Thứ Ba, 9 tháng 8, 2011

Phản đối: Sao không thể nhanh và mạnh hơn?

Xin mời mọi người đọc tin mới dưới đây (nguyên văn theo nguồn Dantri và TTXVN): 
      
                             Việt Nam phản đối Trung Quốc vi phạm quyền chủ quyền
Việt Nam phản đối hoạt động của phía Trung Quốc vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam và yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay.
Ngày 2/8, Tân Hoa xã đưa tin từ ngày 13/6 đến 30/7, Cục thăm dò địa chất Trung Quốc hợp tác với phía Pháp đã sử dụng tàu thăm dò “Tan Bao Hao” tiến hành đo đạc, khảo sát khoa học từ vùng biển phía Tây quần đảo Hoàng Sa (Bản tin của Tân Hoa xã gọi là “Tây Sa”) đến phía Bắc quần đảo Trường Sa (Bản tin của Tân Hoa Xã gọi là “Nam Sa”).
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Nga. 

Trả lời câu hỏi của phóng viên về phản ứng của Việt Nam trước sự việc này, ngày 8/8, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Nga cho biết, về các hoạt động của tàu “Tan Bao Hao,” đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gặp phía Trung Quốc nêu rõ quan điểm của Việt Nam, phản đối các hoạt động của phía Trung Quốc vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.

Bà Nga cũng cho biết Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay và không để tái diễn các hoạt động tương tự. 


 Lời lạm bàn của chủ blog:
Đọc xong tin trên chắc bạn sẽ thắc mắc: Tại sao thời gian vụ việc thăm dò (của phía Trung Quốc) đã diến ra từ ngày 13/6 đến 30/7 mà mãi đến nay NPN của ta mới lên tiếng? và chỉ lên tiếng sau khi có tin của THX đưa ra ngày 2/8?  

Ai cũng biết, trong quan hệ quốc tế, nước nào cũng sử dụng hình thức Người phát ngôn Bộ Ngoại giao-NPN như một kênh chính thức để thể hiện lập trường của quốc gia trước các vấn đề đối ngoại. Ở Việt Nam trong những năm gần đây sự xuất hiện với tầng số ngày càng cao của "người đẹp" Nguyễn Phương Nga  trên các phương tiện thông tin đại chúng mà trong đó hầu hết đều mang nội dung phản đối sự vi phạm của phía TQ đối với chủ quyền của Việt Nam tại cùng Biển Đông..., và đã trở nên quen thuộc đến mức mà người dân bắt đầu coi đó như một cái "hàn thử biểu" cho thấy nhiệt độ của mối quan hệ Việt - Trung vậy! 

Tuy nhiên, ai cũng biết những lời tuyên bố sẽ có tác dụng khác nhau, đôi khi còn phản tác dụng, nếu chúng được đưa ra sớm quá hoặc muộn quá. Có thể thấy trường hợp tuyên bố nói trên đây là "hơi muộn" !.

Vẫn biết đây không phải là lỗi của cá nhân NPN Nguyễn Phương Nga hay của Bộ Ngoại giao, mà chắc chắn là lỗi do những yếu tố khác nhau cộng lại, của  các ban /ngành liên quan và  của  căn bệnh "phối hợp" muôn thuở  giữa họ với nhau.  Chẳng lẽ nước ta nghèo đến mức không có phương tiện và lực lượng để phát hiện sớm hơn sự vi phạm trắng trợn trên diện rộng trong thời gian lâu như vậy của phía đối phương? 

Thiết nghĩ nếu sự phản đối đã được đưa ra từ một thời điểm sớm hơn chắc chắn sẽ có tác dụng ngăn chặn hoặc hạn chế hoạt động của đối phương. Nay họ đã "hoàn thành xuất sắc" nhiệm vụ và công bố trên THX thì sự phản đối của ta có lẽ chỉ còn tác dụng thông báo và "ghi nhận"?



--------------
*****

Thứ Hai, 8 tháng 8, 2011

Lịch sử cần sự thật(*)


Hồi đầu năm 2010 đã rộ lên sự kiện một nữ nghiên cứu sinh người Việt tại Mỹ tên là Đào Ngọc Bích viết bài cho BBC nói rằng Việt Nam là từ Trung Quốc mà ra... (!) để rồi ngay sau đó bị đông đảo dư luận trong và ngoài nước phê phán rất dữ dội. Không chỉ vậy, chính cô cựu sinh viên Đại học Ngoại ngữ Hà Nội này, trong nỗ tự lực bào chữa cho mình, đã “đổ tại” quá trình đào tạo môn lịch sử khi cô còn ở Việt Nam đã khiến cô tin như vây (!?). Tiếp theo cuối năm đó, nhân dịp đến tham dự Hội thảo quốc tế về  Biển Đông lần thứ 2 tại Tp Hồ Chí Minh một vị giáo sư danh tiếng của Trung Quốc tên là Vương Hàn Lĩnh đã tuyên bố xanh rờn rằng “Kể từ năm 1885 về trước Việt Nam là thuộc quốc của Trung Quốc...”. Vị này còn tỏ ý vừa khuyên vừa dọa phía Việt Nam nếu không biết "hợp tác" với Trung Quốc thì chỉ có thua thiệt!  
Thực ra, không phải chỉ một mình cô Bích hay ông Lĩnh mà còn khá đông đảo người Việt Nam và  Trung Quốc đều chưa hiểu đúng về lịch sử của đất nước mình, đặc biệt là lịch sử liên quan đến mối quan hệ lâu đời của hai quốc gia dân tộc “núi liền núi, sông liền sông” này. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiểu biết lịch sử “lệch lạc” như vậy nhưng có một nguyên nhân sâu xa nằm ở những “góc khuất” trong sử sách  khi nói về nguồn cội dân tộc của mỗi nước. Vẫn biết, kẻ mạnh thường thắng kẻ yếu, và sự thôn tính lẫn nhau giữa các dân tộc, quốc gia vốn là một thực tế hiển nhiên trong lịch sử nhân loại, nhưng điều quan trong có tính nguyên tắc là, mọi sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng và giữ gìn một cách trung thực. Với tinh thần đó, người viết bài này xin được nêu lên một vài điều suy nghĩ lâu nay để mọi người cùng suy ngẫm nhằm tìm ra một lời giải.  
       
             Một là, về cội nguồn dân tộc, có thể nói không chỉ truyền thuyết mà cả sử sách (của cả Trung Quốc và Việt Nam) dù có nhiều điều chưa được làm sáng tỏ thậm chí bị xuyên tạc , bưng bít... cũng cho thấy rằng nước Việt Nam ngày nay là một thực thể thống nhất duy nhất còn lại của Bách Việt- một tên gọi chung cho nhiều tộc người Việt đã từng định cư hàng ngàn năm trước Công nguyên trên vùng lãnh thổ rộng lớn từ bờ Nam Sông Dương Tử xuống miền Bắc Việt Nam ngày nay, phía Tây giáp Tân Cương, phía Đông giáp biển Thái Bình Dương. Qua sử sách cho thấy người Hán vào thời sơ khai Nhà Hạ (khoảng 2.000 năm trước CN) chỉ là một vương quốc nhỏ tại vùng xung quanh Bắc Kinh ngày nay. Nhưng từ đó họ đã không ngừng mở mang bờ cõi, chủ yếu theo hướng “nam tiến” với thế mạnh của kỵ binh và đã phải mất hàng ngàn năm để xâm chiếm, chinh phục và đồng hóa hầu hết các bộ tộc hoặc vương quốc có tên tuổi của người Bách Việt (xem bản đồ minh họa dưới đây*).

