Thứ Ba, 27 tháng 11, 2012

Trung Quốc vĩnh biệt Mác- Lê- Mao

Xin  mạn phép lưu bài này trên trang chủ Bách Việt  để làm tư liệu, không nhất thiết coi đây là thể hiện quan điểm cá nhân.  

Lời đề từ trích của Tân Tử Lăng: (“Văn trị” của Mao thật hồ đồ. Ông ta đã phá hoại một thế giới cũ, nhưng lại không xây dựng nổi một thế giới mới. Mao muốn đưa mọi người lên thiên đường, song lại đẩy họ xuống địa ngục…Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Mác và Ăng-ghen đề xướng trở thành một phong trào xã hội chủ nghĩa bạo lực trương ngọn cờ giải phóng giai cấp công nhân để phá huỷ lực lượng sản xuất tiên tiến. ..“chủ nghĩa xã hội khoa học” trở thành “chủ nghĩa xã hội bạo lực”, khiến mấy thế hệ những người cộng sản bao gồm Lenin, Stalin Mao Trạch Đông… lầm đường lạc lối…)…( trích trong cuốn “Mao Trạch Đông – ngàn năm công tội” của đại tá quân giải phóng nhân dân Trung Quốc Tân Tử Lăng được in công khai tại Trung Quốc, Thông Tấn xã Việt Nam dịch và xuất bản năm 2009)
————————————————


Đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 vừa qua là đại hội vĩnh biệt ba ông tổ của chủ nghĩa xã hội (không tưởng): Marx, Lenin, Mao Trạch Đông.Trong tất cả các văn kiện chính thức của đại hội này, không hề nhắc đến ba tên tuổi từng được cho là vĩ đại của Marx, Lenin, Mao, được tôn thờ ở Trung Quốc (và thờ ở Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Cămpuchia của Khờ me đỏ…). Các văn kiện của đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 đều khẳng định: Đảng đi theo lý luận Đặng Tiểu Bình, nguyên tắc “ba đại diện” (của Giang Trạch Dân…nhưng tên ông này không được nhắc đến- chú của TMH) và xã hội học tập (thuyết của Hồ Cẩm Đào-nhưng tên ông này không được nhắc đến- chú TMH). Đến diễn văn bế mạc của tân chủ tịch đảng, chủ tịch nước kiêm người đứng đầu quân ủy trung ương Tập Cận Bình thì mệnh đề “xã hội học tập” của Hồ Cẩm Đào không được nhắc đến, chỉ nhắc đảng cộng sản Trung Quốc đi theo lý luận Đặng Tiểu Bình, nguyên tắc “ ba đại diện” mà thôi. Thậm chí, sau diễn văn bế mạc và nhậm chức, Tập Cận Bình khi giới thiệu sáu vị trong thường vụ bộ chính trị đứng sau mình đã tránh dùng từ “đồng chí” mà dùng từ “đồng nghiệp”…
Vậy lý luận Đặng Tiểu Bình là gì? Thưa là thuyết “Mèo luận”: nôm na gói trong mấy từ mà họ Đặng đã phán sau khi Mao chết ( 1976) : “Mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột”…Diễn nôm thuyết “Mèo luận” của Đặng là : tên gọi chế độ là xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa không quan trọng, miễn là chủ nghĩa nào làm cho Trung Quốc thoát khỏi chết đói, thoát đại loạn, thoát khỏi các học thuyết phản động và tồi tệ rất xấu xa đốn mạt của Mao Trạch Đông. Sau khi cùng Diệp Kiếm Anh, Hoa Quốc Phong và các lão tướng dẹp bỏ bè lũ bốn tên, Đặng Tiểu Bình lập thuyết “Mèo luận” : dương ngọn cờ Mao Trạch Đông để xóa bỏ tư tưởng Mao, dương ngọn cờ chủ nghĩa xã hội để dẹp bỏ chủ nghĩa xã hội, đưa nước Trung Hoa đỏ vào quỹ đạo tư bản chủ nghĩa từ năm 1978. Về thực chất, Đảng cộng sản Trung Quốc dưới lý thuyết thực dụng “Mèo luận” nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình, đã chôn vùi chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Mao Trạch Đông ngay từ năm 1978, năm xóa bỏ kinh tế quốc doanh bao cấp để thực thi kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nhưng vẫn còn dùng chiêu bài Mác-Lê-Mao hay chiêu bài “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc” để ngụy trang.
Cù Thu Bạch (1899-1935) một nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc, từng là Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc năm 1927, 1928, 1930,1931 (là một trong ba người được cho là thiểu năng trí tuệ đã ngu ngốc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin vào Trung Quốc : Trần Độc Tú “1879-1942”, Lý Đại Chiêu “1888-1927”) thuở sinh thời đã có bài thơ rất lạ, tuồng như là lời sấm về số phận của Đảng Cộng sản Trung Quốc như sau:
Đó là bài thơ “A di đà Phật”: một bài thơ đẫm chất Thiền của họ Cù:
阿弥陀佛
不用论断,
不用操心;
无知的寻求,
愚昧的评论。
日间之伤,
请以梦治;
明日之日,
自然能至。…
A di đà phật (Người dịch: Lương Duy Thứ, Nam Trân)
“Đừng suy đoán
Đừng bận tâm
Tìm chi cái không biết
Bàn chi cái tối tăm
Vết thương trong ngày
Lấy mộng ban đêm hàn gắn
Ngày của ngày mai
Tự nhiên sẽ đến …”
Con đường hũ nút đi tìm thế giới không có thật của giai cấp vô sản bằng vũ lực đấu tranh giai cấp, chuyên chế vô sản, xóa bỏ hoàn toàn quá khứ ( lịch sử) nhân loại, xóa bỏ tư hữu, tiêu diệt tư bản đầy máu và nước mắt của các đảng cộng sản theo Mác Lê nin ( và theo Mao) đúng như câu thơ sấm truyền của Cù Thu Bạch tiên sinh: “Tìm chi cái không biết/ Bàn chi cái tối tăm/ Vết thương ban ngày/ Lấy mộng ban đêm hàn gắn”.
Mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản là thiên đường không có thật trên trần gian: một xã hội phi biện chứng (Hegel đã truyền cho Marx cái ý tưởng ngu ngốc nhất của mình: đến thiên đường cộng sản, phép biện chứng sẽ biến mất); cái ác, cái xấu, cái giả trá của con người hoàn toàn biến mất, con người hóa những ông thánh, bà thánh, không cần làm việc, chỉ cần ngồi hưởng thụ: “làm theo năng lực, hưởng theo như cầu”. Năng lực có hạn, còn nhu cầu của con người thì vô biên.
Đại đồng cộng sản là một xã hội không có nhà nước, không có quốc gia, không có gia đình, không có chính quyền, không có pháp luật, không có tòa án, không có quân đội, công an, đảng phái, không tôn giáo, không hôn nhân, không có đau khổ , không cô đơn, không có ngân hàng, không có cá nhân, không có cái tôi; ra đường không biết bà ấy, cô ấy là vợ tôi hay vợ anh vì quyền sở hữu bị xóa bỏ; xe hơi, nhà cửa đẹp sang trọng là thế nhưng không còn khái niệm của anh hay của tôi mà là sở hữu toàn dân; tất cả tư liệu sản xuất và công cụ sản xuất là sở hữu toàn dân; rồi thì vợ chồng toàn dân, con cái toàn dân, tình nhân toàn dân, cười vui toàn dân, làm tình toàn dân, cực khoái toàn dân, không còn cái gì gọi là riêng tư nữa; vì đây là xã hội của các vị thánh mà, hoàn toàn không có quan niệm sở hữu, không còn biện chứng tự nhiên và xã hội, chỉ có ngày mà không có đêm, chỉ có cười mà không có khóc, chỉ có vui mà không có buồn, chỉ có sống mà không có chết, chỉ có dương mà không có âm, chỉ có ăn mà không có ỉa ( xin lỗi vì lúc đó theo Marx, lịch sử loài người dừng lại trong cái tuyệt đối, mọi sự hôi thối quyết không được phép tồn tại, tất cả đều thơm điếc mũi kể cả đồng chí bọ xít, phép tương đối của Alb. Einstein đã cáo chung, phép biện chứng đã biến mất theo Hegel-Marx)…
Anh và chị cũng không còn được sở hữu chính mình: anh và chị, tức cái tôi của mỗi người, cái cá thể đã biến mất, nên anh và chị đều là sở hữu toàn dân. Có người cắc cớ chợt ngứa miệng hỏi anh: cái bàn tay của anh có phải của anh không? – Không, của toàn dân! Cái đầu của anh có phải của anh không? – Không, của toàn dân ! Cái ý nghĩ ( tư duy) trong đầu anh có phải của anh không? –Không, của toàn dân! Cái con chim trong quần anh có phải của anh không?- Không, của toàn dân!
Đã bảo đến đại đồng cộng sản không còn khái niệm sở hữu, tư hữu nữa mà, hỏi hoài à! Từ “của” không còn tồn tại, từ “sở hữu”, từ “cá nhân”, từ “cái tôi” hoàn toàn biến mất, biến mất cả “sở hữu động từ, sở hữu danh từ” trong các thứ tiếng châu Âu…Người ta cũng sẽ không còn đọc nổi cuốn “ Tư bản luận” của Marx nữa vì lúc đó các sở hữu động từ, sở hữu danh từ trong tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Anh …nơi cuốn sách này đều tự động biến mất…
Xã hội thiên đường cộng sản của Mác Lê Mao là một xã hội bánh vẽ, một xã hội phi nhân như thế, lếu láo như thế, bịa đặt tức cười đến con nít cũng không tin nổi như thế mà trời ơi, đã có hàng triệu, thậm chí hàng tỉ người tin theo, hay bị bắt buộc phải tin theo, vì các đồng chí vô sản sẽ nện búa lên đầu anh, lấy liềm quặp vào cổ anh và hét lên: mày không tin vào thuyết cộng sản của chúng tao, chúng tao sẽ giết mày.
Chao ôi, chỉ có những người mất trí mới tin vào mục tiêu hoang tưởng của chủ nghĩa cộng sản, một học thuyết “tối tăm” như bài thơ trên đã chỉ ra, một học thuyết hoàn toàn phi nhân đã giết chết hàng nhiều trăm triệu người trên thế giới như báo chí quốc tế mà tác giả cuốn “ Mao Trạch Đông ngàn năm cộng tội” là Tân Tử Lăng đã dẫn chứng trong sách của mình :
