Thứ Ba, 21 tháng 8, 2012

Giông tố đang kéo đến Biển Đông


Tất cả các nước Đông Á đang chờ đợi xem Mỹ đáp trả lại sự hiếu chiến của Trung Quốc như thế nào
Tác giả: James Webb/ Wall Street Journal, ngày 20/8/2012
Người dịch: Dương Lệ Chi

Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, mặc dù chiến tranh bùng nổ ở Triều Tiên và Việt Nam gây tốn kém, nhưng Hoa Kỳ đã chứng minh là nước bảo đảm sự ổn định cần thiết trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, ngay cả khi  sức mạnh chuyển dịch từ Nhật Bản sang Liên Xô và gần đây nhất là sang Trung Quốc. Những lợi ích của việc tham gia của chúng ta là một trong những câu chuyện thành công lớn của lịch sử nước Mỹ và lịch sử châu Á, cung cấp cho các nước được gọi là ‘bậc hai’ trong khu vực có cơ hội phát triển về mặt kinh tế và trưởng thành về mặt chính trị.
Khi khu vực này phát triển thịnh vượng hơn, vấn đề [tranh chấp] chủ quyền đã trở nên dữ dội hơn. Trong hai năm qua, Nhật Bản và Trung Quốc đã đụng độ công khai ở quần đảo Senkaku, phía đông Đài Loan và phía tây Okinawa, mà sự quản lý [quần đảo này] được quốc tế công nhận là dưới quyền kiểm soát của Nhật Bản. Nga và Nam Triều Tiên đã tái khẳng định tuyên bố chủ quyền chống lại Nhật Bản ở vùng biển phía Bắc. Cả Trung Quốc và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Brunei và Malaysia, tất cả các nước này đều tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Trường Sa, nơi tiếp diễn các cuộc đối đầu giữa Trung Quốc và Philippines.
Các tranh chấp như thế không chỉ liên quan đến thể diện lịch sử mà còn là các vấn đề quan trọng như vận chuyển thương mại, quyền đánh bắt cá và các hợp đồng khai thác khoáng sản có khả năng sinh lợi ở các vùng biển bao quanh các quần đảo hàng ngàn dặm. Không nơi nào mà căng thẳng gia tăng rõ ràng hơn là các tranh chấp ngày càng trở nên thù địch ở Biển Đông.
Ngày 21 tháng 6, Quốc Vụ viện Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập một khu hành chính mới có tên là Tam Sa, với trụ sở chính đặt tại đảo Phú Lâm (Woody Island), thuộc quần đảo Hoàng Sa. Được Trung Quốc gọi là đảo Vĩnh Hưng (Yongxing), đảo Phú Lâm không có dân bản địa và không có nguồn cung cấp nước tự nhiên, nhưng có một đường băng có khả năng quân sự, bưu điện, ngân hàng, cửa hàng tạp hóa và một bệnh viện.
Quần đảo Hoàng Sa cách Hải Nam hơn 200 dặm về phía đông nam, đảo Hải Nam là lãnh thổ cực nam của Trung Quốc đại lục, và cách phía đông bờ biển miền trung của Việt Nam một khoảng cách như thế. Việt Nam kiên quyết đòi chủ quyền trên các nhóm đảo, nơi xảy ra một trận chiến hồi năm 1974, khi Trung Quốc tấn công quần đảo Hoàng Sa để xua đuổi những người lính thuộc chế độ cũ của miền Nam, Việt Nam (VNCH – ND).
Các xung đột tiềm tàng bắt nguồn từ việc Trung Quốc thành lập khu hành chính mới này, đã vượt quá xa khỏi quần đảo Hoàng Sa. Trong sáu tuần qua, Trung Quốc tuyên bố thêm rằng quyền tài phán của Tam Sa không chỉ gồm quần đảo Hoàng Sa, mà là hầu hết toàn bộ Biển Đông, kết nối một loạt các tuyên bố lãnh thổ của Trung Quốc bằng một quy định hành chính. Theo Tân Hoa Xã, hãng tin chính thức của Trung Quốc, cơ quan hành chính mới này “quản lý hơn 200 đảo nhỏ” và “2 triệu km vuông biển”. Để củng cố sự thôn tính này, 45 nhà lập pháp đã được bổ nhiệm để quản lý khoảng 1.000 người dân trên các hòn đảo này, cùng với 15 ủy viên Ban Thường vụ, cộng với một thị trưởng và một phó thị trưởng.
Những hành động chính trị này trùng hợp với sự mở rộng quân sự và kinh tế. Ngày 22 tháng 7, Quân uỷ Trung ương của Trung Quốc đã thông báo rằng, họ sẽ triển khai một đơn vị binh lính đồn trú để bảo vệ các hòn đảo trong khu vực. Ngày 31 tháng 7, họ đã công bố một chính sách mới về “tuần tra đều đặn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu” ở Biển Đông. Và Trung Quốc hiện đã bắt đầu cung cấp quyền khai thác dầu khí tại các địa điểm được cộng đồng quốc tế công nhận là vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Vì tất cả các mục đích thực tế này, Trung Quốc đã đơn phương quyết định sáp nhập một khu vực mở rộng về phía đông từ các lục địa Đông Á xa tới tận Philippines, và về phía nam xa gần như tới eo biển Malacca. “Quận” mới của Trung Quốc lớn gần gấp đôi đất đai của tất cả các nước Việt Nam, Nam Triều Tiên, Nhật Bản và Philippines cộng lại. “Các nhà lập pháp” của họ sẽ trực tiếp báo cáo với chính quyền trung ương.
Phản ứng của Mỹ là im lặng. Bộ Ngoại giao chờ tới ngày 3 tháng 8 trước khi bày tỏ mối quan ngại chính thức về việc “nâng cấp hành chính… và thành lập một đơn vị đồn trú quân sự mới” của Trung Quốc trong các khu vực tranh chấp. Tuyên bố trên được diễn đạt một cách cẩn thận trong bối cảnh các chính sách lâu dài là kêu gọi giải quyết các vấn đề chủ quyền theo quy định của luật pháp quốc tế và không có việc sử dụng sức mạnh quân sự.
Mặc dù chỉ nói như vậy, nhưng chính phủ Trung Quốc đã phản ứng một cách giận dữ, cảnh báo rằng các viên chức Bộ Ngoại giao đã “lầm lẫn giữa đúng và sai, và gửi một thông điệp sai lầm nghiêm trọng“. Nhân Dân Nhật Báo, trong một bài đăng tải gần như chính thức [quan điểm của chính phủ Trung Quốc], đã cáo buộc Mỹ “thổi bùng ngọn lửa và là bộ phận kích động, cố tình tạo ra sự đối kháng với Trung Quốc“. Phiên bản ở nước ngoài của báo này nói rằng, đã đến lúc Hoa Kỳ nên “câm miệng“.
Rõ ràng là sự do dự của Mỹ trong nhiều năm qua đã khuyến khích Trung Quốc. Chính sách của Hoa Kỳ đối với các vấn đề chủ quyền ở vùng biển châu Á – Thái Bình Dương là chúng ta không đứng về phía bên nào, các vấn đề đó phải được giải quyết một cách hòa bình giữa các bên liên quan. Các nước nhỏ hơn và yếu đuối hơn đã nhiều lần kêu gọi sự tham gia lớn hơn của quốc tế.
Trong khi đó, Trung Quốc đã khẳng định rằng tất cả các vấn đề như thế phải được giải quyết song phương, có nghĩa là hoặc sẽ không bao giờ được giải quyết, hoặc chỉ giải quyết theo các điều kiện của Trung Quốc. Do sức mạnh ngày càng gia tăng của Trung Quốc trong khu vực, do không thể hiện quan điểm, nên Washington đã mặc nhiên trở thành nước cho phép Trung Quốc thể hiện các hành động hiếu chiến hơn bao giờ hết.
Hoa Kỳ, Trung Quốc và tất cả các nước Đông Á hiện đã đi đến thời khắc không thể né tránh sự thật. Tranh chấp chủ quyền mà các bên tìm kiếm giải pháp hòa bình là một chuyện, các hành động hiếu chiến một cách trắng trợn hoàn toàn là một chuyện khác. Những thách thức này sẽ được giải quyết như thế nào để các tác động không chỉ cho Biển Đông, mà còn cho sự ổn định của khu vực Đông Á và tương lai của các mối quan hệ Mỹ – Trung.
Lịch sử dạy chúng ta rằng khi các hành vi đơn phương xâm lược mà không có sự đáp trả, thì những tin tức xấu chẳng bao giờ tốt hơn theo thời gian. Không nơi nào trong cái quy trình này lại rõ ràng hơn là sự chuyển đổi sức mạnh sang Đông Á. Như sử gia Barbara Tuchman ghi nhận trong cuốn tiểu sử của Tướng Joseph Stillwell thuộc Quân đội Hoa Kỳ, đó là lời cầu khẩn của Trung Quốc để được Hoa Kỳ và Liên đoàn các Quốc gia hỗ trợ đã không có ai trả lời sau sự xâm lăng Mãn Châu của Nhật Bản hồi năm 1931, sự thờ ơ đó đã “ấp ủ sự nhân nhượng vô nguyên tắc… đã mở ra thập niên về căn nguyên chiến tranh” ở châu Á và hơn thế nữa.
Trong khi sự tập trung của Mỹ bị phân tâm do chiến dịch tranh cử tổng thống, tất cả các nước Đông Á đang theo dõi Hoa Kỳ sẽ làm gì đối với các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Họ biết một phép thử khi họ nhìn thấy một hành động. Họ đang chờ đợi để xem liệu Mỹ sẽ chịu được sự khó chịu đó nhưng vẫn giữ vai trò cần thiết như là nước thực sự bảo đảm sự ổn định ở khu vực Đông Á, hay là khu vực này một lần nữa sẽ bị thống trị bởi sự hiếu chiến và đe dọa.
Trung Quốc hiểu mối đe dọa này hồi năm 1931 và đã chịu hậu quả về sự thất bại của cộng đồng quốc tế [giúp Trung Quốc] giải quyết. Câu hỏi được đặt ra là, liệu Trung Quốc năm 2012 có thực sự mong muốn giải quyết các vấn đề thông qua các tiêu chuẩn đã được quốc tế công nhận, và liệu nước Mỹ năm 2012 có đủ ý chí và khả năng để khẳng định rằng phương pháp này là con đường duy nhất đối với sự ổn định hay không.
———

- Mời xem lại: 1164. Thượng nghị sĩ Jim Webb: Trung Quốc có thể “vi phạm luật pháp quốc tế” (Jim Webb/ Ba Sàm).
Ông Jim Webb là Thượng Nghị sĩ Mỹ, thuộc Đảng Dân chủ, bang Virginia. Cha ông là một sĩ quan Không quân Hoa Kỳ, đã tham gia trong Đệ Nhị Thế chiến. Jim Webb tốt nghiệp Học viện Hải quân Hoa Kỳ, là một trong ba học viện danh giá nhất nước Mỹ. Ông là sĩ quan Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ, đã từng tham chiến ở chiến trường Triều Tiên và Việt Nam, sau đó trở thành Bộ trưởng Hải quân dưới tổng thống Ronald Reagan.
Về đời tư, người vợ hiện tại của ông (và là cuộc hôn nhân lần thứ ba của ông) là cô Hồng Lê, một luật sư Mỹ gốc Việt. Cô Hồng Lê nhỏ hơn ông 22 tuổi, sinh ở Vũng Tàu, cô đã cùng gia đình rời khỏi Việt Nam sau sự kiện 30-04-1975. Hai người có chung một đứa con là Georgia LeAnh, sinh năm 2006. Ngoài ra, Jim Webb còn là cha nuôi của cô con gái Emily, là con riêng của cô Hồng Lê từ cuộc hôn nhân trước. Jim Webb nói thông thạo tiếng Việt.
Nguồn: Wall Street Journal
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012
--------------
*****

Thứ Sáu, 17 tháng 8, 2012

Khi uống thuốc không kịp thời hoặc không đủ liều

Theo dõi NQ TW 4, rồi NQ TW 5 và cung cách của đợt kiểm điểm Bộ CT và Ban CHTW hiện nay mình lại nhớ đến một kinh nghiệm nho nhỏ về uống thuốc chữa bệnh.