Đó là một quá trình kéo dài với biết bao biến cố lịch sử phức tạp mà trong đó có nhiều sự kiện đã bị lãng quên hoặc bị xuyên tạc, thậm chí bị “tráo đổi” tùy theo mục đích của các triều đại phong kiến thống trị trong các thời kỳ khác nhau, đặc biệt là thời nhà Hán và nhà Đường. Tuy nhiên có một thực tại không thể bác bỏ là, Lạc Việt (tên nước Văn Lang) mặc dù bị các triều đại phong kiến Hán-Hoa  thay nhau thống trị trong suốt thời kỳ dài được sử ta gọi là “ 1.000 năm Bắc thuộc” nhưng vẫn tồn tại và phát triển với tư cách một quốc gia dân tộc độc lập như ngày nay. Trong suốt quá trình đó đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ của các tộc người Việt liên tục nỗ ra dù không thành công trọn vẹn cũng nói lên sự bất khuất kiên cường của dân tộc này.  Có thể nói, đó là quá trình lịch sử tang thương của Bách Việt nói chung, nhưng cũng là trang sử hào hùng đối với dân tộc Việt Nam nói riêng. Sự tồn tại và phát triển của Việt Nam không phải là trường hợp ngẫu nhiên mà là kết cục của cả quá trình đấu tranh sinh tồn của người Bách Việt nói chung mà các thế hệ sau này không bao giờ được phép lãng quên. Bởi lẽ, với không ít những dân tộc khác, chỉ cần vài trăm năm cũng đủ để "biến mất" trên bản đồ thế giới, thì sự tồn tại của dân tộc Việt sau 1.000 năm mất nước quả là rất đỗi phi thường rồi! Lại càng không thể đem ra so sánh những gì còn lại của ngày hôm nay giữa kẻ thống trị và người bị trị để kết luận rằng ai đã hơn ai! Chỉ có sự thật lịch sử chân chính không bị bóp méo mới có quyền quyết định sự so sánh này.  

Ở đây rõ ràng có vấn đề nỗi cộm là quan niệm thế nào về sự thật lịch sử và truyền thuyết.  Thử hỏi người Việt có thể làm gì trong 1.000 năm dưới ách đô hộ hà khắc của phương Bắc - kẻ duy nhất có quyền viết sử- nếu không sử dụng truyền thuyết?  Và truyền thuyết đều nói lên rằng nguồn gốc tổ tiên của Việt Nam bắt nguồn từ Hồ Động Đình (thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay) bắt đầu bằng Thời đại Hồng Bàng của Kinh Dương Vương (có sách ghi cụ thể năm 2879 TCN, tức cách nay gần 5.000 năm). Thuyết này trùng khớp với các câu chuyện cổ tích về Âu Cơ-Lạc Long Quân, các Vua Hùng, và cũng được thêu dệt bằng nhiều câu chuyện giả sử lưu truyền qua bao đời dân gian khác nữa. Đó là câu dân ca Việt cổ “Công cha như núi Thái Sơn (gần Hồ Động Đình), Nghĩa mẹ  như nước trong nguồn chảy ra…”; ngay cả bản thân truyền thuyết Thánh gióng đánh giặt Ân (tức nhà Thương) cho thấy bờ cõi nước Việt vào thời đó ắt phải ở sâu trên phía Bắc, chứ không thể là Vùng Bắc Ninh bây giờ (?). Nhưng câu chuyện truyền thuyết như vậy đều có giá trị lịch sử của chúng, và trên thực tế cũng đã một phần được kiểm chứng bằng một số kết quả nghiên cứu khảo cổ, nhân chủng và ngôn ngữ,  qua các di chỉ đồ đá,  Trống Đồng, nghề trồng lúa nước và  cả gen di tuyền v.v… Nếu kết hợp cả truyền thuyết với cổ sử đồng thời đối chiếu với các kết quả nghiên cứu của loài người , ta có thể nhận thấy trong suốt quá trình “nam tiến” và “đông tiến” của Hán tộc, các tộc người Bách Việt như Ngô Việt, Âu Việt, Dương Việt, Đông Việt, Nam Việt, Mân Việt, Di Việt v.v…. đều không thoát khỏi bị thôn tính và đồng hóa, để cuối cùng đều biến thành “người Hoa” hiện đại. Nhưng riêng một số tộc Bách Việt ở phía Nam, tiêu biểu là  Lạc Việt, Âu Việt  vẫn tồn tại, có thời kỳ bao gồm cả vùng đất Quảng Tây, Quảng Đông  của Trung Quốc xuống vùng Bắc Bộ của Việt nam ngày nay. Theo dòng lịch sử, ta còn thấy một thực tế là đã từng có rất nhiều người gốc Bách Việt tham gia vào bộ máy đô hộ của phong kiến Trung Hoa trong các thời kỳ khác nhau nhưng đã chọn Lạc Việt ( sau là Chân lạp, Giao Chỉ...) làm "hậu cứ" để chống lại Vương triều trung ương (như Hồ Quý Ly, Lý Bôn, Lý Bí chẳng hạn);  rất nhiều người trong số họ thực sự đã tái hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam và có khá nhiều người đã dựng nên các triều đại huy hoàng cho Đại Việt  như  Lý, Trần v.v...; trường hợp Triệu Đà  cùng đã được sử sách Việt nam từ trước thế kỷ thứ 18 coi là "vua Việt". Cũng đã từng diễn ra những đợt rời bỏ quê hương của người Hoa gốc Bách Việt thuộc nhiều thế hệ trước đến định cư tại Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Sử cận đại Trung Quốc cho thấy, mãi đến những năm 1940 danh từ “dân tộc Việt” mới bị Tôn Trung Sơn chủ trương xóa bỏ trong bản đồ dân số Trung Quốc. Cho đến này nay để ý thấy ít nhiều vẫn còn những tình cảm kỳ thị giữa các cộng đồng gốc gác Bách Việt tại Trung Quốc với người “từ phương Bắc”. Bản thân người viết bài này mới đây trong chuyến du lịch mấy tĩnh phía Nam Trung Quốc đã được dịp “kiểm nghiệm”điều này qua chuyện trò với một số người bản địa; dân bản địa vùng này bày tỏ bất bình trước các biện pháp hạn chế của chính phủ trung ương ngày càng  làm mai một ngôn ngữ bản địa (gọi là "Việt ngữ" lâu nay vẫn còn được  sử dụng tai các tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông và cả Hồng Kông, Macau). Còn nhớ hồi  đầu năm 2000 sau khi Trần Thủy Biển  lên làm thủ tướng Đài Loan đã nêu cao tinh thần  “người bản địa” Mân Việt để đấu tranh  bảo vệ sự tồn tại độc lập với Đại lục. Bản thân Tôn Trung Sơn cũng là gốc người Bách Việt.

Thiết nghĩ, những sử liệu và sự kiện trên đây ít nhiều tự chúng đã nói lên những sự thật  khách quan xung quanh những “góc khuất” trong cổ sử và chính sử liên quan đến cội nguồn dân tộc và quan hệ giữa hai nước Việt-Trung. Khách quan mà nói nghiên cứu để tìm ra sựthật lịch sử mộtcvách khách quan sẽ là hướng đi tích cực nhất cho mục đích xây dựng mối quan hệ hữu nghị bình đẳng lâu dài giữa hai nước và cho lợi ích hợp tác hòa bình hữu nghị trong khu vực nói chung.
                 
