Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2011

Thế trận Việt Nam: Cần một tư duy mới

Phần I: Lịch sử cho thấy gì?
Dường như mỗi người Việt Nam sinh ra là biết mình có “hơn 4.000 năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước” và đồng thời rất đỗi tự hào về truyền thống chống ngoại xâm, từ giặc Ân-Thương, Tần, Hán, Đường, Nguyên-Mông, Thanh,  Pháp,  Nhật, Mỹ, Tàu Tưởng và CHND Trung Hoa. Phải chăng đó là do thế đất trời hay vận mệnh mà ra? Nhưng có một điều đã rõ: Người Việt có một kẻ mà dù muốn hay không vẫn phải chung sống cận kề bên nhau đời đời kíp kíp, đó là nước Trung Hoa luôn tự phong là “vương triều giữa thiên hạ”(the Middle Kingdom). Với cái "mệnh trời" tự phong đó, kể từ thời sơ khai, Nhà Hạ (từ thiên niên kỷ thứ II TCN) đã có xu hướng bành trướng lãnh thổ về hướng Nam nơi vốn là thánh địa của hàng trăm tộc người “Bách Việt”.  Trong quá trình kéo dài hàng ngàn năm đó các bộ tộc hoặc vương quốc Bách Việt đã lần lượt bị Hán tộc thôn tính và đồng hóa, chỉ còn lại Việt Nam tuy không bị đồng hóa nhưng đã bị dồn đẩy về phía Nam và bị các triều đại phong kiến Phương Bắc thay nhau đô hộ trong 1.000 năm liền. Và từ bấy đến giờ họ chưa hề ngưng giấc mộng bành trướng về phương Nam.
Có ít nhất là 4 kinh nghiệm có thể rút ra từ lịch sử:
Một là, mỗi khi Vương triều Phương Bắc thống nhất và mạnh lên thì họ đem quân sang chinh phạt Việt Nam (bắt đầu  bằng cuộc xâm lược quy mô lớn đầu tiên diến ra từ năm 218 đến 208 TCN giữa thời kỳ hoàng kim của Nhà Tần). Đôi khi trong những cơn tức giận, họ cũng mang quân “đánh hàng xóm”, điển hình là cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 mà họ nói “để dạy cho Việt Nam một bài học”. Cho đến nay chưa có gì để đảm bảo rằng cách hành xử này sẽ không lặp lại.
Hai là, kẻ thù thường triệt để khai thác những thời điểm có bất hòa, bất ổn trong nội bộ Việt Nam để khởi binh xâm lược. Đành rằng hễ khi nào bị xâm lược, người Việt Nam lại gác lại những bất hòa, bất ổn trong nội bộ để tập trung chống kẻ thù, nhưng đây là một  nghịch lý, bởi lẽ những chu kỳ chiến tranh lặp đi lặp lại ắt gây ra hậu quả nặng nề truyền kiếp đối với dân tộc ta. Tại sao không  phòng ngừa tránh để xảy ra xâm lược rồi mới đoàn kết ?    
Ba là, dù thắng, bại nhà nước Việt Nam cũng chưa bao giờ tách hẵn khỏi “vòng cương tỏa” của Vương triều Phương Bắc.  Tuy vậy phía đối phương chưa hề tỏ ra biết trân trọng quốc sách hòa hảo, phục thiện đó của dân tộc Việt Nam; trái lại còn coi đó là cử chỉ yếu hèn, nhu nhược...!  
Bốn là, các kẻ ngoại xâm không liền kề biên giới như Nguyên-Mông, Pháp, Mỹ, Nhật   sau khi bại trận đều rút khỏi lãnh thổ của Việt Nam mà không chiếm được tất đất nào, nhưng nước láng giềng Phương Bắc dù bại trận vẫn chiếm đất đai và dồn đẩy Việt Nam về phía Nam. Ngày nay điều này vẫn đang diễn ra và còn gay gắt hơn với tham vọng độc chiếm Biển Đông của họ.  
Phần II: Tương quan lực lượng
Trên đây là những gì có thể thấy từ lịch sử và cũng là những kinh nghiệm thiết thực để  rút ra bài học cho hiện tại và tương lai.  Thiết nghĩ giờ đây trong bối cảnh thế giới đã hoan toàn khác xưa, đã đến lúc người Việt Nam cần suy ngẫm lại về cái triết lý bạn / thù và đồng minh, để từ đó có những sự điều chỉnh hợp lý nhằm thay đổi cục diện đang ngày càng trở nên bất lợi cho mình.
Để làm được điều này trước hết ta hãy thử xem xét mối tương quan so sánh lực lượng trong bối cảnh thế giới ngày nay.
Trung Quốc bao giờ cũng là một cường quốc với tham vọng bành trướng...
Có thể nói, kể từ khi Tần Thủy Hoàng thống nhất đất nước năm 256 TCN, Trung Quốc đã là một cường quốc đầy tham vọng lãnh thổ. Ngày nay tham vọng đó càng trở nên cấp bách khi “con sư tử” đã thức giấc và trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.  Đi kèm với sự lớn mạnh đó là mối nguy cơ đối với các nước láng giềng, đặc biệt đối với Việt Nam.
Khoan hãy bàn chuyện đúng, sai về chiến lược của giới lãnh đạo Trung Quốc, điều đã rõ  là họ đang nóng lòng muốn mau chóng đạt mục đích độc chiếm Biển Đông (vì biết để càng lâu càng khó). Về quân sự họ gấp rút tăng cường lực lượng hải quân cho mục đích bành trướng trên biển; về đối ngoại đã chính thức đề trình LHQ sơ đồ “ đường lưỡi bò”  bao trọn 80% diện tích Biển Đông, trong đó “lẹm” sâu vào lãnh hãi  của Việt Nam và các nước ven bờ khác đồng thời tuyên bố  đó là “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc (như đối với Đài Loan và Tây Tạng vậy!?). Những bước đi của chính quyền Trung Quốc xuất phát từ chiến lược được tính toán lâu dài với khát vọng độc chiếm Biển Đông để làm  cửa ngõ thông ra thế giới. Điều mĩa mai là , một đất nước vốn chỉ bằng một vết dầu từ thời Nhà Hạ nhờ xâm lược mà nay trở thành “khủng” như Trung Quốc lại còn than phiền bị các nước nhỏ xâm chiếm đất đai và biển đảo…, nên giờ đây phải “giành lại”(?) Chưa cần nói đến hành động, chỉ nghe cách tư duy trái ngược với xu hướng thời đại như thế đã thấy chủ nghĩa bành trướng Đại Hán nguy hiểm như thế nào. Nó nhắc ta nhớ lại thuyết Đại Đức của Hít le hồi đầu thế kỷ trước.                
Riêng Việt Nam, do vị thế địa chính trị, lại một lần nữa trở thành “vật cản’ đối với chủ nghĩa bành trướng nói trên . Đó là "vạch nối" không đáng có sau lịch sử 5.000 năm ân oán giữa Hán tộc và Việt tộc. Nhưng có điểm khác là: Giờ đây các nước Đông Nam Á xa hơn  cũng bắt đầu trực tiếp cảm nhận áp lực của chủ nghĩa bành trướng Phương Bắc ; và do lợi ích thiết thân của mình, Mỹ và hầu hết các  cường quốc khác cũng không thể chấp nhận. (Ảnh minh họa đường “lưỡi bò” đòi hỏi chủ quyền trên Biển Đông do phía Trung Quốc đơn phương công bố)
…Trong một thế giới đã thay đổi          