History’s Largest Killing Regimes
(Những chế độ giết người khủng khiếp nhất trong lịch sử):
Communist China 80,000,000
Soviet Union 60,000,000
Nazi Germany 20,000,000
Imperial Japan 5,000,000
Communist Vietnam 2,500,000
Communist North Korea 2,500,000
Communist Cambodia 2,000,000
Communist Yugoslavia 2,000,000
Chúng tôi xin trích một số đoạn trong cuốn “Mao Trạch Đông – nghìn năm công tội” của đại tá Tân Tử Lăng được in công khai tại Trung Quốc, bản Tiếng Việt do “ Thông tấn xã Việt Nam” dịch và xuất bản năm 2009, có bày bán công khai :
“Chính sách Đại nhảy vọt) trong kinh tế đã để lại những hậu quả tai hại. Mao Trạch Đông cũng là người phát động Đại Cách mạng văn hóa vô sản, thường gọi là Cách mạng văn hóa. Theo một số liệu thống kê[1], Mao Trạch Đông là nhà lãnh đạo đã trực tiếp hay gián tiếp gây ra cái chết cho 77.000.000 người, và người đứng thứ hai là Iosif Vissarionovich Stalin với 43.000.000 người.[2]
Cuốn “Mao Trạch Đông ngàn năm công tội” do nhà xuất bản Thư Tác Phường ấn hành, ra mắt tại Hồng Công tháng 7-2007 và tới bạn đọc tháng 6-2008, là một trong những cuốn sách đang được dư luận Trung Quốc hết sức quan tâm, với những luồng ý kiến nhận xét trái ngược nhau, từ hoan nghênh đến bất đồng, thậm chí phản đối gay gắt.
Tác gia Tân Tử Lăng nguyên là cán bộ nghiên cứu và giảng dạy tại Học viện quân sự cấp cao, Đại học Quân chính, Đại học Quốc phòng Trung Quốc. Ông nhập ngũ năm 1950, từng tham gia các phong trào chính trị do Mao phát động, về hưu năm 1994 với quân hàm Đại tá.
Chúng tôi xin trích một số đoạn trong tác phẩm trên để bạn đọc thấy rõ “thiên đường xã hội chủ nghĩa thực ra là địa ngục trần gian” như sau:
“Kinh điển để Mao cải tạo xã hội chủ yếu là “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”. Tư tường chủ nghĩa xã hội không tưởng của “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” kết hợp với quan điểm “đại đồng” của Trung Quốc hình thành mô hình chủ nghĩa xã hội không tưởng Mao Trạch Đông. Sự phát triển của nó là Mác + Tần Thuỷ Hoàng (lời Mao Trạch Đông), thêm thắt nhiều thứ mang tính chất phong kiến, cuối cùng biến chất thành chủ nghĩa xã hội phong kiến.
“Chương 9
Địa ngục văn chương lớn nhất trong lịch sử loài người”:
“Đến khi Lý phản ánh ý kiến của La Long Cơ rằng ở Trung Quốc hiện nay “tiểu trí thức của chủ nghĩa Mác-Lenin lãnh đạo đại trí thức của giai cấp tiểu tư sản, người mù chỉ đường người sáng mắt”, thì Mao nổi giận dữ dội.”
“Theo thống kê chính thức, trong cuộc đấu tranh này, có 552.877 trí thức bị qui là phái hữu, bị đầy đoạ trong 20 năm trời. Đến khi sửa sai (1980), chỉ có 96 người thật sự là phái hữu, chiếm 1,8 phần vạn, nghĩa là trong 1 vạn người chưa đến 2 người.”
“Mao nói: “Phải chuyên chế. Không thể chỉ nói đến dân chủ. Phải kết hợp giữa Các Mác và Tần Thuỷ Hoàng”
“Chương 18
Địa ngục trần gian” :
“Trong 4 năm sau khi Mao tuyên bố thực hiện một số lý tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng (tháng 9-1959) Trung Quốc đã xảy ra thảm kịch làm 37,55 triệu người chết đói (số liệu chính thức được giải mật theo quyết định của Bộ chính trị ĐCSTQ tháng 9-2005), nhiều hơn cả số người chết trong Chiến tranh thế giới II. Đây là cuộc thử nghiệm chủ nghĩa xã hội không tưởng thời gian dài nhất, quy mô lớn nhât, thiệt hại thảm khốc nhất trong lịch sử loài người. Thiên đường cộng sản chủ nghĩa do chính Mao thiết kế và lãnh đạo xây dựng đã biến thành địa ngục trần gian.”
“Khi chân lý trong tay, Mao có thể bao dung các đối thủ, đoàn kết phe phản đối. Thường khi Mao đuối lý, phát hiện mình sai rồi, thì ông ta không thể bao dung phái phản đối, mà quyết tâm đẩy họ vào chỗ chết, để trừ hậu hoạ. Đó là lý do vì sao Mao tàn bạo đến tận cùng đối với những người bạn cũ như Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài, Hạ Long, Bành Chân, Đào Chú…”
“Chưa một nhà thống trị nào có thể lợi dụng học sinh làm điều xấu. Chỉ có Mao Trạch Đông làm nổi việc này. Mao đã lợi dụng học sinh làm rối loạn cả xã hội, lật đổ cơ quan đảng và chính quyền các cấp, mượn bàn tay học sinh để giày vò các bạn chiến đấu hôm qua, đối thủ chính trị hôm nay.”
Khởi đầu bằng việc đập phá tượng Thích ca mâu ni trên Phật Hương Các ở Di Hoà Viên, Hồng vệ binh đã phá hoại 4.922 trong số 6.843 di tích cổ ở Bắc Kinh. Theo thống kê chưa đầy đủ, cả nước có 10 triệu nhà bị lục soát, trong đó Bắc Kinh 11,4 vạn, Thượng Hải 10 vạn. Nhà riêng nguyên Bộ trưởng Giao thông Chương Bá Quân bị Hồng vệ binh chiếm làm trụ sở, hàng vạn cuốn sách ông lưu trữ bị chúng đốt suốt ngày đêm để sưởi ấm. Hơn 200 sinh viên Đại học Sư phạm Bắc Kinh kéo về Sơn Đông “san bằng” mộ Khổng Tử. Lăng mộ của nhiều nhân vật lịch sử hoặc danh nhân như lăng Viêm đế, mộ Hạng Vũ, Gia Cát Lượng. Thành Cát Tư Hãn, Chu Nguyên Chương, Ngô Thừa Ân, Từ Bi Hồng… bị đập phá.”
“Mao còn tạo ra cuộc khủng bố đỏ, cho Hồng vệ binh nông dân thả sức giết hại “kẻ xấu” (địa chủ, phú nông, phản cách mạng, phái hữu, nhà tư bản, xã hội đen) để áp chế sự phản kháng của nhân dân. Chỉ riêng hạ tuần tháng 8-1966, nội thành Bắc Kinh đã có hàng ngàn người bị đập chết tươi.”
“Nhiều người khi ấy đã được chứng kiến những cuộc tắm máu, những kiểu giết người cực kỳ man rợ như thời trung cổ. Ôn lại chuyện trên, cựu Hồng vệ binh Trần Hướng Dương sau này viết:
“Vì sao những đứa trẻ mười mấy tuổi đầu lại dã man giết người không chớp mắt như vậy? Vì từ nhỏ đã được giáo dục hận thù. Thù địa chủ, thù nhà tư bản, thù Quốc Dân Đảng: Trả thù bằng thủ đoạn tàn nhẫn là thiên kinh địa nghĩa, vấn đề duy nhất là không biết chĩa vào đâu. Kè thù bên cạnh đã bị các bậc tiền bối quét sạch rồi, còn lại Tưởng Giới Thạch và đế quốc lại ở quá xa, không với tới được. Đại cách mạng văn hoá vừa nổ ra, mới đột nhiên biết quanh mình còn ẩn náu nhiều kẻ thù, chúng tôi vui mừng đến phát cuồng, bao nhiêu sức lực dồn nén dều bung ra. Sự cuồng loạn ấy chẳng những hiện nay không mấy ai tin, mà ngay bản thân chúng tôi nhớ lại cũng không dám tin nữa. Những việc làm xấu xa của Hồng vệ binh thật đáng nguyền rủa, nhưng chúng tôi cũng có đủ tư cách lớn tiếng hỏi lại: ai đã giáo dục chúng tôi thành những thằng điên?”
“Băc Kinh “nêu gương”, những vụ tàn sát lan ra cả nước. Huyện Đạo ở Hồ Nam là một trong những điển hình. Khắp nơi là những bố cáo giết người của “toà án tối cao bần nông và trung nông lớp dưới”, những khẩu hiệu kêu gọi giết sạch 4 loại người, (địa chủ, phú nông, phản cách mạng, phái hữu, trí thức, nhà văn, nghệ sĩ…).”
“Trong hai tháng 7 và 8 năm 1967, Quan Hữu Chí, Trưởng ban vũ trang khu Thanh Đường đã chỉ huy dân quân dùng cuốc xẻng, súng bắn chim, gậy gộc giết hại 207 người, kể cả trẻ em. Do công lao trên, y được bầu là “phần tử tích cực học tập và vận dụng tư tường Mao” cấp tỉnh năm 1967. Viên Phủ Lễ, Khu trưởng Lâm Phô tổ chức 120 dân quân nòng cốt trong ba ngày giết 569 người.”