Hai là, về nhân văn, tuy chỉ dựa vào các nguồn sử sách cổ để lại từ thời “1.000 năm Bắc thuộc”, ta cũng có thể thấy Việt Nam là kết tinh, là đại diện của Bách Việt. Về  góc độ văn hoá, kể cả phong tục tập quán, ngôn ngữ, Việt Nam và Trung Quốc  ngày nay có rất nhiều điểm tương đồng, đồng thời cũng có rất nhiều điểm khác biệt. Đặc điểm này  nếu được hiểu và vận dụng một cách đúng đắn sẽ có tác dụng tích cực cho việc phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị và bình đẳng giữa hai nước, chứ không có gì là không tốt như một số người có thể nghĩ. Tuy nhiên trên thực tế không được như vậy vì có quá nhiều sự thật đã bị xuyên tạc, có những giá trị đã bị “tráo đổi” trong suốt quá trình lịch sử hàng ngàn năm qua mà trong đó phần lợi bao giờ cũng nghiêng về phía kẻ mạnh. Xin đơn cử vài ví dụ: Thế giới lâu nay vẫn tin rằng Kinh Dịch là của người Trung Quốc. Nhưng thực ra gần đây các chứng cứ khảo cổ quốc tế đã cho thấy Trống Đồng không phải của người Hán mà là của các dân tộc phương Nam. Kết luận này cho phép các nhà nghiên cứu suy ra rằng những hình khắc biểu tượng Kinh Dịch trên trống cũng không phải của người Hán; và do đó chủ nhân của  Kinh Dịch chính là người Bách Việt, cụ thể hơn là của người Âu Việt và  Lạc Việt. Về ngôn ngữ, đã từ lâu người Việt Nam phải an phận đón nhận chữ Nho (tốt đẹp) của người Hán, mặc dù đã cố tạo dựng cho mình chữ Nôm như một nỗ lực độc lập (!) tuy không mấy thành công vì những lý do khác nhau. Nhưng có một số luận điểm khác cho rằng người Hán trong quá trình xâm lược đã sử dụng ngôn ngữ của người Bách Việt, cụ thể là của  Ngô Việt (tại vùng Việt Châu, tỉnh Chiết Giang và Phúc Kiến ngày nay) để cải tiến thành chữ Hán, rồi thành tiếng Trung hiện đại. Lập luận này dựa trên cơ sở nghiên cứu về ngữ nghĩa, âm thanh, ngữ pháp v.v… cho thấy một tỷ lệ rất cao các nhân tố ngôn ngữ Bách Việt trong tiếng Hán cỗ và tiếng Trung ngày nay. Đó là hiện tượng các danh từ nhưng có tính từ được xếp sau danh từ được thấy phổ biến trong Kinh Thi và ngay ở tên gọi các vị Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn vốn được coi là truyền thuyết  Trung Quốc ; từ “Việt” hiển thị với tầng số rất cao trong các tên địa danh ở miền Nam Trung Quốc; từ “giang” (sông) của tiếng Việt cổ được sử dụng cho hầu hết các con sông miền Nam Trung Quốc (trong khi ở miền Bắc gọi là “hà”); tuồng Kinh kịch ở phía Nam Trung Quốc ngày nay vẫn còn gọi là “Việt kich”; tiếng Quảng Đông được sử dụng ở Quảng Đông, Quảng Tây, Hồng Kông, Macau và nhiều cộng đồng người Hoa trên thế giới  gọi là Việt ngữ, v.v… Thuyết này đồng thời cũng đặt ra mối nghi vấn rằng di chỉ thẻ tre có khắc chữ Hán cổ là “giả mạo” vì vào thời đó người Hán chưa có mặt ở miền đất phía Nam nơi có cây tre đủ to để làm thẻ viết. Tương tự cũng có sự “nhập nhằng” về chủ thể của “con đường tơ lụa” vì đúng ra  người Bách Việt mới có thể là chủ thể của sản vật tơ lụa làm từ cây dâu tằm chỉ có ở vùng đất  phương Nam. Rất nhiều luận điểm và luận cứ tượng tự cũng đã được nhiều học giả Việt Nam và quốc tế nêu ra.
            Tóm lại, dù bị người Hán cố tình đồng hóa bằng rất nhiều thủ đoạn tinh vi và cường bạo như đốt sách, bắt từ bỏ, xóa bỏ  hoặc tráo đổi v.v…, nhưng các dấu tích Bách Việt  vẫn còn đó  cho đến ngày nay. Trong suốt quá trình đấu tranh sinh tồn khốc liệt bên thua trận ắt chịu nhiều mất mát, nhưng những gì là bản sắc riêng vẫn còn đó; và điều này có thể nhận thấy qua nhiều nét tương đồng giữa Việt Nam với các tỉnh phía Nam và Đông Nam Trung Quốc ngày nay cũng như với các nước Đông Nam Á.

Ba là, công tác nghiên cứu và giáo dục về lịch sử cần đi sâu hơn nữa về nguồn gốc dân tộc cùng các giá trị nhân văn trên tinh thần khách quan, dựa trên chứng cứ khoa học biện chứng lịch sử, khảo cổ, nhân chủng… (chứ không chỉ dựa vào sử sách củ để lại từ thời Bắc thuộc) . Thiết nghĩ, trong việc này  những kiến thức xác thực về Bách Việt sẽ giúp giải mã rất nhiều điều mà lâu nay chưa cảm thấy thỏa đáng hoặc chỉ là “ngộ nhận”. Công tác sử học cũng cần tập trung nghiên cứu và bổ cứu lại toàn diện, đặc biệt về lĩnh vực nguồn gốc dân tộc và nhân văn của người Việt nhằm làm sáng tỏ những kiến thức mang tính  truyền thuyết kết hợp với những chứng cứ lịch sử dựa trên cơ sở các kết quả nghiên cứu khảo cổ và gen di truyền v.v…Khi có đủ dữ liệu thì công khai  chỉnh sửa những mọi sự sai lệnh hoặc bị xuyên tạc hoặc bị giả mạo  trong sách sử củ dưới bất cứ hình thức nào, của bất cứ thời đại nào. Lý do là vì toàn bộ sách sử cổ của Việt Nam đều đã bị đốt và thủ tiêu trong các thời kỳ “10000 năm Bắc thuộc”; các sách sử hiện có, kể cả Đại Việt sử ký, đều là sử “chép lại” dựa chủ yếu vào các nguồn sử của các thời Hán, Đường và “hậu Hán Đường” nên không thể đảm bảo tính chính xác, trung thực và đầy đủ được; thật nguy hại nếu đã có những sự thật bị xuyên tạc, thậm chí đã bị tráo đổi trong đó.  Mặc khác, cũng cần thừa nhận những khiếm khuyết trong khâu giáo dục công dân về lịch sử trong thời gian qua ở nước ta với những hậu quả “nhãn tiền” như đã được nhiều lần cảnh báo trước công luận. Thật nguy hại nếu mọi công dân đều hiểu biết sơ sài, thậm chí hiểu sai lệch về lịch sử của đất nước mình. Ví dụ khi nói mình "con rồng cháu tiên" nhưng trong lòng phân vân không biết có đúng thật không vì thấy ở Trung Quốc người ta cũng nói như vậy; không biết tại sao người Việt có các họ giống như  người Trung Quốc, không biết chắc nên thiếu tự tin  rằng Trống Đồng là bảo bối của dân tộc Việt Nam; không dám đòi quyền chủ thể của Kinh Dịch, v.v…Tương tự, trong lĩnh vực ngôn ngữ , sao ta không đặt mạnh vấn đề nghiên cứu xem tiếng Việt có chữ viết cổ? Lẽ nào dân tộc ta chỉ có chữ Hán Nôm? Có lẽ vì không biết mình là ai, nên đến ngày nay vẫn lúng túng không biết nên bảo tồn cái gì, thay thế, xoá bỏ cái gì để thực hiện "trong sáng tiếng Việt"?. Thậm chí có người cứ “vô tư” nhận mình là "con cháu" của người Trung Quốc (trong khi phía bên kia không nghĩ như vậy). Cũng cần xem xét lại một số khái niệm và quan niệm như cho rằng văn hóa Việt “bị ảnh hưởng” của văn hóa Trung Quốc là không hoàn toàn chính xác (mà thực chất đó chỉ là một sự giao thoa và ảnh hưởng qua lại); cách hiểu về nguồn gốc đạo Phật, Đạo Khổng, về Chữ Nho và  Nho Giáo cũng có nhiều điều phải bàn thêm, v.v… Chỉ khi nào hiểu đúng về nguồn gốc dân tộc và tự tin với những giá trị nhân văn riêng biệt của mình, người Việt Nam ngày nay mới thực sự tìm lại chính mình và thoát khỏi nỗi mặc cảm truyền kiếp luôn thấy yếu kém và phụ thuộc các thế lực thần bí, thần quyền của "Vương triều Phương Bắc".
             
Thay cho lời kết     
              Những lập luận trên đây chỉ là ý kiến cá nhân của người viết để nhắc lại rằng dân tộc Việt Nam có cội nguồn lâu đời với những giá trị nhân văn không thua kém các dân tộc khác. Đó là một lịch sử cần được tôn trọng bằng các chứng cứ khoa học khách quan chứ không chỉ bằng truyền thuyết; ngay cả sử sách cũng phải được kiểm chứng lại bằng các kết quả nghiên cứu khoa học nghiêm túc. Theo hướng đó, bài viết chỉ nêu lên một thực trạng tình hình đồng thời gợi ra một số việc cần làm thêm (chứ không nhằm phê phán ai hoặc nước nào) với hy vọng góp phần đem lại sự hiểu biết đúng đắn hơn về lịch sử và cội nguồn dân tộc của Việt Nam cũng như các bên liên quan khác trong khu vực, coi đó là cơ sở để đảm bảo mối quan hệ hữu nghị, bình đẳng lâu dài giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng như giữa các nước khu vực với nhau./.

