Đầu năm 1974, thấy tôi xong nhiệm vụ ở Lào rồi mà chưa có việc gì khác, nhân đồng chí Ngô Thuyền đau ốm xin về, trên Trung ương Đảng mới quyết định cử tôi sang làm Đại sứ nước ta ở Trung Quốc. Lúc đó Việt Nam còn coi Liên Xô, Trung Quốc như anh cả anh hai cho nên để tỏ ý trọng thị, ta vẫn cử Ủy viên Trung ương Đảng làm Đại sứ hai nước đó. Trước khi lên đường đi sứ, nhân còn thời gian rỗi, tôi tranh thủ đi thăm một số tỉnh biên giới phía Bắc nước ta để nắm bắt một số tình hình cần thiết cho việc làm Đại sứ, hơn nữa tôi cũng muốn biết tình hình đất nước mình nói chung vì từ khi nhận nhiệm vụ giúp bạn Lào, tính ra đã mười năm xa rời thực tế của đất nước mình rồi. Lúc đó đất nước còn đang chiến tranh, đời sống nhân dân còn rất khó khăn, ở đâu quang cảnh cũng đìu hiu, trầm trầm không có gì là khởi sắc. Ngay cả những nơi bây giờ là khu du lịch nghỉ mát nổi tiếng như Tam Đảo, Sa Pa cũng thưa thớt bóng người, dân chỉ trông vào trồng lúa, nuôi lợn, nuôi gà đủ ăn và làm nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cho thương nghiệp quốc doanh thôi. Nhà cửa lâu đài biệt thự ở Tam Đảo, Sa Pa bỏ hoang phế, đổ nát, mặc cho dơi bay cú rúc… Nhưng lúc đó cũng có cái hay là môi trường còn nguyên sơ trong lành lắm, động vật hoang dại còn chưa bị săn lùng ráo riết như bây giờ. Còn nhớ khi lên Tam Đảo, một bác nông dân đang chăm ruộng lúa, bắt được con rùa vàng, bác liền vui vẻ tặng ngay cho cu Dũng nhà tôi vì thấy nó có vẻ lạ lùng và thích thú lắm. Một tối chúng tôi và trú nhờ ở huyện lỵ Bảo Thắng (lúc đó thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn), ăn cơm với huyện ủy, đồng chí Bí thư huyện còn tỏ ý rất tự hào vì “cả huyện tôi không có một cái chợ nào”, cho rằng quản lý như vậy là chặt chẽ và giữ được địa bàn trong sạch, không để cho việc buôn bán làm vẩn đục môi trường xã hội, chỉ có sản xuất mới là việc làm đúng đắn cần thiết. Lúc đó cả tôi cũng chẳng lấy thế làm ngạc nhiên, mà cũng chưa biết rõ rằng không có chợ buôn bán thì chính sản xuất cũng không thể phát triển nổi, chỉ quẩn quanh trong vòng tự cấp tự túc mà thôi.
Khoảng
giữa năm 1974, tôi lên đường sang Trung Quốc. Từ khi đó cho đến tháng
tư năm 1975 thì quan hệ Việt - Trung vẫn còn bình thường. Sau ngày thắng
lợi của ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, Trung Quốc có cử một đoàn đại
biểu cao cấp do ông Đặng Tiểu bình dẫn đầu đến Sứ quán ta chúc mừng
thắng lợi. Ngày hôm sau, Trung Quốc tổ chức một cuộc mít tinh lớn ở
Quảng trường Thiên An Môn để chào mừng chiến thắng của Việt Nam. Trong
cuộc mít tinh đó, Đặng Tiểu Bình đọc diễn văn, tôi đọc đáp từ. Trong đáp
từ tôi cũng có nói “nhân dân Việt Nam rất biết ơn Đảng, Chính phủ và
nhân dân Trung Quốc đã giúp đỡ to lớn cho nhân dân Việt Nam. Thắng lợi
của Việt Nam không tách rời khỏi sự giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc”.
Trong thực tế, khách quan mà nói Trung Quốc giúp ta nhiều thật: vũ khí,
lương thực, thực phẩm, quân trang quân dụng, nếu không có sự giúp đỡ to
lớn của Liên Xô và Trung Quốc, ta cũng khó thắng Mỹ. Nhưng việc đánh ta,
giết hại đồng bào ta, phá sạch nhà cửa của cải của ta năm 1979 đã xóa
sạch ân nghĩa đó.
Cũng
trong thời gian đó, ông Xi-ha-núc (Quốc vương Cam-pu-chia) và bà hoàng
Mô-nic cùng sống ở Bắc Kinh, họ được Trung Quốc dành cho một biệt thư
riêng. Họ quan hệ khá tốt với Đại sứ quán ta, với tôi. Có lúc ông
Xi-ha-núc mời tôi và một số Đại sứ thân tình đến đánh cầu lông trong
biệt thự riêng. Ngày Quốc khánh của Việt Nam, ông ta cũng đến chúc mừng.
