Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2011

Vì sao Trung Quốc chưa dùng vũ lực với Việt Nam?

Ngay sau khi post lên entry "Ai là bạn, ai là thù của Trung Quốc" chủ blog tôi được đọc một bài lượt dịch của nhà nghiên cứu Dương Danh Dy đăng trên nguyenuandien.blogspot.com và cảm thấy sẽ là một thiếu sót nếu không cung cấp thêm cho bạn đọc bài lượt dịch rất thú vị này mà theo tôi có lẽ chỉ có Dương Danh Dy mới có. Mong rằng nó sẽ giúp bạn có cái nhìn đầy đủ hơn sau khi đã đọc entry trước về bạn thù của Trung Quốc.  Quan điểm của bài viết không hẳn là quan điểm của tôi, và tôi không phải nói nhiều, tự bài viết nói lên tất cả.
Xin phép tác giả Dương Danh Dy và chủ blog Nguyễn Xuân Diện được "tái bản" nguyên văn bài lược  dịch trên blog của tôi. Xin chân thành cảm  ơn. 

Lời giới thiệu của nhà nghiên cứu và dịch giả Dương Danh Dy

Mặc dù rất không muốn nhưng sau khi cân nhắc, tôi thấy cần dịch một phần bài viết được đăng trên mạng chính thức của Trung Quốc với tên gọi: “Tin tham khảo nội bộ cho thấy: nguyên nhân căn bản khiến Trung Quốc chần chừ không sử dụng vũ lực với Việt Nam” để bạn đọc Việt Nam, thấy rõ thêm phần nào bộ mặt thực của người láng giềng chưa bao giờ là “4 tốt” như có một số người nhẹ dạ nào đó đã ngộ nhận.
Bài viết này dài tới hơn 20 trang A4, nhưng có lẽ chỉ đọc mấy trang này thôi là đã đủ lắm rồi!Dương Danh Dy

Nội dung bài dịch
Nếu quân đội Trung Quốc dùng vũ lực giải quyết tranh chấp Biển Đông (mà Trung Quốc gọi là Nam Hải), cần làm một cuộc điều tra ý dân vấn đề “đánh ai trước” thì trên 80% dân chúng Trung Quốc đều sẽ hô lên một cái tên Việt Nam, nhất là tiếng nói cháy bỏng của họ muốn đánh Việt Nam đã một thời được bàn luận xôn xao, dân chúng căm phẫn hô hào phải tiêu diệt, bởi vì Việt Nam xâm chiếm chủ quyền đảo bãi của Trung Quốc nhiều nhất, từ bên ngoài thấy là điên cuồng nhất, mà trong 5 nước xâm chiếm đảo bãi của Trung Quốc ở Biển Đông thì sức mạnh tổng hợp quốc gia của Việt Nam là yếu nhất, khả năng điều khiển chiến tranh kém nhất, căn cứ vào lực lượng so sánh hiện nay giữaTrung Quốc và Việt Nam có thể nói không một chút hoài nghi rằng nếu như Trung Quốc khai chiến với Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, quân đội Việt Nam chỉ có sức ngăn cản chứ không có lực đánh trả, cuối cùng là thất bại thảm hại, khẳng định quân đội Trung Quốc sẽ chiến thắng triệt để sạch sẽ, về điểm này chẳng có ai nghi ngờ.
Thế nhưng quân đội Trung Quốc đánh Việt Nam đầu tiên tại Biển Đông thì kẻ hèn này, một người Trung Quốc sẽ thấy không có lợi cho Trung Quốc, vì việc Trung Quốc đánh Việt Nam đầu tiên có thể là điều chính quyền Trung Quốc bị mắc mưu mà người Mỹ rất vui lòng nhìn thấy. Liệu có khả năng đó hay không? Từ những tư liệu tham khảo nội bộ của quân Giải phóng mà người viết tiếp xúc được thấy, nguyên nhân khiến hải quân Trung Quốc chần chừ không sử dụng vũ lực với Việt Nam là vì Mỹ, Nhật và các nước Biển Đông đã từng bàn bạc bí mật, nếu hải quân Trung Quốc gây xung đột với các nước Trường Sa thì sẽ cùng ngăn chặn Trung Quốc. Vì vậy trước khi tiến hành phân hóa thành công, Trung Quốc cũng sẽ không đánh trộm ở Biển Đông bao gồm cả việc ra tay với Việt Nam.
Vì vậy trong vấn đề chính phủ Trung Quốc và quân đội Trung Quốc dùng vũ lực giải quyết Biển Đông thì việc đánh Việt Nam đầu tiên là sự lựa chọn không sáng suốt. Căn cứ vào sức mạnh đất nước và thực lực quân sự của Việt Nam hiện nay thấy trong khoảng thời gian tương đối dài trong tương lai chúng không có đầy đủ khả năng chiến tranh đối đầu với Trung Quốc, trong thời gian ngắn không tạo thành sự đe dọa an ninh quốc gia với Trung Quốc, thế nhưng do lục địa và vùng biển của Việt Nam và Trung Quốc nối liền chặt chẽ với nhau, vị trí địa lý của chúng đúng là rất quan trọng đối với an ninh quốc gia và con đường vận chuyển năng lượng của Trung Quốc, quan hệ hai nước lại có không gian phát triển theo hướng tốt, vì thế đối với những tranh chấp biên giới và tranh chấp đảo bãi giữa hai nước Trung, Việt, phương thức tốt nhất của Trung Quốc là thông qua hiệp thương hòa bình giải quyết là thượng sách, không được tùy tiện sử dụng vũ lực.
Sau khi tổng hợp quan điểm của nhiều bạn trên mạng quân sự, cá nhân người viết cho rằng Trung Quốc có thể sử dụng các sách lược dưới đây với Việt Nam:
1- Cuộc chiến tranh Trung Việt cuối những năm 70 đã làm người Việt Nam triệt để tỉnh ngộ, toàn bộ miền bắc Việt Nam bị quân đội Trung Quốc đưa về thời đại bán nguyên thủy, mười năm sau chiến tranh, có thể nói Việt Nam đã tiêu hao hết sức mạnh đất nước, không còn khả năng kiếm được lợi ích và điều tốt lành từ Trung Quốc, hình tượng Việt Nam trong Đông Nam Á tụt xuống vực sâu. Nghe mấy bạn trên mạng đã qua Việt Nam nói, trên thị trường Việt Nam hiện nay dường như không nhìn thấy hàng hóa do Việt Nam sản xuất, từ đồ diện dùng trong nhà cho đến các hàng hóa nhỏ đều như vậy, tất nhiên trong mấy năm gần đây Việt Nam cũng bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều nhà máy, lực lượng vốn nước ngoài từng bước thể hiện thế nhưng vẫn còn khoảng cách rất lớn trước việc đã xây dựng xong hệ thống công nghiệp và công nghiệp quân sự hoàn chỉnh. Mấy năm gần đây đồng tiền Việt Nam luôn mất giá, nhưng do chính phủ ra sức khống chế nên đã làm cho loại lạm phát đó thể hiện vào dạng ẩn giấu nhiều hơn. Trong khi trên thị trường giao dịch, đồng Nhân dân tệ được người Việt Nam yêu thích, thậm chí còn được hoan nghênh hơn là ở trong nước Trung Quốc. Vì vậy chính phủ Trung Quốc cần lợi dụng thời cơ có lợi này khuyến khích các doanh nghiệp Trung Quốc có thực lực sang Việt Nam đầu tư, mở rộng ảnh hưởng kinh tế đối với Việt Nam, tiến hành viện trợ kinh tế nhất định cho Việt Nam không kèm bất kỳ điều kiện nào khiến an ninh quốc gia, xây dựng kinh tế, đời sống nhân dân của Việt Nam phụ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc, khiến ngày càng nhiều người Việt Nam thực sự nhận thức được rằng Trung Quốc thành tâm giúp họ thoát khỏi nghèo nàn mà không kèm theo bất kỳ điều kiện chính trị nào.
2- Nhân dân Việt Nam còn có cảm tình với Trung Quốc, vị trí của Trung Quốc trong tim óc người Việt Nam đang không ngừng nâng cao, đặc biệt là thế hệ sau chiến tranh bắt đầu trở thành dòng chính, về cơ bản không có thái độ đối địch đặc biệt nào với Trung Quốc. Trong cuộc chiến tranh Trung Việt cuối những năm 70, người Việt Nam sau khi thức tỉnh cũng không đùn đẩy trách nhiệm cho Trung Quốc, bọn họ đều cho rằng đó là do hình thức chiến tranh lạnh quốc tế tạo nên, và ngược lại đã oán trách Liên Xô.Thế nhưng người Việt Nam cũng rất phản cảm trước việc Trung Quốc gây áp lực nặng nề với họ. Người Việt Nam phổ biến cho rằng Trung Quốc không thể cho họ địa vị công bằng bình đẳng. Sau chiến tranh, hiện nay Việt Nam đang ra sức bắt chước Trung Quốc tích cực phát triển kinh tế, toàn bộ Việt Nam là một thứ văn hóa tạp nham gồm văn hóa Trung Quốc, văn hóa Pháp và văn hóa bản địa Việt Nam và mấy năm gần đây ảnh hưởng của Trung Quốc đã được đi sâu vững chắc. Nhà đương cục Việt Nam sợ hãi sâu sắc rằng toàn bộ Việt Nam sẽ bị Trung Quốc đồng hóa, loại lo lắng này là không có đạo lý, thế nhưng bất kể nhà đương cục can thiệp như thế nào cũng không thể ngăn cản được sự giao lưu dân gian. Vì vậy trong qua lại giữa hai nước, nhân dân Trung Quốc nên để cho Việt Nam nhiều vị thế bình đẳng hơn, dùng quan hệ hữu hảo lâu đời giữa hai nước và văn hóa lâu dài của Trung Quốc ảnh hưởng tới chính phủ và nhân dân Việt Nam.
3- Trong đàm phán về tranh chấp biên giới hai nước Trung Việt và đảo bãi Biển Đông, ngoài chủ quyền và an ninh quốc gia ra, các lĩnh vực khác Trung Quốc nên có“nhượng bộ lớn nhất” dùng phương thức “kinh tế đổi lấy chủ quyền” khiến người Việt Nam được nhiều lợi ích thiết thực hơn trong “chủ quyền thuộc ta, cùng khai thác”, khi cần thiết có thể mời có điều kiện nước Nga tham gia cùng khai thác, để cân bằng quan hệ lợi ích giữa hai nước. Làm như vậy về kinh tế, khẳng định Trung Quốc sẽ chịu tổn thất nhất định, nhưng mọi người cần đối xử biện chứng đối với vấn đề này. Vào những năm 60 của thế kỷ trước trong khó khăn trong, ngoài nước, Trung Quốc đã dốc hết sức nước thậm chí không tiếc dùng mạng sống của quân nhân Trung Quốc để giúp đỡ nhân dân Việt Nam chống lại cuộc xâm lược dã man của Mỹ chẳng lẽ chỉ để giúp đỡ nhân dân Việt Nam thôi ư? Sợ rằng không phải hoàn toàn như vậy! [xin lưu ý nhận định này] Môi trường hòa bình hơn ba mươi năm của Trung Quốc chứng minh, sự tồn tại của hai “dải đất làm dịu xung đột” Triều Tiên, Việt Nam đã làm cho ý đồ chiến lược hình thành bốn mặt bao vây Trung Quốc của Mỹ đối với Trung Quốc đã trước sau không thể thực hiện hoàn toàn, và ngày nay Trung Quốc không cần dốc hết sức nước càng không phải hy sinh tính mạng quân đội Trung Quốc, dù về kinh tế có chịu tổn thất đôi chút gì đó mà có thể làm được: chủ quyền lãnh thổ quốc gia, chủ quyền vùng biển, an ninh quốc gia cũng như an toàn cho con đường vận chuyển năng lượng thì có thể nói là Trung Quốc đã là người thắng lớn rồi.
4 - Nếu chính phủ Việt Nam coi Trung Quốc lấy thiện ý dùng “kinh tế đổi lấy chủ quyền” là mềm yếu có thể khinh thường, không thèm để ý, để tiếp tục dựa vào hoặc gia nhập thế lực chống Trung Quốc do Mỹ đứng đầu, cung cấp căn cứ cho thế lực chống Trung Quốc nhằm thẳng vào Trung Quốc thì cuộc chiến Trung Vịệt là không thể nào tránh khỏi. Mà một khi đã khai chiến thì không chỉ là vấn đề tranh chấp các đảo bãi Biển Đông, quân đội Trung Quốc sẽ tiến hành đả kích nặng nề có tính tổn thương nguyên khí đối với lực lượng vũ trang Việt Nam và còn phải làm tốt việc chuẩn bị tư tưởng tiến hành quyết chiến với Mỹ tại Biển Đông hoặc trong biên giới Việt Nam. Đã đánh nhau là phải triệt để giải quyết tranh chấp lãnh thổ và đảo bãi giữa hai nước Trung Việt, tiếp thu bài học “thắng lợi nhưng không chia cắt” trong chiến tranh đánh trả tự vệ với Việt Nam lần trước, làm cho sự sinh tồn của Việt Nam một lần nữa không thể nào thoát khỏi ỷ lại vào Trung Quốc.
Trận đánh trả tự vệ của quân đội Trung Quốc khi không thể nhẫn nhịn được nữa vào năm 1979 đã thu được thắng lợi vĩ đại, quân đội Việt Nam ngày nay liệu có thể may mắn trốn thoát tai họa không? Điều này là không thể. Nếu như nói Việt Nam còn dám cao giọng với Trung Quốc là đã nhìn Việt Nam quá cao đấy! Áp dụng sách lược này là hạ sách của chính phủ Trung Quốc và quân đội Trung Quốc trong giải quyết quan hệ Trung Việt và tranh chấp Biển Đông đấy!
Tóm lại hai nước Trung Việt tồn tại tai họa âm ỉ chiến tranh. Cuộc chiến này có bùng nổ hay không quyền chủ động nằm trong tay Trung Quốc, nhưng cũng chủ yếu quyết định bởi sự thể hiện bước tới của Việt Nam. Nếu phía Việt Nam không tiếp nhận hành động thiện ý hòa bình giải quyết tranh chấp của Trung Quốc, tiếp tục diễn trò “vác núi qua sông” [chỉ một việc không thể làm nổi] để đạt được mục đích “ỷ thế yếu lấn kẻ mạnh” thì một khi Trung Quốc buộc phải dùng vũ lực thì một lần nữa, họ sẽ bị đả kích nặng nề. Trong những cái khó tránh khỏi đó, tin tưởng là quân giải phóng nhân dân hùng mạnh hoàn toàn có khả năng giành được thắng lợi cuối cùng và cũng tin là phần lớn nhân dân Việt Nam không muốn chiến tranh lại xảy ra.