Vốn sợ uống thuốc, phần vì thuốc đắng, phần vì cho rằng thuốc có hại, nên trước đây mỗi khi có bệnh nặng -nhẹ mình đều chần chừ đến khi bệnh rất nặng mới uống, và khi uống cũng không uống cho đủ liều. Hậu quả bệnh cứ kéo dài không bao giờ khỏi hẳn., lâu dần thành kinh niên, và ngày nay mình phải chung sống với nhiều loại bệnh tật sống dở chết dở.  

Gần đây do tình cờ phải đối mặt với bệnh hiểm nghèo, mình nhận ra rằng thuốc cũng như mọi lý liệu pháp đều rất cần thiết đối với bệnh nhân, nhưng điều quan trong hơn cả là phải sử dụng ĐÚNG THUỐC, ĐÚNG LÚC và ĐỦ LIỀU. Bệnh càng nặng càng phải tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc này. Từ đó mỗi khi bị hiện tượng ốm đau dù nặng, nhẹ như cảm cúm thông thường mình đều đi "khám bác sĩ" hoặc ra hiệu thuốc mua và uống thuốc đến lúc khỏi hẳn mới thôi. Làm như vậy thấy bệnh không những nhanh khỏi mà một số chứng kinh niên cũng bớt đi. Chỉ tiếc đã quá chậm để rút ra một kinh nghiệm đơn giản như vậy.

Vẫn biết "mọi sự so sánh đều khập khiễng". Nhưng mình thấy Đảng ta sao giống y chang mình về khoản uống thuốc!. Đảng có những căn bệnh trầm kha trong cơ thể (*) nhưng lúc nào cũng coi thường lời khuyên của các bác sĩ, ngại đi khám bác sĩ và rất ngại dùng thuốc. Nếu phải  uống thuốc, Đảng chỉ thích uống những loại thuốc có võ bọc đường có tên là "4 tốt", "16 chữ vàng" mua bên TQ về, nhưng chê những loại thuốc đắng của các nhân sĩ , trí thức và nhân dân trong nước kính biếu. Cũng có đôi khi Đảng làm bộ uống trước mặt nhân dân nhưng quay mặt nhổ ra hết ... Do chậm uống thuốc lại uống không đủ liều nên bệnh tình ngày một trầm trọng thì phải(?). Loại thuốc có tên "phê và tự phê" là loại gia truyền mà Đảng ta dùng nhiều nhất. Ngoài ra có các loại thuốc  như "cải tạo", "cải cách", "đổi mới", v.v... cũng được sử dụng nhưng không kịp thời và cũng không bao giờ dùng đủ liều.  Do dùng mãi một vài loại thuốc nên có hiện tượng "kháng thuốc", thành thử chẳng còn tác dụng gì ! Nghe nói có những loại thuốc khác tốt và thích hợp hơn mà thế giới mới phát minh thì giá rất đắt. Trộm nghĩ, năm nay Đảng ta đã ngoại bát tuần rồi không biết còn đợi đến bao giờ hay không bao giờ (?) Con dân nước Việt chỉ cầu mong sao Đảng chịu nghe lời bác sĩ để uống đúng loại thuốc cần uống và uống đúng liều đặng mau bình phục sống lâu cùng con cháu./. 

(*) Theo tinh thần NQ TW 4 khóa XI


Thứ Tư, 15 tháng 8, 2012

Tai sao lại là TQ?

Có một câu hỏi thường vấn vương trong mỗi người VN chúng ta là tại sao mỗi lần an ninh đất nước bị đe dọa, rừng vàng biển bạc bị xâm lấn, kinh tế mất ổn định, thực phẩm bị đầu độc, nạn bán rừng, bán ruộng,  giết trâu lấy móng, làm chè bẩn, nuôi đỉa, trồng khoai lang....để xuất khẩu, v.v....thì y như rằng người Việt Nam lại tìm thấy nguyên nhân nào đó từ TQ (?) Có nhiều trường hợp rõ ràng nhưng cũng có những trường hợp mập mờ, ám muội. Không biết từ bao giờ nhiều người Việt tin rằng người TQ có thể iểm bùa, trấn huyệt, chặn long mạch... khiến dân tộc này không thể ngóc đầu lên được (?). Tóm lại,Việt Nam không khác nào con giun, con dế sống duới chân con gà mái, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bị nó nuốt chửng nhưng không biết chạy đi đâu cho thoát! Vậy nên cũng có một câu hỏi: Tại sao người Việt Nam không thoát ra khỏi thế bị kìm kẹp đầy rủi ro, nguy hiểm đó, mà có vẻ vẫn an phận với nó hàng ngàn năm nay?

Để trả lời 2 câu hỏi trên , trước hết nên nhắc lại câu nói của người xưa: "Tiên trách kỷ, hậu trách nhân". Nên chăng người Việt Nam hãy tự trách mình trước đã. Tại sao chúng ta cứ phải chịu đựng trạng thái ức chế như vậy để cứ mỗi lần bị TQ chèn ép, xâm lấn lại chỉ biết hậm hực trách người?

Có người cho đó là do số mệnh, là do thế đất trời đã định cho dân tộc ta sống bên cạnh dân tộc Đại Hán tham lam, xảo quyệt và độc ác ..., đành chịu vậy thôi (!) . Nghe cũng có lý. Nhưng nếu vậy, ta hãy thử liên hệ đến trường hợp các dân tộc khác trên thế giới xem sao. Nhật Bản và Hàn Quốc có lẽ là hai trường hợp có hoàn cảnh chung sống cận kề với Trung Quốc tương tự như Việt Nam. Hai nước này đều đã trải qua thời kỳ dài trong lịch sử đấu tranh sinh tồn bên cạnh Hán tộc mà trong đó  họ cũng đã từng chịu đựng tình trang lớn-bé, mạnh-yếu. Nhưng rốt cuộc hai nước này đều đã lần lượt thoát ra được khỏi vòng cương tỏa của TQ, thậm chí phát triển vượt xa TQ . Ngày nay cung cách quan hệ giữa họ với TQ là quan hệ hoàn toàn bình đẳng, hai bên cùng có lợi không ai có thể chèn ép ai. Ngoài ra, các trường hợp Đài Loan,  Hồng Kông và Ma Cao tuy không hoàn toàn giống nhau nhưng cũng đều cho thấy khả năng thoát khỏi thế kìm kẹp của Trung Quốc là hoàn toàn có thể . Xa hơn, ta thấy trường hợp nước Cu ba sống bên cạnh Cường quốc số I chênh lệch nhau về mọi mặt nhưng vẫn hiên ngang tồn tai đâu có bao giờ phải quỵ lụy, triều cống? Không hiếm những  quốc gia khác trên thế giới tuy nhỏ bé cả về dân số hoặc diện tích nhưng có thể tồn tại độc lập và phát triển thịnh vượng bên cạnh các nước lớn. Vậy tại sao với TQ, Việt Nam lúc nào cũng phải quỵ lụy, bạn không ra bạn, thù không ra thù, anh em, đồng chí  cũng không phải? 

Việt Nam thực ra đã có những thời kỳ và cơ hội để thoát ra khỏi thế kìm kẹp của Vương triều phương Bắc, nhưng tiếc thay cho đến nay vẫn chưa làm được điều đó. Lý do gì, nếu không phải trước hết là do chính bản thân mình. Phải chăng đó là do ý chí và khát vọng tự cường dân tộc chưa đủ mạnh trong toàn bộ dân chúng, đặc biệt trong giới cầm quyền của đất nước?. Bên cạnh những trang sử chống ngoại xâm oanh liệt luôn có sự ám ảnh của một tâm thế thần phục, cam chịu lệ thuộc đối với Vương triều Phương Bắc. Ngọn lửa tự cường, tự tôn dân tộc thường bùng lên trong những thời kỳ chống ngoại xâm nhưng rồi lại lắng xuống trong thời bình.  Ngày nay tuy tính chất thời đại đã khác xưa, nhưng tâm thế đó vẫn còn. Phải chăng đó là lý do để hiểu tại sao dù căm ghét TQ xâm lược biển đảo, nhưng dân chúng vẫn cứ vô tư tiêu xài hóa, kể cả hàng nhập lậu và hàng độc từ TQ. Các doanh nghiệp (cả tư nhân và nhà nước) đua nhau nhập máy móc thiết bị, vật tư của và công nghệ lỗi thời của TQ. Đó là lý do tại sao nhiều cơ quan chính quyền các cấp mơ hồ mất cảnh giác trước những hoạt động ngầm của người TQ len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm của đất nước. Đó là lý do tại sao giới lãnh đạo mà nhầm lẫn người dân yêu nước với "các lực lượng thù địch" . Đó cũng là lý do tại sao các tướng lĩnh Việt Nam lại chọn lúc lòng dân bức xúc trước họa xâm lăng để tung hô công đức của giặc và coi đó là một việc làm khôn khéo(?). Có rất nhiều những hiện tượng trái khuấy như vậy thường tái diễn trong quan hệ hai nước bất chấp sự thật đã có tới 3-4 cuộc chiến tranh đẫm máu do phía TQ chủ động gây ra trong thời gian ngắn ngủi vừa qua.

Từ kinh nghiệm của bản thân và từ bài học của các nước có hoàn cảnh tương tự, thiết nghĩ, con đường tất
yếu của Việt nam là phải dứt khoát đoạn tuyệt với cái tâm thế thần phục và lệ thuộc vào nước láng giềng Phương Bắc dù nó được trị vì bởi bất cứ thể chế nào. Đây hoàn toàn không phải là sự bài bác hay đối đầu mà là một phương cách để Việt Nam thật sự trở thành một quốc gia độc lập bình đẳng với TQ-điều kiện cần thiết để bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và phát triển đất nước./.


Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2012

Khi khoa học bị mê tín chi phối

Einstein từng nói: “Có hai thứ được coi là vô tận: Vũ trụ và sự ngu dốt của con người”
Xin mạn phép đăng lại 2 bài viết đã bị rút khỏi báo Giáo dục nhưng còn lưu lại trên blog Tranhung09.  Qua hai bài viết cho ta một vài sự thật rất cơ bản và đsức thuyết phục trong số rất nhiều sự thật đã được phơi bày xung quanh  "thần tượng ngoại cảm"Phan Thị Bích Hằng một thời được tôn vinh bởi làng khoa học VN. Nghe nói  thần tượng nay đã "gác kiếm" và chuyển sang làm DN bằng số vốn liếng kiếm được từ thời làm khoa học.... Âu cũng là một sự chuyển tiếp khá phổ biến trong xã hôi VN đương đại. Nhưng chẳng hay trong số hàng ngàn hài cốt được nhà ngoại cảm tìm thấy có bao nhiêu lần "nhầm" như trường hợp của cụ Phùng Chí Kiên? Có  bao nhiêu trường hợp không thử ADN hoặc lẫn lộn của người này sang người kia ...?  Nhưng lạ thay, đến nay vẫn có rất nhiều người tin sái cổ...  Phải chăng khoa học + mê tín = thần tượng? Hay đó là một hệ quả tất yếu của cung cách quản lý khoa học lỏng lẽo lâu nay đất nước này? Txa xưa, các nhà khoa học thực thđều là những người chống lại thần quyền. Chẳng lẽ ngày nay khoa học lại từ bỏ lập trường đđồng hành cùng mê tín dđoan một cách dẽ dàng như vậy?-Bách Việt

 
Những dấu hỏi lớn về "huyền thoại ngoại cảm" Phan Thị Bích Hằng (P1) Thứ tư 08/08/2012 05:15
LTS: Chiến tranh đã lùi xa nhưng trên suốt dải đất hình chữ S vẫn còn hàng chục vạn hài cốt liệt sỹ nằm lại nơi rừng sâu, núi thẳm. Và cũng từng đó thân nhân gia đình liệt sỹ luôn khắc khoải mang theo bên mình nỗi đau không gì bù đắp nổi. Công tác tìm kiếm, cất bốc hài cốt liệt sỹ vừa là trách nhiệm, vừa là tâm nguyện của cả một dân tộc để tri ân những người đã vì nước quên thân. Trong suốt quá trình đó, không thể phủ nhận đóng góp của nhiều nhà ngoại cảm.

Việc tìm kiếm mộ liệt sỹ bằng phương pháp ngoại cảm (khả năng đặc biệt) là một vấn đề mang tính khoa học và khả năng này có ở rất ít người. Trên hết, kết quả tìm kiếm mộ liệt sỹ bằng phương pháp ngoại cảm phải dựa trên nhiều chứng cứ khoa học.

Loạt bài sau đây của báo điện tử Giáo dục Việt Nam không hề mang tính "phủ nhận sạch trơn" những đóng góp của các nhà ngoại cảm. Tuy nhiên, cái nhìn đa chiều về một sự việc, hiện tượng là điều cần thiết. Những thông tin mà nhóm phóng viên, cộng tác viên báo Giáo dục Việt Nam đã dày công tìm hiểu về nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng là minh chứng cho điều này.

Trong giới ngoại cảm, bà Phan Thị  Bích Hằng được nhiều người mặc định là một trong rất ít thương hiệu uy tín. Tuy nhiên, cũng nhiều ý kiến đặt ra nghi ngờ về tính xác thực của những câu chuyện mà nhà ngoại cảm này từng kể để tạo dựng nên "thương hiệu".

Bài 1: Tìm di cốt Tướng Phùng Chí Kiên: Đúng tất cả, chỉ sai... ADN

Nỗi trăn trở thế kỷ trong gia tộc của vị tướng đầu tiên

Phùng Chí Kiên, tên khai sinh là Nguyễn Vỹ, còn có tên khác là Mạnh Văn Liễu, sinh năm 1901 tại làng Mỹ Quan, tổng Vạn Phần (nay là xã Diễn Yên), huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Thời kỳ 1925-1927, Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) đã cử hội viên về Nghệ Tĩnh hoạt động. Nhiều thanh niên, học sinh được đưa sang Quảng Châu học tập. Tháng 10 năm 1926, Phùng Chí Kiên cùng một số hội viên được giới thiệu sang Quảng Châu, dự lớp huấn luyện đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc tổ chức rồi vào học trường Quân sự Hoàng Phố. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930.                                          


Nhiều tài liệu khẳng định, Phùng Chí Kiên là Ủy viên Thường vụ T.Ư Đảng khóa I (1935). Như vậy, Phùng Chí Kiên được coi như bậc khai quốc công thần và cũng chính Phùng Chí Kiên là người đầu tiên chính thức được truy phong hàm Tướng bằng Sắc lệnh 89/SL do Hồ Chủ tịch ký ngày 23/9/1947.

Ngày 28 tháng 1 năm 1941, Phùng Chí Kiên cùng Hồ Quang về Pác Bó, tỉnh Cao Bằng. Ông tổ chức các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ Việt Minh cho các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn và các tỉnh miền xuôi. Ông tham dự Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5 năm 1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì và được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương; được cử trực tiếp tổng chỉ huy Khu căn cứ Bắc Sơn, thành lập và là Chỉ huy trưởng Đội Cứu quốc quân 1, tham gia khởi nghĩa Bắc Sơn.

Cuối tháng 6 năm 1941, chính quyền thực dân Pháp huy động tới 4.000 quân tổ chức thành ba mũi tấn công mở cuộc càn quét lớn vào khu căn cứ nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não của Việt Minh và lực lượng vũ trang mới hình thành. Các cơ sở bí mật của Trung ương Đảng và Cứu quốc quân bị uy hiếp nghiêm trọng. Trong cuộc họp khẩn cấp tại Khuổi Nọi (xã Vũ Lễ), Ban chỉ huy Cứu quốc quân quyết định cử một tổ bảo vệ và dẫn các cán bộ lãnh đạo Trung ương Đảng Cộng sản qua Tràng Xá về xuôi an toàn.

Phùng Chí Kiên chỉ huy đội Cứu quốc quân Bắc Sơn chiến đấu, phá một số trận càn lớn của Pháp. Do chênh lệch lực lượng và vũ khí, Ban lãnh đạo căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai quyết định để lại một tiểu đội chặn địch, còn hai tiểu đội phá vòng vây, rút lên Cao Bằng để bảo toàn lực lượng. Ngày 19 tháng 8 năm 1941, cánh quân của Phùng Chí Kiên và Lương Văn Tri qua Pò Kép (châu Na Rì, Bắc Kạn) thì bị đối phương phục kích nhưng thoát được.

Ngày 21 tháng 8 năm 1941, đơn vị lại bị phục kích và bị bao vây tại xã Bằng Đức trên đường đi Cao Bằng. Lương Văn Tri bị thương rồi hy sinh. Mặc dù bị thương nặng, Phùng Chí Kiên vẫn bắn chặn quân địch để đồng đội thoát khỏi vòng vây. Bắn hết viên đạn cuối cùng, ông bị bắt. Ngày 22 tháng 8 năm 1941, địch chặt đầu ông rồi bêu ở đầu cầu Ngân Sơn hòng uy hiếp tinh thần cán bộ, nhân dân địa phương.

Cũng kể từ đó, phần hài cốt này bị thất lạc. Năm 1990, phần hài cốt không đầu của ông Phùng Chí Kiên được đưa về an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch.

Trải suốt hàng chục năm, dòng tộc Nguyễn Văn tại xã Diễn Yên không nguôi niềm trăn trở tìm kiếm phần di cốt trên. Ngay từ những năm 70, hàng năm, tranh thủ thời gian nghỉ phép, thân nhân ông Phùng Chí Kiên đã tìm lên Bắc Kạn, la cà khắp các ngõ ngách, hỏi han dân chúng trong địa bàn mà ngày xưa "chú Vỹ" đã chiến đấu và hy sinh, nhưng đều không thu lượm được kết quả gì. Phần hài cốt bị thất lạc của ông Phùng Chí Kiên vẫn chưa có manh mối nào.

“Điều đó khiến cả dòng họ nhà tôi trăn trở. Mấy chục năm trời, dòng họ này cứ trăn trở khôn nguôi mong ngóng tìm được phần hài cốt bị thất lạc, làm các thủ tục công nhận danh hiệu liệt sỹ, danh phận cho cụ Phùng Chí Kiên. Năm 1994, cụ được tặng Huân chương chiến công hạng 3. Năm 2003, cụ được truy tặng danh hiệu liệt sỹ. Tuy nhiên, phần hài cốt bị thất lạc thì vẫn bặt mối thông tin”, một người con cháu của cụ Phùng Chí Kiên kể lại với phóng viên.

Việc tìm thấy di cốt còn thất lạc của ông Phùng Chí Kiên vừa là ước nguyện vừa là nghĩa vụ của Đảng, Nhà nước, của nhân dân và gia đình người chiến sĩ cách mạng Phùng Chí Kiên.

Niềm hy vọng về việc tìm được phần hài cốt của liệt sỹ Phùng Chí Kiên tưởng như vơi dần rồi tắt lịm thì gia tộc họ Nguyễn đã may mắn có duyên được bà Phan Thị Bích Hằng đứng ra góp sức tìm mộ bằng phương pháp ngoại cảm vào đầu năm 2008. Việc tìm thấy phần hài cốt bị thất lạc của vị tướng đầu tiên tưởng như chỉ còn là vấn đề thời gian.

Hỗ trợ tối đa, trùng khớp từng chi tiết, chỉ  sai... ADN
Không công nhận ngoại cảm là phương pháp xác định danh tính liệt sĩ

Các bộ, ngành đã thống nhất giám định gen là phương pháp chủ yếu xác định danh tính liệt sĩ và không coi ngoại cảm là một phương pháp xác định danh tính hài cốt liệt sĩ vì độ phức tạp rất lớn. Về quyết định này, Thứ trưởng Bộ LĐ-TB & XH Doãn Mậu Diệp cho biết: “Chúng tôi hoan nghênh các nhà ngoại cảm tham gia vào quá trình tìm kiếm, chứ chính thức công nhận đấy là một phương pháp tìm kiếm đảm bảo 100% là chính xác, thì Bộ LĐ-TB & XH không có ý kiến về vấn đề này”.

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ - Nguyễn Văn Lạng khẳng định: “Cần phải có quy định về tiêu chuẩn, định chế xác định nhà ngoại cảm, nên xem xét rà soát lại tất cả các trung tâm để có biện pháp chấn chỉnh hoạt động tìm kiếm bằng ngoại cảm”. 

Ông Hoàng Công Thái, Cục trưởng Cục Người có công (Bộ LĐTB & XH) cũng đồng tình quan điểm trên và cho rằng, ngoại cảm chưa đủ điều kiện để được coi là phương pháp xác định hài cốt liệt sĩ.

Trong thời gian vừa qua, tại một số địa phương đã nở rộ các trung tâm tìm mộ liệt sĩ bằng ngoại cảm, nhiều yếu tố tâm linh không được kiểm chứng, nhiều người mạo danh ngoại cảm lừa đảo dẫn đến nhiều gia đình liệt sĩ bị lừa. Bộ LĐ-TB & XH sẽ sớm có chủ trương nhằm xử lý tình trạng mạo danh ngoại cảm lừa đảo trong việc tìm mộ liệt sĩ.
Theo lời kể của ông Nguyễn Văn Đậu, người đang trông coi khu thờ tự của cụ Phùng Chí Kiên tại quê nhà Nghệ An thì ông Phùng Chí Kiên là anh em với ông nội ông. Việc tìm mộ của cụ Phùng Chí Kiên khiến gia đình nhiều lần trăn trở: “Nhưng gia đình không có điều kiện đâu cháu ạ! Phải thông qua những mối liên hệ, sự giúp đỡ của các nhà báo và một số mối quan hệ đặc biệt khác thì gia đình mới có chi phí đi tìm và gặp được Phan Thị Bích Hằng. Việc tìm kiếm ngày bấy giờ có cả sự chỉ đạo, cho ý kiến của Bộ Quốc phòng”.

Một đoàn tìm kiếm được thành lập vào khoảng tháng 4/2008, bao gồm một số nhà báo, đại diện gia đình, một vị đại tá quân đội. Đoàn tìm kiếm này tất nhiên không thể thiếu Phan Thị Bích Hằng. Theo lời kể của ông Nguyễn Văn Quang, cháu gọi Phùng Chí Kiên là ông thì trước khi đi tìm mộ của cụ Phùng Chí Kiên, đại diện gia đình, đoàn tìm kiếm cùng Phan Thị Bích Hằng đã ra cúng bái vong hồn cụ Phùng Chí Kiên tại nghĩa trang Mai Dịch và vào làm lễ tại chùa Phúc Khánh.