Cần nhắc lại rằng thế giới ngày nay đã hoàn toàn khác với các thời kỳ tiền sử cũng như thời phong kiến - thực dân. Đó là sự ra đời của hàng trăm quốc gia dân tộc, trong đó mọi quốc gia dù lớn nhỏ đều có thể tồn tại và phát triển với tư cách bình đẳng thông qua các cơ chế hoạt động của các tổ chức quốc tế, điển hình là Liên Hợp quốc (UN) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), được chi phối bới các “luật chơi” chung như Luật Biển, các công ước về chiến tranh và hòa bình, các luật lệ môi trường, thương mại v.v…Các mối giao lưu quốc tế đã trở nên vô cùng nhanh nhậy trên bình diện đa phương, đa chiều và tùy thuộc lẫn nhau một cách sâu sắc. Trong mối quan hệ đan xen nhiều tầng nấc như vậy, bất cứ hành động xâm lược phi pháp nào giữa các quốc gia cũng nhanh chóng bị phơi bày trước công luận quốc tế.   
Quan niệm về bạn/ thù và đồng minh cũng khác xưa. Nếu như trước đây một nước nhỏ yếu thường sớm muộn cũng bị một nước láng giềng lớn mạnh thôn tính thì ngày nay nhiều nước nhỏ vẫn có thể tồn tại độc lập và phát triển phồn thịnh (như trường hợp Thụy Sĩ, Áo, Phần lan, Hàn Quốc, Đài Loan, Israel, và ngay cả những vùng lãnh thổ nhỏ bé như Hồng Kông, Ma Cau nằm lọt thỏm trong lòng Đại lục). Đó là nhờ họ biết vận dụng những nhân tố mới của thời đại để giảm thiểu sự lệ thuộc vào một cường quốc láng giềng bằng, chẳng hạn dựa vào đồng minh ở xa nhưng có sức mạnh và có cùng lợi ích (như trường hợp Hàn Quốc và Đài Loan, Phillipin dựa vào  Mỹ, v.v…). Nếu như trước đây những đội quân đến từ các thảo nguyên nơi có giống ngựa tốt thường là những đội quân hùng mạnh thì ngày nay sức mạnh phụ thuộc chủ yếu vào các loại vũ khí công nghệ cao được đặt bất cứ vị trí nào trên mặt đất hoặc trong đại dương. Nếu biết kết hợp những yếu tố mới của thời đại một  quốc gia nhỏ yếu có thể tùy theo vị trí địa chính trị và mục đích tự vệ của mình để tính toán việc chọn bạn/ thù và đồng mình mà không nhất thiết phải phụ thuộc  một cường quốc láng giềng.  
Nếu trong quá khứ các cuộc xâm lược thường nhằm mục tiêu chiếm đất đai, của cải trên đất liền thì ngay nay các mục tiêu biển đảo đã trở nên hấp dẫn hơn . Cùng với “hấp lực” này, hải quân các nước không chỉ có chức năng vận chuyển và tác chiến trên biển mà còn đóng vai trò của lực lượng chiếm đóng giữa biển khơi. Cũng do đó, các quốc gia có vị trí án ngữ trên các tuyến hàng hải chiến lược hoặc chứa đựng nhiều tài nguyên biển trở thành vừa đối tượng tranh giành, vừa là đối tác quan trọng.  
Sự bùng nổ của công nghệ thông tin cũng là một yếu tố tác động không nhỏ đến tư duy quốc phòng trong thời hiện đại. Trước hết nó thúc đẩy quá trình “minh bạch hóa” tiềm lực quân sự của các nước lớn đồng thời hạn chế tình trạng chạy đua vũ trang một cách lãng phí. Với sự phổ cập rộng rãi công nghệ thông tin,  những âm mưu xâm lược dù được che dấu bằng bất cứ thủ đoạn nào cũng dễ bị phơi bày trước công luận. Nếu như trong quá khứ chỉ một số ít người nắm giữ thông tin tuyệt mật về quốc phòng hay các quyết định về chiến tranh và hòa bình thì giờ đây những thông tin loại này có thể bị tiết lộ và “khuếch tán” nhanh chóng trên internet. 
Tóm lại, thế giới ngày nay đưa lại nhiều lợi thế cho các quốc gia nhỏ yếu để tự vệ hơn là trong quá khứ. Đó chính là đặc điểm mới mà các quốc gia nói chung, đặc biệt các quốc gia nhỏ yếu hơn, có thể khai thác cho mục tiêu độc lập và phát triển của bản thân.
Mỹ trở lại Đông Nam Ấ, cơ hội hay thách thức?
Mọi người hẳn còn nhớ lời cảnh báo về “khoảng trống quyền lực” tại Đông Nam Á trong sự vắng bóng Mỹ sau thất bại chiến tranh Việt Nam 1975. Rốt cuộc không ai khác, chính Trung Quốc đã âm thầm ra sức lấp đầy khoảng trống này. Đó quả là “cơ hội  vàng” đối với họ, ít ra là cho đến khi Mỹ quyết định trở lại với lời tuyên bố của Ngoại trưởng Hillary Clinton đưa ra tại Hà Nội hồi tháng 7/2010, trong đó coi Biển Đông là “lợi ích quốc gia“ của Mỹ.
Có thể nói, sự trở lại của Mỹ lần này trước hết xuất phát từ sự tính toán lợi ích của nước Mỹ trong ván cờ quyền lực quốc tế nói chung, và với Trung Quốc nói riêng; họ không trở lại chỉ để giúp đỡ bất cứ một nước nào, kể cả Việt Nam. Tuy nhiên sự trở lại của Mỹ vào lúc này dù muốn hay không đang tạo nên một cơ hội cho các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, để đối phó với thế lấn lướt trong âm mưu độc chiếm Biển Đông của một nước Trung Quốc khổng lồ đày tham vọng bành trướng. Sự trở lại của người Mỹ lần này không “thầm lặng”; họ cần sự ủng hộ của dư luận ASEAN và quốc tế. Cũng vì những đặc điểm nói trên, sự trở lại của Mỹ giờ đây được dư luận Mỹ và các nước Đông Nam Á đồng thuận với mức độ cao; có lẽ chỉ Trung Quốc là không hài lòng, thậm chí còn “cay cú”.        
Đối với Việt Nam, đây không phải là lần đầu phải lựa chọn bạn/ thù và đồng minh. Chỉ khác là trong một bối cảnh hoàn toàn khác so với thời kỳ phong kiến thực dân và cũng khác thời kỳ “chiến tranh lạnh” khi người Mỹ vào Đông Nam Á chủ yếu để ngăn chặn “nguy cơ Chủ nghĩa Cộng sản”, nhưng giờ đây họ trở lại nhằm ngăn chặn nguy cơ của  một nước Trung Quốc đang thách thức vị thế hàng đầu của nước Mỹ.
Do đó, có thể nói, nếu trong những năm 1940 Tổng thống Truman đã vì quá mù quáng với chủ nghĩa chống cộng mà khước từ động thái mời chào bang giao hữu nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì nay Tổng thống Obama chắc sẽ không lặp lại điều đó. Cũng đã có ít nhất vài ba cơ hội khác mà hai nước đã "đánh mất", đó là Hiệp định Geneve 1954, Hiệp định Paris 1973, và sau giải phóng miền Nam 1975. Hiện nay cũng là một cơ hội.   Nói cách khác, Việt Nam lúc nào cũng có “cái giá” của mình. Có thể thấy trong thế trận hiện nay tại khu vực Châu Á -TBD nói chung và tai Đông Nam Á nói riêng, Việt Nam và Mỹ đang có nhiều lợi ích tương đồng hơn bất cứ lúc nào trong quá khứ. 
Tuy nhiên, cũng như trong quan hệ hôn nhân, quan hệ đồng mình cần một sự tự nguyện và đồng thuận cao. Về điểm này, thiết nghĩ người Việt Nam cũng không nên quá nhẹ dạ đến mức kêu gọi nhau “đi với Mỹ” như ông Cù Huy Hà Vũ, và một số người đang làm, nhất là nếu tính đến thực thể chế chính trị hiện tại của Việt Nam . Lại cũng không thiếu gì những kinh nghiệm cay đắng về khả năng thỏa hiệp giữa các nước lớn trên lưng các nước nhỏ. Có lẽ trước mắt một sự thỏa hiệp lỏng lẻo và có điều kiện giữa hai bên là lựa chọn "khả thi" nhất. 