Nguồn: “Hỗ liên võng” ngày 14/5/2011
(Nội tham phi lộ: Trung Quốc trì trì bất đối Việt Nam động vũ đích căn bản nguyên nhân)
--------------

Thứ Tư, 18 tháng 5, 2011

Ai là bạn, ai là thù của Trung Quốc?*

Trong nhiều năm nay, đặc biệt mấy năm trở lại đây, trong khi ráo riết vừa công khai vừa ngấm ngầm tiến hành nhiều thủ đoạn khác nhau để thực hiện chủ trương “thu hồi lãnh thổ và biển đảo” (mà thực chất là chủ nghĩa bành trướng đại Hán),  giới lãnh đạo  Trung Quốc còn ngấm ngầm dung túng cho các "kênh" thông tin “phi chính phủ” trên internet coi đó như một phương tiện để tiến hành công tác xuyên tạc sự thật lịch sử, kích động chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và tấm lý kẻ mạnh bao giờ cũng thắng v.v…
Trong số những thông tin “tạp phế lù” đó, chủ blog tôi thấy có 2 bài có cùng nội dung trực tiếp liên quan đến chủ đề “cán cân lực lượng “ (balance of force) và trực tiếp liên quan đến Việt Nam nên xin trích đăng lại để tiện làm nguồn tham khảo cho bạn đọc nào quan tâm.
Tôi nhắc lại “chỉ để làm nguồn tham khảo” và chỉ tham khảo về mặt “động thái”, chứ không có giá trị thông tin tư liệu, bởi vì cách lập luận trong đó hòan toàn mang tính chủ quan, phiến diện và các thông tin cũng thiếu độ tin cậy. Cũng mong rằng bạn đọc hãy luôn giữ được “cái đầu lạnh” khi đọc để tránh bị kích động hoặc bị mắc mưu của những kẻ chủ trương của các bài viết đó.
Hai bài viết này đều được đưa ra trong dịp trước Hội nghị Cấp cao APEC 18 và được phổ biến trên các mạng bán chính thức của Trung Quốc, và cũng đã được đăng lại trên khá nhiều tạp chí và mạng internets của các nước khác. Cả hai bài này đều được dịch giả Việt Nam lược dịch từ các ngoại ngữ khác nên có thể không hoàn toàn đảm bảo tính nguyên vẹn và độ chính xác cao nhất có thể so với nguyên bản tiếng Trung. Hai bài viết có tựa đề 1)  “6 NƯỚC ĐƯỢC TRUNG QUỐC BẢO VỆ” và 2)  “10 NƯỚC CÓ THỂ TẠO THÀNH NGUY CƠ LỚN NHẤT ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC” lần lượt được đăng nguyên văn bản dịch dưới đây.
*(Tiêu đề chung và ảnh minh họa do là của chủ blog tôi)   


Bài 1: 6 NƯỚC ĐƯỢC TRUNG QUỐC BẢO VỆ

1. Pakistan
Liên minh quân sự thực tế giữa Trung Quốc với Pakistan bắt nguồn từ phương án Mountbatten [1] do đế quốc Anh đề xuất. Sau khi Ấn Độ và Pakistan tách ra, hai nước này trở thành thù địch. Từ ngày bắt đầu nổ ra chiến tranh Ấn Độ-Pakistan lần thứ hai, mối quan hệ giữa Trung Quốc với Pakistan từ tình cảm hàng xóm nâng cấp thành tình cảm anh em sắt đá. Pakistan cần được Trung Quốc bảo vệ mà Trung Quốc cũng cần có sự phối hợp chiến lược của Pakistan. Hai nước cùng hội cùng thuyền trải qua nhiều thách thức. Từ Trung Quốc giúp Pakistan chống Ấn Độ cho tới Pakistan lên tiếng ủng hộ Trung Quốc trên sân khấu quốc tế, mối quan hệ giữa hai nước còn chặt chẽ hơn cả quan hệ Mỹ-Israel .
Trung Quốc không tiếc sức tăng cường viện trợ quân sự cho Pakistan khiến Ấn Độ ủ rũ kém vui. Nghe nói tới 60% quân đội Pakistan do Trung Quốc đài thọ chi phí. Báo chí Mỹ ngạc nhiên: “Bất kể tình hình ra sao, chỉ cần Ấn Độ còn tồn tại một ngày thì Pakistan mãi mãi không tách rời sự bảo vệ của Trung Quốc.