“Thông qua" bà Phan Thị Bích Hằng, ông nhà mình còn nhắn lại với con cháu: "Khi các con đi đến Ngân Sơn, nhớ đi qua chùa Thành Long để cúng anh em đồng đội ở đó cho ông. Đầu tháng 4/2008, đoàn tìm kiếm chính thức lên Bắc Kạn. Bà Hằng có việc bận nên phải ở lại Hà Nội”, ông Nguyễn Văn Quang cho biết.

“Vì ông tôi là một chí sỹ cách mạng lão thành, anh dũng hy sinh nên việc tìm kiếm phần hài cốt bị thất lạc rất được lãnh đạo tỉnh Bắc Kạn, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Kạn, lãnh đạo huyện Ngân Sơn quan tâm, tạo điều kiện. Họ còn cử người đi theo dẫn đường, giúp đỡ. Dù có sự đóng góp của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, có những thời điểm, việc tìm kiếm gần như lâm vào bế tắc.

Manh mối về những người có thể biết thông tin về phần hài cốt của ông nhà tôi được các cơ quan, cá nhân tại tỉnh Bắc Kạn hết mực tạo điều kiện, lần tìm ra. Ví dụ như trường hợp của ông thợ cắt tóc, người được cho là đã ăn trộm phần đầu của cụ Phùng Chí Kiên rồi đem chôn cất vì cảm kích trước sự hy sinh anh dũng của cụ cũng được các nhà báo, công an tìm thấy dù đã đổi tên, chuyển nhà đi nơi khác. Mọi động thái, tiến độ tìm kiếm đều được báo cáo lại với Bí thư tỉnh ủy Bắc Kạn hồi bấy giờ.

Bà Hằng đi cùng đoàn nhưng đến tối 7/5 thì bà  Hằng có việc bận phải về gấp. Tuy bà Hằng không đi nhưng mọi chỉ đạo đều do Bích Hằng. Ví như đi giờ nào là do cô ấy quyết định hết. Đoàn tìm kiếm và các ban ngành chỉ việc nghe theo. Đối với tôi, tôi rất tin bà Hằng vì bà ấy nói rất đúng về các chi tiết liên quan tới ông nhà tôi”, ông Quang cho hay.

Việc khai quật vị trí được cho là có hài cốt của cụ Phùng Chí Kiên được định vào ngày 7/5/2008. Trước khi khai quật, có sự tham gia chứng kiến của đầy đủ ban, ngành, đoàn thể tỉnh Bắc Kạn. Vị trí khai quật thuộc địa bàn Tiểu khu 1, xã Vân Tùng, huyện Ngân Sơn. 1h30 ngày 8/5, việc khai quật chính thức bắt đầu.

“Phần di cốt bị thất lạc của cụ Phùng Chí Kiên nhanh chóng được tìm thấy nhưng trước đó, khi làm việc với Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Kạn, họ đã nói rõ tìm thấy đầu mà không thấy răng thì không phải đầu người. Vì thế, đến 4h sáng, việc tìm kiếm chưa thể kết thúc vì không thấy chiếc răng nào. Đúng lúc đó thì bị mất điện. Gọi điện cho Bích Hằng thì cô ấy bảo là cụ Phùng Chí Kiên bảo để cho mọi người nghỉ. Sáng mai đúng 7h sẽ tìm thấy. Đúng như lời bà Hằng, 7h sáng hôm sau thì tìm thấy mẩu xương được cho là răng của cụ nhà tôi. Việc tìm kiếm kết thúc. Trong quá trình đi tìm thì đường đi như thế nào, bà Hằng miêu tả chính xác luôn. Tất cả các chi tiết, từ đường xá, địa hình và đặc điểm phần hài cốt đựng trong cái gì đều rất chuẩn xác...”, ông Quang nhớ lại.


Công văn Viện Pháp y Quân đội 108 trả lời về việc giám định một phần hài cốt được tìm thấy theo sự chỉ dẫn của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng.


Sau đó, Biên bản đào bới, khai quật mộ liệt sĩ được Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bắc Kạn lập, các cơ quan chức năng và đoàn thể địa phương cùng đại diện gia đình là ông Nguyễn Văn Quang ký vào biên bản. Cùng ngày, tại nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, thay mặt Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bắc Kạn, Trung tá Hoàng Bình Tĩnh bàn giao bọc đỏ được niêm phong cho ông Đào Tất Vinh, đại diện Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng dưới sự chứng kiến của Phó Chủ tịch tỉnh Bắc Kạn Hoàng Thị Tảo, đại diện gia đình và đoàn tìm kiếm.

Sau khi đăng tải loạt bài "Bi hài chuyện áp vong tìm mộ" "vạch mặt" một số nhà ngoại cảm rởm, báo Giáo dục Việt Nam đã nhận được ý kiến của Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, nguyên Tư lệnh  Quân đoàn III, Nguyên Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Cựu chiến binh Việt Nam, nguyên Đại biểu Quốc hội khóa IX, X, XI.

Tướng Thước cho biết, do tính chất ác liệt của chiến tranh, số chiến sỹ của ta hi sinh rất lớn. Riêng quân đoàn III, trong vòng 10 năm chiến đấu ở mặt trận Tây Nguyên (1965-1975), có khoảng 3 vạn liệt sỹ. Trong đó, trên 1 vạn chưa xác định được hài cốt, còn số hài cốt tìm thấy, chủ yếu chưa có tên. Điều này cho thấy, việc tìm và xác định hài cốt của các liệt sỹ là điều nan giải.

Trung tướng Nguyễn Quốc Thước khẳng định: "Tìm hài cốt liệt sỹ là một việc hết sức thiêng liêng. Nếu vì năng lực kém, tìm sai hài cốt hoặc không tìm thấy, thì có thể thông cảm một phần. Nhưng nếu là ngoại cảm “rởm” và lợi dụng vấn đề tìm hài cốt liệt sỹ thiêng liêng ấy để kiếm tiền thì không chấp nhận được. Đó là hành động tội lỗi với những anh linh đã hi sinh vì độc lập dân tộc, là một tội ác không thể tha thứ. Và việc này cần phải đưa ra pháp luật trừng trị”.
Như vậy, 68 năm sau ngày hi sinh, phần hài cốt của cụ Phùng Chí Kiên tưởng như đã được tìm thấy thông qua sự vào cuộc nhiệt tình của đoàn tìm kiếm và sự hỗ trợ của lãnh đạo các ban, ngành tỉnh Bắc Kạn và nhất là sự “chỉ đạo” của Bích Hằng. Phần hài cốt trên đã được đưa đi giám định tại Viện pháp y quân đội. Tuy nhiên, khi mà mọi người đều tin chắc rằng phần hài cốt được tìm thấy chính là di cốt từng thất lạc của cụ Phùng Chí Kiên, thì ngày 16/9/2008, theo công văn số 288 của Viện Pháp y Quân đội trả lời việc giám định đã nêu rõ: “Những mẫu vật mà Viện này nhận được sau khi giám định đã xác định bao gồm: Đất lẫn đá vụn, 13 mảnh sành và 3 mảnh đá nhỏ, 1 răng lợn rừng. Theo kết quả đó, công văn này kết luận: Mẫu vật gửi tại Khoa giải phẫu Bệnh viện 108 không phải là một phần hài cốt của đồng chí Phùng Chí Kiên”.

Hành trình tìm một phần hài cốt của cụ Phùng Chí Kiên lại rơi vào bế tắc.

Khoảng tối về cái chết hụt đầy bí hiểm của Phan Thị Bích Hằng (P2)

Thứ tư 08/08/2012 12:00
(GDVN) - Có một công thức chung đã được mặc định: Những con người có khả năng siêu phàm trong giới ngoại cảm, cô đồng thường phát hiện ra khả năng huyền diệu của mình sau những lần thập tử nhất sinh đầy kỳ bí. Trường hợp bà Phan Thị Bích Hằng cũng không phải là một ngoại lệ.
Câu chuyện về cái chết hụt kỳ bí mà bà Phan Thị Bích Hằng kể lại (được ghi hình, không hiểu bằng cách nào bị phát tán tràn lan trên mạng) được coi là bước ngoặt khiến người phụ nữ này, từ một thiếu nữ thôn quê bình thường trở thành một nhà ngoại cảm. Với nhiều người, chính cái chết hụt đó đã "khai sinh" ra một "huyền thoại" ngoại cảm.

Cái chết huyền bí

Theo lời kể của bà Phan Thị Bích Hằng, bà Hằng sinh ra và lớn lên ở một ngôi làng nghèo thuộc xã Khánh Hòa, Yên Khánh, Ninh Bình. Năm 1990, khi 17 tuổi, vừa thi đại học về, Hằng cùng một cô bạn gái đang đi trên đường bỗng có một con chó nhảy xổ ra cắn. Hằng bị cắn vào chân trái, cô bạn gái bị cắn vào tay trái. Cũng như người dân ở các vùng nông thôn, Hằng và cô bạn cảm thấy chuyện bị chó cắn rất bình thường, rồi quên ngay sau đó. 

Khoảng một tháng sau, cô bạn đột nhiên không nói được nữa, hàm răng cứng lại. Nghĩ là bị đau răng, Hằng đưa cô bạn đi khám. Bác sĩ nha khoa kiểm tra và khẳng định không phải do đau răng. Hai người lại đưa nhau đến Bệnh viện Quân y 5 Ninh Bình.

Sau khi khám xét, bác sĩ bảo bạn gái của Hằng có triệu chứng của người bị bệnh dại. Tưởng như đất dưới chân sụt xuống, tử thần đã nắm tay mình dắt đi, Hằng nói: “Đúng như vậy. Cháu và cô bạn đều bị một con chó cắn”. Sau hôm đó, Hằng cũng hôn mê bất tỉnh. Cô bạn thân đã qua đời.

Gia đình đưa Phan Thị Bích Hằng đi chữa trị nhiều nơi, bằng cả Đông y lẫn Tây y, song các bác sĩ, thầy lang đều lắc đầu, bởi bệnh này từ xưa đến nay không ai chữa khỏi. Khi đến nhà một ông thầy lang theo đạo Thiên Chúa giáo, ông xem xét kỹ biểu hiện cơ thể rồi nói một câu: “Chúa lòng lành sẽ che chở cho con”. 

Video bà Phan Thị Bích Hằng kể về cái chết "khai sinh" khả năng ngoại cảm:


Video bà Phan Thị Bích Hằng kể về cái chết "khai sinh" khả năng ngoại cảm:



Sau đó, ông bảo người con trai ra nghĩa địa lấy một mảnh ván quan tài mà người ta vừa bốc mộ lên hôm trước, rồi bào chế với vài vị thuốc. Để giành giật giữa sự sống và cái chết, gia đình Hằng liền cho cô uống ngay vị thuốc này.

Sau khi uống thuốc, ông thầy lang bảo với bố mẹ Hằng: Sau 3 tiếng đồng hồ, cháu sẽ cảm thấy nóng khắp người, lên cơn sốt mê man, nói sảng, thậm chí lên cơn điên cắn xé. Nếu 3 ngày sau cháu hết cơn thì cháu sống được còn nếu lên cơn trở lại thì cháu không sống được nữa. Tôi rất muốn cứu cháu nhưng khả năng của tôi chỉ có vậy.