“Trần Đăng Nghĩa, Chủ tịch Hội Bần nông Đại đội sản xuất Hạ Tưởng là thủ phạm chính trong một vụ giết người, cưỡng dâm tập thể. Thấy vợ mới cưới của con em địa chủ Trần Cao Tiêu xinh đẹp, y sinh lòng ghen ghét và sớm có ý đồ bất lương, thì nay thời cơ đến. Tối 26-8-1967. Nghĩa cho gọi Tiêu đến trụ sở đại đội và trói nghiến lại. Y cầm giáo đâm một nhát vào dùi anh Tiêu, rồi khoát tay ra hiệu. 7,8 dân quân xông vào dùng gậy đập anh Tiêu chết tươi. Để chứng tỏ mình “kiên quyết cách mạng”, y dùng mã tấu cắt đầu anh Tiêu, cùng hai con em địa chủ, phú nông khác cũng vừa bị đánh chết. Chị Tiêu (xuất thân bần nông) sợ quá trốn về nhà mẹ đẻ ở làng khác, Nghĩa cho dân quân bắt chị trở lại, y tuyên bố các nơi khác vợ địa chủ đều phải “phục vụ tập thể bần nông”.
“Sau khi cơm no, rượu say, Chủ tịch Hội Bần nông và dân quân, tất cả 12 tên, luân phiên cưỡng hiếp chị Tiêu khi ấy đang mang thai 3 tháng. Xong xuôi. Nghĩa không quên thực hiện “chính sách của ĐCSTQ”: cho dân quân khiêng nạn nhân đã ngất xỉu đến nhà bần nông Trần Nguyệt Cao, buộc chị làm vợ người nông dân già độc thân này.”
“Tối 17-10-1969, Lưu Thiếu Kỳ hơi thở thoi thóp, mũi cắm ống xông, họng gần ống hút đờm, phủ một tấm chăn, được cáng lên máy bay quân sự, bí mật đưa đến Khai Phong. Nơi cuối cùng giam giữ Lưu Thiếu Kỳ này nguyên là kho bạc của một ngân hàng từ trước năm 1949, các cánh cửa là những tấm thép dày, chấn song cửa sổ to đùng. Hai trung đội được cử canh giữ ngày đêm, với 4 khẩu súng máy đặt trên các nóc nhà xung quanh đề phòng bất trắc.”
“6 giờ 40 phút sáng 12-11-1969, ngày thứ 27 sau khi bị đưa đến lưu đày ở Khai Phong, Lưu Thiếu Kỳ qua đời trong tinh trạng không được cấp cứu. Khi Lý Thái Hoà, vệ sĩ của ông năm xưa đến nhận xác, thi hài vị Chủ tịch nước đặt trên nền đất dưới gian hầm, chân tay khẳng khiu, đầu tóc rối bời, miệng mũi méo xệch, máu ứ bên khoé mép. Người vệ sĩ dùng kéo xén bớt mái tóc bạc dài gần hai gang tay, sửa sang chòm râu, mặc quần áo, xỏ giày cho ông. Nhân viên chuyên án chụp ảnh để mang về trình Mao, Giang. Sau đó, họ đặt thi hài Lưu Thiếu Kỳ trên xe quân sự nhỏ, chân thò ra ngoài, bí mật đưa đi hoả táng, dưới cái tên “Lưu Vệ Hoàng, không nghề nghiệp”.”
“Gần 3 năm sau, ngày 16-8-1972, mấy người con của Lưu Thiếu Kỳ xin thăm cha mẹ, Mao Trạch Đông phê vào báo cáo của Tổ chuyên án: “Bố đã chết, có thể thăm mẹ”.”
“Lịch sử phải ghi bằng dòng chữ to đậm: Mao Trạch Đông chà đạp Hiến pháp nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, giam cầm trái phép Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ (và hàng trăm hàng ngàn cán bộ cao cấp khác, hàng vạn, hàng chục vạn đảng viên quần chúng vô tội) và bức hại Người và các đồng chí khác của Người một cách man rợ cho đến chết.”
“sai lầm của Mao làm chết đói 37,55 triệu người. Một lãnh tụ đảng luôn miệng nói giải phóng nhân dân, phục vụ nhân dân, mang lại hạnh phúc cho nhân dân phạm tội ác lớn như vậy, mà lại cự tuyệt nhận sai lầm, không từ chức, lại phát động Đại cách mạng văn hoá, cách chức, đánh đổ, thậm chí dồn vào chỗ chết khoảng trên 80% đảng viên cộng sản chính trực”
“37,55 triệu người chết đói là sự thật lịch sử không gì bác nổi chứng minh rằng lý luận và thực tiễn chủ nghĩa xã hội không tưởng của Mao là chủ nghĩa xã hội giả hiệu phản động nhất, tàn khốc nhất trong lịch sử loài người. Mỗi khi nghĩ đến điều này, Mao rùng mình ớn lạnh.”
“những lý luận của Mao như phòng, chống xét lại, ngăn chặn chủ nghĩa tư bản phục hồi, tiếp tục cách mạng dưới nền chuyên chính vô sản… đều trở thành dối trá, bịp bợm.”
“Mao Trạch Đông những năm cuối đời tâm địa tối tăm, giả dối, xảo trá, vừa không từ bất cứ việc làm xấu xa nào, lại muốn để lại tiếng thơm muôn thuở”
“Ngồi trên đỉnh kim tự tháp tác oai tác quái, bức hại cán bộ lãnh đạo các cấp, lừa bịp toàn đảng, toàn quân, toàn dân, không chỉ là tứ nhân bang” (lũ bốn tên), mà là “ngũ nhân bang”, do Mao Trạch Đông làm bang chủ.”
“Ba năm Đại tiến vọt, cả nước có 37,55 triệu người chết đói tồn thất khoảng 120 tỉ NDT. Mười năm Đại
cách mạng văn hoá, theo Diệp Kiếm Anh tiết lộ tại lễ bế mạc Hội nghị công tác Trung ương ngày 13-12-1978, có 20 triệu người chết, 100 triệu người bị đấu tố, lãng phí 800 tỉ NDT.”
“Nhân dân đã thức tỉnh. Việc tiếp tục treo ảnh Mao trên Thiên an môn, tiếp tục để thi hài Mao ở nhà kỷ niệm là lạc hậu so với quần chúng rồi, cần xử lý thỏa đáng đất nước ta triệt để bóng đen Mao Trạch Đông”
Nhà báo kiêm nhà sử học Dương Kế Thằng (Yang Jisheng) đã bỏ ra 15 năm trời thu thập chứng cứ để viết ra tác phẩm «Bia mộ», tài liệu đầy đủ nhất từ trước đến nay về nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Sách đã được tái bản đến lần thứ tư tại Hồng Kông.
«Cuốn sách này là bia mộ cho cha tôi, bị chết đói vào năm 1959, bia mộ cho 36 triệu người dân Trung Quốc nạn nhân của trận đói, bia mộ cho chế độ đã gây ra thảm kịch này ». Tác giả đã viết như trên trong lời nói đầu của bản dịch tiếng Pháp vừa được nhà xuất bản Seuil phát hành tại Paris ngày 13/09/2012.
Sinh năm 1940, Dương Kế Thằng từng là phóng viên kỳ cựu của Tân Hoa Xã, và hiện nay là Phó tổng biên tập tạp chí Viêm Hoàng Xuân Thu (Yanhuang Chunqiu). Mười lăm năm điều tra trên thực địa, với hàng ngàn trang tài liệu tìm được ở địa phương và rất nhiều nhân chứng, tác giả đã thuật lại sự điên cuồng của việc cưỡng bức tập thể hóa, lên án Mao Trạch Đông là bạo chúa tàn ác nhất, vô nhân đạo nhất trong lịch sử Trung Quôc và lích sử thế giới, vượt xa các bạo chúa khác như Tần Thủy Hoàng, Thành Cát tư hãn, Stalin, Hit le…
Viết đến đây, chúng tôi ngậm ngùi thương đất nước mình, dân tộc mình hình như trong quá khứ đầu thế kỷ hai mươi đến nay không còn người thông tuệ, sáng suốt đưa dân tộc, đất nước thoát khỏi những tà thuyết đã gây nên hàng triệu cái chết cho đồng bào, gây đau khổ tang tóc vô cùng tận cho quê hương ta. Xin quý vị độc giả cùng chúng tôi đọc lại nguyên lý dưới đây trong cương lĩnh của đảng Lao động Việt Nam trong đại hội đảng năm 1951 tại Việt Bắc để biết đất nước ta vì sao nên nỗi :
“Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Ǎngghen – Lênin – Xtalin và tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng”
Người viết bài này xin trích lời của Tân Tử Lăng- tác giả sách vừa dẫn để kết thúc bài viết:
“Phải tiến hành một cuộc chuyển đổi ý thức hệ sâu sắc, tuyên bố công khai và rõ ràng trước toàn đảng, toàn dân: từ bỏ những giáo điều “tả” khuynh từ Mác, Ăng-ghen, Lenin, Stalin đến Mao Trạch Đông – những lý luận đã mấy chục năm đưa Trung Quốc vào con đường sai lầm, đem lại cho Trung Quốc nghèo nàn, rối loạn và chuyên chế, đến nay vẫn cản trở và phủ định công cuộc cải cách-mở cửa…Đổi tên ĐCSTQ thành Đảng Dân chủ Xã hội, tham gia Quốc tế xã hội, để kế tục cội nguồn lịch sử của Đảng Dân chủ Xã hội…” ( tức Quốc tế 2, tiền thân của các đảng xã hội, công đảng châu Âu bây giờ và một phần đảng dân chủ Mỹ- Chú của TMH).
Đảng cộng sản Trung Quốc trong đại hội lần thứ 18 vừa qua, đã thực hiện mơ ước của Tân Tử Lăng là vĩnh biệt ba ông tổ : Marx-Lê-Mao. Có lẽ đến đại hội thứ 19, đảng cộng sản Trung Quốc mới đổi tên là Đảng Dân chủ xã hội như mơ ước của Tân Tử Lăng chăng?
Hi vọng truyền thống bắt chước đảng cộng sản Trung Quốc của đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn được tiếp tục, để bỏ tên hai ông kễnh Marx-Lenin ra khỏi cương lĩnh chính trị của mình mà tự do hóa, dân chủ hóa đất nước Việt Nam đang từng ngày bị bá quyền Trung Quốc xâm lược từ tư tưởng chính trị đến đất đai biển trời Tổ Quốc; mong lắm thay!
Sài Gòn 24-11-2012
© Trần Mạnh Hảo
© Đàn Chim Việt

Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2012

Biển Đông lại nóng sau Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 21

Từ 15 đến 20/11/2012 tại Pnom Pênh đã diễn ra Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 21 và các hoạt động trong khuôn khổ Hội nghị, trong đó có Hội nghị Đông Á (EAS) hội tụ đầy đủ các cường quốc thế giới. Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần này diễn ra ngay sau khi cường quốc số 1- Mỹ vừa tái cử Tổng thống Obama và cường quốc số 2-Trung Quốc vừa kết thúc đại hội đảng với việc chọn Tổng Bí thư mới Tập Cận Bình, trong khi cường quốc số 3-Nhật Bản đang thâm hụt thương mại nghiêm trong do hậu quả của cuộc tranh chấp biển đảo với Trung Quốc.

Mục đích chính của Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN bàn về tiến trình nhất thể hóa kinh tế ASEAN vào năm 2015, nhưng nội dung quan tâm thực sự vẫn là vấn đề Biển Đông. Và vấn đề Biển Đông lại một lần nữa nóng lêntrong khi nội bộ ASEAN tiếp tục phân hóa chia rẽ trước thđoạn "chia đ trị" ráo riết của Bắc Kinh. Trên thực tế ASEAN đang chia thành 3 nhóm nước:

a) Nhóm Camphuchia, Lào, Myanma và Thái Lan là những nước không không có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc, có xu hướng chạy theo lợi ích kinh tế trước sự mồi chài hậu hĩnh tBắc Kinh. Riêng Pnom Penh đã dấn sâu vào con đương câu kết với Bắc Kinh, biểu hiện ở việc một lần nữa lợi dụng tư cách nước ch nhà tuyên bố "ASEAN đồng thuận không nêu vấn đề Biển Đông"... Philipine buộc phải lên tiếng phản bác gay gắt, Việt Nam lặng lphản đối.

b) Nhóm gồm Singapore, Indonesia tuy giáp Biển Đông nhưng không có tranh chấp với Trung Quốc. Hai nước này cũng cho thấy ý đồ trục lợi thông qua việc đảm nhận vai trò trung gian hòa giải, nhưng bản thân tránh nêu công khai lại còn tìm cách ngăn cản các bên khác nêu vấn đề Biển Đông không muốn chọc giận Trung Quốc.

c) Nhóm các nước có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc gồm Việt Nam, Philipine, Malaysia và Brunei. Các nước này đều nằm trong phạm vi "đường lưỡi bò" nên ít nhiều dtìm thấy tiếng nói liên quan đến giải pháp Biển Đông, nhưng mức độ có khác nhau . Trong một biểu hiện đáng khích lệ, theo sáng kiến của Philipine bốn nước này dự định sẽ họp riêng rẽ về vấn đề Biển Đông trong tháng 12 tới. Nếu dự định này thành công sẽ tạo ra một kênh đàm phán thực chất và góp phần phá bỏ thế bế tắc lâu nay.

Bên cạnh những thành công là những hạn chế của Hội nghị, đặc biệt xung quanh vấn đề Biển Đông, trong đó lập trường của Bắc Kinh không hề thay đổi, thái độ không hề nao núng. Sự chia rẽ trong nội bộ ASEAN đã bộc lộ, chỉ còn lại Philipine và Việt Nam trên tuyến đầu trong cuộc đối đầu với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán. Đó là một kết cục trớ trêu nhưng hoàn toàn dẽ hiểu trong lịch sử hình thành các quốc gia Đông Nam Á với tính cách phổ biến đã được đúc kết trong ca dao tục ngkhu vưc là "Đèn nhà ai ấy rạng" và "Nước đến chân mới nhảy".... Đó chính là gót chân Asin của ASEAN. Và điểm yếu này đang bộc ltrước ma lực của đồng Nhân dân tkhiến mt nhà ngoại giao châu Á tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN 21 đã nhận xét: “Một số nước dễ bị lung lay bởi tiền bạc. Nếu nhìn thấy tiền, họ có thể dễ dàng vứt bỏ những nguyên tắc ”.