Cũng có lúc tôi viết thiếp mời hai ông bà sang Sứ quán ta ăn cơm. Trước
đây đã có thời Xi-ha-núc ở Việt Nam khá lâu, cũng được dành một biệt
thự ở phố Nguyễn Du Hà Nội, ăn Tết Nguyên đán ở Việt Nam do Thủ tướng
Phạm Văn Đồng mời, ông ta có vẻ thân và kính trọng Thủ tướng lắm. Có lần
ở Bắc Kinh, ông ta còn ngỏ ý với tôi là muốn được sang Việt Nam ăn Tết.
Tuy ăn ở tại Trung Quốc nhưng xem ra ông ta thích ở Việt Nam hơn Trung
Quốc. Ngay cả bọn Pôn-pốt Yêng-sa-ri sau này phản bội đem quân đánh Việt
Nam, thi hành tội ác diệt chủng ở Cam-pu-chia, nhưng trước đó cũng có
quan hệ tốt với Việt Nam, vì cùng chung kẻ thù là bọn Mỹ xâm lược. Khi
Mỹ dựng lên chính phủ Lon-non, lật đổ Xi-ha-núc thì Đảng của Pôn-pốt
đứng ra đánh Lon-non. Đã có vài lần chính Yêng-sa-ri sang xin viện trợ
của Trung Quốc đã phải đến Sứ quán ta nhờ tôi điện về xin Chính phủ ta
chuyển giúp vũ khí của Trung Quốc vào Cam-pu-chia giúp họ; cũng có lúc
tôi đã mời Yêng-sa-ri ăn cơm ở Sứ quán. Nhớ lại lúc tôi còn làm việc ở
Lào, ba nước còn chiến đấu chống Mỹ và bọn tay sai của Mỹ, đồng chí Tổng
bí thư Lê Duẩn cũng đã từng mời đồng chí Kay-xỏn Phôm-vi-hản và Pôn-pốt
(lúc đó gọi là đồng chí Thanh) sang hội đàm giữa ba Tổng bí thư. Hôm
chiêu đãi hai Tổng bí thư Đảng Lào và Cam-pu-chia, tôi cũng được mời đến
dự.
Lại
nói chuyện Trung Quốc đối với Việt Nam, năm 1976, không khí quan hệ đã
bắt đầu đi xuống. Phía Việt Nam cử đoàn quân sự cao cấp do đồng chí Võ
Nguyên Giáp đứng đầu mục đích chính là để cảm ơn Trung Quốc. Trước khi
đi, đồng chí Giáp đã nghe Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao ta báo cáo tình
hình, nhưng có lẽ bản báo cáo của đồng chí Hoàng Bảo Sơn lúc đó còn quá
lạc quan nên đồng chí Giáp chưa tin, khi sang đến Trung Quốc đồng chí
gọi tôi đi dạo nói chuyện riêng. Tôi báo cáo là thấy tình hình xấu đi,
đồng chí Giáp cũng đồng ý như vậy. Quả thật, chuyến đó Trung Quốc đối xử
với đoàn rất kém trọng thị. Khi đến thăm Tỉnh Cương sơn (di tích cách
mạng của Trung Quốc) cùng với đoàn Tổng tham mưu trưởng quân đội Triều
Tiên. Người ta đã bố trí đoàn Triều Tiên (cấp thấp hơn đoàn ta) ăn ở
phòng sang trọng hơn, bố trí đoàn ta ăn ở phòng thường, thậm chí cho
ngồi những chiếc ghế không có lưng dựa. Vì vậy, khi về đến Vũ Hán họp
đoàn, nhận xét chuyến thăm, thì cả đoàn đều bất bình, đồng chí Giáp cũng
bực lắm. Mọi người đều muốn gặp Bộ Ngoại giao Trung Quốc để nói rõ
những sự đối xử không tốt đó và biểu thị thái độ bất bình. Nhưng tôi góp
ý: Ta nên biết vậy thôi, bây giờ làm thế chỉ thêm căng thẳng, không
giải quyết được vấn đề gì. Đoàn đồng chí Giáp cuối cùng đã đồng ý với
tôi và ra về. Trên xe lửa, phía Trung Quốc vẫn chưa thôi thái độ xấu, cố
dọn cho đoàn có cả một chiếc bát mẻ miệng (thật chẳng xứng mặt nước lớn
chút nào?).
Tiếp
đó lại đến vụ “nạn kiều”, ban đầu phía Trung Quốc gây ra việc dụ dỗ ép
buộc người Hoa ở Việt Nam về nước để tìm cớ xa lánh Việt Nam bắt tay với
Mỹ để tìm kiếm nguồn vốn là kỹ thuật từ Mỹ và đồng minh, để họ thực
hiện mục tiêu “Bốn hiện đại hóa” của họ. Nói cho khách quan, thì phía
lãnh đạo của ta cũng thành kiến và nghi ngờ người Hoa sẽ là đội quân thứ
5 của Trung Quốc nên cũng muốn tống người Hoa đi cho rảnh. Không những
gây ra vụ “nạn kiều”, lên án Việt Nam xua đuổi Hoa kiều, Trung Quốc còn
ngầm xui Khơ-me đỏ (Pôn-pốt Yêng-sa-ri) quay giáo đánh vào biên giới Tây
Nam của ta, khiến Việt Nam vừa kết thúc cuộc chiến tranh lâu dài gian
khổ với đế quốc Mỹ, lại phải đương đầu với chiến tranh Tây Nam, đánh
nhau với người “bạn cũ”, hòng làm cho Việt Nam không bao giờ đủ mạnh để
thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc. Xét về nguyên nhân sâu xa, có thể
nói: với tư tưởng bá quyền nước lớn vốn thâm căn cố đế, đã từ lâu, Trung
Quốc muốn kéo ta vào tầm ảnh hưởng của họ, bắt ta phải thuần phục họ.