Tài liệu tham khảo
-Mục Bách Việt  trong Bách khoa toàn thư mở -Wikipedia, và rất  nhiều tài liệu khác nhau được liên kết trong tài liệu này.
-Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
-Sử Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê
-Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim
-Tạp chí Xưa và Nay
-Bộ sách giáo khoa môn sử học phổ thông của Nhà XB Giáo Dục Việt Nam.
-*Công trình nghiên cứu nguồn gốc chủng tộc dựa vào gen di truyền (DNA) của M. Liu thuộc Mackay Memorial hospital và được Viện Nghiên Cứu Sức Khoẻ quốc gia của Đài Loan tài trợ chứng minh là các giống dân miền Hoa Nam, Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương có liên hệ gen di truyền khác biệt với chủng tộc Hán ở miền bắc. 
-* Sử dụng lại bản đồ của Nhóm nghiên cứu về Bách việt trên mạng internet- Nguồn: nhatnguyen.yolasite.com  Chú ý: những tên nước trong bản đồ này chỉ mang tính chất tượng trưng; trên thực tế chúng được thay đổi hoặc biến mất trong các thời kỳ lịch sử khác nhau. 

(*) Bài này đã được đăng trên TuầnVietnam:  http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-12-27-lich-su-can-su-that

Thứ Bảy, 6 tháng 8, 2011

Nói đại tướng Võ Nguyên Giáp treo chữ "nhẫn" là bịa đặt (*)

(*)Đây là tiêu đề của bài viết mới đăng trên Sài gòn tiếp thị.vn. mà chủ blog muốn đưa lại  vì nhận thấy bài viết có độ tin cậy nhất định, lại bàn về một chủ đề mà nhiều người Việt Nam đang quan tâm - đó là quan niệm thế nào cho đúng đắn về sự  kiên nhẫn, khôn khéo và mền dẽo trong qúa trình đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và  độc lập dân tộc.
    

 "Chuyện nói đại tướng treo chữ “nhẫn” là hoàn toàn bịa đặt. Đại tướng không hề treo chữ đó" - đại tá Nguyễn Huyên - người trợ lý đã gắn bó với đại tướng Võ Nguyên Giáp gần 40 năm, nói.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp - vị tướng huyền thoại của nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế sắp tròn 100 tuổi và bước sang tuổi 101, phóng viên Vietnam+ đã được gặp đại tá Nguyễn Huyên - người trợ lý đã gắn bó với đại tướng gần 40 năm để hỏi ông một số câu hỏi còn gợi băn khoăn pha chút tò mò với những người kính yêu đại tướng.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một vị tướng lỗi lạc, vậy thì cách cư xử của đại tướng có "quân sự" và rất nguyên tắc không, thưa ông?
Đại tá Nguyễn Huyên: Anh (đại tướng Võ Nguyên Giáp - PV) nghiêm túc trong công việc nhưng không cứng nhắc đâu. Anh Văn (tên thân mật của đại tướng Võ Nguyên Giáp) còn hay đùa dí dỏm nữa. Ví dụ như khi đang tập trung làm việc tôi có việc cần xin anh nghỉ 10 phút thì anh bảo: “Cho cậu nghỉ hẳn 11 phút luôn!”
Trong trường hợp gặp những ý kiến khác ý của mình thì Đại tướng có chấp nhận và chấp nhận thế nào, thưa ông?
Anh luôn thích trung thực, thẳng thắn. Anh hay dặn: “Cái gì thấy đúng thì cứ giữ ý kiến.” Đại tướng luôn lắng nghe ý kiến của mọi người, dù ý kiến đó có thể ông chưa đồng tình. Chính vì thế khi anh đến các địa phương, các ngành ở đâu có có vấn đề gì người ta cũng muốn nói với anh. Có lẽ nhờ vậy mà anh có điều kiện để phân tích tình hình một cách khách quan, toàn diện, hiểu được thực chất và tìm ra giải pháp thuận lòng người.
Xin được mạo muội hỏi ông một chuyện? Có lần phỏng vấn một cán bộ quân đội, tôi được biết chuyện đồn về đại tướng có treo chữ "nhẫn" ở chỗ làm việc là không đúng. Vậy mong ông nói rõ về việc này?
Đại tá Nguyễn Huyên: Chuyện nói đại tướng treo chữ “nhẫn” là hoàn toàn bịa đặt. Đại tướng không hề treo chữ đó. Một lần, có người yêu kính đại tướng muốn tặng anh chữ "nhẫn" thư pháp lồng trong khung kính. Trước khi tặng, anh ấy có đến hỏi tôi, tôi nói chữ “nhẫn” có hai cách hiểu.
Thứ nhất có nghĩa là kiên nhẫn, nhẫn nại nhưng cũng có nghĩa thứ hai là nhẫn nhục. Đại tướng chưa bao giờ là người chịu nhẫn nhục theo cách hiểu thứ hai. Vì vậy tặng là không nên vì có thể làm cho người ta hiểu sai lệch hoặc có kẻ xuyên tạc.

Tôi còn được biết bài thơ “Chữ Nhẫn” đã đăng lên báo nói là của đại tướng. Nhưng đại tướng không hề có bài thơ ấy và tờ báo đó đã phải đính chính. Trong bài thơ có câu “Có khi nhẫn để tiến thân” thì đại tướng của chúng ta không bao giờ như vậy.

Đại tướng là người luôn làm chủ tình hình, luôn chủ động, không bao giờ bị động, biết làm việc gì, nêu ý kiến gì, lúc nào cho đạt hiệu quả. Anh cũng là người giữ ý kiến của mình mà không gây mất đoàn kết, lại có phương pháp đấu tranh phù hợp để cuối cùng thực hiện được ý kiến đúng đắn đó và được mọi người đồng tình.
Suốt bao nhiêu năm ở bên đại tướng, ông có cảm nghĩ gì về chính mình?
Một câu hỏi có tính tổng kết quá! Được làm việc với đại tướng, bản thân tôi khi mới về làm việc giúp đại tướng chỉ là một thiếu tá, một cán bộ nghiên cứu ở cơ quan cấp dưới. Trình độ của tôi ban đầu còn hạn chế nhưng sau này và đến giờ đã mở rộng được hiểu biết, về lý luận cũng như về thực tiễn. Tôi thấy trình độ của mình được nâng lên nhiều và học được anh Văn nhiều lắm: Học được về phẩm chất đạo đức, về kiến thức và về phương pháp làm việc, về cách cư xử ở đời.

Điều sâu sắc mà anh Văn nhiều lần kể với anh em là thời kỳ đầu cách mạng, một đêm nằm ngủ với Bác Hồ trên giường làm bằng cành cây khiến người rất đau tại hang Pắc Bó, đang trao đổi công việc, bỗng dưng Bác dừng lại và nói một câu: "Chú Văn ạ! làm cách mạng là phải "dĩ công vi thượng" - nghĩa là phải lấy việc công làm trên hết, cũng có nghĩa là luôn đặt lợi ích chung lên trên hết, không cá nhân chủ nghĩa. Điều này rất có nghĩa với chúng ta hiện nay.

Là một cán bộ quân đội, tôi thấy mình thật hạnh phúc là đã có một thời gian khá dài được làm việc, gắn bó với anh Văn - một vị tướng kiệt xuất, nhân nghĩa, tài ba, luôn hết lòng vì nước vì dân.
Trân trọng cảm ơn đại tá! Chúc ông luôn mạnh khỏe!
Theo Vietnam+

--------------
*****

Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2011

Nhân chuyện "chè bẩn"


Dạo này đọc báo, xem TV...thấy toàn chuyện làm ăn dối trá, lại cũng thấy có sự giống nhau giữa lối làm ăn gian trá của người Việt và người tàu. Chẳng lẽ ảnh hưởng của "1.000 năm bắc thuộc" sâu sắc đến vậy?  

Ai cũng biết lâu nay ở Việt Nam luôn rộ lên những đợt mua vét từ phía thương lái TQ đối với các "hàng độc" xuất xứ từ  Việt Nam. Cách đây không lâu đó là móng và sừng trâu; thậm chí cả con đỉa dưới ruộng nước; rồi nhãn, vãi,...hiện tại là khoai lang, chè (trà) được sơ chế thành "chè bẩn". Mỗi lần như thế dân ta chẳng cần biết lợi hại lâu dài thế nào, và cũng quên luôn bài học của quá khứ, cứ thế nhào dzô làm mọi điều có thể, kể cả những thủ đoạn bẩn thiểu (theo đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của nó) chỉ vì một chút trước mắt. Đó là dân gian. Còn những kẻ có chức quyền thì làm ăn to hơn nhiều bằng cách đem cho thuê dài hạn (thực chất là bán rẻ) cả đất rừng, hầm mỏ, đồng ruộng... ! Nghĩ mà vừa buồn vừa cười...Và nhục nữa!      