Về phần mình, Trung Quốc sau khi đã ngụy tạo cái gọi là "Thành phố Tam Sa" đặt trụ stại quần đảo Hoàng Sa nhưng cai quản cả vùng biển Đông bao gồm cả bãi san hô Scarborough của Philipine và xuống quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đây là xảo thuật  biến không thành có nhằm tạo thế đứng chân trên thực địa như một sự đã rồi chuẩn bị cho những cuộc đàm phán trong tương lai khi không thể trì hoãn thêm nữa. Đồng thời, sau quá trình kiên trì với các thủ đoạn "chia để trị", Bắc Kinh giờ đây đã thò được cái chân sói vào chiếc chăn ASEAN qua lỗ thủng Campuchia - nước vừa được đính thân Thủ tướng Ôn Gia Bảo tặng danh hiệu "hình mẫu quan hệ láng giềng" ngay trong dịp Hội nghị Thượng đỉnh lần này. Liệu những lỗ thủng tiếp theo là nước nào chắc không khó để suy đoán. Điều đã rõ là, đến nay Bắc Kinh đã khống chế được Cămpuchia, chi phối Lào và ảnh hưởng với mức độ khác nhau đối với các nước khác, tổng cộng ít  nhất cũng quá nửa tổng số thành viên của khối ASEAN. Chiêu bài của Bắc Kinh vẫn chỉ là "cây gậy và củ cà rốt" vốn đã quá quen thuộc của chủ nghĩa thực dân.



Một số diễn biến khác rất đáng lưu ý. Đó là, bất chấp mọi lý lẽ đầy sức thuyết phục bác bỏ đòi hỏi chủ quyền vô lý của phía Trung Quốc được các học giả quốc tế đưa ra tại cuộc Hội thảo Biển Đông lần thứ 4 diễn ra đồng thời với Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 21, THX ngày 21/11 đã phát đi một bài bình luận sặc mùi hiếu chiến sô vanh nước lớn với những lời lẽ áp đặt chủ quan nhằm chia rẽ, cô lập Việt Nam và Philipine.  

Sau khi đổ lỗi cho Việt Nam và Philipine, bài bình luận này kết luận: “Thật là thiếu khôn ngoan khi nêu lên vấn đề tranh chấp trên Biển Nam Trung Hoa tại Hội nghị Thượng đỉnh Ðông Á. Tuy nhiên Philippines và Việt Nam đã gây chi phối hội nghị bằng việc nhấn mạnh đến những tranh chấp này tại hội nghị thượng đỉnh một cách dai dẳng. Trong khi nước chủ tịch luân phiên ASEAN là Campuchia trong một cuộc họp hôm thứ Hai nói rằng khối 10 nước thành viên ASEAN đồng ý không ‘quốc tế hóa’ các tranh chấp này, thì Tổng thống Philippines Aquino lại bất chấp những nguyên tắc ngoại giao cơ bản và thẳng thừng trách cứ Thủ tướng Hun Sen của nước chủ nhà hội nghị.”

Vẫn với thủ thuật "gắp lửa bỏ tay người" bài bình luận viết tiếp: “Việc Philippines và Việt Nam bất chấp những nguyên tắc ngoại giao hình như bị tác động bởi lòng tham trữ lượng dầu khí, và nguồn hải sản dồi dào trên Biển Nam Trung Hoa”. Cả Việt Nam và Philippines đều “chơi con bài kêu gào để tìm sự giúp đỡ từ các nước bên ngoài khu vực, mà cụ thể là Hoa Kỳ trong cái gọi là "Chiến lược Trục xoáy Á Châu”...."Việt Nam và Philippines muốn mượn tay Hoa Kỳ để gây sức ép với Trung Quốc tại hội nghị thượng đỉnh có sự tham dự của Tổng thống Barack Obama.”

Hình lưởi bò được in chìm ở  từng trang của hộ chiếu TQ (ảnh CTV)
Được biết trước đó không lâu Bắc Kinh đã lặng lẽ  tung ra một mẫu hộ chiếu mới có in hình "đường lưởi bò" như một tiểu xảo góp phần khẳng định đòi hỏi chủ quyền Biển Đông vốn đã bị dư luận rộng rãi bác bỏ. Xem thêm tin mi nhận được tại đây
http://tuoitre.vn/The-gioi/521899/Them-mot-hanh-dong-tham-doc-cua-Trung-Quoc.html  
Những động thái trên đây cho thấy thái độ cố chấp đầy ngạo mạn của các thế lực bành trướng bá quyền Đại Hán được sự chđạo ttrung ương. Điều này cho thấy nhà cầm quyền Trung Quốc không hề có ý định đàm phán nghiêm túc dù chỉ là song phương trước khi hđạt được âm mưu "biến không thành có" và tạo dựng những chứng cứ giải tạo cần thiết. Thế giới không nên ảo tưởng vào thiện chí đàm phán hòa bình từ phía Bắc Kinh, trái lại cần đề phòng nguy cơ chiến tranh nóng do chính hgây ra để thôn tính nốt những vùng biển đảo đang thuộc quyền kiểm soát của các nước khác. Đđạt mục tiêu đc chiếm Biển Đông Trung Quốc sẽ không nề hà mọi thđoạn bất chấp công lý quốc tế. 

Thực tế gần đây cho thấy Mỹ tuy đã khẳng định chủ trương "xoay trục" trở lại khu vực Đông Nam Á và Châu Ấ -TBD, nhưng lại bị rơi vào thế "lực bất tòng tâm" trong bi cảnh khủng hoảng kinh tế-tài chính kéo dài và tình hình bất ổn rộ lên tại Trung Đông. Tình thế dường buộc Mphải thay đổi nếp tư duy đơn cực sang lưỡng cực và chấp nhận chia sẻ quyền lực với cường quốc số 2. Có thđó là lý do tại sao dự luận đã nhận thấy "sự trầm lặng của Obama" trong chuyến công du Đông Nam Á vừa qua dù đó là hoạt động đầu tiên ngay sau khi tái đắc c của mình. 

Riêng trường hợp Nhật Bản tuy nằm ngoài Biển Đông nhưng là "người trong cuộc" nếu xét về bản chất của vấn đề Biển Đông. Với vị trí kế cận Biển Đông và là một cường quốc kinh tế hàng đầu, Nhật Bản đã và đang sử dụng tuyến hàng hải xuyên Biển Đông như một huyết mạnh chủ yếu. Hơn nữa cuộc tranh chấp tại Biển Đông có liên quan mật thiết với cuộc tranh chấp tại Biển Hoa Đông. Do đó, Nhật Bản là đồng minh tự nhiên của các quốc gia ven Biển Đông và ASEAN nói chung.  

Có lẽ chỉ trường hợp nước Nga đang cho thấy một sự chuyển động mới. Sau thời kỳ dài sao nhãng hoặc đứng ngoài cuộc trong vấn đề Biển Đông, Nga bắt đầu quan tâm với ý định trở lại khu vực, chí ít để tránh bmất phần trong miếng bánh giữa các cường quốc. Tuy nhiên lập trường cụ thcủa Nga vẫn còn là một ẩn số. 