Hơn nữa, những người cầm quyền Trung Quốc cũng thường có thói quen đối
xử với các nước nhỏ theo phương châm “thuận ngã giả xương, nghịch ngã
giả vong” (theo lời ta thì được tốt đẹp, chống lại ta thì ta cho chết).
Tuy biết họ như vậy nhưng phía ta mà khôn khéo hơn thì khó để họ lấy cớ
gây hấn với ta, bởi vì Trung Quốc lại còn cái bệnh giả nhân giả nghĩa,
rất muốn và rất cần che đậy dã tâm của mình. Trong thời gian sau năm
1976, ở Việt Nam cũng có những cái đầu nóng, khi Trung Quốc cố ý gây
hiềm khích qua vụ “nạn kiều” thì phía ta lại cũng có ý “tát nước theo
mưa”, thành kiến với người Hoa, kỳ thị người Hoa ở Việt Nam, bất kể có
người đã là Đảng viên là anh hùng đã đóng góp thực sự cho cách mạng Việt
Nam. Tiếp đó ta lại vội vã ký hiệp ước hợp tác hữu nghị với Liên Xô
(vào tháng 11 năm 1978) nên cũng góp thêm phần làm cho Trung Quốc ra mặt
thù địch với Liên Xô). Cho đến khi Việt Nam buộc phải đánh cho Pôn-pốt
một đòn đau, tiến quân vào tận Nông-pênh thì Trung Quốc càng có cớ để
động binh, thực sự gây chiến tranh với Việt Nam mà theo Trung Quốc nói
công khai là “dạy cho Việt Nam một bài học” (về “tội” câu kết với Liên
Xô và đánh Cam-pu-chia), Trung Quốc nói cần phải “chi viện” các đồng chí
Khơ-me đỏ. Cuộc chiến tranh tháng 2/1979 tuy trên phương diện quân sự
thì Trung Quốc thua, buộc phải rút quân về nước còn bị ta bắt sống
nguyên một đại đội; nhưng Trung Quốc cũng đã đạt được nhiều mục đích
riêng của họmà mục đích hàng đầu vẫn là để cầu thân với Mỹ (vốn là kẻ
thù số một của ta vừa bị Việt Nam đánh cho thua đến “lấm lưng trắng
bụng”) và phá hoại ba tỉnh của ta là Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai.
2.
...Lược
lại một đoạn lịch sử quan hệ Trung Quốc - Việt Nam, thì thấy: ngay từ
những năm 50 của thế kỷ 20, khi hai nước còn “hữu hảo” lắm, thì họ đã
muốn chinh phục ta bằng lý luận tư tưởng Mao Trạch Đông qua nhiều con
đường như sách báo, các đoàn cố vấn, các mối quan hệ qua lại… Ta cũng có
thời kỳ bị ảnh hưởng về lý luận tư tưởng đó. Bằng chứng là lúc đó trong
trường Đảng của ta còn có chương trình học tư tưởng Mao Trạch Đông và
trong thực tiễn cũng làm nhiều việc theo cách của Trung Quốc như việc
cải cách ruộng đất đấu tố địa chủ hoặc việc chỉnh đốn tổ chức cũng tổ
chức đấu tố “phản tỉnh” trong nội bộ. Sau này, khi phát hiện cải cách
ruộng đất là sai lầm, gây tổn thất nghiêm trọng, ta mới tỉnh ngộ, từ bỏ
tư tưởng Mao Trạch Đông và không tổ chức thực tiễn theo phương pháp của
Trung Quốc nữa. Thất bại trong việc chinh phục bằng lý luận tư tưởng,
Trung Quốc chuyển sang chính sách chinh phục ta bằng kinh tế. Từ năm
1954 về sau. Trung Quốc đã giúp ta xây dựng hàng loạt nhà máy xí nghiệp
(như Gang thép Thái Nguyên, Phân đạm Bắc Giang, Cao su - xà phòng -
thuốc lá Thượng Đình Hà Nội, Bóng đèn phích nước Rạng Đông v.v….) nhưng
chất lượng sản phẩm không cao bằng được Trung Quốc, một mặt vì họ cung
cấp thiết bị và công nghệ cũ, mặt khác dù có công nghệ tốt họ cũng không
chuyển giao cho ta.