2. Triều Tiên
Hiện nay hơn 90% viện trợ đến từ Trung Quốc. Một quan chức cấp cao Triều Tiên cách đây ít lâu trốn sang Hàn Quốc từng nói: “Nếu Trung Quốc cắt viện trợ và ngừng bảo vệ chính quyền Kim Jung-il thì vương triều họ Kim lập tức sụp đổ.”
Cho dù Trung Quốc-Triều Tiên từ năm 1950 đã lập đồng minh quân sự nhưng về sau do yếu tố Liên Xô mà hai nước tranh cãi nhau. Sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, Triều Tiên vẫn phải dựa vào sự bảo vệ về chính trị và quân sự của Trung Quốc. Yêu hoặc ghét cũng thế, nếu có chuyện thì Trung Quốc vẫn phải bảo vệ Triều Tiên.
Nhìn bản đồ Đông Bắc Á sẽ thấy, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản gầm ghè nhìn Triều Tiên; Trung Quốc-Triều Tiên gắn bó như môi với răng, huống chi từ xưa Trung Quốc đã có mối quan hệ chính trị máu thịt với Bắc Triều Tiên. Bởi vậy, Trung Quốc không còn lựa chọn nào khác là bênh vực Triều Tiên.
3. Myanmar
Hiện nay lực lượng quân sự Myanmar được Trung Quốc giúp. Hầu hết các loại vũ khí tiên tiến đều do Trung Quốc cung cấp. Ngoài ra 80% nền kinh tế nước này cũng do Trung Quốc nâng đỡ.
Năm 2003 quan hệ Trung Quốc-Mỹ xảy ra sóng gió, nguyên nhân là Mỹ định dùng quân sự lật đổ chính phủ Myanmar được Trung Quốc ủng hộ. Sau khi Trung Quốc lên tiếng ủng hộ Myanmar về ngoại giao và Trung Quốc tiến hành bố trí quân sự, Mỹ đã rút lui.
Năm ngoái Myanmar dời thủ đô lên phía Bắc 200 km nhằm nhận được sự ủng hộ của Trung Quốc nhiều hơn. Báo chí Ấn Độ nói Myanmar đã trở thành nước vệ tinh của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương.
Báo Mỹ tiết lộ: hợp tác quân sự Trung Quốc-Myanmar không bình thường. Trung Quốc luôn luôn dùng cách cung cấp trang bị quân sự, phát triển các cơ sở hạ tầng quân sự để xây dựng quân đội Myanmar. Hiện nay lục quân Myanmar đã tiếp nhận khối lượng lớn phần cứng quân sự gồm xe tăng, xe thiết giáp, trọng pháo, trang bị phòng không, nhiều loại xe cũng như nhiều vũ khí cá nhân do Trung Quốc sản xuất.
Theo báo Mỹ, lực lượng không quân Myanmar gồm các loại máy bay chiến đấu như 60 chiếc Tiêm-7, 12 chiếc Tiêm-6 và 36 chiếc máy bay cường kích lọai Cường-5. Như vậy không quân Myanmar đã có trên trăm chiến đấu cơ Trung Quốc. Ngoài ra năm 2009 Myanmar còn đặt mua 50 chiếc máy bay phản lực huấn luyện kiêm cường kích loại nhẹ kiểu K-8 do Trung Quốc và Pakistan kết hợp chế tạo.
Trong trận bão lốc Nargis năm 2008, hải quân Myanmar bị chìm 25 tầu, hiện nay cơ cấu lực lượng quân sự rất yếu. Nhờ làm đường ống dẫn khí đốt Myanmar cung cấp cho Trung Quốc nên chính phủ Myanmar có đủ kinh phí để tiếp tục mua vũ khí của Trung Quốc. Myanmar còn được Trung Quốc giúp xây dựng bến cảng và nhà máy đóng tàu. Ấn Độ cho rằng những cơ sở hạ tầng này có thể được Trung Quốc sử dụng khi họ đóng quân tại vịnh Bangladesh. Ngoài ra Trung Quốc còn xây dựng các trạm thu thập tình báo-tín hiệu điện tử trên một số đảo của Myanmar, có thể dùng để theo dõi hoạt động của hải quân Ấn Độ tại nơi Ấn Độ bố trí nhiều cơ sở chiến lược.
Năm 2009 Myanmar còn ký thỏa thuận mua của Nga 570 triệu USD máy bay Mig-29.

4. Campuchia
Trung Quốc và Campuchia có tình hữu nghị truyền thống lâu đời. Từ 1958 sau khi hai nước lập quan hệ ngoại giao, mấy thế hệ nhà lãnh đạo Trung Quốc xây dựng được tình bạn sâu sắc với quốc vương Xihanuc, tạo cơ sở bền vững về chính trị và quân sự giúp phát triển lâu dài mối quan hệ hai nước.
Trung Quốc không ngừng giúp Campuchia giải quyết thành công các tranh chấp nội bộ, còn gúp Campuchia chống Việt Nam. Hai nước không tồn tại bất cứ vấn đề lịch sử nào. Hiện nay hơn 50% lực lượng kinh tế và quân sự của Campuchia dựa vào viện trợ của Trung Quốc. Trung Quốc đã tuyên bố hủy các khoản Campuchia vay nợ Trung Quốc đến hạn trả và xây dựng “mối quan hệ bạn bè hợp tác toàn diện” với Campuchia.

5. Kazakhstan
Trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc mới đây, Tổng thống Kazakhstan Nazarbayev đã tìm kiếm sự bảo vệ về chính trị và quân sự từ Trung Quốc. Hai nước đã ký kết Hiệp ước hợp tác hữu hảo láng giếng Trung Quốc-Kazakhstan, trong đó có một điều khoản rất quan trọng là Kazakhstan tự nguyện từ bỏ vũ khí hạt nhân (có thể là vũ khí Liên Xô để lại) và Trung Quốc cung cấp bảo đảm quân sự cho Kazakhstan.
Ngoài ra Kazakhstan cũng ký Hiệp ước tương tự với Nga.

6. Lào dĩ nhiên là nước được Trung Quốc bảo vệ.
Ngoài 6 quốc gia nói trên thì trong cuộc cạnh tranh chính trị Trung Quốc-Ấn Độ, các nước Butan, Nepal, Bangladesh và Sri Lanka cũng đang tìm kiếm sự bênh vực của nước ngoài, 4 nước này đều tiếp nhận sự ủng hộ chiến lược và viện trợ quân sự của Trung Quốc. Mông Cổ chịu tác động của 3 nước Mỹ, Trung Quốc, Nga, cho nên không phải là nước được Trung Quốc bảo vệ.

Ghi chú của người dịch:
[1] Tức Mountbatten Plan: phương án tách thuộc địa của Anh trên tiểu lục địa Ấn Độ thành hai nước Ấn Độ và Pakistan, do Mountbatten Tổng đốc Ấn Độ (người của chính phủ Anh) đưa ra tháng 6/1947.
Nguồn:
[世界上]被中国军事保护的六个国家
[ 中国智 www.chinathinktank.cn 2010115] 发布:三略观察
http://www.chinathinktank.cn/ShowArticle.asp?ArticleID=19697




Bài 2: 10 nước tạo thành nguy cơ lớn nhất với Trung Quốc

SỐ 10: PHILIPPINE:
         - Nguy cơ: 7 điểm
- Thực lực: 4 điểm
- Tổng điểm: 5,5 điểm
- Bằng chứng: Người Mỹ đã giải phóng Philippine. Hiện nay Philippine là đồng minh trung thành nhất của Mỹ ở Đông - Nam châu Á. Ngoài ra, Philippine chưa bao giờ từ bỏ ý đồ giành lại các hòn đảo phía Nam của Trung Hoa, họ liên tục chiếm đóng một phần quần đảo Hoàng Sa. Súng đạn của Philippine thường xuyên bắn vào ngư dân Trung Quốc, cờ của Philippines lúc nào cũng bay phấp phới trên lãnh thổ Trung Hoa. Philippine là đất nước mà trung Hoa chưa bao giờ dám coi thường. Những đảo Trường Sa hay Hoàng Sa là một quần đảo nằm ở phía tây - nam của Biển Nam Trung Hoa (Việt Nam gọi là “Biển Đông”), gồm hàng 100 đảo nhỏ, bãi san hô, đá ngầm, tổng diện tích của chúng không dưới 5km2. Diện tích chung của toàn khu vực lên tới trên 400 nghìn km2, điểm  trung tâm của khu vực này cách các đảo Palawan và Kalimantan 400 km, cách bờ biển Việt Nam 500 km và cách đảo Hải Nam của Trung Quốc 1000km. Lãnh thổ của các đảo này này lúc nào cũng là đối tượng tranh chấp trực tiếp của 6 quốc gia Trung Quốc, Việt Nam, Malaisia, Philippine và Brunei

SỐ 9: INDONESIA:
          - Nguy cơ: 7 điểm
- Thực lực: 5 điểm
          - Tổng điểm: 6 điểm
- Bằng chứng: Mỗi khi nhớ lại cuộc nổi loạn của người Trung Quốc (vào những năm 60 của thế kỷ XX, dưới khẩu hiệu đấu tranh chống c ác phần từ cực đoan đỏ, ở Indonesia đã diễn ra nạn diệt chủng với Hoa kiều, để phản đối, người Trung Hoa đã tổ chức những cuộc xuống đường mang tính đại chúng rất rầm rộ và họ từng bị đàn áp một cách dã man.- Chú thích của dịch giả người Nga), bao giờ người ta cũng nghĩ tới cảnh các cửa hàng Trung Quốc bị dân Indonesia cướt bóc, những phụ nữ Trung Quốc bị cưỡng hiếp, những người họ hàng Trung Hoa bị đánh đập giống như súc vật trong lò mổ. Tất nhiên chính phủ Trung Quốc không thể bày tỏ công khai những gì sục sôi trong tình cảm của người dân. Indonesia là đất nước đông dân nhất vùng Đông - Nam châu Á (thống kê dân số đến năm 2008, Indonesia có trên 235 triệu người), phạm vi ảnh hưởng của Indonesia vô cùng rộng lớn và đại đa số dân cư ở đây đều không có thiện cảm với người Trung Hoa, nhưng đất nước này lại chưa được văn minh hoá đến cùng, và đây chính là nguyên nhân tạo ra nguy cơ lớn đối với Trung Quốc ở Đông - Nam châu Á.