Nghĩ kĩ thì cũng có căn nguyên của nó. Để nói về chuyện này, trước hết cứ phải khẳng định lại rằng dân tộc Việt Nam có rất nhiều ưu điểm . Nhưng cụ thể ra, trong đó, phần ưu điểm thường thấy trong chiến tranh; phần yếu điểm thường thấy trong thời bình. Nếu ai đó không muốn gọi là yếu điểm thì có thể gọi là “tác dụng phụ" (như đối với thuốc Tây vậy). Tất thảy bắt nguồn từ điều kiện đặc thù về địa lý, lịch sử, truyền thống và nhân văn của dân tộc này. Thiết nghĩ không cần nói nhiều vì đã có rất nhiều lời đàm tiếu dân gian xung quanh những yếu điểm như vậy rồi. Ở đây chỉ xin nêu ra một điểm có liên quan đến cách làm ăn vừa nói trên đây. Đó là tính “theo đuôi mù quáng và thiển cận” (tức là thấy người ta làm gì thì làm theo để mong cái lợi trước mắt, chứ không tự mình khởi sự hoặc làm khác với số đông, qua đó thường tạo nên lối hành xử theo kiểu "phong trào"). Đây là nguyên nhân của câu chuyện dở cười dở khóc về quá trình chuyển đổi sản xuất giữa các cây/con như mía-đường, cao su, café, hồ tiêu, lúa, tôm, cua, cá, ốc biêu, chim cút, gà vịt, sắt thép, xi măng, cảng biển … ! 

Lần này đến lượt cafe và chè - hai thứ đặc sản truyền thống mà ta đang rất hy vọng sẽ sớm trở thành "thương hiệu quốc gia" trên thị trường quốc tế. Giờ thì hy vọng đó đang bị đe dọa khi các quán cafe đã bắt đầu vắng khách trước thông tin về cafê pha bột ngô hoặc bất cứ thứ gì có thể...Mới đây lại có tin (và hình ảnh cụ thể rõ ràng) về "công nghệ" sản xuất chè bẩn theo quy trình cực kỳ giản đơn, tùy tiện và rất bẩn. Nghe nói người từ bên kia biên giới phía Bắc sang dạy cách làm rồi lại thu mua đem về bên í ..., còn làm gì thì không biết! Chỉ biết là dân ta đua nhau giữ lá chè lại để tự làm trong khi các nhà máy không có nguyên liệu để duy trì sản xuất. Đã xuất hiện nguy cơ phá sản cả một ngành chè và cả uy tín quốc tế đang mới được nhen nhóm của nó.

                                               Sản xuất chè bẩn tại một gia đình người dân

Không chỉ vậy. Còn nhớ cứ mỗi lần rộ lên những vụ việc như vậy thì lại có lối suy luận trong dân và giới chức rằng đó là "âm mưu thâm độc" của nước ngoài (TQ) . Nói vậy, nhưng chẳng thấy ai, kể cả các nhà chức trách , có biện pháp gì để kịp thời ngăn chặn. Cứ thế vụ việc thường kéo dài cho đến khi ngành nghề nào đó đó hay địa phương nào đó bị "sập tiệm" phải kêu cứu ...thì đã quá muộn.

Trên đây chỉ là một trong vô số những biểu hiện của những “tác dụng phụ” mà dường như luôn đeo bám dân tộc ta. Lý do thì chẳng ai, kể cả "ông nhà nước", có thể trả lời một cách rõ ràng, minh bạch, mà chỉ ầm ừ cho qua chuyện, lần não cũng không quên nhắc nhỡ "bà con đừng hám lợi..."!. Phải chăng đây cũng là một cách thể hiện tinh thần "do dân, vì dân"?  

         Cũng không khác mấy với tình hình biển Đông đang dậy sóng, trên biên giới phía Bắc người ta cũng nói "thương trường là chiến trường" nhưng chưa hề thấy phát súng nào nổ khi cần nổ. Vì sao vậy? Chẳng lẽ sau bao phen bị lừa phỉnh, cả dân tộc này vẫn chưa thực sự tĩnh ngộ và sẵn sàng muốn thoát khỏi vòng cương tỏa của Vương triều phương Bắc?   

*****

Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2011

Cảnh giác với Trung Quốc, dân chủ với dân (*)

(*) Nguyên văn bài viết của ông Nguyễn Trọng Vĩnh-cựu tướng lĩnh và từng có hơn 10 năm làm  Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại  Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa . 
Với từng ấy cương vị và thời gian công tác, tác giả không những có đầy đủ điều kiện để hiểu đúng và sâu sắc về Trung Quốc mà còn qua đó hun đúc lòng yêu nước và sự  trung thành với lý tưởng của Đảng,  nên tôi tin chắc rằng những điều ông nói ra không phải vì động cơ cá nhân hay vì sai lầm. Gần đây trước tình hình mới của đất nước ta ông lại tự nguyện dấn thân vào hoạt động thực tiễn của phong trào yêu nước bất chấp tuổi cao sức yếu . Một lão thành cách mạng như vậy thật dáng kính nể.  Trên tinh thần đó Blogger tôi xin đăng lại nguyên văn bài viết của ông dưới đây để có thêm bạn đọc.  

1. Những lời nói của Đới Bỉnh Quốc và những điều nhất trí giữa hai Thứ trưởng Việt Nam và Trung Quốc bao hàm những gì?
“Những tranh chấp biển, đảo do đàm phán song phương giải quyết không có sự can thiệp của nước thứ ba”. Song phương thì Trung Quốc có thể cậy mạnh đe dọa hoặc dỗ dành mua chuộc, thế giới không bao giờ biết được sự thật, không bao giờ giải quyết được gì vì Trung Quốc luôn kiên trì chỉ một câu “Chủ quyền đối với Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường sa) không thể tranh cãi”. “Không có gì phải đàm phán về Tây Sa (Hoàng Sa)”.
Đàm phán tập thể thì Trung Quốc thất lý. Nước thứ ba không can thiệp thì một mình Trung Quốc cậy mạnh mặc sức hoành hành ngang ngược, uy hiếp nước yếu.

Trước nay Trung Quốc đã làm rất nhiều việc sai trái, đến gây hấn, cắt cáp tàu Bình Minh 2, rồi phá hoạt động của tàu Viking II, thế mà Đới Bỉnh Quốc xoen xoét nêu: “Hòa bình ổn định là lợi ích của hai nước”. Lời nói chưa ráo mép thì 6 ngày sau tàu cá Trung Quốc dàn hàng ngang, có tàu ngư chính đứng phía sau cấm tàu cá của ngư dân ta ra hoạt động tại ngư trường vốn hành nghề lâu đời gần Hoàng Sa, đuổi ngư dân ta chạy không còn làm ăn gì được.
Câu nói đó còn hàm ý rằng Trung Quốc làm gì thì làm, nói gì thì nói, lãnh đạo Việt Nam nên im lặng để giữ “hòa bình ổn định”! Nguy hiểm hơn nữa, ông Đới còn nhấn mạnh “hai bên cần hướng dẫn dư luận ngăn ngừa những bài bình và những hành động làm tổn hại tình hữu nghị hai nước”.
Ngăn ngừa những bài bình hàm ý là yêu cầu ta bịt miệng báo chí, không được đả động đến Trung Quốc; ngăn ngừa những hành động, hàm ý yêu cầu Việt Nam cấm trấn áp biểu tình chống Trung Quốc.