Giúp
nhiều như vậy, một mặt họ bắt ta phải hàm ơn, phải đi theo; mặt khác,
buộc ta phải lệ thuộc họ về phụ tùng nguyên liệu. Vì vậy họ tiếp tục
giúp ta về tiền và vật chất mãi đến khi chúng ta giải phóng hoàn toàn
miền Nam. Cũng còn một mục tiêu là giúp Việt Nam là để giữ an toàn cho
phía Nam Trung Quốc (nếu để Mỹ chiếm được cả Việt Nam thì sẽ diễn ra
việc như vụ Mỹ ném bom sông Áp-lục sát biên giới và cả vào đất Trung
Quốc hồi chiến tranh Triều Tiên). Sau khi ta ký hiệp định Giơ-ne-vơ,
nước ta chia làm hai miền, Trung Quốc gợi ý ta xây dựng miền Bắc trước
và thực hiện trường kỳ mai phục ở chiến trường miền Nam. Ý đồ là giữ
chúng ta luôn ở thế yếu thì họ mới dễ khống chế (vì ta chỉ có một nửa
nước). Họ không muốn ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, thực hiện thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ, trở thành một nước mạnh tuột khỏi tay Trung
Quốc. Nhưng khi Mỹ đã gây hấn ném bom ra miền Bắc, đổ quân vào miền Nam
thì Trung Quốc vẫn giúp ta về vũ khí trang bị, về quân nhu hậu cần để an
toàn cho họ. Sau Tết Mậu Thân, khi Mỹ giao động quyết tâm, ta cũng thấy
có thời cơ thương lượng, thì Trung Quốc không muốn ta đàm phán mà muốn
ta “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” vừa để cho ta kiệt quệ vừa để
Mỹ sa lầy phải tìm đến Trung Quốc.
Qua
nhiều sự việc Việt Nam chỉ làm theo ý mình mà không làm theo ý họ, rồi
các nhà máy giúp Việt Nam cái thì kém hiệu quả, cái thì bị chiến tranh
làm hư hại… Trung Quốc thấy việc lấy kinh tế để điều khiển Việt Nam có
vẻ không thành công họ bèn chuyển sang thời kỳ ép ta về quân sự từ hai
phía hòng khiến ta phải quy phục: phía Bắc nước ta thì họ làm nhiều con
đường ra sát biên giới Việt Nam, phía Nam nước ta thì họ giúp tài chính
và trang bị cho Pôn-pốt để nắm vững quân bài, hình thành hai gọng kìm
kẹp hai đầu đất nước ta và đồng tình cho Pôn-pốt đánh ta làm cho ta tổn
thất và không yên ổn để xây dựng lại đất nước.
Trong
bối cảnh như vậy, quá trình tôi làm Đại sứ ở Trung Quốc đúng là một quá
trình chủ yếu là tranh cãi và đối phó. Thường xảy ra việc như thế này:
Mỗi khi có đoàn đại biểu nào của Việt Nam sang Trung Quốc thì tối hôm
đó, trên đài truyền hình và phát thanh của Trung Quốc đều nói đến vấn đề
“chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa là không
thể tranh cãi” (tức các quần đào Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam).
(Đối với các đoàn từ cấp Phó thủ tướng là họ đều làm như thế). Từ khi
xảy ra vụ “nạn kiều” và việc ta ký hiệp ước hợp tác hữu nghị với Liên Xô
thì các phương tiện thông tin đại chúng của Trung Quốc lúc nào cũng ra
rả lăng mạ “tập đoàn Lê Duẩn”. Khi tôi cho trưng bày hình ảnh Pôn-pốt
đánh phá biên giới Tây Nam nước ta ở bảng thông tin của sứ quán (đặt
ngoài hàng rào) từ phía Trung Quốc mời tôi lên Bộ Ngoại giao để gặp Thứ
trưởng Hàn Niệm Long, ông ta lên tiếng phản đối, đòi ta phải dỡ bỏ những
hình ảnh và lời tố cáo đó. Nhưng tôi lại nói: “Những việc mà tôi trưng
bày ra, đó đều là sự thật, chẳng lẽ Trung Quốc lại sợ sự thật? Hơn nữa,
cái bảng thông tin mà chúng tôi treo ảnh trên hàng rào Sứ quán đó là nằm
trong phạm vi chủ quyền của nước tôi, tôi không dỡ bỏ”. Ông ta nói:
“Trung Quốc không cho phép nước nào nói xấu nước thứ ba trong lãnh thổ
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”. Tôi nói: “Đồng chí nói sai rồi, cách
đây ba hôm, tôi thấy đồng chí còn giúp cho Đại sứ của Pôn-pốt họp báo
nói xấu Việt Nam chúng tôi và cuộc họp báo đó có nhiều cán bộ Trung Quốc
làm phiên dịch cho họ”. Nói xong tôi ra về.
Ngày
đến ngày 19-5, Sứ quán ta dự định chiếu phim Hồ Chủ Tịch vào buổi tốm
hôm 19-5, đúng ngày sinh nhật Người. Ta đã gửi giấy mời đến Sứ quán các
nước (lúc đó ở Bắc Kinh có độ trăm Sứ quán nước ngoài) trước đó bảy
ngày. Đúng buổi chiều hôm ta đã mời, Trung Quốc lại điện tất cả các Sứ
quán, mời đích danh các vị Đại sứ đúng 17 giờ đến Đại lễ đường nhân dân ở
Bắc Kinh để xem triển lãm về Thủ tướng Chu Ân Lai. Thong thông lệ quốc
tế, bao giờ các Đại sứ cũng phải ưu tiên đối với nước chủ nhà. Thế nên
cũng chiều hôm ấy, chúng tôi phải huy động toàn lực ra làm giấy mời, rời
buổi chiếu phim của ta sang 18 giờ chiều tối hôm sau. Thật là vất vả
với cái trò trẻ con của phía Trung Quốc!