SỐ 8: AUSTRALIA:
- Nguy cơ: 7 điểm
- Thực lực: 6 điểm
- Tổng điểm: 6,5 điểm
- Bằng chứng: Australia là đại bản doanh  phương Nam -  cơ quan đầu não của quân đội Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bìng Dương (ATP). Australia ở phía Nam, Nhật Bản ở phía Bắc làm thành đường vòng cung kẹp chặt Trung Quốc vào giữa. Nước này là đồng minh trung thành của Mỹ, sẵn sàng chia sẻ các giá trị Mỹ và nhân loại. Sự tồn tại của Australia là trở ngại lớn cho sự phát triển của Trung Quốc ở châu Á - Thái Bình Dương. Trong những năm gần đây, Mỹ ngày càng cho phép Australia can dự nhiều hơn vào những công việc xa lạ, mà tình huống ở Đông Timor là ví dụ tiêu biểu. Đông Timor (Timor - Leste) là quốc gia thuộc Đông - Nam châu Á, bao gồm nửa phía đông của đảo Timor, những đảo lân cận của Atauro, Jaco và Oecussi - Ambeno, cùng một phần nằm ở tây bắc của đảo, trong Tây Timor của Indonesia. Những va chạm bắt đầu xẩy ra vào ngày 16 tháng 3 năm 2006 giữa những cựu binh phục vụ trong quân đội với lực lượng cảnh sát, về sau ngày càng trở nên căng thẳng, rồi dẫn tới những vụ nổ súng khắp nơi, làm sụp đổ cả chính quyền, cơ quan an ninh, gây nên tình trạng tội phạm và bạo loạn tràn lan. Nhờ có lực lượng gìn giữ hoà bình từ Australia, New Zealand, Malaisia, Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều nước khác, trật tự mới được vãn hồi, nhưng tình hình Đông Timor cho đến nay vẫn luôn luôn căng thẳng.

SỐ 7:VIỆT NAM:
- Nguy cơ: 8 điểm
- Thực lực: 5 điểm
- Tổng điểm: 6,5 điểm
- Bằng chứng: Tuy có 1000 năm Bắc thuộc bị Trung Hoa đô hộ và hàng 100 năm nay vẫn tiếp tục làm chư hầu của Trung Quốc, được Trung Quốc bảo trợ, nhưng Việt Nam lúc nào cũng nhìn đất nước này qua rãnh ngắm của điểm xạ kích. Tóm lại, Việt Nam nhận vũ khí, lương thực, thực phẩm do Trung Quốc trợ giúp, nhưng khi Trung Quốc trở mặt, lương thực ấy, vũ khí ấy được sử dụng để đánh lại người lính Trung Quốc. Việt Nam hiện chiếm giữ quá nửa quần đảo Trường Sa. Những tranh chấp về chủ quyền trên Vịnh Bắc bộ khiến quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trở nên căng thẳng. Dọc biên giới đường bộ giữa Trung Quốc và Việt Nam cũng chưa có lúc nào được bình yên.

SỐ 6: NAM TRIỀU TIÊN:
- Nguy cơ: 7 điểm
- Thực lực: 7 điểm
- Tổng điểm: 7 điểm
- Bằng chứng: Nam Triều Tiên (Hàn Quốc) chỉ mới có quan hệ ngoại giao với Trung Quốc trong vòng 10 năm nay. Đây là đất nước có nền kinh tế phát triển, có trình độ văn hoá cao và thường xuyên xung đột với Trung Hoa. Có thời Nam Triều Tiên bị Trung Quốc xâm lược, trở thành một phần của Trung Quốc, có thời hoà hiếu với Trung Quốc. Rất may là Trung Quốc giữ được Bắc Triều Tiên ở vị trí đối kháng với Nam Triều Tiên, và Nam Triều Tiên cũng chưa có đủ thực lực để chống lại Trung Quốc. Nhưng là đồng minh thân cận của Mỹ, chẳng hiểu Hàn Quốc đang trù định, ấp ủ những kế hoạch gì trong mối quan hệ với Trung Quốc. Và nếu bán đảo triều Tiên thống nhất, thì sự thống nhất ấy liệu sẽ phương hại cho Trung Quốc như thế nào. Liệu Nam Triều Tiên có tấn công Trung Quốc hay không và họ sẽ tấn công như thế nào?

SỐ 5: ẤN ĐỘ:
- Nguy cơ: 9 điểm
- Thực lực: 7 điểm
- Tổng điểm: 8 điểm
- Bằng chứng: Từ khi chế tạo được vũ khí hạt nân, Ấn Độ có tham vọng trở thành một cường quốc. Cho đến nay, nước này vẫn thèm thuồng nhòm ngó vùng Tây Tạng và vẫn tiếp tục chiếm đóng một phần lãnh thổ của Trung Quốc. Đồng thời, Ấn Độ còn muốn giành giật vai trò quan trọng của một cường quốc tại vùng biển Nam Trung Hoa và có ý đồ chia cắt vùng biển thuộc lãnh thổ của nước láng giềng thành nhiều phần nhỏ. Trước một cường quốc hạt nhân, một Ấn Độ tham lam 100%, liệu Trung Quốc có cần đề phòng?

SỐ 4: MỸ:
- Nguy cơ: 7 điểm
- Sức mạnh thực tế: 10 điểm
- Tổng điểm: 8,5 điểm
- Bằng chứng: Mỹ đích thị là một cường quốc đứng cao hơn tất cả các nước còn lại, là “anh cả của phe tư bản” (tương đương với danh hiệu “anh cả Liên Xô” trước kia trong phe xã hội chủ nghĩa), là “sen đầm quốc tế” có tham vọng quay lại “thời hoàng kim xưa kia”. Mỹ đối nghịch với Trung Quốc. Mỹ có hệ thống xã hội dân chủ hoàn thiện nhất thế giới, có quân đội hùng mạnh và một nền kinh tế phát triển nhất thế giới, là quốc gia thống trị toàn cầu. Vấn đề Đài Loan vốn đã là vấn đề thường xuyên gây ra mốibất hoà giữa Mỹ và Trung Quốc, lại thêm sự níu kéo của các lợi ích kinh tế, quan hệ giữa hai nước ngày càng trở nên phức tạp. Câu thần chú quen thuộc của Mỹ với Trung Quốc: “vừa chơi, vừa kìm hãm”. Đối diện với “hoàng đế - bá quyền”, Trung Quốc phải lựa chọn cách ứng xử thế nào?

SỐ 3: NGA:
- Nguy cơ: 10 điểm
- Sức mạnh thực tế: 8 điểm
- Tổng điểm: 9 điểm
- Bằng chứng: Xưa kia, Trung Hoa là đế quốc hùng mạnh nhất thế giới. . Nhưng một nước vô liêm sỉ khác đã chiếm đoạt của Trung Quốc những vùng lãnh thổ rộng lớn. Cái nước vô liêm sỉ ấy chính là Nga. Người ta chẳng coi nền kinh tế của Nga ra gì. Nhưng đó là lại đất nước có lực lượng vũ trang quân sự hùng hậu mà không một ai dám coi thường. Nga khi thì xích lại gần Trung Quốc, lúc lại bỏ lơi Trung Hoa để bắt tay với châu Âu và Mỹ. Điều đó chứng tỏ, trong bất kỳ tình huống nào, Nga cũng muốn tìm cho mình phần lợi ích tối đa. Nga là đất nước đáng sợ nhất. Liệu Nga rồi sẽ cất cánh bay cao hay bị suy thoái? Liệu còn bao nhiêu thứ mâu thuẫn, xung đột vẫn còn giữ nguyên vẹn dọc theo tuyến biên giới dài vô tận giữa Nga và Trung Quốc?