Phần III: Sự chọn lựa nào cho Việt Nam?
Không nhất thiết phải đứng về một bên chống một bên  
Từ kinh nghiệm của 1.000 năm Bắc thuộc, rồi 100 năm Pháp thuộc và gần 50 năm chiến tranh chống lại các thế lực đế quốc, phát xít và bành trướng, Việt Nam dù muốn hay không vẫn luôn bị đặt vào thế phải chọn bạn, thù và đồng minh nhằm mục tiêu đánh thắng kẻ thù để giành lại và bảo vệ nền độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Có thể nói Việt Nam đã thành công trong việc lựa chọn bạn/thù  trong  quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây. Tuy nhiên, những lựa chọn đó là “vạn bất đắc dĩ” khi buộc  phải đứng về bên này chống bên kia, và do đó, đằng sau những thành công luôn tiềm ẩn những nguy cơ từ nước  láng giềng Phương Bắc. Đó là một sự thật nghiệt ngã, đôi khi rất trớ trêu. Chẳng hạn trong thời kỳ trước và sau giải phóng miền Nam năm 1975, trong bối cảnh mâu thuẩn Xô-Trung ngày càng căng thẳng và Mỹ-Trung đang  xích lại gần nhau, Việt Nam một lần nữa rơi vào thế “quân tốt” trong ván cờ của hai siêu cường Trung, Mỹ. Điều tệ hại đã xảy ra khi Mỹ, Trung bắt tay nhau trong qúa trình đàm phán bí mật Thượng Hải năm 1972,  nhân cơ hội này phía Trung Quốc đã đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974, rồi đơn phương phát động chiến tranh  trên toàn tuyến biên giới phía Bắc của Việt Nam vào tháng 2/1979.  
Thực tế là như vậy. Nhưng có điều trớ trêu là, ông bạn láng giềng Phương Bắc lúc nào cũng chỉ chăm chăm trách cứ Việt Nam “vong ơn bội nghĩa...”, và dường như không muốn biết rằng, nếu xem xét vấn đề một cách ngọn ngành thì chỉ có người Việt Nam lúc nào cũng trước sau như một, đã hy sinh sức người, sức của và thời gian giúp Trung Quốc đạt được những mục đích chiến lược của họ kể cả những tình huống không có lợi cho Việt Nam. Phải chăng người Trung Quốc không bao giờ thỏa mãn chừng  nào cái “vành đai” phía Nam chưa nằm trọn vẹn trong vòng cương tỏa của họ? 
Có thể nói với trạng thái quan hệ Việt-Trung như lâu nay không có gì để đảm bảo rằng những hành động bất bình đẳng sẽ lại không tái diễn. Đó  chính  là nguy cơ trực tiếp đối với Việt Nam. Do đó. nếu nói rằng tình huống buộc người Việt Nam phải lựa chọn, thì đó chính là phương châm đã được xác định từ Đại hội Đảng lần thứ VI: “Sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước”. Chỉ tiếc là, do một số nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong 15 năm qua  phương châm đó chưa được thực hiện một cách đầy đủ và nhất quán bằng những biện pháp cụ thể; có lúc có nơi còn đi chệch hướng.
Tuy nhiên, phải chăng chậm còn hơn không ? Giờ đây đã đến lúc để Việt Nam đoạn tuyệt với cách thức chọn  bạn-thù và đồng minh theo kiểu đứng về một bên chống lại một bên, bằng cách cởi bỏ tâm lý lo sợ và lệ thuộc bằng "ý thức hệ" hoặc dưới bất cứ dạng nào vào  nước lớn láng giềng Phương Bắc, đồng thời không tự hạn chế trong quan hệ với Mỹ và các cường quốc khác vì mục tiêu tối thượng là bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình. Để làm được điều đó, trước hết Việt Nam cần dựa vào sức mình là chính, phát huy mạnh mẽ tinh thần độc lập tự chủ, tự cường trước mọi hành động và âm mưu xâm lấn của nước ngoài. Đó mới là cách tư duy hợp lý trong bối cảnh và tương quan lực lượng quốc tế và khu vực hiện nay, có tính đến  thực thể chính trị hiện tại của Việt Nam. Trong quá trình vận động, điều gì đến ắt sẽ đến. Hy vọng rằng Việt Nam sẽ thắng nhờ những nước cờ tiếp theo chứ không ở những nước đã đi.  