Rồi
lại rất buồn cười là dạo đó Trung Quốc bố trí hai chiếc xe ô tô con
luôn luôn “chầu chực” ở hai cửa của Sứ quán ta, cán bộ sứ quán mình đi
đâu nó theo đấy, ngay Đại sứ đi nó cũng đi theo.
Một
lần nữa Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại mời tôi lên, đưa công hàm phản đối
Chính phủ Việt Nam xua đuổi và tước đoạt “nạn kiều” Trung Quốc. Tôi
nói: “Chính phủ Trung Quốc kêu gọi người Việt gốc Hoa về nước đã làm lỡ
cả một số công việc của chúng tôi tại nơi mà họ đang đảm nhiệm trong cơ
sở sản xuất và công sở. Hơn nữa, vào năm 1953, Chủ tịch Mao Trạch Đông
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thỏa thuận với nhau là người Hoa ở Việt Nam
được coi như công dân Việt Nam, do Việt Nam quản lý. Do đó, ở miền Bắc
nước tôi đã không có Hoa kiều nữa. Vậy lẽ nào chúng tôi lại xua đuổi
công dân của chúng tôi, cho dù họ là gốc Trung Quốc. Còn ở miền Nam,
trong thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu cầm quyền, người Hoa đều đã đăng ký quốc
tịch Việt Nam. Vậy cho đến nay trên cả nước Việt Nam đều không có ai là
Hoa kiều nữa”. Hàn (Niệm Long) nói: “Vậy các ngài cũng công nhận chính
quyền Nguyễn Văn Thiệu à?” - Rồi cuộc đối thoại cũng kết thúc.
Trong
năm 1977, lại một lần nữa Trung Quốc mời tôi, cũng lại tranh cãi vấn đề
Hoa kiều và người Hoa, không bên nào chịu bên nào. Sau khi đấu khẩu như
vậy, Trọng Hi Đông (Thứ trưởng Ngoại giao, nguyên là tướng trong quân
đội) nói: “Sống hòa bình với nhau thì tốt hơn, chiến tranh thì phức tạp
đấy”. Tôi nói: “Tôi cũng đã là tướng, tôi cũng biết thế nào là chiến
tranh. Và chúng tôi đã thắng Pháp và thắng Mỹ”.
Một
lần khác, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại mời tôi lên gặp một Thứ trưởng
Ngoại giao. Ông ta nhờ tôi gửi công hàm về cho Chính phủ ta, đồng thời
thông báo: “Do chính phủ Việt Nam bức hại Hoa kiều nên Chính phủ Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa quyết định đưa hai tàu Trường Lực và Minh Hoa vào
cảng Hải Phòng và cảng Sài Gòn để đón nạn kiều của chúng tôi”. Tôi nói:
“Tôi sẽ chuyển công hàm về cho Chính phủ. Nhưng trước hết tôi nói ở
Việt Nam không có nạn kiều. Và Chính phủ chúng tôi còn xem xét, tàu
Trường Lực và Minh Hoa có được phép vào Hải Phòng và thành phố Hồ Chí
Minh hay không đã, vì hai cảng đó thuộc chủ quyền của Việt Nam, không ai
được tự tiện vào”.
Khi
tôi từ Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra về, các phóng viên báo chí quốc tế
xúm lại hỏi tôi, tôi nói lại sự việc vừa rồi và nói thêm: “Cảng thành
phố Hồ Chí Minh và cảng Hải Phòng đâu phải là cái ao nhà của Trung Quốc
mà họ tự ý quyết định đưa tàu vào được”. Sau đó các phóng viên đã đưa
tin ra thế giới và tỏ ra thú vị với cách ông Đại sứ nói “cảng Việt Nam
không phải là cái ao nhà của Trung Quốc”.
Ngoài
những lần như vậy, còn có nhiều lần khác nữa, Bộ Ngoại giao Trung Quốc
luôn mời tôi lên, ngoan cố vu cáo Việt Nam ta, lần nào tôi cũng phải đấu
lý với họ. Về nguyên tắc, lập trường thì mình rất kiên quyết giữ vững,
nhưng về thái độ mình phải đúng mực. Thường là họ phải chịu mình vì họ
đuối lý.
3.
Một
lần tôi về nước báo cáo (lúc đó muốn về Việt Nam, phải bay từ Bắc Kinh
sang Mát-xcơ-va mới bay về được Hà Nội). Ra sân bay Bắc Kinh, nhân viên
sân bay muốn bắt tôi đi vào cửa kiểm tra hành lý, tôi không chịu, tôi
nói: “Tôi là Đại sứ, tôi được “miễn trừ ngoại giao” theo nguyên tắc quốc
tế, nên không ai được kiểm tra khám xét. Nếu các ngài ngăn cản không
cho tôi đi, tôi sẽ họp báo tố cáo các ngày vi phạm công ước quốc tế”.
Nhân viên sân bay chạy đi đâu đó, ý chừng là đi báo cáo thỉnh thị cấp
trên. Sau đó mở cho tôi đi theo đường cửa không soát hành lý.