Đúng như lời ông thầy lang nói, 9h tối Hằng lên cơn cắn xé  điên cuồng, đến 11h đêm mới thiếp đi. Ngày thứ nhất, ngày thứ hai không thấy triệu chứng gì. Ngày thứ ba, khi cùng người anh trai của cô bạn gái đã mất ra mộ thắp hương thì đột nhiên Hằng cảm thấy có một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng. Hằng liền nói: “Anh đưa nhanh em về, em sắp lên cơn điên rồi”. Từ đấy, Hằng không còn biết gì nữa.

Vẫn theo lời kể của bà Phan Thị Bích Hằng, đến 1h sáng hôm sau, gia đình không còn hy vọng bởi Hằng đã hoàn toàn tắt thở. Bình thường, những người trẻ tuổi như Hằng ở quê được khâm liệm rất nhanh rồi đem chôn, không tổ chức lễ tang, kèn trống.

Thế nhưng, có một ông cụ dạy chữ nho ở làng rất giỏi tử vi vào nhà Hằng, sau một hồi tính toán, ông bảo: “Thứ nhất, chưa qua giờ Thìn không được khâm liệm cháu; thứ hai, cứ để nó nằm như thế, không được thắp hương”.

Lúc  đó, một ông bác sĩ nói: “Tốt nhất đậy mặt cháu lại, để gia đình đi chuẩn bị cho cháu, tại sao cụ lại nói vậy”. Ông cụ đó nói tiếp: “Các anh thì có cả một nền y học hiện đại, còn tôi chỉ là tàn hương nước thánh, nhưng tôi khẳng định nó không chết”. Nghe cụ già và bác sĩ tranh cãi, gia đình Hằng rất hoang mang, không biết xử trí thế nào. Thế nhưng, ai đi mua gỗ đóng quan tài cứ đi, ai ngồi chờ xem lời ông cụ linh ứng thế nào thì cứ chờ.
Cũng theo lời kể của bà Hằng, hồi khắc khoải chờ chết, Hằng có hỏi bố (bố Hằng là quân nhân): “Vì sao những vị lãnh đạo khi chết người ta lại bắn 7 loạt đại bác”, bố Hằng trả lời: “Để linh hồn mau siêu thoát”. Nghe bố nói vậy, Hằng liền bảo: “Khi con mất bố bắn cho con bảy phát đạn để con mau siêu thoát trở về với gia đình mình”.
7h sáng hôm đó bố Hằng mới về đến nhà. Trông thấy đứa con gái tội nghiệp tắt thở nằm đó ông không kìm được nước mắt. Nhớ lời hứa với đứa con gái, ông lôi súng ngắn ra bắn. Tiếng súng nổ làm Hằng bật tỉnh dậy và phản xạ đầu tiên là lao ra phía tiếng súng gọi: “Bà ơi!”.

Hằng đạp phải những vỏ đạn và ngã rất mạnh xuống sân. Mọi người liền khiêng cô vào trong nhà. Sau khoảng nửa tiếng, Hằng tỉnh lại hoàn toàn. Khi đó, một cảm giác rất kỳ lạ đến với cô. Thân thể dường như mất trọng lượng, như đang bay và nhìn mọi người như ở một thế giới khác.

Theo lời Hằng, trong thời gian 30 phút bất tỉnh do trượt ngã đập đầu xuống sân, cô thấy bà nội và bà ngoại (cả hai đều đã mất) gọi cô. Hằng thấy mình đang đi qua một cây cầu bắc qua con sông lớn với mây mờ sương khói bao phủ. Phía bên kia cầu, bà ngoại cùng rất nhiều người đứng vẫy tay, bà nội thì đứng bên bờ này kéo lại.

Cố vùng vẫy, Hằng tuột khỏi tay bà...

...Nhưng làng quê, bạn bè không ai biết

Cái chết “hụt” của bà Phan Thị Bích Hằng được nhiều tờ báo dẫn lại. Thậm chí, không hiểu bằng cách gì, nó còn được in thành những bộ đĩa bán rất chạy bên ngoài thị trường. 

Tuy nhiên, khi phóng viên tìm về ngôi làng nơi bà Hằng và gia đình từng sinh sống, nhiều người lại không hề hay biết về câu chuyện này, và đó thực sự là một khoảng tối cần làm rõ.
“Vợ chồng tôi và ông bà Thọ (bố mẹ của Bích Hằng – PV) vốn rất thân thiết. Mối quan hệ giữa hai gia đình lại càng thêm thân khi thằng Thuần, con trai tôi và Bích Hằng học cùng nhau và giữa hai đứa có nảy sinh tình cảm yêu đương. Tuy nhiên, sau này vì cái duyên, cái số mà hai chúng nó không đến được với nhau”, bà Cạnh, vợ của ông Vũ Văn Trai, là người cùng xóm với nhà bà Phan Thị Bích Hằng tâm sự.
Tuy nhiên, khi cộng tác viên báo Giáo dục Việt Nam dò hỏi về đám tang đầy màu sắc huyền bí với những phát súng chát chúa thì người hàng xóm thân mật, sống cách nhà gia đình bà Phan Thị Bích Hằng ở quê chưa đầy 300m này lại lắc đầu: “Đám tang nào nhỉ? Tôi không biết! Cái Hằng nó có chết thực vật hồi nào đâu mà bảo nó có đám tang”.
“Ngày xưa, tôi và Bích Hằng có học cùng một lớp. Tôi cũng từng có mối quan hệ yêu đương với Bích Hằng nhưng quả thực về cái chết hụt của cô ấy và cái đám tang như lời anh kể thì tôi không biết gì”, anh Thuần, con trai của bác Cạnh tiếp lời.
Khi phóng viên – trong vai 1 sinh viên ngành nhân văn tìm tư liệu viết bài về Bích Hằng đặt câu hỏi: “Vậy còn nhân vật nữ là người cùng làng bị chó dại cắn rồi sau đó tử vong mà chị Bích Hằng kể thì anh có biết không? Theo lời chị Hằng, người này là bạn học cùng lớp, lại là chỗ bạn thân thì chắc anh phải biết chứ?” anh Thuần suy tư một hồi rồi nói: “Nhân vật nữ nào nhỉ? Lớp tôi học không hề có bạn nào bị chó dại cắn chết. Làng tôi sống cũng không có ai học cùng tôi bị chó dại cắn cả”.
Chúng tôi tiếp tục nhập vai sinh viên ngành nhân văn, tìm gặp thầy Nguyễn Tử Nhiên, giáo viên chủ nhiệm 3 năm cấp 3 của Bích Hằng và anh Thuần  (Lớp A2 khóa 1986 – 1988 Trường cấp 3 Yên Khánh B - PV). Khi được hỏi về cô học trò Phan Thị Bích Hằng, người thầy giáo già trầm ngâm nhớ lại: Bích Hằng là một học trò thông minh, có đôi mắt sáng và khả năng cảm thụ văn học rất tốt.
Tuy nhiên, cũng như bà Cạnh và anh Thuần, thầy Nhiên tỏ ra vô cùng ngạc nhiên khi phóng viên hỏi những thông tin về cái chết lâm sàng của bà Phan Thị Bích Hằng do chó dại cắn. Thầy Nhiên nói: “Tôi không biết nhưng chắc là không có thông tin này. Học sinh của tôi cũng không có ai bị chó dại cắn chết cả”.
                 
Tiếp tục bổ sung thêm thông tin, chúng tôi được thầy Nhiên cho số điện thoại của anh Vũ Văn Chinh, là học trò cũ của thầy Nhiên và là bạn cùng lớp cấp 3 với Bích Hằng. Qua nói chuyện, anh Chinh cũng khẳng định: “Tôi cũng chỉ mới nghe kể là Bích Hằng bị chó dại cắn rồi chết lâm sàng. Lớp tôi học cũng không có ai bị chó dại cắn chết cả”.
Trong khi đó, ông Phạm Gia Huấn, nguyên cán bộ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Ninh Bình lại cho hay: “Tôi là người cùng xã với cô Hằng, vợ tôi lại công tác cùng với dì ruột và bố cô Hằng ở xã. Việc cô Hằng bị chết lâm sàng và có tổ chức đám tang thì tôi không biết nhưng việc cô Hằng bị chó dại cắn là có. Hồi đó, tôi có đến nhà thăm cô Hằng. Tuy nhiên, thông tin về người bạn học cùng, là người cùng làng bị chó dại cắn chết thì tôi cũng không biết”.
Khi có được thông tin trên, phóng viên đã đến gặp trực tiếp mẹ đẻ của Phan Thị Bích Hằng là bà Thọ. Trong vai một người có người nhà bị chó dại cắn, phóng viên khẩn khoản nhờ bà Thọ: “Cháu đến đây là vì cháu đọc báo đài thấy bảo cô Phan Thị Bích Hằng từng bị chó dại cắn rồi nhờ được một ông lang cho uống vị thuốc lạ có gỗ ván thôi. Vậy mong bà chỉ bảo giúp địa chỉ của ông lang mà cô Hằng hay kể tới trên báo đài để cháu tới lấy thuốc”.

Sau ít giây ngập ngừng, bà Thọ nói: “Đó là ông lang Rồng, nhà ở Ninh Sơn, Ninh Bình. Nhưng ông ấy chết được mấy năm rồi”.


Theo lời chỉ dẫn của bà Thọ, phóng viên tìm đến phường Ninh Sơn, thành phố Ninh Bình. Nếu căn cứ theo lời kể của bà Phan Thị Bích Hằng, có thể hiểu đây là vị thầy lang đã nói với bà Hằng câu: “Chúa sẽ ban phước lành cho con”. Đúng như lời bà Thọ nói, ông lang Rồng đã qua đời. Phóng viên tìm đến hiệu thuốc mang tên ông nhưng đang được quản lý bởi anh Phạm Văn Hà, là con trai thứ hai của ông lang Rồng. Anh Hà cho biết: “Đúng là bố tôi có chữa chó dại cắn cho bà Phan Thị Bích Hằng. Tuy nhiên, bố tôi là người theo đạo Phật chứ không phải đạo Thiên chúa và Bích Hằng cũng chưa hề đến nhà tôi mà chỉ có người nhà của cô ấy đến lấy thuốc nên bố tôi không thể nói với cô ấy câu: “Chúa sẽ ban phước lành cho con”.
Nhóm phóng viên 
 


Thứ Tư, 8 tháng 8, 2012

“Khi Việt Nam vững vàng, Trung Quốc không thể lấn tới” (*)

(*) Đó là tên bài viết về cuộc trả lời phỏng vấn của báo Người Lao động mới đây với Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược Bộ Công an. Qua nội dung trả lời tuy ngắn gọn nhưng khá đầy đủ ý, có khí phách và sức thuyết phục khiến chủ bog tôi lại một lần nữa thấy rằng nhiều người vẫn có thể phát huy năng lực, thậm chí còn tốt hơn, khi đã về hưu . Với bề dầy kinh nghiệm và vốn kiến thức được tích lũy giờ đây có thêm thế mạnh là không bị ràng buộc bởi lợi "chiếc ghế", họ như con tằm lâu nay nằm trong kén giờ mới được nhã tơ vậy! Mong rằng sẽ có nhiều vị tướng lĩnh như ông Cương.  Dưới đây xin phép đăng lại bài phỏng vấn để mọi người cùng tham khảo.


Thiếu tướng Lê Văn Cương
Thiếu tướng Lê Văn Cương
Xin ông bình luận về động thái trước việc ngày 2/8, Trung Quốc đã xua 23.000 tàu cá ra đánh bắt cá ở biển Đông?
 