Yếu tố quyết định là nội lực và sự đoàn kết dân tộc
Có thể nói, đối với Việt Nam, việc lựa chọn bạn/thù và đồng minh tuy rất quan trong nhưng cũng chỉ là một mặt của toàn bộ chiến lược bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Lựa chọn vô cùng quan trọng là nội lực của đất nước, đó là sức mạnh tổng hợp mà trong đó khối đoàn kết toàn dân giữa vai trò quan trọng nhất.  
Như đã nói trên đây, bài học lịch sử của  hàng ngàn năm giữ nước cho thấy khi nào xảy ra tình trạng vua quan tự mãn, quan liêu, tham nhũng xa rời nhân dân khiến lòng dân oán giận, bất bình,...  ắt dẫn đến tình trạng lục đục mất đoàn kết nội bộ, và đó là nguy cơ cho ngoại xâm tràn vào. 
Thiết nghĩ, tình trạng “bất hòa”, “bất ổn”, “bất tín”  ít nhiều đã xuật hiện và đang diễn biến khá phức tạp  trong những năm tháng gần đây. Dư luận nhân dân ngày càng bức xúc trước những biểu hiện tham nhũng, năng lực yếu kém bộc lộ ở tất cả các cấp độ của hệ thống công quyền. Tất cả đang làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Tình trạng này đã được các văn kiện Đại hội Đảng ghi nhận là “đang đe dọa sự tồn vong của chế độ”. Thiết nghĩ đây là một vấn đề mà dân tộc ta phải bằng mọi cách  khắc phục càng sớm càng tốt để không lặp lại tình trạng như đã từng xảy ra trong quá khứ lịch sử.
Dựa vào thế trận “chiến tranh nhân dân”
Kinh nghiệm cho thấy chiến tranh nhân dân luôn luôn là nhân tố quyết định tạo nên sức mạch vô địch của nền quân sự Việt Nam. Phải nhắc lại điều này bởi lẽ nó dường như đã bị lãng quên trong tư duy chiến thuật trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo trong thời gian qua; thậm chí có tình trạng dân không được biết, không được bàn…,  trái lại còn bị cấm đoán. Qua ý kiến phản hồi của dân chài Quãng Ngãi và miền Trung chothấy  sự cấm đoán mang tính “bao cấp” về tư tưởng chính trị như vậy không chỉ tự hạn chế sức mạnh đấu tranh của ta mà còn làm chia rẽ nội bộ chỉ có lợi cho âm mưưu của bọn bành trướng. Còn đó kinh nghiêm “xương máu” của thời kỳ trước cuộc chiến tranh biên giới 1979: Trong khi phía đối phương chủ động tung tin “sẽ đánh Việt Nam” để thăm dò dư luận thì phía ta lại chủ trương giữ kín thông tin trong nội bộ, không thông báo cho dân. Hậu quả khi quân giặc tiến quân vào, không chỉ từng người dân mà cả cán bộ, chiến sĩ đều bị bất ngờ, bị động. Liên quan đến chủ đề này, được biết ông Lưu Văn Lợi- nguyên chuyên gia cao cấp về biên giới  đã có đưa ra một đề xướng từ năm 2009 và được Quốc hội và dư luận tán đồng, đó là cần phát động và triển khai thế trận chiến tranh nhân dân trên vùng biển đảo của đất nước. Thiết nghĩ giờ đây cần“phục hoạt" lại kế hoạch đó.