Lần
khác, tôi cũng ra sân bay về nước, họ lại định bắt tôi đưa hành lý vào
cửa kiểm soát có chiếu tia X, tôi không chịu. Họ nói đây là kiểm tra an
ninh thôi mà. Tôi nói: “Kiểm tra gì tôi cũng không đồng ý, các người
nghĩ tôi là không tặc à? Từ trước tới nay tôi chưa hề được biết có nhà
ngoại giao nào làm không tặc cả. Nếu nghĩ tôi là không tặc, tại sao lại
chấp nhận tôi làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền bên cạnh Chủ tịch nước các
người? Tôi nói cho các người biết, là phía Trung Quốc cũng có Sứ quán ở
nước tôi, mà nguyên tắc ngoại giao là đối đẳng, nếu các người cố tình
kiểm tra hành lý của tôi, tôi sẽ báo cáo về chính phủ, để bên Việt Nam
cũng kiểm tra hành lý của Đại sứ các người khi xuất cảnh. Mà nước tôi
thì chưa có phương tiện kiểm tra hiện đại, nhân viên Việt Nam sẽ phải
mời Đại sứ các người đồng ý như vậy thì hãy làm bừa đi”. Nhân viên Trung
Quốc lại phải chịu lý của tôi, lại phải mời tôi đi theo cửa tự do,
không kiểm tra hành lý nữa.
Có lần tôi ngồi xe có cắm cờ Việt Nam đi từ Sứ quán ta ra, đến một đoạn đường nọ, mặc dù đồng chí Quảng đang lái rất nghiêm chỉnh đúng luật, thế mà cảnh sát Trung Quốc lại thổi còi bắt dừng xe, nói rằng anh đã vi phạm luật giao thông, rồi bắt lái xe xuất trình giấy tờ. Giấy tờ đủ cả ! Đồng chí lái xe nói: “Tôi đi đúng luật, không vượt đèn đỏ, không lấn sang phần đường của xe khác?”. Rồi họ cũng phải cho đi tiếp vì không biết làm cách nào, không tìm ra cái gì để bắt bẻ nữa (chủ yếu là họ làm chậm hành trình để tôi sai hẹn với đối tác hoặc với Đại sứ nước nào đó).
Trong
trường Đại học Bắc Kinh có nhiều sinh viên nước ngoài, có lần Trung
Quốc đã xúi bẩy số sinh viên các nước thân Trung Quốc đến biểu tình
trước Sứ quán ta. Ta đối phó việc đó bằng cách tuyên truyền vận động để
họ hiểu biết sự thật, ai phải ai trái, phần lớn họ hiểu ra và thôi không
tụ họp ở đó nữa. Nhưng cũng còn có 4,5 sinh viên cả trai lẫn gái còn ở
lại chỗ gốc cây bên kia đường đối diện của Sứ quán ta. Tôi phải cho
người đóng cửa Sứ quán vào và cử đồng chí Lê Công Phụng (lúc đó làm
phiên dịch tiếng Anh) ra giải thích cho đám sinh viên đó. Vì cửa đóng
sinh viên không vào được bên trong, họ ném trong bì thư (có lẽ bên trong
viết nhưng nội dung phản đối Việt Nam) vào sân của Sứ quán. Đồng chí
Phụng cầm phong bì ném ra, họ lại nhặt ném vào, đồng chí Phụng lại ném
ra và nói: “Các bạn đã bị Trung Quốc lừa rồi, hãy về mà chăm chú học đi
thôi”…
Cứ
cái cách như vậy thật mệt. Sau này gặp đồng chí Ngô Thuyền, người tiền
nhiệm của mình, tôi nói đùa: “Anh thì sang Trung Quốc uống rượu, tôi thì
sang cãi nhau!”.
Trong
thời gian quan hệ hai nước căng thẳng thì các đường đi lại giữa ta và
Trung Quốc bị cắt hết: cả máy bay, tàu hỏa, điện thoại. Chúng tôi ở Sứ
quán giữa Bắc Kinh mà cứ như ở đảo. Hàng ngày chỉ có hai ca liên lạc
VAC, một ca buổi sáng, một ca buổi tối để liên hệ và nhận chỉ thị từ
trong nước. Thành thử có nhiều việc xảy ra, chúng tôi phải tự động đối
phó. Cũng vì vậy, nên mỗi lần tôi hết nhiệm kỳ Đại sứ, Bộ Ngoại giao báo
cáo Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì đồng chí lại bảo: “Cứ để đồng chí Vĩnh ở
đấy”. (Hơn nữa, trong tình hình khó khăn như vậy, chẳng ai muốn sang
thay. Lúc ấy lương tôi chỉ được có 90 đô la một tháng, trong khi lương
Đại sứ Thái Lan cùng ở Bắc Kinh là 3.000 đô la. Đến năm 1990, đồng chí
Đặng Nghiêm Hoành sang làm Đại sứ ở Bắc Kinh, lương được 600 đô la một
tháng. Lái xe của sứ quán Lào cũng được 400 đô la một tháng).