SỐ 2: NHẬT BẢN:
- Nguy cơ: 10 điểm
- Sức mạnh thực tế: 9 điểm
- Tổng điểm: 9,5 điểm
- Bằng chứng:Trung Quốc và Nhật Bản là những quốc gia mà ở đó, sự thù nghich và tình hữu nghị lúc nào cũng bện kết vào nhau, những quốc gia từng bao đời khinh miệt lẫn nhau. Đó là những quốc gia có thứ văn tự rất giống nhau, mỗi khi nghĩ về nhau, người ta đồng thời vừa thấy hân hoan, lại vừa thấy lộn mửa. Nền kinh tế của Nhật Bản rất phát triển, sức mạnh quân sự của Nhật Bản sẵn sàng ứng phó với tất cả. Trong một quãng thời gian cực ngắn, Nhật hoàn toàn dư sức chế tạo ra vũ khí hạt nhân! Ngay từ những năm 70 của thế kỷ trước, bí mật vũ khí nguyên tử của Mỹ bị đánh cắp, mọi người ở thế hệ ấy đều nghĩ, thủ phạm vụ trộm cắp này không phải là Liên Xô, mà là người Nhật, nhưng Mỹ chưa bao giờ dám trách cứ, hay than phiền người Nhật về vụ ấy. Hiện nay Nhật Bản có vũ khí hạt nhân hay không? Đó là cả một vấn đề lớn. Liệu kinh tế có thể trở thành mắt xích bện kết Trung Quốc với Nhật Bản hay không và cần phải giải quyết vấn đề về sự thù hận giữa hai dân tộc thế nào?
Hàng nghìn năm nay, người Nhật là bầy sói nhìn Trung Quốc một cách thèm thuồng, không ngừng la hét phải xâm lược và tiêu diệt dân Trung Hoa, dời thủ đô về Bắc Kinh, chinh phục châu Á, ước mơ xây dựng một “khu Đông Á thịnh vượng”. Thời chiến tranh thế giới lần thứ II, Nhật Bản ra sức tuyên truyền khẩu hiệu “Châu Á của người châu Á” và tuyên bố sẽ giải phóng các dân tộc châu Á thoát khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thuộc địa chấu Âu, trước hết là của Anh và Pháp. Nhưng cuộc đấu tranh với chủ nghĩa thuộc địa phương Tây luôn luôn gắn liền với chủ nghĩa phân biệt chủng tộc vô cùng tàn độc của chính người Nhật. Vụ thảm sát Nam Kinh năm 1937 và cũng như việc tập trung phụ nữ của các nước lệ thuộc Nhật để thành lập cái gọi là “những tiểu đoàn thư giãn” (“confort bataillon”) là ví dụ tiêu biểu.

SỐ 1: TRUNG QU ỐC:
- Nguy cơ: 10 điểm
- Sức mạnh thực tế: 10 điểm
- Tổng điểm: 10 điểm
- Bằng chứng: Trung Quốc bị ai đánh bại trong hai cuộc chiến tranh nha phiến (hai cuộc chiến tranh do Anh và Pháp châm ngòi chống lại đế quốc Trung Hoa, cuộc thứ nhất: 1840 - 1842, cuộc thứ hai: 1856 - 1860)? Người Anh chăng? Hay Trung Quốc tự làm cho mình thất bại? Trong cuộc chiến tranh Trung - Nhật 1894 - 1895, chẳng phải Trung Quốc đã đả bại chính mình hay sao? Nào, người Nhật hay người Trung Quốc? Vì sao trong thời kỳ chiến tranh, Nhật có thể chiếm một vùng lãnh thổ rộng cả đất đai của Trung Quốc? Lịch sử chứng tỏ, Trung Quốc bao giờ cũng là kẻ thù của chính mình! Hành động điên khùng của những phần tử theo chủ nghĩa dân tộc - ly khai, vị trí của Ban - Thiền Đạt Lai Lạt Ma. Thêm vào đó là vấn đề eo biển Đài Loan, những tư tưởng được tuyên truyền, nhồi sọ cho dân chúng từ các đời Tổng thống Tưởng Giới Thạch, Lý Đăng Huy, Trần Thuỷ Biển. Ở Đài Loan vẫn còn nhiền phần tử ly khai muốn dựng một bức trường thành ngăn cách con cháu với đất mẹ đại lục.
Bọn tham nhũng và quan chức biển thủ công quỹ ngày càng ngông cuồng, những khối tài sản khổng lồ của quốc gia bị ăn cắp, ăn cướp trắng trợn, nạn mua bán quan chức ở cả những vị trí chóp bu, những hành vi đồi bại của lũ người ấy, tiền của chiếm đoạt của nhân dân được chuyển ra nước ngoài với khối lượng khổng lồ vượt quá sức tưởng tượng của con người. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, trong vòng 20 năm, từ khi thực hiện chính sách “mở cửa” vào năm 1984 cho đến nay đã có trên 6000 quan chức cao cấp và đại diện của chính quyền ăn cắp, tham ô công quỹ, tài sản của nhân dân và đất nước hơn 1 nghìn 400 tỉ nhân dân tệ (gần 200 tỉ đô la). Số tài sản ấy được “tư nhân hoá”, rồi được bí mật chuyển ra nước ngoài, sau đó, người chạy theo của, và đến bây giờ thì lũ trộm cắp ấy sống như vua chúa ở các nước Âu -Mỹ, tự xem mình là những bậc anh hùng. Ngoài ra, người ta còn được biết, có tới 7000 quan chức bình thường và 26000 nhân vật giàu có đã chuyển ra nước ngoài hơn 3 nghìn 400 tỉ nhân dân tệ (gần 500 tỉ đô la) và sau đó ra nước ngoài sống. Ngay trong nước, hiện nay vẫn có rất nhiều kẻ tham nhũng chưa bị phát hiện, vẫn sống tự do, thậm chí đang giữ chức vụ rất cao trong guồng máy quan chức nàh nước. Có cả một thế hệ tham nhũng mới đang “kế tục” lớp người tham nhũng trước kia tiếp tục bòn rút tài sản quốc gia, chuyển ra nước ngoài những khoản tiền khổng lồ, mà tổ chức chính trị - hành chính của Trung Quốc thì không có đủ sức mạnh để trừng trị bọn chúng, nên nhân dân Trung Quốc càng ngày càng mất niềm tin vào các cơ quan công quyền và các đại diện của đảng cộng sản Trung Hoa.
Trong xã hội Trung Quốc đang diễn ra sự chia rẽ theo ba tuyến. Sự bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo, sự phân chia thành hai giai cấp rõ rệt, tội phạm hoành hành, kinh doanh điêu trá, cờ bạc, nghiện hút, công nhân thất nghiệp, vấn đề tổ chức lao động, nạn đĩ điếm mại dâm, khủng hoảng tài chính, nhiều vùng lãnh thổ vẫn nghèo túng và lạc hậu đến mức dân chẳng đủ ăn như trước kia. Trên khắp đất nước, ở mọi lĩnh vực, chỗ nào cũng nhung nhúc lũ “bất tài” hôi tanh đến tởm lợm, người tài đức bị lừa bịp, ma quỷ hiện hình nơi “đường ngang ngõ tắt” của bọn mafia, chúng thống trị cả một “thế lực đen” và lũ lưu manh rất hùng hậu. Trên khắp cả nước, chỗ nào cũng thấy lấp lánh ảnh hưởng của công chức, của tư bản thương mại, ai cũng nhìn thấy hiện tượng móc ngoặc giữa quan chức, lưu manh và công an, cảnh sát.Trong việc tuyển lựa công chức, chỗ nào cũng lúc nhúc “con cháu các cụ”, cảnh mua bán, đút lót diễn ra công khai. Đâu đâu cũng có chuyện bợ đỡ, nịnh hót, sự lường gạt, lừa bịp nhằm len lỏi vào hệ thống công quyền ngày càng trắng trợn, dữ dội. Trên khắp nước Trung Hoa, trong mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực hoạt động giờ chỉ có “cán bộ - con nghiện”, “cán bộ - kẻ cắp”, “cán bộ - bị cuồng vì thành tích”, “cán bộ - tầm thường”, “cán bộ - mua bán đất nước mình” và những kẻ bội tín phản phúc. Chúng đi thành hàng hàng lớp lớp, thành “đội gián điệp thứ năm tuyệt hảo” để các quốc gia thù địch sai bảo.
Tương lai của Trung Quốc là thế nào? Hãy ngắm lại mình trước khi nhìn người khác. Lịch sử đã chứng minh, nếu có ai đó đánh bại Trung Hoa, kẻ đó chỉ có thể là người Trung Quốc.
                                                                        
Nguồn: “Inoфорум”,
http://www.inoforum.ru/inostrannaya_pressa/10_stran_predstavlyayuwih_naibolshuyu_ugrozu_dlya_kitaya/ (Đầu tiên đăng  viết trên http://www.cnfol.com, mt trang Web ca Cng hoà Nhân dân Trung Hoa tnh Phúc Kiến, được nhiu hãng truyn thông ca Đng Cng sn Trung Quc bo tr.
Được dịhc giả La Khắc Hòa trích dch t bn được lưu gi trong Blog cá nhân là mt dch gi người Nga.



Thứ Sáu, 13 tháng 5, 2011

Thấy gì từ nhạc phẩm "Chú ếch con"?

Đây là một kiệt tác của một "nhí Việt 100%" tham gia một cuộc thi bên nước Ý cách nay đã hơn 8 năm nhưng gần đây đang gây chấn động dư luận...Nó chỉ là một trong rất nhiểu trường hợp cho thấy tài năng của người Việt khiến mọi người phải suy ngẫm : Bài hát "chú ếch con" có lẽ mãi vẫn chỉ là một bài hát tầm thường trong tay các nhà đạo diễn Việt của thế hệ này...Nhưng nó đã trở thành một kiệt tác trong tay các nhà đạo diễn Ý. Những yếu tố nào tạo nên sự khác biệt đó?

Rõ ràng, xét trên mọi lĩnh vưc, người Việt  không hề thua kém bất cứ dân tộc nào trên thế giới...Nhưng để phát huy chúng một cách có hiệu quả nhất thì trách nhiệm thuộc về ai? Hãy đừng thân thân trách phận nghèo hèn và cũng đừng "đổ tại" thiên tai, địch họa v.v.. mà hãy tự trách bản thân mình, trước tiên là những người quản lý đất nước và các nhà chuyên môn ngành, nghề...