Tránh chạy dua vũ trang một cách dàn trải, ưu tiên vũ trang phòng thủ từ đất liền
Trong số các bên tranh chấp Biển Đông, Việt Nam là nước án ngữ gần như toàn bộ bờ Tây của biển này. Với địa thế và địa hình độc đáo như vậy, không có lý do gì để không tính đến một chiến thuật phòng thủ độc đáo. Đó là phòng thủ từ đất liền là chính (tất nhiên với mức độ vũ trang cần thiết về hải quân và không quân với  khả năng của nền kinh tế nước nhà). Với địa hình địa thế ven biển của Việt Nam, đây có thể là một giải pháp lý tưởng mà các nước khác quanh Biển Đông không thể có.
                                               Hình chỉ có tính chất minh họa

Chiến thuật này không chỉ phù hợp về  địa thế mà còn ít tốn kém hơn nhiều so với các phương án chiến thuật phòng thủ trên biển hoặc trên không.  Chưa cần tính toán cụ thể , ta cũng có thể ước đoán kinh phí  cho một cỗ đại pháo tầm xa hay một dàn tên lữa “đất đối biển” chắc chắn thấp hơn  so với một tàu chiến, và thấp hơn nhiều so với một tàu  ngầm hay tàu sân bay. Độ chính xác hỏa lực cũng không thua kém gì nhau. Khả năng ngụy trang, bảo vệ  tương đương so với các phương tiện trên biển. Ngoài ra nó có ưu thế từ đất liền khống chế hầu như toàn bộ 1/2 phía Tây của Biển Đông. Yếu điểm (nếu có) của chiến thuật này là chỉ mạnh về phòng thủ, không có khả tấn công và chiếm giữa trên biển. Tuy nhiên nó hoàn toàn phù hợp với mục tiêu chính trị của Việt Nam với tư cách người tự vệ. Nó có tác dụng răn đe  và khống chế  (tương tự như những cổ pháo của Đan Mạch từng một thời khống chế eo biển Ban Tích ). 
 (Trên đây chỉ nêu ra một ý tưởng xét về mặt địa chính trị và tương quan so sách lực lượng tổng hợp giữa các bên liên quan.  Để cụ thể hóa, cần có sự tham gia của các chuyên gia vũ khí và chiến thuật gia quân sự).
Ngoại giao cởi mở, công khai, minh bạch
Ngoại giao luôn là một bộ phận cấu thành quan trong bậc nhất trong sự nghiệp bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia. Vậy thì không có lý do gì khi đối phương liên tục xâm phạm chủ quyền biển đảo, xâm nhập sâu vào ngư trường của ta để bắt cướp, đâm thủng tàu thuyền của dân chài đang làm ăn bình thường mà mãi vẫn chỉ có “tuyên bố của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao” với những từ ngữ hết sức phản cảm: “nước lạ”, “tàu lạ”….(?)    
Thiết nghĩ đã quá đến lúc cần thay đổi cách làm ngoại giao cứng nhắc trong “vòng kim cô” của những chỉ đạo chính trị từ cấp cao nhất của "hai đảng anh em". Suốt thời gian qua trong khi phía ta luôn chủ trương nghiêm túc và kiềm chế..., thì phía đối phương ra sức lấn chiếm trên thực địa đồng thời chuẩn bị lập luận pháp lý và  tuyên truyền tranh thủ dư luận,  và trên thực tế họ đã đảo lộn chiều hướng dư luận một cách có lợi cho họ.  Không có cách nào khác là ta nên khẩn trương chuyển sang phong cách thích hợp, đó là ngoại giao cởi mở, công khai, minh bạch vốn  là lợi thế của ta - nước duy nhất có cơ sở pháp lý lịch sử và tư cách chính nghĩa trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của ngày nay.

Thay cho lời kết
 Việt Nam với hơn 80 triệu dân là một nước trung bình lớn, với diện tích hơn 300.000  km2 có  hai vựa thóc phì nhiêu ở hai đầu đất nước, có rừng có biển, lại sở hửu một “mặt tiền” dài hơn 3.000 km quay ra Biển Đông, hoàn toàn không thể mãi là một nước nghèo yếu. Nếu biết duy trì  khối đoàn kết nội bộ thật sự vững bền trên cở sở đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và có sự lãnh đạo sáng suốt của môt bộ máy nhà nước trong sạch, thật sự do dân, vì dân thì đất nước này sẽ mãi mãi không kẻ thù nào có thể đánh bại ./.