Do
đã ở liền vài nhiệm kỳ ở Bắc Kinh, nên theo thông lệ quốc tế, tôi trở
thành Trưởng đoàn ngoại giao một thời gian khá dài. Ngoại giao đoàn rất
coi trọng chức trưởng đoàn đó, các Đại sứ mới đến Trung Quốc, sau khi đi
chào các vị lãnh đạo của nước chủ nhà thì đều phải đến chào trưởng đoàn
ngoại giao; khi tổ chức ngày Quốc khánh nước mình thì cũng đến mời
trưởng đoàn ngoại giao, mà lại bố trí ngồi chỗ trang trọng nhất trước
mặt mình. Khi có Đại sứ nào rời nhiệm, nếu có tổ chức gặp gỡ để chào từ
biệt ngoại giao đoàn, thì cũng mời trưởng đoàn ngoại giao và trưởng đoàn
ngoại giao sẽ thay mặt các Đại sứ phát biểu ý kiến tiễn biệt. Trong
suốt thời gian làm Trưởng đoàn ngoại giao, tôi đã phải làm đến 60 bài
diễn văn ngắn để chào mừng hoặc tiễn biệt những người đồng nghiệp. Tuy
ngắn vậy thôi, nhưng cũng không phải dễ làm, bởi vì mỗi vị Đại sứ đại
diện cho mỗi nước khác nhau, quan hệ với ta cũng khác nhau, 60 bài đòi
hỏi phải sát hợp với những hoàn cảnh khác nhau đó. Có lần ông Đại sứ
Thụy Điển đã nói với tôi: “Tôi theo dõi thấy ngài phát biểu không lần
nào giống lần nào”.
Có
chuyện ông Đại sứ Mỹ, khi đến nhận chức thì không đến chào tôi, nhưng
khi rời chức, tổ chức gặp gỡ để từ biệt thì lại đến Sứ quán ta thông báo
cho tôi là đã hết nhiệm kỳ và mời tôi đến dự. Tôi nói: “Khi ngài mới
đến, hoặc là ngài còn hận Việt Nam, hoặc ngài sợ Trung Quốc nên đã không
đến chào tôi. Nhưng hôm nay ngài đã đến và mời tôi tới dự buổi gặp mặt
từ biệt, tôi nhận lời và sẽ phát biểu ý kiến tiễn chân ngài”. Cái khó là
trong trường hợp này là, ca ngợi ông ta thì không được mà nói xấu ông
ta cũng không xong. Tôi phải tìm những câu vô thưởng vô phạt để nói,
cuối cùng thì cũng chức sức khỏe ông ta và gia đình, chúc ông ta lên
đường gặp mọi sự may mắn. Các Đại sứ khác nghe vậy cũng thấy là được.
Mặc
dù Trung Quốc lúc đó chẳng ưa gì Đại sứ Việt Nam, lại càng không ưa gì
một người luôn đấu lý (và lại hay làm họ cứng họng) như tôi, nhưng cũng
vì tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao nên dịp mừng Quốc khánh của họ hay dịp
các nguyên thủ các nước đến thăm mà Trung Quốc mở tiệc chiêu đãi trọng
thể, bao giờ họ cũng phải mời tôi ngồi bàn danh dự.
Rõ
ràng phía Trung Quốc không muốn tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao nhưng
không có cách gì truất chức đó của tôi, nên lắm khi họ bày ra những
chuyện nực cười, rất trẻ con để chọc phá tôi.
Cái
lần đoàn ngoại giao đi thăm tỉnh An Huy của Trung Quốc, khi kết thúc
hành trình, lãnh đạo địa phương tổ chức tiệc chiêu đãi tại một công
viên. Trước khi vào phòng tiệc, một cán bộ ngoại giao Trung Quốc đến nói
với tôi: Những lần trước ngài đã phát biểu rồi, lần này nên làm khác
đi, để ông Đại sứ Tan-za-nia (người thứ hai sau trưởng đoàn) phát biểu ý
kiến. Tôi nói: “Nếu không cần phải phát biểu ý kiến gì thì thôi, còn
nếu có, thì theo thông lệ quốc tế, tôi sẽ phát biểu chứ không phải người
khác. Nếu các ngài cố ý làm trái, tôi sẽ không dự bữa tiệc này. Vả lại
tôi cũng chẳng nói xấu gì về nước các ngài”. Cán bộ Trung Quốc nói: “Sẽ
không có ai phát biểu cả”. Vậy mà ngay lúc đó, phía Trung Quốc lại đi
vận động ông Đại sứ Tan-za-nia phát biểu trong bữa tiệc. Nhưng ông Đại
sứ Tan-za-nia nói: “Không được! Phát biểu là quyền của ông Đại sứ Việt
Nam. Chỉ khi nào ông ấy ủy quyền cho tôi thì tôi mới được nói”. Trong
khi các Đại sứ khác đều đi vào phòng tiệc, tôi vẫn đi ở vườn hoa chưa
vào. Lúc sau, cán bộ ngoại giao Trung Quốc ra mời tôi vào ngồi ở bàn số
Một, đối diện với Tỉnh trưởng An Huy. Bên cạnh tôi vẫn còn chỗ trống,
thì ra ông Đại sứ Tan-za-nia cũng ngại nên vẫn loanh quanh ngoài vườn
hoa chưa vào. Họ lại phải đi tìm và mời vào chố trống đó. Lúc khai tiệc,
chắc theo đạo diễn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Tỉnh trưởng không
nói gì. Tôi vẫn chủ động đứng lên nâng cốc, cảm ơn về chuyến đi, chúc
sức khỏe Tỉnh trưởng cùng Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc đi cùng và
tôi quay lại chúc sức khỏe các bạn đồng nghiệp. Tôi chúc xong mọi người
mới bắt đầu cầm đũa.