Chủ blog tôi nhân đây xin phép được đăng tải lại  chương trình để giới thiệu thêm cùng bạn đọc. Mời bạn hãy kích chuột vào đường link này để thưởng thức tác phẩm độc đáo nói trên:  http://tintuconline.com.vn/vn/video/487663/index.htmḷ



Chân thành cảm ơn.

Thứ Tư, 11 tháng 5, 2011

Australia có cần "sợ" Trung Quốc?


Chuyến công du Trung Quốc của Thủ tướng Julia Gillard đã xác định những ưu tiên chiến lược quan trọng với Australia. Bà kêu gọi hai nước gia tăng hợp tác quốc phòng như một biện pháp để thúc đẩy mối quan hệ và hiểu biết lẫn nhau. Bà cũng nhấn mạnh mong muốn được chứng kiến sự minh bạch hơn nữa về quân sự của Trung Quốc.
Bộ trưởng Quốc phòng Stephen Smith cũng khẳng định, ông đã nói rất rõ ràng với người đồng nhiệm Trung Quốc rằng, Australia mong muốn Trung Quốc tuân thủ, thực thi đúng các chuẩn mực quốc tế, bao gồm cả luật biển quốc tế.
Trung Quốc gần đây đã không ngừng gia tăng sức mạnh quân sự và có cách hành xử ngày một quả quyết hơn ở biển Hoa Đông cũng như Biển Đông.
Chuyến công du Trung Quốc của Thủ tướng Julia Gillard đã xác định những ưu tiên chiến lược quan trọng với Australia. Ảnh: The Courrier-Mail

Trong khi bà Gillard đơn giản thể hiện rằng, bà không ủng hộ ý tưởng của Mỹ và các đồng minh nhằm kiềm chế Trung Quốc, nhưng sự ủng hộ các đồng minh Mỹ của lãnh đạo Australia trong chuyến thăm Washington gần đây không phải là điều Bắc Kinh không biết tới. Hơn thế nữa, trước khi công du tới Trung Quốc, Thủ tướng Australia đã tới thăm Nhật Bản và Hàn Quốc.
Dĩ nhiên, mục tiêu của bà Gillard vẫn là khuyến khích gia tăng hợp tác quân sự và liên kết quốc phòng. Vậy người Australia phải hiểu thế nào về những mục đích của Trung Quốc sẽ làm với lực lượng quân sự Australia trong tương lai.
Có những vấn đề không nhỏ với Australia trong hai hoặc ba thập niên tới. Tất nhiên, cần có một chính sách hợp lý để thúc đẩy Bắc Kinh trở thành một cường quốc đang trỗi dậy có trách nhiệm và tham gia chặt chẽ hơn trong tiến trình hòa bình và ổn định ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Cũng sẽ cần một chính sách tốt để thu hút Trung Quốc tham gia nhiều mặt trong mối quan hệ song phương với Australia - từ chính trị tới kinh tế, quốc phòng, văn hóa và nhân quyền.
Nhưng khi sức mạnh của Bắc Kinh chắc chắn gia tăng thì cũng cần có một chính sách "bảo hiểm rủi ro" nhằm đối phó với khả năng một Trung Quốc quả quyết hơn trong tương lai. Sách tăng quốc phòng Australia tháng 5/2009 cho rằng, vào năm 2030, Trung Quốc sẽ là một cường quốc quân sự mạnh nhất châu Á do nỗ lực hiện đại hóa quân sự ngày càng mang đậm đặc trưng là phát triển các khả năng thể hiện sức mạnh.
Khi Trung Quốc trở nên mạnh mẽ hơn về kinh tế, thì chắc chắn họ sẽ phát triển hơn các khả năng quân sự để phù hợp với kích cỡ tăng trưởng của mình. Tuy nhiên, như sách trắng nhấn mạnh, tốc độ, phạm vi và cơ cấu hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc gây ra nhiều lo lắng với các nước láng giềng.
Nếu Trung Quốc không trở nên minh bạch hơn, thì sẽ ngày càng có nhiều nghi vấn về mục tiêu những kế hoạch phát triển quân sự của họ. Bắc Kinh đang theo đuổi và đã đạt được một số khả năng khá ấn tượng mà nhiều người cho rằng, những khả năng ấy cuối cùng sẽ gây rủi ro với Mỹ và các đồng minh khi hoạt động tại những khu vực hàng hải giáp Trung Quốc. Lo ngại này trên thực tế được minh chứng trong những trường hợp va chạm trên biển giữa Mỹ, Nhật Bản với Trung Quốc.
Tại Australia, gần đây xuất hiện một số ý tưởng kỳ quặc rằng, có thể phát triển lực lượng có khả năng đối phó trực tiếp với Trung Quốc. Ý tưởng này là rủi ro và ngu ngốc. Dĩ nhiên, Australia có thể mong muốn xây dựng lực lượng - bao gồm cả tàu ngầm - để có thể đóng góp hữu ích vào một liên minh do Mỹ dẫn đầu.
Cũng không nên xem Trung Quốc như một đối thủ không thể tránh khỏi. Hiện tại cũng như trong dự đoán, họ sẽ không có sức mạnh quân sự đáng sợ như Liên Xô. Và, Bắc Kinh cũng chưa từng có kinh nghiệm hay trải qua một cuộc chiến tranh hiện đại nào.
Hơn thế nữa, Trung Quốc cần một môi trường hòa bình chiến lược để có thể dành ưu tiên cho việc quản lý khối lượng dân số khổng lồ 1,3 tỉ người.
Trung Quốc không phải là một đất nước không có điểm yếu. Cần phải nhớ điều này trước khi kết luận rằng, Trung Quốc sẽ gia tăng và gia tăng cũng như không gặp trở ngại nào nghiêm trọng. Đơn giản đưa ra ví dụ này, chính sách một con dẫn tới hệ quả là sự già hóa dân số nhanh chóng. Vào năm 2014, số người trong độ tuổi lao động của Trung Quốc sẽ bắt đầu sụt giảm và tới năm 2040, khoảng 30% dân số Trung Quốc sẽ ở độ tuổi trên 60. Điều này chắc chắn sẽ có những tác động lớn tới tỉ lệ tăng trưởng kinh tế, vốn đã có dự báo sẽ sụt giảm còn khoảng 7%/năm so với tăng trưởng 10-12% trước đây.
Có rất nhiều vấn đề khác về chính trị, kinh tế, môi trường và tham nhũng mà Trung Quốc đang đối mặt trong thế kỷ 21. Cũng cần cẩn trọng với suy đoán rằng, tăng trưởng của Trung Quốc sẽ dẫn nước này tới một vị trí uy quyền trong khu vực.
Ở đây nên đề cập tới những yếu tố địa chính trị khác.
Nếu Trung Quốc trở nên gây hấn hơn, họ sẽ phải đối mặt với một sự liên kết chặt chẽ hơn tại châu Á. Trong khi thực tế là nhiều quốc gia ở khu vực, gồm cả Australia, ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc để phát triển kinh tế, thì nỗi bất an cũng không ngừng mở rộng về việc Trung Quốc tăng cường sức mạnh quân sự, cách hành xử quả quyết hơn khi tuyên bố chủ quyền lãnh thổ.
Trung Quốc không có nhiều bạn bè thực sự thân cận ở châu Á. Ấn Độ chắc chắn cũng không thoải mái với sức mạnh trỗi dậy của Trung Quốc. Những nước "tầm trung" khác như Indonesia cũng sẽ phải chú tâm tới cách hành xử quả quyết hơn của Bắc Kinh.
Có hai viễn cảnh xảy ra. Một là Trung Quốc sẽ tiếp tục tập trung vào phát triển kinh tế và ngày càng chú tâm vào việc xây dựng một môi trường an ninh hợp tác trong khu vực (điều mà Bắc Kinh gọi là "một khu vực hòa hợp"). Viễn cảnh thứ hai là điều Australia cần phải "rào giậu": nó liên quan tới một Trung Quốc mạnh hơn về quân sự và trở nên nguy hiểm hơn.

Bài của tác giả Úc: Paul Dibb đăng trên Theo theaustralian, được dịch giả Nhật Huy dịch,  đã đăng trên tuanvietnamnet  ngày 11/05/2011 * Tác giả Paul Dibb là giáo sư danh dự nghiên cứu chiến lược tại Đại học Quốc gia Australia. Năm 1978, với cương vị phó giám đốc tình báo quốc phòng, ông đã tới thăm Trung Quốc để mở rộng quan hệ hai bên.

Thứ Ba, 10 tháng 5, 2011

Trung Quốc nguy hiểm hơn cả Bin Laden ?*

Gần đây dân mạng khuyên nhau đọc bài "Trung Quốc nguy hiểm hơn cả Bin Laden" dưới dạng một bài  phỏng vấn của nhà khoa học chính trị người Mỹ tên là Steven Mosher trả lời  báo Wyborzka (của Ba Lan). Bài đã được dịch giả Lê Diễn Đức kịp thời chuyển sang tiếng Việt phục vụ bạn đọc Việt nam.

Nếu tôi không nhầm thì bài viết dường như đã bắt đúng nhịp đập của hàng triệu trái tim người Việt cũng như các dân tộc trên thế giới, nhất là những ở quốc gia có chung biên giới với Trung Quốc. Tác giả đã rất thành công trong việc phác họa  hình ảnh nước Trung Hoa hiện đại như một mối hiểm họa không thể tránh khỏi của nhân loại.

Tuy nhiên, bản thân tôi mặc dù cảm thấy như vừa được giúp nói lên điều mình muốn nói ..., song vẫn không muốn tin đó sẽ là sự thật, hoặc chỉ mong đó là một sai lầm của giới cầm quyền Trung Quốc. Vì thế, tôi xin mạn phép tác giả được đăng lại nguyên văn bài viết nhưng có thêm dấu ? ở cuối tiêu đề. Ngoài ra vì lý do kỹ thuật tôi buộc phải thay thế tấm ảnh biểu tượng của dịch giả đã đưa lên bằng một tấm ảnh khác như thấy dưới đây. 
     

