa Nam mà bạn đọc Việt Nam cần cảnh giác (!?).  Tôi nghĩ giá trị của tài liệu này, nếu có, chỉ là một động thái giúp ta hiểu thêm về âm mưu thâm hiểm và lòng tham vô đáy của chủ nghĩa bành trướng Trung Hoa.  Lời nguyền đáng giá cho chúng là "tham thì thâm"...chứ không cách  nào khác !

Dưới đây xin trích đăng lại nguyên văn bài viết để bạn đọc tiện tham khảo.

“Vượng báo” (Đài Loan) ngày 4/6 cho biết, Biển Đông có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với Trung Quốc cũng như các nước xung quanh. Cùng với sự trỗi dậy mạnh mẽ, Trung Quốc ngày càng chú ý tới Biển Đông và đang thúc đẩy các hành vi tích cực bảo vệ lợi ích của mình. Tuy nhiên, Trung Quốc đang lâm vào tình thế “đánh không được, đàm không xong, kéo không thể” trong chính sách đối với Biển Đông.



"Đánh không được” tức là không thể khai chiến, nếu không cho dù thế nào, hình tượng "trỗi dậy hòa bình" của Trung Quốc sẽ mất đi và không thể lấy lại, cơ hội phát triển hòa bình của Trung Quốc cũng sẽ không còn. Do vậy, Trung Quốc tuyệt đối sẽ không tuyên chiến nếu chưa bị ép.

“Đàm không xong” nhằm chỉ việc các nước liên quan thường áp dụng lập trường “không đàm phán” đối với tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải. Hơn nữa, đàm phán lãnh hải và đàm phán biên giới trên bộ khác rất xa về bản chất, đàm phán lãnh hải liên quan đến lợi ích kinh tế to lớn, do vậy mà càng khó khăn hơn. Phương thức đàm phán còn nhiều tranh cãi, lại thêm sự can thiệp tích cực của Mỹ, tình hình càng trở nên phức tạp. Đàm phán mặc dù là biện pháp cần thiết, song chỉ dựa vào đàm phán sẽ rất khó bảo vệ lợi ích của bản thân. Do vậy, ngoài việc tích cực đàm phán, còn cần phải sử dụng các biện pháp đồng bộ khác.

“Kéo không thể”, tức không thể để vụ việc kéo dài, trong tình trạng hiện nay, nếu Trung Quốc không bắt tay vào xử lý, sau này xử lý sẽ càng bất lợi và càng phức tạp.

Hiện trạng chiếm hữu Biển Đông của Trung Quốc hiện vô cùng bất lợi, trong số các đảo (và dải đá ngầm) ở Biển Đông, có đảo Thái Bình (Ba Bình của Việt Nam) do Đài Loan chiếm giữ, các đảo khác đều do Việt Nam chiếm giữ, Trung Quốc chỉ kiểm soát được 8 “dải đá ngầm”. Tiếp đó, toàn bộ trên 1.000 giếng khoan dầu ở Biển Đông hiện nay đều do Việt Nam và các nước khác cùng nhau xây dựng, Trung Quốc không có lấy một giếng. Bên cạnh đó, ngư dân Trung Quốc tác nghiệp trong vùng biển này thường xuyên bị tàu ngư chính các nước khác truy đuổi.

Do các nhân tố trên, thái độ và hành vi của Trung Quốc tại khu vực Biển Đông gần đây đã chuyển hướng tích cực hơn, chủ động hơn. Hành vi chủ yếu của Trung Quốc bao gồm 5 hạng mục:

Thứ nhất, tăng cường bổ sung cơ sở pháp lý cho “đường lưỡi bò”. Nhấn mạnh rằng “đường lưỡi bò” do Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc công bố năm 1947, cộng đồng quốc tế khi đó không có ý kiến khác nào, các nước Đông Nam Á xung quanh cũng chưa từng đưa ra kháng nghị ngoại giao, có nghĩa đã mặc nhận sự tồn tại của “đường lưỡi bò”.

Trước đó, chính quyền nhà Thanh đã từng cử hải quân đến quần đảo thị sát vào năm 1909 và kéo lên quốc kỳ Trung Quốc ở đảo Vĩnh Hưng (Phú Lâm của Việt Nam), báo cho thế giới biết đã chiếm lĩnh được nó. Mùa thu năm 1946, kháng chiến thắng lợi, Bộ tư lệnh hải quân của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc đã cử tàu quân sự đến quần đảo Tây Sa và Nam Sa. Tháng 11 thu phục đảo Vĩnh Hưng, xây dựng “Bia kỷ niệm Hải quân Trung Quốc thu phục quần đảo Tây Sa”, tháng 12 thu phục “đảo Thái Bình” và đặt hòn đá “đảo Thái Bình quần đảo Nam Sa” ở phía Đông đảo. Tiếp đó, những người đi tiếp nhận đã đến đảo Trung Nghiệp (Thị Tứ của Việt Nam), đảo Tây Nguyệt (đảo Dừa của Việt Nam) và Nam Uy (Trường Sa của Việt Nam), lần lượt dựng bia xác định chủ quyền.

Thứ hai, lấy cọ sát để thể hiện tính bức thiết của đàm phán. Đối với cách làm của các nước xung quanh như dùng vũ lực chiếm hữu, tăng tốc khai thác, tạo ra sự việc đã rồi, Trung Quốc không ngừng cọ sát để thể hiện tranh chấp, cho thấy đàm phán là hết sức cần thiết, có đàm phán mới có thể tìm ra sự thỏa hiệp. Đối với Trung Quốc, cách làm này ít nhất cũng có thể tránh được thất bại.