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Đây chưa phải là con số cuối cùng về tàu cá Trung Quốc mà chỉ là những con số mở đầu. Những chiếc tàu cá với tải trọng lên đến 3.000 tấn của Trung Quốc sẽ tràn ngập trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam để chứng tỏ sự hiện diện thường xuyên, đông đảo của Trung Quốc ở biển Đông, mặc nhiên biến vùng biển Việt Nam thành vùng tranh chấp để từ đó biến thành vùng biển của mình. Trung Quốc đang dần hiện thực hóa quyền chủ quyền, quyền tài phán phi lý của họ ở “đường lưỡi bò” mà họ tự nghĩ ra với ý đồ rõ ràng. Trung Quốc biết lực lượng của ta còn mỏng, phản ứng còn chưa đủ mức độ cần thiết vì thế họ càng lấn tới. Việc Trung Quốc thành lập cái gọi là “TP Tam Sa” trên quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam thể hiện rõ mưu đồ này?
Đây phải được coi là cuộc xâm lược về mặt pháp lý thứ hai của Trung Quốc vào nước ta. Lần đầu là tháng 1/1979. Cuộc xâm lược trắng trợn này đã chà đạp lên Hiến chương của Liên Hiệp Quốc, đi ngược nguyên tắc chung sống hòa bình giữa hai nước, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982.
Ta phải có tiếng nói mạnh mẽ để Trung Quốc không thể lấn tới, giống như kẻ cướp đến nhà ta rồi trùm chăn đánh thì ta cũng phải hô to để hàng xóm biết mà đến cứu. Trong nhiều bài viết đã công bố, tôi đã nhấn mạnh: “Chủ quyền quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm”.
Tàu dịch vụ nghề cá
của Việt Nam
trên đảo Đá Tây - Trường Sa. Ảnh: Huỳnh Nga
Tàu dịch vụ nghề cá của Việt Nam trên đảo Đá Tây - Trường Sa. Ảnh: Huỳnh Nga
Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 3/8 tuyên bố việc Trung Quốc thành lập “TP Tam Sa”, bao gồm cả việc đồn trú quân sự là “đi ngược lại các nỗ lực ngoại giao chung để giải quyết khác biệt và có nguy cơ làm gia tăng căng thẳng trong khu vực”. Ông nghĩ sao về động thái chỉ trích này của Mỹ?
Mỹ đã thể hiện sự lo ngại và quan tâm về tình hình căng thẳng ở biển Đông có thể khiến xung đột gia tăng. Hành động hung hăng, hiếu chiến của phía Trung Quốc trong những năm gần đây, mở đầu bằng vụ cắt cáp quang ngày 9/6/2011 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đã cho cả thế giới thấy rõ bản chất của Trung Quốc. Tôi cho rằng phản ứng của Mỹ là tích cực vì khiến Trung Quốc không thể phớt lờ tiếng nói của cộng đồng quốc tế.
Thiếu tướng Lê Văn Cương: “Trong lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm, giữa ta và Trung Quốc luôn tồn tại thực tế: Khi Việt Nam lùi thì Trung Quốc tiến, còn khi Việt Nam vững vàng thì Trung Quốc không thể lấn tới được”.
Nhưng quan trọng nhất vẫn là dựa vào thực lực quốc gia, không nên để Trung Quốc lấn tới, muốn làm gì thì làm. Dân tộc Việt Nam mạnh mẽ với gần 100 triệu dân yêu nước; đó cũng chính là thực lực, là sức mạnh toàn dân.
Để làm được việc này, tức là để bảo vệ toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ, chúng ta phải tăng cường hơn nữa sức mạnh quân sự?
Dù Trung Quốc không bày tỏ dã tâm bành trướng như vậy thì Việt Nam vẫn cứ phải mua sắm thêm trang thiết bị, vũ khí tối tân để bảo vệ chủ quyền của mình. Nhưng không nên xem đây là một giải pháp chủ yếu và duy nhất. Điều quan trọng không kém là phải đẩy mạnh truyền thông, theo dõi sát sao các hoạt động xâm lấn của Trung Quốc hằng ngày để nói rõ cho người dân biết, thế giới biết. Người dân có quyền được biết thông tin và ta phải làm việc rõ ràng, kiên quyết và nghiêm túc. Sức mạnh lan tỏa của truyền thông còn mạnh hơn tàu ngầm, tên lửa.
Theo ông, trong trường hợp ASEAN và Trung Quốc ký kết Bộ Quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC) thì có giải quyết các tranh chấp tại biển Đông?
Trước hết, COC vẫn tốt hơn DOC (Tuyên bố của các bên về ứng xử ở biển Đông) vì đây là cơ sở để thế giới lên án và cộng đồng quốc tế chia sẻ tiếng nói chung. Nhưng không nên quá tin vào COC vì ngay cả Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 còn không được Trung Quốc tôn trọng. Cần phải có thêm các điều khoản ràng buộc để tạo thêm sức mạnh về lẽ phải và về số đông những nước có thiện chí trong khu vực.
Xác lập địa giới hành chính Việt Nam trên biển
Trả lời câu hỏi của phóng viên Báo Người Lao Động tại buổi họp báo thường kỳ chiều 6/8 về ý nghĩa của những tấm bản đồ cổ khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam đối với việc hiện đại hóa hồ sơ, bản đồ địa giới hành chính theo Quyết định 513/QĐ-TTg ngày 2/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt dự án “Hoàn thiện hiện đại hóa hồ sơ, bản đồ địa giới hành chính và xây dựng cơ sở dữ liệu về địa giới hành chính”, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Trần Anh Tuấn cho biết đây thực sự là những cứ liệu rất quan trọng trong công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Theo ông Trần Anh Tuấn, thực hiện Quyết định 513, Bộ Nội vụ chủ trì phối hợp với Bộ Tài nguyên - Môi trường đang tiến hành những khảo sát, đánh giá bước đầu. Về việc này, Vụ Chính quyền địa phương - Bộ Nội vụ cho biết bước đầu tiên của đề án sẽ đánh giá lại địa giới hành chính trên biển Đông và xác định lại tranh chấp địa giới hành chính để có cái nhìn tổng quan nhất. Trên cơ sở cứ liệu thu thập được sẽ tiến hành chỉnh lý lại hồ sơ, bản đồ địa giới trước đây. Sau khi được phê duyệt, các bộ - ngành sẽ cùng nhau phổ biến hồ sơ địa giới hành chính đã được hiện đại hóa này bằng nhiều cách thức khác nhau để người dân trong và ngoài nước hiểu hơn về địa giới hành chính của Việt Nam.
T.Kha
Theo Bích Diệp
Người lao động

--------------

Thứ Ba, 7 tháng 8, 2012

Lại "xẻ thịt" công viên



Mấy ngày qua tại cổng vào  Công viên Nghĩa Đô (thuộc Quận Cầu Giấy, Hà Nội) đang diễn ra cảnh vô cùng phản cảm khi  2 chiếc máy ủi kiêm máy xúc cỡ lớn và gần 100 công nhân phá nát toàn bộ góc bên trái cổng chính vào công viên vốn đã được quy hoạch hợp lý đang xanh tươi, sạch đẹp. Một tường bao được dựng lên  quanh khu đất ngót 5000mét vuông "đắc địa" nhất của công viên này. Chỉ trong hai ngày đầu, người ta đã kịp phá nát toàn bộ các bồn hoa cây cảnh, chặt nhiều cây to,  tháo bỏ hơn 20 cột đèn chiếu sáng đúc bằng gang còn rất tốt, vứt bỏ mấy chục ghế đá và các trang thiết bị khác, đồng thời tập kết tại đây rất nhiều xi măng, gạch cùng hàng đống đất phế thải bẩn thiểu đưa từ nơi khác đến. 



việc đầu tiên là xây tương bao chiếm đất











Đây hẳn phải là một công trình xây dựng mới hoàn toàn chứ không phải “cải tạo” như có người nói. Những người dân thường ngày dạo bộ, tập thể dục dưỡng sinh hoặc nghĩ ngơi trong công viên thấy cảnh tượng này không khỏi xót xa. Nghe nói “đang xây khu vui chơi giải trí cho trẻ em”... nhưng mọi người đều  bất bình trước việc tàn phá lãng phí như vậy. Nhiều người suy đoán đây là “ý đồ kinh doanh” là chính. Nếu vì trẻ em thì tại sao không xây tại các khu dân cư? Hay vì xây nhà để bán hết đất rồi, giờ lại chiếm đất công viên để kinh doanh dịch vụ?  Còn lạ gì cái trò "mèo trắng mèo đen miễn là kiếm được tiền" của các nhóm lợi ich câu kết với nhau. Xung quanh công viên này đã có ít nhất hai khu đất rộng bị lạm dụng cho thuê làm quán nhậu; bên trong công viên đang có 2 ki-ốt và 1 sạp trò chơi có bán vé rồi, chưa đủ sao?
Cột đèn bị đào lên trước khi san bằng bãi cỏ
Một cây to bị đốn hạ







Nhiều cây bị chặt



Được biết Công viên Nghĩa Đô là một trong số ít ỏi công viên cây xanh đúng nghĩa của nó còn sót lại tại Thủ đô Hà Nội (trong khi các công viên khác đều bị “dịch vụ hóa” và “thương mại hóa “). Phải chăng giờ đây người ta lại đang “xẻ thịt” nốt công viên Nghĩa Đô?  Thiết nghĩ  các nhà chức trách thừa biết rằng đã là công viên cây xanh thì không thể chứa đựng bên trong nó những khu dịch vụ kinh doanh. Và công viên cũng là một công trình kiến trúc công cộng không thể muốn thay đổi thế nào cũng được (?). Hơn nữa trong lúc kinh tế đang suy thoái mọi công trình xây dựng đều phải tính đến yếu tố tiết kiệm giảm chi phí không cần thiết. Vậy tại sao không tập trung kinh phí để sửa chữa  các lối  đi và hạng mục khác đang xuống cấp của công viên , lại đi phá bỏ những hạng mục đang xanh  tốt như vậy? 

Là một cư dân đã từng tham gia “lao động XHCN” đào hồ và xây dựng công viên trong những ngày đầu của nó, tôi thấy có nghĩa vụ phải lên tiếng kêu cứu cho số phận của công viên Nghĩa Đô bằng cách nêu một số ý kiến trên. Để làm bằng chứng xin cung cấp một số hình ảnh tôi mới chụp tại hiện trường . Xin khẩn thiết đề nghị các nhà chức trách hữu quan hãy kịp thời ngăn chặn việc làm sai trái nói trên./.     