Steven Mosher: “Cuộc chiến chống khủng bố đau thương nhưng trong thực tế không thật hẳn quan trọng. Quân khủng bố không có khả năng làm đảo lộn trật tự thế giới. Tham vọng từ phía Trung Quốc nghiêm trọng và huỷ diệt trật tự thế giới. Chúng ta bắt tay với Trung Quốc khi và chỉ khi Trung Quốc tôn trọng nhân quyền và trở thành nhà nước dân chủ”.
Nhật báo Ba Lan: Hiện nay có sự so sánh phổ biến tình hình địa chính trị tại châu Á với thời kỳ ngự trị ở châu Âu trước năm 1914. Trung Quốc đang nắm vai trò của nước Đức, vừa xuất phát từ việc không hài lòng với trật tự thế giới, vừa muốn tìm cho mình một vị thế tốt hơn. Ông nghĩ sao?
Steven Mosher: Trung Quốc không phải là nước Đức tiếp nối. Nước Đức bấy giờ là tiềm lực của mức trung bình. Còn Trung Quốc là quốc gia khổng lồ, lớn tương tự Hoa Kỳ, với 1 tỷ 300 triệu dân. Không đơn giản là một tay chơi tiếp theo, mới xuất hiện trên sân khấu. Đây là một tiềm lực lớn nhất của lịch sử loài người. Sự so sánh kể trên chỉ đúng trong một mức độ nào đó. Đức quốc đã gây ra chiến tranh ở châu Âu và tham vọng của nó tập trung ở lục địa này. Trong khi đó của Trung Quốc mang tính toàn cầu. Cho nên vấn đề nghiêm trọng hơn điều mà châu Âu trải qua 100 trước đây.
Nhật báo Ba Lan: Nhà tân bảo thủ (neoconservative) Robert Kagan trong cuốn sách “Paradise and Power” viết rằng, đối với các nhà chính trị Hoa Kỳ thì trước ngày 11/09 vấn đề không phải là câu hỏi chúng ta có xung đột với Trung Quốc hay không, mà là bao giờ. Từ lúc bấy giờ đến nay có gì thay đổi không?
Steven Mosher: Cuộc chiến chống khủng bố đau thương nhưng trong thực tế không thật hẳn quan trọng. Quân khủng bố không có khả năng làm đảo lộn trật tự thế giới. Tham vọng từ phía Trung Quốc nghiêm trọng và huỷ diệt trật tự thế giới. Chúng ta bắt tay với Trung Quốc khi và chỉ khi Trung Quốc tôn trọng nhân quyền và trở thành nhà nước dân chủ. Chúng ta sẽ giữ trật tự hiện có trên thế giới, trật tự hoà bình của các quốc gia dân chủ.
Nếu như Trung Quốc là nhà nước độc đảng, độc tài thì không thể nào trở thành một phần của trật tự hiện nay mà lại không có những thay đổi nền tảng. Trung Quốc đang giành ưu thế trước các quốc gia không lớn trong khu vực, khuyến khích các chế độ độc tài. Các nền dân chủ nhỏ châu Á bị làm suy yếu bởi chính phủ Trung Quốc. Trung Quốc không là bạn của dân chủ mà là kẻ thù của nó.
Nhật báo Ba Lan: Điểm chính yếu nào của sự đối kháng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc? Có lẽ không riêng vấn đề Đài Loan?
Steven Mosher: Không chỉ riêng như thế, sự can thiệp ngày nay của Trung Quốc tại Trung Đông rất rõ ràng. Nếu như chúng ta nhìn Iraq trước chiến tranh, hay Iran, Syria hôm nay, thì thấy ngay rằng, đồng minh gần gũi nhất bên kia đại dương của họ nằm ở Bắc Kinh. Trung Quốc hiện đang bán tên lửa cho Syria, công nghệ nguyên tử cho Iran. Nếu như Iran có bom nguyên tử, thì từ cùng một lý do mà Pakistan có – là nhờ Trung Quốc. Trung Quốc là một trong những nguyên nhân của sự hỗn loạn tại Trung Đông.
Tham vọng của Trung Quốc gây nên bất ổn định trật tự quốc tế. Thoạt nhìn bên ngoài thì có vẻ như Trung Quốc hợp tác, nhưng trong những khu vực khác nhau trên thế giới, Trung Quốc đưa đến hỗn loạn, đặc biệt là vùng Trung Đông.
Việc tiếp theo là vấn đề nhân quyền. Khi tôi nói đến Trung Quốc, người Trung Quốc, là ý tôi chỉ nói về nhà cầm quyền mà thôi. Tại Trung Quốc có rất nhiều người tranh đấu cho nhân quyền, dân chủ, nhiều người bị tù đày tại những nơi mà họ bị tra tấn, thậm chí bị giết. Cách đây không lâu một chánh án Trung Quốc bị cảnh sát hành hạ. Khi gia đình nhìn thấy thì thân thể bị đánh đập kinh khủng. Được hỏi nạn nhân có bị tra tấn hay không, câu trả lời từ phía chính quyền là không và ông ta đột tử.
Các mối quan hệ thân mật – trước đây – với Saddam Hussein, Iran, Syria hay Bắc Hàn càng khuyến khích các chế độ này chống lại những giá trị dân chủ. Tôi không muốn chỉ nói về các giá trị của riêng Hoa Kỳ, mà là về những giá trị chung cho cả Hoa Kỳ và châu Âu: tôn trọng quyền tư hữu, tôn trọng luật pháp và bầu cử tự do. Những điều này Trung Quốc không hề có dưới mọi hình thức.
Nhật báo Ba Lan: Trung Quốc không phải là duy nhất ở châu Á. Những quốc gia khác trong khu vực như Ấn Độ hay Nhật Bản nhìn nhận thế nào về sự tăng tiềm lực của Trung Quốc? Hàn Quốc có chính sách như thế nào với Bắc Kinh? Việc thống nhất bán đảo Triều Tiên không phụ thuộc vào Bắc Kinh?
Steven Mosher: Nếu như không có Bắc Kinh thì Bắc Hàn đã sụp đổ từ lâu, còn bán đảo Triều Tiên đã được thống nhất và dân chủ. Chế độ Kim Jong Il tồn tại hoàn toàn từ giúp đỡ của Bắc Kinh. Nam Hàn giữ quan hệ với Trung Quốc cũng giống như các nước láng giềng khác, cố gắng không va chạm với Bắc Kinh. Tuy nhiên, trong thâm tâm tất cả đều quan ngại tiềm lực tăng lên của Trung Quốc.
Điều này cũng với cả Nhật Bản. Nhật Bản hiện nay đang làm việc nỗ lực với Hoa Kỳ về chiến lược xây dựng hệ thống lá chắn chống tên lửa. Tại sao? Bởi vì người ta lo ngại số tên lửa tầm xa và trung bình của Trung Quốc tăng lên. Về mặt chính thức họ nói rằng đây là biện pháp ngăn ngừa Bắc Hàn. Nhưng Bắc Hàn thì hiện mới chỉ có vài cái. Thực tế là người Nhật muốn phòng vệ trước sự xâm lăng của Bắc Kinh. Nhật Bản hợp tác với Hoa Kỳ và cũng cam kết bảo vệ Đài Loan, bởi vì, sự thất thủ của Đài Loan đe doạ chính Nhật Bản.
Ấn Độ cũng không yên tâm chút nào trước sự gia tăng tiềm lực của Trung Quốc. Cần nhớ lại rằng, Ấn Độ đã có cuộc chiến tranh biên giới với Bắc Kinh 1960-1961, còn Trung Quốc đang chiếm đóng hàng chục ngàn cây số vuông lãnh thổ Ấn Độ. Người Ấn cảm thấy đang bị đặt mặt đối mặt trước những đồng minh của Trung Quốc: Pakistan và Myanmar (những nơi Trung Quốc có các cơ sở hải quân lớn).
Sẽ không một ai bất an trước tiềm lực kinh tế mạnh đang tăng lên của Trung Quốc, nếu như Trung Quốc là một quốc gia dân chủ. Vấn đề lại nằm ở chỗ Trung Quốc không phải dân chủ mà là độc tài, trong khi những chế độ độc tài luôn có khuynh hướng tiến hành chiến tranh.
Nhật báo Ba Lan: Nhà chính trị-xã hội cấp tiến Pháp Guy Sorman trong cuốn sách “Năm Con Gà” nói về Trung Quốc, đưa ra một luận đề rằng, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc là ảo. Theo Guy Sorman, những con số thống kê đưa ra bởi đảng cộng sản không đáng tin cậy.
Steven Mosher: Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc không ảo. Thế nhưng rất mất cân đối. Cho nên đây không phải là sự tăng trưởng kinh tế bình thường, lành mạnh. Sự tăng tưởng tập trung chủ yếu ở hai khu vực. Thứ nhất, dựa trên xuất khẩu – tất cả chúng ta đều biết rằng, Trung Quốc là trung tâm sản xuất cho phần lớn các nước thế giới, kể cả Hoa Kỳ. Khu vực thứ nhì là mua hoặc ăn cắp các công nghệ để ứng dụng vào mục đích dân sự cũng như quân sự. Ở đây không nói đến vấn đề mua vũ khí của Nga mà là nói về sự phát triển sản xuất vũ khí tại ngay Trung Quốc. Lợi nhuận thu được từ xuất cảng chảy vào lĩnh vực quân sự và dùng để trợ cấp cho các công ty quốc doanh bị bội chi. Kinh tế khu vực quốc doanh đi xuống, trong khi xuất khẩu và khu vực quân sự phát triển.
Tại sao Trung Quốc không thực hiện phát triển nền kinh tế bền vững? Tại sao họ không tái cấu trúc các công ty quốc doanh đang trên đà phá sản? Tại sao Trung Quốc chi phí nhiều như thế cho quân sự và ngân sách quốc phòng tăng đều đặn? Nếu như Trung Quốc có thiên hướng nhắm tới hoà bình, thì lợi nhuận từ xuất khẩu sẽ được dành cho việc nâng cao mức sống của nhân dân. Nhưng điều này không xảy ra.
Nhật báo Ba Lan: Ông đánh giá sự hiểu biết về Trung Quốc tại phương Tây như thế nào?
Steven Mosher: Đây là vấn đề rất nghiêm trọng. Các tập đoàn lớn của Hoa Kỳ, ví dụ như General Motors hay Boeing đã đầu tư nhiều tỷ đô la vào Trung Quốc vì cho rằng đây là thị trường của tương lai. Với cách này, các hãng trở thành con tin của chính quyền Trung Quốc và Trung Quốc tin rằng, các hãng này sẽ hỗ trợ Trung Quốc tại Hoa Kỳ. Cho nên, một khi Pentagon chỉ trích Bắc Kinh hay CIA khuyến cáo sự xâm nhập gia tăng của các điệp viên Trung Quốc tại Hoa Kỳ, các hãng lớn của Hoa Kỳ lại nói: Trung Quốc đang thay đổi, Trung Quốc đang phát triển kinh tế và không lâu sẽ trở thành quốc gia dân chủ. Chúng ta đừng lo ngại gì về Trung Quốc – sự biện minh của họ như vậy. Cũng như trên các giảng đường đại học: vô số các chuyên gia nghiên cứu về Trung Quốc bị mua đứt. Họ là những nhà tham vấn về các vấn đề Trung Quốc, làm việc tại Trung Quốc theo lời mời của nhà nước Trung Quốc, do nhà nước tổ chức và được đãi ngộ những chuyến đi đặc biệt.
Ngoài ra, người Trung Quốc dễ mến. Những chuyên viên Hoa Kỳ về các vấn đề Liên Xô không thích chủ nghĩa cộng sản, còn rất nhiều chuyên gia Hoa Kỳ chỉ đơn giản là yêu thích đất nước này. Họ không tách biệt rõ ràng cảm tính của mình giữa văn hoá, lịch sử và sự đánh giá về chính sách của chính quyền Trung Quốc. Vô số các nhà quan sát Hoa Kỳ thực sự đang phục vụ cho quyền lợi của Trung Quốc chứ không phải của Hoa Kỳ.■
Bản Việt ngữ © Lê Diễn Đức
————————————
Chú thích: “Gazeta Wyborcza” là nhật báo tri thức có uy tín và lớn hàng đầu tại Ba Lan. Steven Mosher là nhà xã hội-chính trị học Hoa Kỳ, chuyên viên về lịch sử và chính sách Trung Quốc. Bài phỏng vấn được dịch tử nguyên bản tiếng Ba Lan do phóng viên Tomasz Pichór thực hiện với tựa đề “Chiny groźniejsze niż ben Laden” đăng trên“Gazeta Wyborcza” tại link: http://wyborcza.pl/1,86680,4327181.html. http://daohieu.wordpress.com/