2. Sao lại đàn áp những công dân yêu nước, biểu tình hòa bình phản đối Trung Quốc?
Thời Pháp còn cai trị nước ta, chúng tôi đã từng biểu tình nhiều lần, lúc thì đòi thành lập “Mặt trận dân chủ Đông Dương”, lúc thì đòi ngày làm 8 giờ, định ra mức lương tối thiểu, lúc thì đòi lập “Nghiệp đoàn”, “Hội Ái hữu”, lúc thì nghe tuyên truyền về lập “Mặt trận phản đế”.
Bọn cảnh sát, mật thám chỉ tìm cách bắt người diễn thuyết, chứ không bắt người biểu tình. Bấy giờ thường chúng chỉ tìm bắt đồng chí Đặng Xuân Khu (Trường Chinh), đồng chí Lương Khánh Thiện.
Bây giờ ở ta, công an bắt nhiều người biểu tình, thế là không bằng thời Pháp thuộc, bắt người biểu tình lại còn đánh đập dã man, làm nhục thì không khác thời Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu là mấy.
Nhìn tấm ảnh 4 người công an khiêng tay chân người bị bắt như khiêng lợn đưa lên xe buýt và tên Minh đạp nhiều cái lên mặt lên miệng người đó thì người hiền như bụt cũng phải phẫn nộ, cho là ác ôn, không còn tính người. Đương nhiên tôi cũng phẫn nộ, cũng nghĩ như thế. Sáu điều Bác Hồ dạy công an, trong đó có 2 điều: “Tự mình phải cần kiệm liêm chính” và “Đối với dân phải kính trọng, lễ phép” - bỏ hết rồi hay sao? Văn kiện, báo chí thường nêu Công an là bạn dân, báo Công An cũng nêu khẩu hiệu Công an là bạn dân, nay thực hiện ngược lại Công an là trị dân ư?
Những cuộc đàn áp biểu tình vừa qua, hẳn là đúng ý ông Đới Bỉnh Quốc.
3. Tự hào và đau lòng
Tôi là đảng viên Đảng Cộng sản do đồng chí Nguyễn Ái Quốc kính yêu sáng lập. Tôi rất tự hào, về Đảng của tôi đã lãnh đạo nhân dân lập nên nhiều kỳ tích, làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám giành lại quyền độc lập tự chủ, khiến hình ảnh Việt Nam lại xuất hiện trên bản đồ thế giới, kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, làm nên trận Điện Biên Phủ lừng lẫy 5 châu, chấn động địa cầu, buộc thực dân Pháp phải cuốn cờ về nước, đã đánh bại hơn nửa triệu quân trang bị hết sức hiện đại, kể cả B52 của siêu cường Mỹ mà từ hơn 200 năm lập quốc chưa hề biết thua ai. Đảng của tôi được các đảng anh em bè bạn ngưỡng mộ, các nước đang phát triển khâm phục, phương Tây cũng vì nể.
Tôi rất tự hào.
Giờ đây vẫn là Đảng của tôi lãnh đạo nhưng không có tự do, không được tự do tư tưởng, không được phát biểu quan điểm, ý tưởng khác với ý kiến chính thống, báo chí không dám thông tin đầy đủ, không dám nói thật, đi biểu tình yêu nước cũng ngại. Không có dân chủ, hoặc dân chủ hình thức, giả tạo, có vấn đề hàng trăm hàng ngàn người góp ý kiến cũng bỏ ngoài tai, kế hay, ý tốt không được tiếp thu, cấm nhiều hơn lắng nghe,… thậm chí để công an đàn áp trắng trợn dân biểu tình yêu nước, còn đánh đập, hành hạ tàn nhẫn và còn có nhiều việc làm khiếm nhã khác nữa khiến dân mất lòng tin, dư luận thế giới chê cười phê phán gay gắt Việt Nam.
Tôi rất đau lòng.
4. Dân là sức mạnh
Bác Hồ đã nói chí lý rằng “Dễ trăm lần không dân cũng chịu / Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Thực tế đã chứng minh, toàn dân nổi dậy mới có cách mạng tháng Tám, toàn dân kháng chiến mới thắng Pháp, thắng Mỹ.
Những việc làm quang minh chính đại, ích nước lợi dân, được dân ủng hộ chung tay góp sức thì dù có khó khăn cũng có thể vượt qua. Trái lại, những việc làm mờ ám, chỉ vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, tổn dân, hại nước, nhân dân phản đối thì trước sau gì cũng lộ ra, kết cục chẳng mấy tốt đẹp. Chính quyền thân dân, trọng dân, dân chủ với dân thì dân tin, dân gắn bó. Đối lập với dân, áp bức thì dân oán, quá đáng thì dân chống lại. “Con giun xéo lắm cũng quằn”, “Tức nước thì vỡ bờ”, “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Lẽ đời là thế.
N.T.V.
Nguồn: boxitvn.blogspot

--------------
*****

Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2011

Ai là ĐỊCH, ai là TA ?


Bức ảnh trên đây đã trở thành phổ biến trên mạng internet mấy tuần nay . Ngay cả những người thiếu thông tin nhất cũng nhận ra đó là một cú đạp chân vào mặt một người đang bị khống chế tứ chi...Những người có nhiều thông tin hơn thì biết nạn nhân là một người biểu tình  ở ngay giữa thủ đô  Hà Nội để bày tỏ sự  phản đối trước những hành động xâm lấn biển đảo Việt Nam của phía TQ trong thời gian gần đây . Cũng không khó gì để  biết thêm những chi tiết khắc, như người mặt thường phục đang đạp chân là đại úy Minh, CA Quận Hoàn Kiếm, v.v... Để nhận rõ hơn về cú đạp, bạn có thể xem đoạn video dưới đây:


Cả bức ảnh và đoạn video trên đây giờ đã nỗi  tiếng với cái tên "cú đạp vào lòng yêu nước"...Tiếc thay, điều trớ trêu là người tung ra cú đạp kia lại là một sĩ quan  "Công an Nhân dân"!... khiến dư luận  phân vân không biết  ai là ĐỊCH ai là TA nữa (?)  Nhưng lại càng đáng tiếc và đáng buồn hơn là rất nhiều người Việt Nam vẫn chưa biết gì hoặc vô cảm hoặc cố tình làm ngơ như không biết gì về sự kiện nói trên...!  Đất nước này sẽ đi về đâu khi cái ác lấn át cái thiện hoặc lẫn lộn với nhau?


*****

Thứ Tư, 20 tháng 7, 2011

Khi nói về "hệ tư tưởng" của người Việt Nam

Mới đây trong khi "lướt mạng" thấy có bài viết của tác giả Ngô Nhân Dụng trong đó cung cấp khá nhiều thông tin liên quan đến "sự thật lịch sử"- loại thông tin mà blogger tôi cũng đang truy tầm. Tác giả cũng đề cập đến chủ đề "hệ tư tưởng" của người Việt Nam với một cách nhìn khá thú vị. Vì vậy xin mạn phép  post lại nguyên văn bài viết lên blog cá nhân của mình để làm tài liệu và cũng để có thêm nhiều bạn đọc về chủ đề quan trọng này. 

Tôi chỉ xin có một lời bình như sau: 
Nếu nói "ý thức hệ" hay "hệ tư tưởng" trong phạm trù quan hệ Việt-Trung thì ngoài những gì thấy được trong thời kỳ sau CM tháng Tám 1945 đến nay ta không thể bỏ qua những tàn dư của cả thời kỳ "1.000 năm Bắc thuộc". Hay đúng ra những sai lầm của thời kỳ này cũng chỉ là do hậu quả của 1.000 năm Bắc thuộc.  Đó là  những giáo tín và thói mê tín dị đoan mà kẻ thù Phương bắc đã dày công gieo rắc trong tiềm thức người Việt trong suốt quá trình hàng ngàn năm xâm lấn và thống trị của chúng.  Hiểu như vậy sẽ công bằng hơn đối với những người cách mạng chân chính của cả hai dân tộc Viêt Nam và Trung Quốc, đồng thời để nhận diện rõ hơn rằng chủ nghĩa bành trướng Đại Hán là thủ phạm; và người Việt Nam muốn chống lại nó một cách thật sự thành công thì trước hết phải biết loại bỏ những tàn dư của mọi tín ngưỡng và giáo lý cùng với những hậu quả đã ăn sâu bám rể trong tiềm thức của mình. 

Xin đơn cử một vài ví dụ tưởng chừng "vô hại" nhưng rất tai hại: Đó là  nhiều người Việt ngày nay vẫn tin đến mức thần bí rằng người tàu có khả năng "yiểm bùa"chỗ này chỗ kia trên đất nước chúng ta, khiến dân tộc VN không thể ngóc đầu lên được (!?). Thậm chí mỗi khi có điều gì khác thường thì dân ta có xu hướng lại cho đó là do "tàu gây ra"... (!?)  Mặc khác, tuy rất thù hận đối phương nhưng người Việt từ quan chức đến thường dân ai đều ít nhiều có tâmlý "tâm phục" và "quy phục". Chẳng hạn trước vấn nạn "hàng tàu" mọi người vẫn cứ  vô tư sử dụng hàng nhập lậu các loại từ TQ , mà không có lấy một đợt vận động hẵn hoi nhằm tẩy chay , nhất là trước tình trạng khủng hoảng kinh tế và nhập siêu kéo dài như gần đây. Tinh thần thì tiêu cực, thiếu tự tin; đa số cho rằng  nếu xảy ra chiến tranh thì "ta thua tàu là cái chắc!"Lạ thay, khi nói điều này, người nói như thể tự coi mình là "vô can" vậy!  Không ít kẻ tuy nắm trong tay quyền lực nhưng bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi kẻ thù nên  thường núp dưới chiêu bài gọi là"khôn khéo", "mềm dẽo" để tránh trớ không làm đầy đủ chức năng của mình trong khi những người không có quyền hành gì thì chỉ có cách đứng ngoài chỉ trích, phê phán trong tuyệt vọng.  