Thứ ba, lấy sức mạnh kiểm soát cọ sát, bảo đảm giải quyết hòa bình. Trung Quốc không ngừng tăng cường sức mạnh quân sự tại Biển Đông, ngoài tàu sân bay Varyag sắp được hạ thủy, Trung Quốc còn không ngừng gia tăng trọng tải cùng trang bị vũ khí cho đội tàu hải chính, trang bị vũ khí cho đội tàu ngư chính đủ năng lực đối kháng với hải quân các nước xung quanh, như vậy mới bảo đảm đủ sức giải quyết tranh chấp một cách hòa bình.

Bốn là, khởi động các hoạt động kinh tế, bảo đảm lợi ích cốt lõi. Cùng với các nước xung quanh thúc đẩy hợp tác ở Biển Đông trong các lĩnh vực ngư nghiệp, du lịch, thăm dò và khai thác tài nguyên tương lai…, lấy biện pháp kinh tế đối phó biện pháp kinh tế.

Năm là, khu biệt mâu thuẫn, từng bước giải quyết, xây dựng mô hình điểm, mở rộng hiệu quả. Các bên có tranh chấp ở Biển Đông đều có lợi ích quan trọng của mình, giải quyết tranh chấp có thể áp dụng mô hình “dễ trước khó sau” và “kinh tế trước chính trị sau”. Các nước có mâu thuẫn nhỏ và ít xung đột có thể đàm phán trước, tìm ra lời giải, hình thành mô hình điểm, tích lũy kinh nghiệm rồi mở rộng áp dụng đối với khu vực khác có mâu thuẫn gay gắt hơn. 

Theo Vượng báo
Anh Tuấn (gt)

--------------
*****

Thứ Ba, 7 tháng 6, 2011

Bàn về thế trận Việt Nam: Một tài liệu tham khảo không nên bỏ qua

Mời bạn đọc xem và nghe video clip này sẽ thấy nước Mỹ mạnh nhưng thực dụng và ngây thơ như thế nào.
Về mặt nào đó, có thể ví nước Mỹ giống như môt người đàn bà đẹp...nhưng vô cùng đỏng đãnh.

Có thể giờ đây họ đã nhận ra sai lầm của  40 năm trước? Nhưng liệu họ có muốn hoặc nếu muốn thì thể sửa chữa sai lầm? Đây là điều mà người Việt Nam phải luôn canh chừng trong quá trình quan hệ với các siêu cường.

http://www.youtube.com/watch?v=FYqR5puLtdg&feature=related
*****

Thứ Hai, 6 tháng 6, 2011

Tin mới: Hacker đột nhập nhiều web Trung Quốc khẳng định chủ quyền HS, TS của Việt Nam!

 Tuổi trẻ thứ Sáu ngày 03/6/2011 đưa tin nguồn của TTXVN:
Từ khuya 1-6 đến ngày 2-6, hacker đã đột nhập vào nhiều trang web của Trung Quốc, để khẳng định “Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam”.
Sự kiện này diễn ra sau vụ tàu hải giám Trung Quốc ngang nhiên cắt cáp tàu thăm dò địa chấn Bình Minh 02 và hàng loạt các vụ trấn áp ngư dân Việt Nam ngay trên lãnh hải Việt Nam. Dù chính phủ Việt Nam đã chính thức lên tiếng phản đối, nhưng trước các lời tố cáo, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại hai lần ra tuyên bố ngược lại, đòi Việt Nam phải dừng các hoạt động tại Biển Đông.
Thái độ này đã làm dấy lên một làn sóng công phẫn, đặc biệt là cộng đồng mạng. Từ tối 1-6, một số trang web của Trung Quốc đã bị hacker đột nhập, để lại các hình ảnh, tuyên ngôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông.
Như trong trường hợp các vụ tấn công tin học, không thể xác định ngay lập tức nơi xuất phát của các hacker, nhưng rõ ràng là tất cả các dấu hiệu để lại đều nhằm bênh vực chủ quyền của Việt Nam.
TTXVN
Từ khuya 1-6 đến ngày 2-6, hacker đã đột nhập vào nhiều trang web của Trung Quốc, để khẳng định “Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam”.
Sự kiện này diễn ra sau vụ tàu hải giám Trung Quốc ngang nhiên cắt cáp tàu thăm dò địa chấn Bình Minh 02 và hàng loạt các vụ trấn áp ngư dân Việt Nam ngay trên lãnh hải Việt Nam. Dù chính phủ Việt Nam đã chính thức lên tiếng phản đối, nhưng trước các lời tố cáo, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại hai lần ra tuyên bố ngược lại, đòi Việt Nam phải dừng các hoạt động tại Biển Đông.
Thái độ này đã làm dấy lên một làn sóng công phẫn, đặc biệt là cộng đồng mạng. Từ tối 1-6, một số trang web của Trung Quốc đã bị hacker đột nhập, để lại các hình ảnh, tuyên ngôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông.
Như trong trường hợp các vụ tấn công tin học, không thể xác định ngay lập tức nơi xuất phát của các hacker, nhưng rõ ràng là tất cả các dấu hiệu để lại đều nhằm bênh vực chủ quyền của Việt Nam.
TTXVN


 

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này