Tóm lại, điểm mới trong cục diện vấn đề Biển Đông sau Hội nghị thượng đĩnh ASEAN 21 cho thấy ở hai khía cạnh. Một là sự phân hóa ngày càng rõ trong nội bASEAN giữa một bên là các nưc thành viên bđe dọa bởi đòi hỏi chủ quyền thái quá của Trung Quốc và một bên là những nước thành viên tcảm thấy chưa bđe dọa và lại có cơ hội hưởng lợi từ sự ve vãn của Trung Quốc. Hai là xu hướng tái hiện một chu kỳ mới của sự tranh giành ảnh hưởng giữa  tất cả các cường quốc như đã từng xảy ra trong quá trình chiến tranh lạnh, có lẽ chỉ khác ở chỗ bãi chiến trường giđây là toàn bộ Biển Đông, bao gồm ccác quốc gia ven biển, chứ không phải trên đất liền Việt Nam và Đông Dương như trước đây.

Phải chăng diễn biến tình hình và quá trình tìm kiếm giải pháp cho vấn đề Biển Đông đến nay khiến ta phải nghiêm túc xem xét lại vai trò vị trí của khối ASEAN cùng với các cơ chế ARF, ASEAN+ (?). Nhìn lại quá trình chậm chạp từ DOC sang COC trong 10 năm qua có thể thấy sự hạn chế đến mức bất lực của ASEAN trong giải quyết tranh chấp với Trung Quốc. Những kỳ vọng vào squay lại khu vực của Mỹ cũng tắt dần. Một kết cục "bùng n" nào đó ngõ hầu có thể ngăn chặn tham vọng của chủ nghĩa bành trướng bá quyền cũng khó diễn ra. Chỉ có sự vô lý ngày càng hiện rõ khi một mình Trung Quốc có thể quyết định tiến trình giải pháp từ chi tiết đến tổng th, thậm chí bóp méo cả những khái niệm thông thường trong luật lvà ứng xử quốc tế, như niệm đa phương/song phương, khái niệm bình đẳng giữa các quốc gia, v.v...; ngay c Công ước Luật Biển 82 cũng bị thách thức! Thời gian càng trôi đi lợi thế càng thuộc về Trung Quốc, và "chúng ta không còn nhiều thời gian nữa" đúng như nhận xét của  nhà nghiên cứu Đông Nam kỳ cu Carlyle A. Thayer mới đây . Chẳng lẽ cộng đồng quốc tế lại c khoanh tay đứng nhìn một nước lớn  nuốt chng cả vùng biển vốn đã từ lâu thuộc chủ quyền của nhiều quốc gia Đông Nam Á ? Chẳng lẽ những giá trcông lý cơ bản nhất mà loài người đã khókhăn lắmmới giành được lại có thể d dàng bị một cường quốc mới trỗi dậy ngang nhiên chà đạp?             

Thứ Tư, 21 tháng 11, 2012

BT Ngoại giao Phạm Bình Minh nói về HN CC ASEAN 21

Nguồn: TTXVN 20/11/2012





Ngày 20/11, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh đã trả lời phỏng vấn báo chí về các kết quả chính của Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 21 và các hội nghị cấp cao liên quan.

TTXVN trân trọng giới thiệu bài trả lời phỏng vấn:

- Xin Bộ trưởng cho biết trọng tâm của Hội nghị Cấp cao ASEAN-21 và các hội nghị cấp cao liên quan?

Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh: Từ ngày 18-20/11/2012 tại Phnom Penh đã diễn ra Hội nghị Cấp cao ASEAN 21 và một loạt Hội nghị Cấp cao quan trọng khác gồm Cấp cao ASEAN+3, Cấp cao Đông Á (EAS) lần thứ 7, các Cấp cao ASEAN+1 với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, và Hoa Kỳ.

Bên lề các hội nghị cũng diễn ra Đối thoại toàn cầu ASEAN và cuộc gặp của các nhà lãnh đạo bảy nước thành viên Cấp cao Đông Á tham gia Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP). Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam tham dự các Hội nghị.

Trong bối cảnh khu vực đang có nhiều thuận lợi cho hòa bình và hợp tác phát triển nhưng cũng gặp không ít khó khăn, phức tạp, các Hội nghị Cấp cao lần này đã tập trung bàn về những vấn đề ưu tiên và quan trọng nhất của khu vực, nhất là việc bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực; đẩy mạnh xây dựng Cộng đồng ASEAN; tăng cường quan hệ với các Đối tác; thúc đẩy mạnh mẽ liên kết và kết nối khu vực, cũng như trao đổi về các vấn đề khu vực và quốc tế quan tâm...

- Xin Bộ trưởng cho biết những kết quả chính của các Hội nghị Cấp cao?

Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Lãnh đạo các nước ASEAN và các Đối tác đã có những cuộc trao đổi sâu sắc, đề ra các định hướng lớn cho hợp tác ASEAN, cũng như giữa ASEAN với các Đối tác, trong đó nổi lên:

- Thứ nhất, Lãnh đạo các nước ASEAN quyết tâm đẩy mạnh hơn nữa hiện thực hóa Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 nhằm hoàn thành đúng tiến độ và các chỉ tiêu đề ra trong từng trụ cột Cộng đồng, nhất là trụ cột Kinh tế.

Theo đó, ASEAN cần tập trung thúc đẩy phát triển đồng đều và bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển ở khu vực, hướng tới đưa ASEAN trở thành một thị trường duy nhất và một không gian sản xuất thống nhất, có sức cạnh tranh cao và ngày càng hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Các nhà lãnh đạo cũng chỉ đạo việc đẩy mạnh liên kết và kết nối ở khu vực, trước hết là trong ASEAN rồi mở rộng ra khu vực Đông Á. Để góp phần đạt được điều này, cùng với nỗ lực của các chính phủ, cần tăng cường huy động sự đóng góp từ khu vực tư nhân, doanh nghiệp, cũng như từ các Đối tác và các tổ chức tài chính quốc tế.

- Thứ hai, Lãnh đạo các nước ASEAN khẳng định cần tiếp túc phát huy vai trò chủ đạo của ASEAN trong việc bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định, an ninh và phát triển ở khu vực, cũng như trong cấu trúc hợp tác khu vực và định hướng xử lý các vấn đề thuộc quan tâm chung ở khu vực, vì lợi ích chung của hòa bình, hợp tác và phát triển. Do đó, ASEAN cần chủ động xây dựng các chuẩn mực ứng xử chung và phát huy tác dụng của các công cụ hợp tác chính trị-an ninh ở khu vực như Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), Hiệp ước khu vực ĐNA không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), Tuyên bố Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông, Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+)…

Trong quá trình trao đổi, các nhà lãnh đạo của các nước đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông vì đây là lợi ích và quan tâm chung của khu vực và tất cả các nước; đồng thời ủng hộ DOC, Tuyên bố Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông và sớm xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); tôn trọng luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển 1982 của LHQ.