Tài liệu tham khảo và ghi chú
- Bách khoa toàn thư mở Wikipedia;
- Đại Việt sử ký của Trần Trọng Kim  
 -Phát biểu của Đặng Tiểu Bình, Vương Hàn Lĩnh;
-Các bài viết của các nhà nghiên cứu Dương Danh Dy , tướng Nguyễn Trọng Vĩnh 
- Quyễn” Giấc mơ Trung Quốc-Tư duy nước lớn về định vị chiến lược trong thời đại hậu Mỹ” của tác giả: Lưu Minh Phúc- , Giáo sư, Giám đốc Học viện Nghiên cứu xây dựng Quân đội thuộc Đại học Quốc phòng Trung Quốc, xuất bản đầu năm 2010 đã được TTXVN dịch ra tiếng Việt;
- Phát biểu của Đới Bình Quốc- Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc”năm 2010:   ASEAN là một nhân tố bị chia rẽ và hướng nội, thậm chí còn thiếu thống nhất hơn EU.  Chúng ta (tức là Trung Quốc) có tầm ảnh hưởng rất lớn ở Đông Nam Á bởi sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, các thỏa thuận thương mại tự do và khả năng đổi hướng các cuộc thảo luận của ASEAN thông qua Campuchia, Lào và đôi khi cả Philippines”.
-Bài   Hu Jintao’s visit and the SouthChina Sea: “Whose/Hu’s Core Interest?”  của  Ernest Z. Bower ngày 11/01/2011.        
- Văn kiện  Kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban CHTW Khóa 9 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X ngày  10/4/2006;  tham khảo các văn kiện Báo cáo Đại hội Đảng lần thứ  XI và một số ý kiến đóng góp xây dựng Văn kiện này.


20 nhận xét:

  1. một tay viết đẳng cấp xuất hiện đúng lúc , cám ơn bác Trần Kinh Nghị

    Trả lờiXóa
  2. nghe tên bác quen quen, công chúa hà trang nhà bác vẫn khỏe chứ ạh?

    Trả lờiXóa
  3. Phương Thành Loạnlúc 10:42 30 tháng 4, 2011

    một tay viết đẳng cấp xuất hiện đúng lúc , cám ơn bác Trần Kinh Nghị. Đề nghị tất cả các trang thông tin như Boxit;TTHN;Kami;Đàn chim việt;Dân làm báo v.v...đằng lại để nhiều người được biết và hiểu hơn về tình hình thực tế đang diễn biến ở Việt nam hiện nay, để có những hành động thích hợp cho mục tiêu xây dựng một nước "Việt nam Giầu và Mạnh", xứng tầm với con người và trí tuệ Việt nam

    Trả lờiXóa
  4. Thanks tuanle. I have been promoted to the rank of Grand-dad. Ha, ha, ha!

    Trả lờiXóa
  5. Tôi rất đồng ý với quan điểm của TK Nghị. Buồn một nỗi: hình như nhà cầm quyền VN đã và đang không thực sự vì lợi ích dân tộc.

    Trả lờiXóa
  6. Chào Dân thương! Chính vì thế mà thường dân cũng phải tham gia vào chính trường. "CM là sự nghiệp của quần chúng" chứ đâu phải của riêng ai?

    Trả lờiXóa
  7. Một bài viết hay của một người yêu nước

    Trả lờiXóa
  8. Cảm ơn bác Nghị đã hệ thống hoá, vấn đề không mới nhưng tư duy phải thay đổi sát cục diện.
    1/ Lịch sử cho thấy gì?
    Lâu dài và trước mắt, TQ vẫn là nguy cơ số 1 đối với VN về chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
    Về mặt ngoại giao không thể công bố như vậy, nhưng ít nhất phải được thống nhất, xác định rõ trong Bộ Chính trị, HĐ Quốc phòng và an ninh, Quân uỷ trung ương. Là đối tượng sẵn sàng tác chiến của QĐNDVN.
    2/ Sự chọn lựa nào cho Việt Nam?
    Không nhất thiết phải đứng về một bên chống một bên. Nhưng dựa vào Mỹ để chống Tàu, không mâu thuẫn với ý trên.
    Ta không thể chạy đua vũ trang với TQ, trong khi biết mình luôn là kẻ đi sau. Tán thành ý bác Nghị, tập trung phòng thủ từ đất liền + hải đảo, cái khả thi là máy bay cảnh giới, rada, tên lửa tầm xa hiện đại nhất.
    3/ Yếu tố quyết định là nội lực, nếu không có sự đoàn kết dân tộc, quốc phòng toàn dân với ý nghĩa đích thực thì chỉ là vuốt đuôi nhau, hù chơi và rồi "mẹ lại phải đào hầm dưới tầm đại bác"...
    Trong tình hình hiện nay, tôi thiếu niềm tin về khả năng của Ta đối phó với TQ.

    Trả lờiXóa
  9. Dấu hiệu tốt là cho đến giờ thấy các comment dù ngắn, dài đều nói thẳng nhưng vẫn đồng thuận là chính.
    Về mối bi quan của tranhung, tôi thấy không nên lo sợ,vì nếu cứ "tay bo" thì dứt khoát VN thua TQ. Nhưng vấn đề không đơn giản, khi đánh ai phải tính đến hậu quả sau đó (Phát xít Đức chiếm gần hết Châu Au rồi lại thua kiệt quệ đấy thôi!) Đối với VN chỉ cần đủ sức kiềm chân địch một thời gian coi như sẽ thắng!
    Đ/n ai có kiến thức về vũ khí thì thử phác thảo "PA phòng thủ trên bờ".

    Trả lờiXóa
  10. yeah, I know that! already congratulaed to Trang and Tuan Viet and now to You :D, they're my friends, looking forward to reading your 'speak-straightly, speak-frankly' entries.