Ghi chú: Nội dung trên đây cũng đã được đưa tại Báo Nông nghiệp VN: http://nongnghiep.vn/nongnghiepvn/72/48/48/99040/Ha%CC%83y-cu%CC%81u-la%CC%81y-cong-vien-Nghi%CC%83a-Do.aspx

Thứ Bảy, 4 tháng 8, 2012

BA TÀU TỰ SỰ


Tác giả: Arjen Nguyen(*)
Không biết xuất phát từ đâu và từ bao giờ, người VN gọi chúng ta là “Ba Tàu”, là “thằng chệt” với hàm ý
phân biệt đối xử và miệt thị. Có lẽ họ còn hận cha ông chúng ta ngày xưa đã đặt ách thống trị cả ngàn năm lên đất nước này. Và cũng có thể họ ghen tức với sự thành công của chúng ta tại miền Nam trước đây.
 Dù cho ngày nay hai nước có 16 chữ vàng
 để vuốt ve nhau, dù cho người ta hát lên những bài ca hữu nghị " núi liền núi sông liền sông " để ca ngợi nhau, dưới mắt người dân VN, chúng ta vẫn là “Chệt Ba Tàu ăn rau sình bụng”
 Hoa Kiều Saigon chúng ta ở Chợ Lớn từng có một thời hoàng kim, từng có tiếng tăm lẫy lừng trước
ngày 30.4.1975. Ngày xưa cha ông chúng ta qua đây để chạy loạn và cũng để kiếm sống. Đất nước VN đã nối tiếp bao thế hệ chúng ta kể từ những người di cư đầu tiên vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên. Người Hoa Chợ Lớn của chúng ta chỉ mới định cư từ thế kỷ 19 khi người Pháp tuyển mộ hàng loạt phu đồn điền. Năm 1949 khi Tưởng Giới Thạch thua ở lục địa,một số người Hoa chúng ta di cư sang VN chẳng khác gì những người Mỹ gốc Việt ra đi năm 1975.
 Cha ông chúng ta tha phương cầu thực đến đây lấy sức làm phu, bán mồ hôi cho chủ đồn điền để kiếm sống, hay oằn vai với gánh ve chai trên lưng, và cũng từ gánh ve chai đó mà hôm nay thế hệ chúng ta đã thành đạt trên đất nước này. Dù chúng ta nói tiếng Việt rành hơn là tiếng mẹ đẻ nhưng chúng ta vẫn luôn tự hào và hãnh diện rằng ta là người Trung Hoa vì tổ quốc Trung Hoa chúng ta đã vươn lên hàng đầu thế giới về nhiều mặt.
 Đất nước chúng ta có rất nhiều điểm giống với VN. Cũng da vàng mũi tẹt cũng văn hóa Á Đông, cũng tương đồng về tập quán tín ngưỡng, giống nhau về thể chế chính trị và ta cũng có một bộ phận không chấp nhận CS sống riêng biệt ở ĐàiLoan.
NGƯỜI VIỆT Ở MỸ cũng bỏ nước ra đi như chúng ta, nhưng có điều lạ là trong số họ có những nhóm người rất ồn ào không hề tự hào về đất nước họ dù rằng VN ngày nay đang được cả thế giới khen ngợi. Họ đến Mỹ cũng y như cha ông chúng ta ngày xưa chỉ với bộ quần áo trên người, nhưng họ sướng hơn cha ông chúng ta rất nhiều vì nước Mỹ có những chính sách an sinh xã hội rất tốt cho nên họ không phải quảy trên lưng gánh ve chai.
Tuy nhiên họ không dám cam đảm như chúng ta để nhận rằng họ bỏ nước ra đi vì nạn đói kém sau chiến tranh ở VN mà họ cho rằng họ bỏ nước ra đi không phải vì đói mà vì tị nạn CS, nói như thế nó mới chính trị, nó mới sang. Thừa nhận chạy trốn đói tha phương cầu thực thì quá tầm thường.

 Phải chăng cuộc sống tốt ở Mỹ đã làm thay đổi nhân cách của họ. Phải chăng không phải quảy gánh ve chai, không phải lo mưu sinh cho nên họ mới có thì giờ tụ tập nhau lại để cùng nhau đốt lửa hận thù. Họ chống lại đất nước họ thậm tệ, họ không muốn nước họ giàu lên, họ chống lại bất cứ điều gì làm cho nước họ phát triển và thật khó hiểu là họ còn muốn nước chúng ta phải xâm lăng nước họ cho dân họ lầm than thì họ mới hả dạ.
 Cha ông chúng ta tha phương cầu thực rồi định cư ở VN vì đây là đất lành, chúng ta lập ra những bang hội để giúp nhau, sự đoàn kết giúp chúng ta tồn tại và giàu có. Chúng ta ra sức làm ăn cần mẫn để phát triển và hướng đến tương lai con cháu, chúng ta đã thành công nhưng bao đời nay chúng ta vẫn luôn mơ về tổ quốc.
 Phải nói rằng thời cực thịnh của chúng ta là thời trước 30.4.1975. Chúng ta cám ơn chế độ VNCH, chế độ mà những người Việt chống cộng ở Mỹ đang tôn vinh. Chế độ này đã giúp cho chúng ta ăn nên làm ra và nắm giữ một tỷ lệ rất quan trọng của nền kinh tế. Nhờ chế độ này mà từ gánh ve chai của tiền nhân, chúng ta đã nắm giữ và kiểm soát hầu như toàn bộ các vị trí quan trọng của nền kinh tế miền Nam VN đặc biết trong 3 lãnh vực, sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, chúng ta đã kiểm soát hơn 80% các
cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện…và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập cảng. Ỏ miền Nam VN Hoa kiều chúng ta gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường. Người Việt cứ khen rằng chúng ta giỏi thương mại nhưng không hẳn thế. Chính cái chế độ VNCH đã quá ưu đãi chúng ta và trong chế độ này bất cứ điều gì chúng ta cũng có thể mua được bằng tiền.
 TRƯỚC 30/4/1975 CHÚNG TA MUA ĐỨT suốt mọi thời kỳ cái ghế quận trưởng quận 5 là cái chức quyền lực cai quản vùng Chợ Lớn. Chúng ta mua thông tin từ các bộ, từ các tướng lãnh quân đội, từ các tỉnh trưởng, quận trưởng, tiểu khu trưởng để nắm thời cơ. Chúng ta mua đứt những gói thầu béo bở , thâu tóm vật liệu chiến tranh, và hầu hết những mặt hàng thiết yếu của nền kinh tế.
 Chính vì vậy Chợ Lớn, thủ phủ Hoa Kiều tại VN của chúng ta là nơi kiểm soát nền kinh tế miền Nam. Những ông cán bộ nằm vùng CS cư trú trong địa bàn Chợ Lớn an toàn hơn bất cứ nơi nào ở SaiGon. Ngô Đình Diệm cũng chọn Chợ Lớn để ẩn náu khi bị quân đảo chính truy lùng.
 Trong những ví dụ cho sinh viên kinh tế, những người giảng dạy thường nêu hình ảnh một con  đường có 2 tiệm tạp hóa, một của người VN và một của người Tàu. Một thời gian sau, tiệm của người VN chết trước, cuối cùng chỉ còn tiệm của người Tàu. Người ta lý giải rằng, nếu một thùng dầu lửa mua 20 đồng người VN chỉ bán 20 đồng rưỡi thì người Tàu bán có 20 đồng xem như không có lãi. Dĩ nhiên người VN chẳng thể hiểu được tại sao và phải dẹp tiệm.
 Chẳng phải chúng ta có vốn liếng, chẳng phải chúng ta có tài giảm chi phí. Bí quyết nằm ở chỗ chúng ta đục một lỗ kim ở đáy thùng rôì rút bớt ra nửa lít thế thôi. Sau khi tiệm người VN đóng cửa thì chúng ta bán 21
đồng thậm chí 22 đồng mà vẫn chẳng có ai phàn nàn.
 NGƯỜI VIỆT KHÔNG THỂ CẠNH TRANH thương mại với chúng ta vì chúng ta đoàn kết, vì chúng ta thừa khả năng làm hàng nhái, hàng giả, thừa ma giáo trong thương trường. vì thế mới có câu nói của người Việt là “Hồng Kông bên hông Chợ Lớn”. Và điều quyết định nhất là chúng ta có cái ô dù rất lớn của chế độ VNCH. Những ông vua lúa gạo, vua sắt thép, những ông trùm hàng quân tiếp vụ đều là người Tàu chúng ta. Chúng ta có khả năng biến hóa giá cả bất cứ mặt hàng nào, chỉ cần một tin đồn chúng ta có thể giải quyết xong hàng tồn kho một sớm một chiều. Chúng ta có khả năng tích trữ rất lớn những mặt hàng khan hiếm để tung ra thị trường khi cần.
 Khi ông tướng râu kẽm Nguyễn Cao Kỳ nhậm chức Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương ông đã nhận ra mối đe dọa từ khả năng thống trị và lũng đoạn của chúng ta về thương mại, ông ra lệnh tử hình ông Tạ Vinh, một tay trùm lúa gạo người Tàu để răn đe, nhưng một ông Tạ Vinh chết chằng ảnh hưởng gì đến Chợ Lớn, một mình ông Kỳ chẳng thể đội đã vá trời, với đồng  tiền chúng ta vẫn phây phây tồn tại.
 NỀU NÓI ĐẾN THÙ HẬN thì phải nói dân Chợ Lớn chúng ta cùng chung mối thù với những người Việt
đang chống cộng tại Mỹ. Ngày xưa, chúng ta có thể mua được ông bộ trưởng, chúng ta có thể mua đứt cái ghế quận trưởng có thể làm mưa làm gió thương trường ở miền Nam nhưng chúng ta vẫn phải cay đắng bóp bụng đóng thuế đều đặn cho các ông giải phóng nằm vùng mà không thể báo cho cảnh sát và cũng không có cách nào khác, không thể làm gì được nếu muốn yên thân.

 Sau 30.4.1975 họ mở chiến dịch đánh tư sản mại bản mà nạn nhân hầu hết là Hoa kiều Chợ Lớn. Với chế độ này chúng ta chỉ biết tích trữ vàng bạc chờ thời cơ tuy nhiên thời hoàng kim của chúng ta đã thực sự chấm dứt rồi. Năm 1979 khi Trung Quốc tấn công VN, một bầu không  khí nặng nề bao trùm cộng đồng Hòa kiều chúng ta. Tất cả những viên chức có chút chức vụ trong chính quyền đều bị phế truất, Hoa kiều bị phân biệt đối xử và giám sát nghiêm ngặt. Vào những năm này, VN chưa mở cửa thị trường với thế giới nên
chúng ta không thể phát huy sở trường của mình là thương mại. Họ cài cắm những cán bộ Hoa vận vào cộng đồng chúng ta để giám sát. Hoa kiều và Thiên Chúa Giáo là hai đối tượng không  thể kết nạp đảng.
 Trong các tháng 3, 4 năm 1978, khoảng 30.000 doanh nghiệp lớn nhỏ của Hoa kiều bị quốc hữu hóa. Vị thế kinh tế của đa số tư sản Hoa kiều bị hủy bỏ, nhà nước thắt chặt kiểm soát nền kinh tế.

 Áp lực nặng nề lên người Hoa chúng ta đến nỗi nhiều người đã sống mấy đời ở VN phải bỏ lại tài sản để về Trung Hoa làm lại từ đầu. 250 ngàn người Hoa đã chạy sang TQ năm 1979 qua biên giới phía Bắc chúng ta gọi sự kiện này là nạn kiều.
 Họ cảnh giác với chúng ta là lẽ đương nhiên vì dòng máu Trung Hoa vẫn chảy trong huyết quản chúng
 ta, nếu xung đột lan rộng giữa nước chúng ta và VN thì chúng ta là mối nguy hiểm tiềm tàng. Những người Việt chống cộng ở Mỹ thường hay nói rằng VN khiếp nhược trước Trung Cộng, là tay sai của người Tàu. Họ chẳng hiểu tí gì về chúng ta, chẳng hiểu gì về chính dân tộc của họ, họ chẳng hiểu tí gì về CS đối tượng mà họ đang chống.
 So với chế độ VNCH trước đây, trong chế độ CSVN Hoa Kiều chúng ta như những con hổ bị vặn hết nanh, con cua bị bẻ hết càng. Tinh thần dân tộc chủ nghĩa của người Việt rất ghê sợ, nếu có chủ trương của chính quyền để kích động bài Hoa thì chắc chắn chúng ta không còn đất sống. Những người lãnh đạo VN hiểu rất rõ vũ khí từ tinh thần yêu nước của dân tộc VN. Họ đã sử dụng vũ khí đó đánh bại người Mỹ mà họ gọi là chiến tranh nhân dân.
 THÁI ĐỘ MỀM DẺO CỦA CHÍNH QUYỀN VN đối với những tranh chấp căng thẳng với chúng ta ở biển Đông nằm trong sách lược ngoại giao rất khôn ngoan của họ. Họ tự tin vì đằng sau họ là cả một dân tộc anh hùng.
Những nhà lãnh đạo Trung quốc hiểu rõ và rất e ngại một khi tinh thần dân tộc ở VN được phát động thì làn sóng bài Hoa sẽ không thể ngăn cản được và mối nguy hiểm cho Hoa Kiều sẽ gấp nhiều lần năm 1979. Thế nên mới có chuyện các nhà lãnh đạo hai nước gặp nhau để giảm nhiệt làn sóng chống Trung Quốc trong nước. Những người Mỹ gốc Việt chống cộng hiểu rõ điều này cho nên họ luôn tìm cách kích động bài Hoa để gây xáo trộn trong nước gây khó khăn cho chính quyền, thỏa mãn khát vọng trả thù..