Chủ Nhật, 8 tháng 5, 2011

Nỗi kinh sợ và một câu hỏi

Với sự đồng cảm gần như hoàn toàn với nội dung bài viết của tác giả Minh Luận (được đăng tuânvietnanet mới đây), blog tôi xin trích đăng lại nguyên văn bài viết để chia sẻ thêm cùng quý vị.
Quả là trong xã hội chúng ta vẫn còn có quá nhiều việc phải làm, nhưng có một việc khẩn cấp là ngăn chặn  sự xuống cấp của chất lượng cuộc sống. Tại  những nước nghèo nhất hành tinh khác cũng không thấy phổ biến tình trạng bệnh nhân nằm chung gường như ở Việt Nam.   

 Không ít người đã từng cầu trời khấn Phật rằng đến khi nào họ phải ra đi khỏi đời sống này thì xin trời Phật cho họ được đi ngay, xin đừng bắt họ phải vào nằm viện…
Cách đây có lẽ đến dăm năm, báo chí đưa tin ông Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu vừa nhận chức đã hứa với nhân dân là chỉ sau 3 năm sẽ giải quyết vấn đề giường nằm của bệnh nhân từ 3 bệnh nhân một giường xuống điều thông thường nhất là 1 bệnh nhân 1 giường. Thế nhưng giấc mơ về một chiếc giường nhỏ bé của những người bệnh như càng ngày càng lùi về phía chân trời.
Nhưng mới đây, ông Nguyễn Quốc Triệu đã cải chính là ông không hứa như thế mà chẳng qua cánh báo chí nghe nhầm mà thôi. Nhà báo mà tác nghiệp thế thì chết người ta chứ còn gì và đáng bị treo bút. Nhưng dù không có lời hứa của một ông Bộ trưởng Bộ Y tế cụ thể nào đó thì những người quản lý ít nhất là quản lý hệ thống chăm sóc sức khỏe nhân dân cũng phải hiện ra để trả lời nhân dân vì sao tình trạng các bệnh viện lại thê thảm đến thế này.
Một người anh của tôi vừa vào nằm viện. Ngay lập tức, bệnh viện đã trở thành cơn ác mộng đối với ông và đối với cả gia đình chúng tôi. 3 bệnh nhân phải nằm chung một chiếc giường. Sự yên tâm của bệnh nhân và của gia đình họ trong ký ức xa xôi trước kia khi được đưa vào viện và thấy sự hiện diện của những Thiên thần mặc bờ-lu trắng đã bị bóp chết và thay vào đó là nỗi sợ hãi. Làm thế nào để 3 người khỏe mạnh có thể "khỏe mạnh" khi nằm chung trên một chiếc giường. Thật là kinh hãi. Vậy chuyện gì sẽ xẩy ra đối với những bệnh nhân khi 3 hay 2 bệnh nhân nằm chung trên một chiếc giường ??? Không khí ấy, tâm lý ấy...chính là một loại bệnh vô hình hạ gục bệnh nhân.

Chầu chực chờ khám - hình ảnh quen thuộc ở bệnh viện. Ảnh: SGGP online

Và kinh hoàng hơn nữa, có bệnh viên vào một thời điểm nào đó bệnh nhân còn phải nằm dưới sàn nhà hoặc nằm trên hành lang bệnh viên. Hình ảnh đó giống như cảnh ở các bệnh viện dã chiến trong Đại chiến thế giới II. Vì sao lại có thảm cảnh này và vì sao cho đến bây giờ người ta vẫn chưa nhìn thấy một tia hy vọng nào chỉ cho một trong nhiều vấn đề ở các bệnh viện lag gường nằm? Có phải vì chúng ta không còn đất để mở rộng các bệnh viện cũ và xây các bệnh viện mới ? hay vì chúng ta không có tiền để làm điều đó?
Hay vì chúng ta không hề thấy thảm cảnh của các bệnh nhân khi nằm viện ? Hay vì việc đau ốm và nằm chung giường là của các ngươi còn việc không nằm chung giường và được chăm sóc như ông Thánh là của các toa?
Với những người có lương tâm đều nhận thấy : từ ngày đất nước mở cửa đến nay, mỗi năm chúng ta chứng kiến trên báo, trên tivi cảnh cắt băng khánh thành rầm rộ cơ man sân golf, khách sạn, resort...rồi các trụ sở từ cấp xã trở nên...nhưng chúng ta tìm mãi mà không thấy cảnh cắt băng khánh thành các bệnh viện hoặc nếu có thì cũng chỉ chiếm 1/1000 mà thôi.
Một trụ sở UBND xã có cần xây to lớn như thế không trong khi các trạm xá xã gần như chỉ là một cái nhà hoang. Một trụ sở UBND huyện có cần quá to lớn và đắt tiền như thế không khi một bệnh viện huyện cũ kỹ, bẩn thỉu, thiếu thốn phương tiện đến thê thảm.  Cái gì đất nước cần nhân dân cũng sẵn sàng hiến dâng. Cần đất làm sân golf, làm khách sạn, làm chung cư cao cấp hay biệt thự liền kề...nhân dân cũng phải dâng đất cấy trồng của mình cho dự án. Thế mà nhân dân chỉ cần được nằm trên một chiếc giường ( có trả tiền đàng hoàng ) khi đau ốm thì cũng không được. Vì sao lại như thế ???
Không ai có thể nói Cuba giàu có và phát triển hơn Việt Nam. Nhưng hệ thống chăm sóc sức khỏe của nhân dân thì những người chứng kiến chỉ có thể nói : xuất sắc. Tại sao Cuba làm được điều đó mà chúng ta không làm được?
Cứ cho những câu hỏi của tôi và vấn đề tôi đang đặt ra đây là của một kẻ ít hiểu biết và kém trách nhiệm trong việc xây dựng hình ảnh đất nước thông qua chiến lược chăm sóc sức khỏe nhân dân thì xin các ngài có bộ óc thông tuệ trong quản lý và có trách nhiệm hãy giải thích rành rọt và hợp lý để đầu óc của kẻ ít hiểu biết này được sáng ra một chút.
Tác giả MINH LUẬN   


Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này