    Trả lờiXóa
  11. Kính Anh Trần Thanh Nghị,Anh cho phép chép bài này về blog.Cám ơn-Trân trọng-phamdinhtan's blog
    ( không hiểu tại sao blogspot đa số không chấp nhận tôi viết phản hồi,nên dùng đường Anh chỉ dẫn)

    Trả lờiXóa
  12. Kính xin lỗi Anh Nghị vì con mắt "già" đọc sai chữ lót.Mong Anh thông cảm và sửa lại dùm-Cám ơn

    Trả lờiXóa
  13. Nghe tên bài em đã... khoái; em copy về bên nhà bác nhé!
    Mình không cần chạy đua với TQ và cũng chẳng có khả năng (nếu như cách đây 30 năm mà đất nước bước vào nền dân chủ thực sự thì bây giờ dư sức); nhưng do địa hình của nước ta và các yếu tố thời đại... thì Tàu sân bay của TQ ở Biển Đông chẳng là gì với nguời VN ta cả, em nghĩ vậy bác ạ.

    Trả lờiXóa
  14. Tôi đồng ý với Bác ở một số điểm nhưng không đồng ý với Bác ở ba điểm sau:
    1. Chuyện minh bạch, không thể làm được nếu không dân chủ.
    2. Bảo vệ từ đất liền, kỹ thuật VN không cho phép. Hơn nữa, khi bị đánh thì vì VN nhỏ, dân mình sẽ lãnh đủ thay vì hải quân đánh với nhau.
    3. Không thể không có đồng minh thân cận. Ngôn ngữ chính trị có thể thay đổi. Đợi lúc quốc gia hùng cường thì tự mình bảo vệ được như Hàn quốc chẳng hạn. Đâu nhất thiết bạn của kẻ thù thì cũng là kẻ thù đâu.

    Cảm ơn Bác đã có bài viết hay

    Trả lờiXóa
  15. Bài của Ông Kinh Nghi chỉ nói sơ qua về việc bảo vệ bờ cỏi VN mình . Thật sự thì người VN chúng ta cần nhìn cái tổng thể trên bàn cờ thế giới và nhìn lại chế độ nước mình đang có có phải là tốt để có thể có được một sự đồng thuận từ toàn dân hay không? Chúng ta không chủ trương gây hấn hoặc chống TQ ( với điều kiện TQ không xâm lăng nước ta ), nhưng chúng ta phải chống lại những người Cầm quyền đất nước thậm thụt nhận tiền ngoại bang để vinh thân, phì gia và dùng đất nước để làm lợi cho ngoại bang ( như Vụ Vịnh Bắc Việt, Hoang sa 1984,Bâu Xít Tây nguyên, Cho thuê dài hạn rừng biên giới phiá Bắc v.v...).
    Theo tôi thì điều tốt nhất mà nhà nước VN nên làm là trong thời gian này vận động với toàn thể các nước trên Thế Giới và xin đang đàn LHQ xin yểm trợ cho VN tức thì nếu có nước nào xâm lấn lãnh thổ, rồi tại diễn đàn LHQ tuyên bố VN theo Thể Chế TRUNG LẬP có bầu cử , ứng cử Tự do vào Quốc Hội dưới sự giám sát cuả LHQ . Có như vậy mới huy động lực của toàn dân VN và thế cờ trong tay VN mới có cơ thay đổi. Đây có thể xem là điều kiện duy nhất để bảo vệ đất nước trước mưu đồ xâm lăng của TQ dưới bất cứ hình thức nào.

    Trả lờiXóa
  16. Người Việt tâm huyếtlúc 07:53 1 tháng 5, 2011

    Người Viêt tâm huyết ai cũng lo cho đất nước và hiến kế. Nhưng giới chóp bu VN hiện nay chỉ nghĩ đến quyền lợi từ cái ghế đưa lại, bất kể giang sơn rơi vào tay giặc. Theo họ, mất nước có là gì so với mất ghế? Tư duy này dân ta từng biết qua Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống.
    Vậy không thể mơ hồ cảnh báo cho giới chóp bu về nguy cơ Trung Quốc xâm lược. Phải nghĩ ra cách nào bảo vệ đất nước, bất chấp giới chóp bu nhăm nhăm bán nước.
    Với tình thế ấy, tốt nhất là phế truất giới chóp bu hèn nhát, tăm tối, vị kỷ, trơ trẽn, lưu manh hiện thời. Mới mong tương lai con cháu được nhờ

    Trả lờiXóa
  17. Phải theo con đường cứng rắn mà đi thôi.Một nhà nước pháp quyền đúng nghĩa.một đảng cũng được nhưng phải liêm chính chí công có vụ lợi một tý mà tốt nhiều hơn cho dân chúng thì cũng không sao.chặt đứt nạn đồng bóng,mê tín dị đoan đang hoành hành ở VN.lấy kinh tế làm mũi tiến công số 1.không cho quan chức nhà nước gửi tiền ở nhà băng nước ngoài.làm bạn với tư bản một cách thực lòng không ỡm ờ đĩ thỏa.tôn trọng và bảo vệ dân chúng.dạy lễ nghĩa và võ thuật theo cách bắt buộc từ cấp một.kiên quyết chặn đứng ma túy đang làm suy kiệt giống nòi bằng biện pháp mạnh nhứt cho dù sử dung cả biệt đội tử thần.chỉ có như thế mới mong làm sạch cái đất nước Việt Nam ta...vài lời ngu dốt gửi các nhà có tâm với đất nước.

    Trả lờiXóa
  18. Cám ơn tác giả đã có bài phân tích rất công phu và về cơ bản tôi đồng ý với tác giả.