Đáng chú ý, nhân dịp này, Lãnh đạo các nước ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí thông qua Tuyên bố chung kỷ niệm 10 năm DOC; trong đó nhấn mạnh giá trị quan trọng của DOC và việc thực hiện đầy đủ các nguyên tắc, quy định trong văn kiện này, vì hòa bình, ổn định và an ninh ở Biển Đông.

- Thứ ba, ASEAN và các Đối tác đã bàn và đề ra các biện pháp nhằm tiếp tục tăng cường và làm sâu sắc quan hệ giữa hai bên, khuyến khích các Đối tác tham gia hợp tác và đóng góp xây dựng vào hợp tác ở khu vực, vì các mục tiêu chung là hòa bình, ổn định và phát triển, thiết thực hỗ trợ ASEAN xây dựng Cộng đồng và tăng cường liên kết, ứng phó hiệu quả với các thách thức đang đặt ra. Các Đối tác đều khẳng định ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN, hỗ trợ xây dựng Cộng đồng và tăng cường hợp tác trong giải quyết các vấn đề ở khu vực cũng như trong các khuôn khổ ASEAN+1, ASEAN+3, EAS, ARF, ADMM+…

Các Đối tác cũng đưa ra nhiều sáng kiến hợp tác cụ thể như Đối tác Hợp tác Biển và Diễn đàn Hợp tác du lịch ASEAN-Trung Quốc; Nhật Bản đề xuất các sáng kiến mới về hợp tác giao thông-vận tải, sử dụng năng lượng xanh, hợp tác lao động; Hàn Quốc cam kết hỗ trợ 10 triệu USD cho ASEAN thực hiện Sáng kiến liên kết IAI giai đoạn 2013-2017; Ấn Độ đề xuất nâng quan hệ ASEAN-Ấn Độ lên đối tác chiến lược; Hoa Kỳ đề xuất sáng kiến Gắn kết Kinh tế Mở rộng ASEAN-Hoa Kỳ (E3), “Đối tác toàn diện về tương lai năng lượng bền vững” và các sáng kiến về hợp tác phát triển Tiểu vùng Mekong…

Các Hội nghị Cấp cao đã thành công tốt đẹp, thông qua nhiều văn bản hợp tác quan trọng của ASEAN cũng như giữa ASEAN với các Đối tác. Đáng chú ý, Lãnh đạo các nước ASEAN đã ký “Tuyên bố Phnom Penh thông qua Tuyên bố Nhân quyền ASEAN;" thông qua Kế hoạch Hành động triển khai Tuyên bố Bali về “Cộng đồng ASEAN trong Cộng đồng các Quốc gia toàn cầu;” chính thức công bố lập Viện nghiên cứu Hòa bình-Hòa giải ASEAN (AIPR); ASEAN và các Đối tác liên quan chính thức khởi động đàm phán Đối tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEP); Tuyên bố chung ASEAN-Trung Quốc kỷ niệm 10 năm Tuyên bố DOC; Tuyên bố chung Cấp cao ASEAN-Mỹ về thúc đẩy hợp tác giữa hai bên và hướng tới quan hệ Đối tác chiến lược; Tuyên bố Kỷ niệm 15 năm hợp tác ASEAN+3; Tuyên bố Đối tác Kết nối ASEAN+3, Tuyên bố Phnôm Pênh về Sáng kiến Phát triển EAS…

Cũng nhân Hội nghị Cấp cao ASEAN 21, Lãnh đạo các nước ASEAN đã chính thức phê duyệt và bổ nhiệm đề cử nhân sự của Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Lê Lương Minh, vào cương vị Tổng Thư ký ASEAN với nhiệm kỳ sẽ bắt đầu từ năm 2013-2017.

- Xin Bộ trưởng cho biết sự tham gia và đóng góp của Việt Nam vào thành công của các Hội nghị Cấp cao?

Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Đoàn Việt Nam tham dự các Hội nghị Cấp cao lần này do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu đã tiếp tục phương châm đóng góp "chủ động, tích cực và có trách nhiệm" vào các mục tiêu chung nêu trên và các trọng tâm ưu tiên của ASEAN và khu vực.

Cụ thể là: - Chúng ta luôn coi trọng và tích cực đóng góp vào việc tăng cường vai trò và hợp tác ASEAN, cũng như xây dựng ASEAN đoàn kết, liên kết và vững mạnh, mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác, vì hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển ở khu vực.

- Chúng ta đã tích cực đóng góp vào việc đẩy mạnh xây dựng Cộng đồng ASEAN, liên kết và kết nối khu vực; thúc đẩy phát triển bền vững và đồng đều của khu vực đi đôi với bảo vệ môi trường, đảm bảo an sinh xã hội; tích cực quảng bá và giáo dục về ASEAN; khuyến khích các Đối tác, các tổ chức khu vực và quốc tế hỗ trợ ASEAN xây dựng Cộng đồng.

- Chúng ta ủng hộ và đề cao việc ASEAN tiếp tục phát huy vai trò chủ đạo trong cấu trúc hợp tác khu vực và trong việc thúc đẩy hòa bình, an ninh và phát triển ở khu vực, đoàn kết có tiếng nói và xử lý hiệu quả các vấn đề nảy sinh và các thách thức đặt ra ở khu vực. Đồng thời, ASEAN cần tiếp tục chủ động xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực ứng xử, phát huy hiệu quả các văn kiện nền tảng của ASEAN như Hiến chương ASEAN, Hiệp ước TAC, SEANWFZ, Tuyên bố DOC, Tuyên bố Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông…

Chúng ta đồng tình với quan điểm chung của ASEAN về vấn đề Biển Đông và nhấn mạnh tầm quan trọng của hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn hàng hải; ủng hộ các bên liên quan thực hiện đầy đủ và hiệu quả DOC, Tuyên bố về Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN và sớm xây dựng COC; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc của luật pháp quốc tế và Công ước Luật biển của LHQ 1982 (UNCLOS), trong đó có các quy định của Công ước về tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia ven biển.

- Về quan hệ đối ngoại, chúng ta ủng hộ ASEAN tiếp tục mở rộng và làm sâu sắc quan hệ với các Đối tác, tạo môi trường thuận lợi và tăng cường tranh thủ nguồn lực cho tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN; chủ động định hướng hợp tác chung ở khu vực và thúc đẩy các Đối tác tiếp tục triển khai hiệu quả các chương trình hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, thu hẹp khoảng cách phát triển, khoa học công nghệ, bảo đảm sử dụng bền vững nguồn nước.

Mặt khác, ASEAN và các Đối tác cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác về các vấn đề an ninh phi truyền thống và các thách thức đang nổi lên như thiên tai, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, an ninh an toàn hàng hải, tội phạm xuyên quốc gia…; đóng góp vào các mục tiêu chung vì hòa bình, ổn định, an ninh và phát triển ở khu vực.

- Bên lề các Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cũng đã có nhiều cuộc tiếp xúc song phương để trao đổi về tăng cường hợp tác cũng như các vấn đề cùng quan tâm.

Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!/.

--------------

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này