 Những năm tháng VN gọi Trung Quốc là “bọn bành trướng Bắc Kinh” là những năm tháng khổ nạn cho Hoa Kiều chúng ta. Chúng ta phải cố giấu đi cái gốc gác của mình. Con cháu chúng ta mang họ Tàu bị kỳ thị, công chức bị sa thải, bị phân biệt đối xử, hàng hóa chúng ta bị tẩy chay.

 Xưa nay người Việt vẫn không ưa thích người Tàu vì nhiều lý do như ta đã biết. Chính yếu tố này được những người Việt chống cộng ở Mỹ khai thác để kích động lòng dân. Họ kích động dân không phải họ yêu nước mà chống chúng ta.Họ chỉ muốn làm khó cho nhà cầm quyền VN, càng gây rối được họ càng thỏa mãn. Họ nói chính quyền VN cho chúng ta vào khai thác Bô Xít ở Tây Nguyên là mắc bẫy âm mưu người Tàu, sau này ta sẽ sinh con đẻ cái rồi thôn tính VN. Họ nói cho chúng ta trúng được những gói thầu
lớn vì chính quyền VN là tay sai người Tàu, khiếp nhược Tàu, phải dành ưu ái cho người Tàu v.v… Họ đánh lừa và kích động được rất nhiều người Việt yêu nước hải ngoại bằng chiêu bài này.
 Nếu là người Hoa sống ở VN ai cũng thấm thía rằng những nhà lãnh đạo VN luôn xem chúng ta là đối
tượng cảnh giác số 1. Mỹ tuy đã gây biết bao thảm họa chiến tranh trên đất nước VN, Trung Quốc bỏ biết bao của cải để yểm trợ VN trong cuộc chiến này. Thế nhưng nhân dân và những nhà lãnh đạo VN ngày
nay chẳng ai còn xem Mỹ là kẻ thù mà ngược lại, TQ lại bị xem là mối đe dọa nguy hiểm, là kẻ thù tiềm tàng số 1.
 Những chính sách của VN về ngoại giao và quốc phòng đã cho thấy càng ngày họ càng xích gần đến Mỹ và cảnh giác cao độ với chúng ta. Chợ Lớn ngày nay không còn thời  hoàng kim cũ, hàng hóa xuất xứ từ TQ bị kỳ thị, dù có tốt đến đâu vẫn bị xem là hàng kém chất lượng chỉ được giới bình dân sử dụng vì giá rẻ.

 Chúng ta đang sống khá bình đẳng với người Việt trong nước nhưng chúng ta vẫn có cảm giác rằng chúng ta là công dân loại 2 vì họ vẫn cảnh giác chúng ta, không tin tưởng chúng ta, vẫn không xếp chúng ta vào các chức vụ quan trọng, không cho chúng ta làm việc trong những ngành liên quan đến anh ninh quốc phòng. Tuyệt đối không có dây mơ rễ má huyết thống người Tàu khi làm trong những lãnh vực bí mật quốc gia. Còn nhớ những năm chiến tranh, khi họ còn nhận viện trợ của chúng ta nhưng Miền Bắc họ  không bao giờ cho người Hoa chúng ta đi nghĩa vụ quân sự. Bởi vì họ không muốn có người Tàu tham gia cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của riêng họ và lý do lớn nhất là vì họ rất cảnh giác với chúng ta. Thế mà những người Việt chống cộng cứ rêu rao rằng VN đang khiếp nhược và phục tùng TQ. Nói được như thế vì họ
không phải là người Tàu để có thể hiểu và thấm thía nỗi niềm cư dân loại 2 như chúng ta và họ cũng không phải là người Việt để có những cảm xúc tự hào của người Việt.

 Họ luôn nói rằng chế độ CS ở VN là lệ thuộc là tay sai Tàu, là bán nước cho Tàu, là nhu nhược v.v… nhưng họ không biết hoặc cố tình bịt mắt để không thấy rằng chính những người CS luôn tìm các loại trừ những tàn tích văn hóa, ngôn ngữ ảnh hưởng từ người Tàu chúng ta. Họ giảm thiểu đến mức có thể để hạn chế tối đa những từ ngữ Hán Việt làm cho nó thuần Việt, bình dân, trong sáng và dễ hiểu. Họ không nói “quốc gia“ mà họ gọi là “nhà nước” họ nói “nhà máy nước Saigon” chứ không nói “Sai gon thủy cục“ như những người VNCH.

 Những từ ngữ dịch từ nước ngoài như sofware chẳng hạn họ dịch là “phần mềm” chứ không dịch là “nhu liệu” như những người Việt hải ngoại thích dùng từ Hán Việt. Họ dùng từ “làm sáng  tỏ” chứ không dùng từ “bạch hóa” họ dùng từ “người cao tuổi” chứ không nói “ cao  niên ” .
 Họ nói máy bay chứ không nói phi cơ, họ nói xe bọc thép chứ không nói thiết vận xa v.v … Bất cứ từ ngữ nào nếu Việt  hóa được là họ làm , không như những người Việt chống cộng ở Mỹ cứ cho rằng sử dụng càng nhiều ngôn ngữ Hán Việt mới thể hiện ta là người có học.

 Những người chống cộng luôn chê Việt Cộng là dốt nát vì không biết sử dụng những từ Hán Việt mà họ cho rẳng như thế mới có học, mới sang. Họ đâu biết rằng chính mình mới là đầu óc bã đậu. Họ đâu biết rằng chính những người CS đang cố bóc ra những tàn tích văn hóa ngôn ngữ  ngoại bang. bảo tồn bản sắc đặc thù của dân tộc họ. Chính những người chống cộng mới là người vọng ngoại và tôn vinh chúng ta.

 Như vậy chúng ta có thể thấy tinh thần dân tộc của những người CS mới là đáng sợ. Những người chống cộng ở Mỹ đối với chúng ta rất tầm thường nhưng họ lại là bạn ta vì cùng chung với chúng ta một kẻ thù. Họ biểu tình chống TQ nhưng mặt trái là họ chống chính đất nước mình. Họ chẳng có gì đáng sợ cho chúng ta, ngược lại ta cần khuyến khích họ. Họ bài hàng Việt, chống hàng Việt nhưng chẳng bao giờ họ chống hàng hóa chúng ta, có chống cũng chỉ giới hạn ở cái mồm hô khẩu hiệu. Nếu có xung đột cần đến nội công ngoại kích thì chính họ là lực lượng chúng ta cần.

 Chế độ VNCH là ân nhân của chúng ta, là bệ phóng cho chúng ta một thời, chế độ này tạo ra thời hoàng kim của Hoa Kiều Chợ Lớn. Chế độ này chết đi kéo theo sự chết thảm của chúng ta. Nguyên nhân tận cùng cũng là bởi những người CSVN. Chúng ta hận họ nhưng chúng ta không cô độc vì chúng ta có bạn là chính những ngưởi Việt chống cộng ở Mỹ cũng hận họ như chúng ta. Với người Tàu chúng ta, họ là bạn, là đồng minh.
Chúng ta đang ở VN, chống lại nhà cầm quyền là điều dại dột, dường như chẳng có Hoa Kiều thứ thiệt nào chơi dại chống lại nhà cầm quyền, chỉ những anh VN chống cộng ngựa non háu đá hay những anh chẳng hiểu gì về CS mới dại dột tự dẫn mình vào tù.
 Còn nhớ những năm đầu sau chiến tranh, chúng ta treo hình Mao Trạch Đông và cờ Trung Quốc ở Chợ
Lớn, chúng ta chống lại việc nhập quốc tịch VN ngỡ rằng người Tàu chúng ta đã giúp họ làm nên chiến thắng thì người Hoa Chợ lớn cũng phải có những ưu tiên và được nể nang, nhưng chúng ta đã lầm to. Chính lầm lẫn đó đã dẫn đến sự kiện “nạn kiều”.

 NGƯỜI VIỆT CHỐNG CỘNG Ở MỸ ĐANG LÀM THAY NHỮNG GÌ CHÚNG TA MONG MỎI. Giả dụ rằng tương lai VN có nghèo đi bởi những người Việt chống cộng này cố vận động, thỉnh nguyện Mỹ ngưng giao thương với nước họ thành công thì cái công làm nghèo đất nước của họ sẽ rất đáng được chúng ta ghi nhận, đáng được chúng ta vinh danh và biết ơn. Một nước VN hùng mạnh sẽ là trở ngại lớn nhất chúng ta
vấp phải trên con đường Nam tiến.

 Người Việt chống cộng ở Mỹ tự  hào rằng họ có một thủ phủ người Việt ở Mỹ như thủ Phủ Hoa Kiều Chợ Lớn một thời. Nhưng không bao giờ họ có được sức mạnh như chúng ta vì ngoài việc chống cộng họ còn bận chống nhau suốt 37 năm rồi. Chính họ làm tổn  thương và suy yếu lẫn nhau. Họ không thể có những bang hội đoàn kết giúp nhau tạo sức mạnh như chúng ta mà chỉ có những hội đoàn chỉ chú tâm việc phô trương thanh thế và đầy ảo vọng. Họ thích được phô truơng,thích được khen, được nịnh mà thiếu trầm trọng cái thực chất. Thậm chí họ ảo tưởng họ đang sở hữu một quyền lực khả dĩ có thể làm thay đổi chế
độ chính trị ở VN. Họ tâng bốc nhau vinh danh nhau gắn lon cho nhau và tự xem đó là … quân lực của họ.

 Họ chưa bao giờ là một thế lực, chưa bao giờ là một tổ chức có quy củ và kỷ luật có thể gây áp lực gì với chính quyền VN, nhưng ít ra họ với ta là bạn, Chế độ VNCH của họ với ta là ân nhân, ta với họ có chung những mất mát và hận thù.

Điểm duy nhất chúng ta hoàn toàn khác biệt với họ là chúng ta không có khái niệm về “người Tàu Quốc gia” và “người Tàu Cộng sản” dù rằng nước ta có hoàn cảnh chẳng khác họ bao nhiêu. Chúng ta chỉ có một tổ quốc Trung Hoa vĩ đại và đó chính là niềm tự hào của dân tộc chúng ta .
{*} Sau 02 ngày đăng đã có  một bạn đọc báo cho biết nguồn bài viết như dưới đây. Vậy, chủ blog xin cảm ơn cả người bạn bên Myanma đã gửi cho bài viết và người bạn đọc đã tìm ra nguồn. 
http://www.tuoitrevhn.com/?act=news&cat=127&sub=127&id=eDlRVDgwNzhhODZ4MGFRNjl4Wjk=



Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này