Nhận thấy những sự thật trớ trêu như trên, thỉnh thỏang lại có ý kiến kêu gọi "thoát Hán" để nói lên nỗi bức bách bế tắc của dân tộc. Nhưng thực ra và đúng ra  trước hết là phải tự giải thoát chính mình thì đúng hơn. Phải chăng chung quy đều bắt nguồn từ một thói xấu phổ biến của người Việt,  đó là chỉ tỏ ra rộng lượng đối với người đã quá cố và thích ngợi ca những chiến công trong quá khứ (đôi khi chỉ là ngụy tạo) để lấp liếm sự yếu kém của hiện tại hay cái mà mình không có (?). Có người đúc kết rằng người Việt hay luyến tiếc về quá khứ, ảo vọng về tương lai, nhưng coi thường hiện tại. Có lẽ vì thế, người Việt tin rằng "sống gửi thác về"...và có lễ lạc ma chay thuộc loại "sang trọng" nhất thế giới ?

Ngày nay nhiều người đổ hết tội lỗi cho ý thức hệ CS và XHCN..., nhưng thực ra suy cho cùng tất cả đều bắt nguồn từ hậu quả của những thói hư tật xấu đã hình thành từ thời kỳ 1.000 năm Bắc thuộc! Thiết nghĩ, để thực sự ĐÁNH BẠI HẴN HOI kẻ thù Phương Bắc, người Việt Nam trước hết phải gột bỏ  cho được mọi tàn dư tư tưởng mê tín dị đoan cùng với tâm lý bị khuất phục và nỗi sợ hãi luôn ám ảnh trước kẻ thù truyền kiếp này. Không làm được điều đó, có lẽ dân tộc này sẽ chỉ mãi là đứa trẻ yếu gầy trước một big boy quen trò bắt nạt.  

Cuối cùng blogger tôi cũng muốn đưa một lại bức ảnh chụp cuộc hội đàm gần đây nhất giữa  hai vị bộ trưởng QP VN và TQ diễn ra ngay sau vụ tàu hải giám TQ cắt cáp tàu Bình Minh 2 của Việt Nam đang hoạt động sâu bên trong vùng đặc quyền kinh tế của mình . Những người theo dõi sát tin tức chắc sẽ nhận ra cái trò hề "đánh - đàm và đàm-đánh" mà phía Trung Quốc hay sử dụng để lừa phỉnh, lung lạc, thâm chí đe dọa phía Việt Nam. Ai cũng biết sau lần đàm phán  nói trên, tàu Trung Quốc lại tiếp tục cắt cáp của tàu Vikking đồng thời vẫn bắt tàu, cướp cá của dân chài Việt Nam như thường lệ.  Chỉ tiếc rằng phía Việt Nam dường như vẫn chưa nhận rõ âm mưu của đối phương. Hay đó cũng là do hậu quả một lá bùa đã yiểm nào đó, nếu không nói là một nỗi sợ hãi truyền kiếp?     


                                   
                                                 Phải độc lập về tư tưởng
                                                                Tác giả: Ngô Nhân Dụng