    Chỉ xin được trao đổi thêm như sau:

    Đúng là "không nhất thiết phải dứng về một bên để chống lại một bên". Nhưng xung quanh ta có nước nào đứng về 1 bên để chống lại 1 bên nào đâu. Các hiệp ước phòng thủ giữa Nhật và Mỹ hay giữa Philippine và Mỹ, giữa Mỹ và Hàn... đâu có chống lại nước thứ 3 mà chỉ nhằm mục đích bảo vệ Tổ quốc của họ. Trong thời đại ngày nay, dù nếu có "khối đoàn kết nội bộ thật sự vững bền trên cở sở đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và có sự lãnh đạo sáng suốt của môt bộ máy nhà nước trong sạch, thật sự do dân, vì dân" thì việc thiết lập các mối quan hệ phòng thủ với các quốc gia không có tham vọng về lãnh thổ của nhau cũng là 1 biện pháp hữu hiệu đển ngăn chặn các âm mưu xâm lược, chứ có chống ai đâu (trừ khi khái niệm "chống' được mở rộng ra cả việc chống ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc thì lại càng phải "chống" chứ). Tất nhiên, những mối quan hệ như vậy chắc chắn không bao giờ làm hài lòng cường quốc đang nuôi tham vọng xâm lược. Nhưng đối với các cường quốc có dã tâm này thì họ sẽ không nể tình rằng vì ta không liên minh với ai mà từ bỏ dã tâm xâm lược, ngược lại đã có dã tâm ấy thì họ chỉ thừa cơ lúc ta suy yếu và không có ai là đồng minh để thực hiện hành động xâm lược. TQ là một nước như thế. Họ khuyên chúng ta không liên minh quân sự với ai, cố tách chúng ta ra khỏi các mối quan hệ khác bằng mọi cách để rồi liên tục lấn át chúng ta, dồn chúng ta vào thế đường cùng. Thực tế đang diễn ra như vậy. Sao cứ nghĩ đơn giản rằng "đi với Mỹ" là Tàu sẽ tức giận mà đánh ta (hãy xem TQ đã dám đánh Nhật, Hàn, Đài Loan chưa hay là chỉ bắt nạt chúng ta). Sao không nghĩ rằng cái thế chông chênh không "đi" với ai như ta hiện nay mới làm cho TQ quyết tâm đánh chúng ta hơn bao giờ hết (như một số trang mạng của họ đã phân tích). Nhất là trong tình hình hiện nay khi mà "khối đoàn kết nội bộ thật sự vững bền trên cở sở đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và có sự lãnh đạo sáng suốt của môt bộ máy nhà nước trong sạch, thật sự do dân" mà tác giả bài này nêu lên ở phàn cuối vẫn chỉ là một giả thiết được diễn tả bằng chữ NẾU.

    Trong thế giới hiện nay, tôi nghĩ một nhà nước vững mạnh, một khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc và một liên minh phòng thủ trung thành và vững chắc với các quốc gia có tiềm lực quân sự mạnh và không có tham vọng về lãnh thổ của nhau - cả 3 yếu tố đó, không bỏ đi 1 yếu tố nào, mới đảm bảo vững chắc sự toàn vẹn lãnh thổ trước mọi âm mưu thôn tính và dã tâm xâm lược của các quốc gia không lương thiện như TQ.

    Chính sách đứng 1 mình là tự sát!

    Trả lờiXóa
  19. Bùi Trường Dụlúc 10:38 21 tháng 8, 2011

    Lịch sử các quan chức Việt Nam thời nào cũng vậy . Nay họ tưởng là Việt Nam khi thắng Mĩ là họ yên tâm nắm chức ,năm quyền tha hồ làm gì mình thích . Nhiều cán bộ cách mạng mà không khác trùm xã hội đen ăn chơi chắc táng tren mồ hôi dân ngèo . Làm cho nhân dân xa rời Đảng . Họ không tin vào cái gọi là " Nô bộc của dân " mà dan chỉ thấy cán bộ là nhà lầu , xe hơi , ăn chơi xa sỉ .
    Nếu xảy ra chiến tranh , liêu mỗi con người Việt Nam còn tất cả vì Tổ quốc không ? Đánh thắng ngoại sâm , chính họ là người bị đàn áp , bóc lột . Tôi không thể tin có lại cái tinh thần cách mạng như hồi chúng tôi còn trẻ .
    Người viết : Thầy Bùi Trường Dụ - Trường THPT Tôn Đức Thắng - Tân Phú - Đồng Nai .
    ĐT 0904493092

    Trả lờiXóa
  20. 1. Bác ạ, chúng ta phải thực hiện việc "Thoát Trung luận" triệt để, vượt qua nỗi sợ hãi và tiến tới tương lai như Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật bản, Thái Lan, Hồng Kông, ... và một số nước Đông nam á nữa.
    2. Chỉ trừ những chế độ quân chủ, dốt nát, ấu trĩ, ... như kiểu Châu Phi, Miến điện, Campuchia, Lào, ... mới bị thằn tầu hắc cho ít tiền, chân dài và sau đó hắn tự do thao túng làm cho đâấ nước đoóđiêu đứng, thảm hoạ, ... và đau đớn nhất là rơi vào cái vòng phụ thuộc đến mức phải bán mình,
    3. Thoát khỏi TQ, không có nghĩa là oánh nhau với thằng khổng lồ, mà có nghĩa ta, TQ đều bình đẳng như 2 nươớc có độc lập, chủ quyền trước luật pháp quốc tế.
    4. Thoát ngay tư tưởng nô lệ vốn tiềm ẩn như một sức mạnh tà ma đang đeo bám Dân tộc này.
    5. Cần phải khai trí, tự do và dân chủ thực sự bác ạ
    Đầu tuần kính chúc Bác mạnh khoẻ, hôm nay thăm Bác và cũng còm như một lời xin được làm người đọc blog của Bác, Bác nhé.

    Trả lờiXóa

Hoan nghênh mọi ý kiến thảo luận, nhưng làm ơn viết tiếng Việt có dấu và không chửi tục.

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này