Ông Ðới Bỉnh Quốc, ủy viên phụ trách về đối ngoại trong Thường Vụ Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Trung Quốc có lần viết rằng nước ông không bao giờ có chính sách xâm chiếm các nước khác.
 Ðọc xong ai cũng phải bật cười. Không riêng gì người Việt Nam mà người Tây Tạng, người Uyghur, người Cao Ly (Hàn Quốc), người Mông Cổ, Mãn Châu và Ðài Loan, nếu học sử đều biết đất nước họ đã từng bị người Hán tấn công, chiếm đóng, khai thác, bóc lột rất nhiều lần. Thời gian mà nhà Ðường chiếm nước ta, đặt tên là An Nam thì họ cũng gọi tên Hàn Quốc là An Ðông. Trong các nhóm người này, hiện giờ chỉ còn những dân tộc Việt và Hàn còn đứng riêng chưa bị nuốt vào trong bụng Trung Quốc.
Cái tên Trung Quốc được dùng từ thời nhà Chu, trong sách Mạnh Tử ông nhiều lần nói đến tên này; mà trong thời Chiến Quốc ông sống thì những vùng phía Nam Trường Giang (thường gọi là sông Dương Tử) vẫn chưa thuộc Trung Quốc. Cái tên này chỉ là một danh từ địa lý chứ không phải tên một quốc gia; cho tới khi Tôn Trung Sơn lập Trung Hoa Dân Quốc nó mới thông dụng. Trước đó, để gọi tên nước Trung Hoa người ta chỉ dùng tên của các triều đại, gọi là nước Hán, nước Ðường, nước Tống, vân vân. Ông Tôn Trung Sơn người Quảng Ðông, thời xưa không thuộc vùng đất gọi là Trung Quốc. Nhưng người Tây Tạng, người Mông Cổ ngày nay không ai muốn bị gọi là người Trung Quốc.
Người Uyghur không may mắn như vậy. Họ vốn là một dân tộc hùng cường và văn minh, thuộc giống Turk. Họ cũng dũng mãnh như người Mông Cổ, đã từng làm chủ soái các bộ lạc du mục khác ở phía Bắc nước Tầu. Ðời Ðường gọi họ là Hồi Hột nhưng bị họ phản đối, đổi thành Hồi Cốt, đời Nguyên gọi là Duy Ngô Nhĩ, cho tới bây giờ. Họ đã đặt ra chữ viết riêng trước các bộ lạc du mục khác. Khi Thành Cát Tư Hãn đặt ra những đạo luật đầu tiên cho cả đế quốc Mông Cổ, ông đã phải dùng chữ Uyghur để ghi chép. Ðời Nguyên Thế Tổ, ông nhờ các vị lạt ma thông thái đặt ra một lối viết riêng, thống nhất ngôn ngữ Mông Cổ. Nhưng ngày nay, người Uyghur chịu thân phận làm một giống dân thiểu số trong tỉnh Tân Cương, lâu lâu lại nổi lên chống chính sách đồng hóa của Cộng Sản Trung Quốc và bị đàn áp tàn nhẫn.
Hai dân tộc rất dũng mãnh ở Mãn Châu và Mông Cổ đã từng xâm chiếm và thống trị nước Tầu một cách tàn bạo, nhà Nguyên kéo dài cả trăm năm, nhà Thanh gần bốn trăm năm. Hai triều đại đó đã góp công mở mang ảnh hưởng của Trung Quốc, nhà Nguyên chiếm thêm Ðại Lý và suýt nữa thì chiếm cả Việt Nam; nhà Thanh thì chiếm lấy Tây Tạng, xóa bỏ bản hiệp ước mà vua nhà Ðường công nhận Tây Tạng độc lập vào thế kỷ thứ 8. Người Mông Cổ đã chinh phục một vùng rộng lớn, kéo dài từ Cao Ly, bán đảo Sơn Ðông, qua các nước Hồi Giáo ở Trung Á, cho tới sông Volga, Kiev (Ukraina bây giờ), tới tận Hungary, Ba Lan, về phía Nam tiến xuống tới Syria, trước khi diệt nhà Tống chiếm nước Tầu. Khi Kublai, thường gọi là Nguyên Thế Tổ, chuyển kinh đô của ông từ Karakurum về Bắc Kinh vì thế lực của ông ở cố đô không mạnh bằng người anh họ, ông ta đã mở đầu một quá trình tự đồng hóa, biến người Mông Cổ thành người Trung Quốc, mặc dù trong triều đình ông chỉ dùng các vị thượng thư gốc Mông Cổ, hoặc người Tây Tạng, Uyghur, Á Rập, Thổ, tuyệt nhiên không dùng người Trung Hoa. Người Mông Cổ còn may mắn giữ được một mảnh đất ngoài xa, đất đai khí hậu người Trung Hoa không chịu nổi, bây giờ mang tên nước Mông Cổ. Còn người Mãn Châu thì hoàn toàn bị đồng hóa.
Trung Quốc không phải là một dân tộc. Trên căn bản, đó là một đế quốc, bao gồm rất nhiều dân tộc. Mỗi lần uy quyền trung ương tan rã, các mảnh đất thuộc Trung Quốc hoặc bị các đế quốc khác chiếm, hoặc tự tuyên bố lập thành quốc gia riêng. Vì không có ý thức dân tộc, ít nhất cho tới thời Dân Quốc, người dân Trung Hoa có thể chịu sống dưới các chính quyền ngoại quốc, như những thời Nam Bắc Triều kéo dài nhiều thế kỷ mà miền Bắc do các giống dân từ phương Bắc kéo xuống cai trị, hoặc thuộc vào nước Liêu (từ Mãn Châu), nước Kim, đế quốc Mông Cổ, hoặc triều đình Mãn Thanh,vân vân.
Ngay bây giờ, nhiều người dân ở Quảng Ðông vẫn nuôi lòng hoài cổ, muốn nghiên cứu để xác nhận và phục hồi một nền văn hóa Nam Việt, nhất là sau khi người ta tìm ra ngôi mộ của vị vua nước Nam Việt thấy cái ấn tín viết Văn Ðế Hành Tỷ. Tức là ông vua, cháu nội Triệu Ðà, vẫn tự xưng mình là Ðế, mặc dù trong sử Tầu viết rằng ông đã chịu thần phục hoàng đế nhà Hán, chịu nhận chỉ phong Vương mà thôi. Trong ngôi mộ này, ngoài cái triện đó người ta không thấy chữ Hán, các hình trang trí cũng khác hẳn lối người Hán ở phương Bắc. Tới thế kỷ thứ 10, người Quảng Ðông vẫn lập ra một nước riêng, gọi là Nam Hán, đã từng nuôi mộng độc lập. Tỉnh Vân Nam cho tới thế kỷ thứ 12 vẫn là một quốc gia độc lập, trước gọi là Nam Chiếu, sau họ Ðoàn đổi tên là Ðại Lý; cho tới khi Kublai, một cháu nội của Thành Cát Tư Hãn sai quân Mông Cổ đánh chiếm và đặt quan cai trị. Chưa đầy một ngàn năm, bây giờ thì những người dân Quảng Ðông, Quảng Tây và Vân Nam tự nhận họ là người Trung Quốc mà không thắc mắc gì cả.
Chúng ta phải tự hỏi tại sao đế quốc Mông Cổ đã từng hùng mạnh và rộng lớn như vậy mà lại tàn tạ sau một trăm năm, còn đế quốc Trung Hoa tồn tại cho tới bây giờ? Nền tảng tồn tại của đế quốc đó chính là nền văn minh Trung Hoa. Cũng vậy, đế quốc Hồi Giáo thành hình từ thế kỷ thứ 7, mặc dù bây giờ đã tan rã nhưng vẫn còn để lại một nền văn minh Hồi Giáo kéo dài từ Bắc Phi sang tới Indonesia. Văn minh Hồi Giáo dựa trên một tín ngưỡng. Văn minh Trung Hoa dựa trên cách tổ chức xã hội, gồm một nền luân lý (Khổng Giáo) và một chế độ chính trị tập quyền do Tần Thủy Hoàng thiết lập. Từ đời Hán, tuy các triều đại vẫn bài xích Tần Thủy Hoàng nhưng trong thực tế họ vẫn sử dụng các thuật trị quốc của Pháp Gia (Nội Nho, Ngoại Pháp, hoặc nói ngược lại cũng được!) Ðế quốc Mông Cổ chấp nhận tất cả các tôn giáo. Ðạo luật của Thành Cát Tư Hãn lập ra cho một xã hội du mục, không đủ để duy trì trật tự trong đám dân định cư, phương tiện giao thông thô sơ không đủ để nối liền những vùng đất kéo dài từ Âu sang Á. Ðến đời các cháu nội của Thành Cát Tư Hãn thì đã có một người cải theo đạo Hồi và liên kết với đạo quân Ai Cập chống lại anh em mình, một người khác tự biến thành người Trung Hoa để sử dụng phương pháp cai trị của họ! Cuối cùng, một đế quốc hùng mạnh như Mông Cổ mà biến mất chỉ vì đã tự đồng hóa trước một nền văn minh vững chắc!
Sống hơn hai ngàn năm bên cạnh một nước lớn với lịch sử bành trướng dữ tợn như Trung Quốc, dân tộc Việt Nam (cũng như dân Cao Ly) vẫn còn tồn tại, đó là một hiện tượng lạ, đáng ngạc nhiên. Người Việt Nam có thể tự hào, họ là những người học trò của văn minh Trung Hoa, nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc mình. Trong đó, quan trọng nhất là những đặc tính phóng khoáng, trọng cá nhân và tôn trọng quyền bình đẳng của phụ nữ, những đặc tính văn hóa của các dân tộc phát xuất từ các đảo phía Nam. Người Việt Nam tồn tại cũng nhờ giữ được tiếng nói riêng, với văn phạm khác tiếng Tầu, và xã hội Việt Nam dựa trên làng xã khác với bên Tầu dựa trên các gia tộc.
Trong lịch sử, các vị vua Việt Nam thường chịu thần phục vua Tầu, nghĩa là tự nhận là phận dưới, không dám tranh giành ngôi vị (danh xưng hoàng đế) với các ông vua Tầu ở Biện Kinh hoặc Nam Kinh (đời Tống) hay Bắc Kinh (đời Nguyên). Nhưng ngoài những việc cống tiến giống như các nước nhỏ khác ở chung quanh nước Tầu, vua nước Nam vẫn không chịu khuất phục. Người Mông Cồ thường bắt vua các nước nhỏ trong đế quốc của họ phải tới triều bái hoàng đế nhà Nguyên, nhưng các vị vua nhà Trần đã từ chối. Có lúc Trần Nhân Tôn ngỏ ý muốn chấp nhận điều kiện đó để dân chúng khỏi bị họa binh đao, nhưng các vị tướng như Trần Hưng Ðạo đã phản đối, với câu nói nổi tiếng: Xin chém đầu tôi trước đã! Cuối cùng nhà Nguyên cũng phải thôi. Cùng thời gian đó, vua Miến Ðiện cũng từ chối không gửi con sang Bắc Kinh, và nước họ cũng bị xâm lăng ba lần đẫm máu, như nước ta.
Mặc dù ông Ðới Bỉnh Quốc ba hoa nói nước ông không nuôi tham vọng bá chủ bao giờ, hiện nay Trung Quốc đang chèn ép nước Việt Nam một cách có tính toán. Họ coi cả vùng Biển Ðông của nước ta là ao nhà của họ, cho tầu hải giám, ngư chính đi giám sát, tuần tiễu giống như cho cảnh sát đi tuần trên đường phố của nước Việt Nam!
Người Việt Nam chắc chắn không chịu cảnh làm nô lệ. Trung Quốc vin vào lá thư của ông Phạm Văn Ðồng gửi ông Chu Ân Lai năm 1958 để coi các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về họ, kể cả các vùng biển chung quanh! Ðối với bất cứ nước nhỏ nào ở bên cạnh Trung Quốc, chỉ đợi chính quyền nước đó theo đuổi những chính sách sai lầm là người Trung Quốc nhân dịp đè nén. Mối sai lầm lớn nhất là từ khi đảng Cộng Sản Việt Nam chấp nhận “tư tưởng Mao Trạch Ðông” làm đường lối chỉ đạo quốc gia, rồi sau đó thi hành các chính sách giống hệt như Cộng Sản Trung Quốc, từ chỉnh huấn đến cải cách ruộng đất, cho tới cả chế độ lao cải; rồi sau lại tính đem chủ nghĩa cộng sản với tư tưởng Mao Trạch Ðông bành trướng trong khắp vùng Ðông Nam Á. Trong các thứ nô lệ, không gì nguy hiểm bằng nô lệ tư tưởng. Nếu người cầm quyền ở nước ta còn tiếp tục bắt chước “mô hình Trung Quốc” trong việc phát triển quốc gia, thì tình trạng nô lệ về tư tưởng sẽ còn trầm trọng hơn nữa.
Muốn giữ nền độc lập, trước hết phải độc lập về tư tưởng. Trên thế giới hiện nay, mô thức phát triển có hiệu quả và mang lại hạnh phúc cao nhất cho người dân là lối tổ chức xã hội theo các quy tắc dân chủ tự do, về kinh tế cũng như chính trị. Ðối với người Việt Nam, đi theo con đường đó không những là tìm con đường phát triển hữu hiệu nhất mà còn là con đường duy nhất để bảo vệ độc lập dân tộc đối với nước láng giềng phía Bắc.


Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này