Trong
thời kỳ làm Đại sứ, thỉnh thoảng tôi có tổ chức họp báo, lúc thì để
giới thiệu tình hình nước ta, lúc thì để tố cáo bọn Pôn-pốt khiêu khích
đánh phá biên giới Việt Nam. Khi Trung Quốc đánh ta, tôi cũng họp báo và
tố cáo rằng: “Trung Quốc đang dùng 3 sư đoàn tiến đánh Việt Nam”. Một
nhà báo Mỹ đứng lên nói: “Ngài Đại sứ nói quá lên thế chứ, còn theo tình
báo của chúng tôi thì đâu có nhiều quân đến thế?”. Tôi nói: “Việc chúng
tôi thì chúng tôi biết hơn ai hết. Còn tình báo của các ngài thì chúng
tôi cũng đã biết. Tết Mậu Thân năm 1968, quân chúng tôi vào đánh khắp
nơi, đánh cả vào Sứ quán Mỹ, mà trước đó tình báo Mỹ có biết gì đâu!”.
Các nhà báo cười ồ cả lên. (Đến đây tôi chợt nhớ một chuyện về ngài Đại
sứ, cũng là Mỹ ở Trung Quốc: Khi đến nhận chức ở Bắc Kinh, ông ta không
đến chào tôi, vì vậy sau đó mỗi khi đứng cương vị Trưởng đoàn ngoại giao
có việc gì cần gửi thông báo đến các Đại sứ, tôi không gửi cho Sứ quán
Mỹ và cho ông ta. Một số Đại sứ khác ở Trung Quốc thấy tôi có thái độ
“tẩy chay” Đại sứ Mỹ, đã đến vận động tôi đừng làm như vậy. Nhưng tôi
nói, khi đến ông ta cậy thế nước lớn không đến chào tôi, vì vậy tôi cũng
không việc gì phải giao thiệp với ông ta. Không biết có phải ông Đại sứ
Mỹ đã được chuyển đến tai câu nói đó của tôi hay không, mà khi tổ chức
chiêu đã rời nhiệm sở, ông ta lại phải đến tận nơi mời tôi?).
4.
Làm
Đại sứ ở Trung Quốc trong những năm Trung Quốc cố tình khiêu khích và
biến Việt Nam thành kẻ thù, đã đành là rất căng thẳng thần kinh và hao
tổn thể chất; nhưng với tôi, cũng không phải là hoàn toàn chỉ có vất vả
gian khổ. Cũng có những khi được “đắc ý” chứ. Ấy là niềm vui sau những
cuộc đấu lý với Trung Quốc. Họ thì hùng hùng hổ hổ, đập bàn đập ghế,
dùng những lời lẽ đao to búa lớn để vu cáo trắng trợn và đe dọa ta. Tôi
thì vận hết “nội công” cố sức kiềm chế để không bị cuốn vào cái kiểu
hùng hổ bất lịch sự, phi ngoại giao đó, để tìm những lý lẽ và ngôn từ
đích đáng, đập lại họ, buộc họ phải rút dù. Sau mỗi cuộc như vậy, tôi
thấy như người đánh cờ, thắng được một ván là có được một niềm vui.
Hơn
nữa, cũng có những lúc mình được hưởng cái sung sướng thực sự, đó là
vào những cuộc “lữ hành ngoại giao” mà phía Trung Quốc, với cương vị
nước chủ nhà đã tổ chức cho đoàn ngoại giao đi chơi thăm thú các nơi
phong cảnh đẹp hoặc lạ ở trên đất nước họ. Tôi nghĩ nếu không có dịp làm
Đại sứ thì đã mấy khi mình được du lịch không mất tiền nhiều như vậy?
Năm
1974, khi mới sang Trung Quốc, tôi được đi chuyến “lữ hành ngoại giao”
thăm Côn Minh, đó là một thành phố đẹp và loại nhất của Trung Quốc,
thuộc tỉnh Vân Nam sát với Việt Nam ta. Côn Minh còn được người Trung
Quốc gọi là “Xuân Thành” vì khí hậu rất tốt, quanh năm mát mẻ như mùa
xuân. Ở Côn Minh có rất nhiều phong cảnh đẹp và kỳ lạ như Thạch Lâm, Hồ
Điền Trì, Ôn Tuyền v.v… rất nhiều chùa chiền đẹp và khuôn viên rộng lớn,
sạch sẽ. Vì Côn Minh ở độ cao trên 1.500m nên người dân lúc nào cũng
mặc áo len, trông lại càng nhiều màu sắc bắt mắt, ở đây cũng lưu truyền
câu nói “nhất vũ thành đông” (tức là hễ có một trận mưa là rét như mùa
đông). Ở đây có hai vị thuốc quý là đông trùng hạ thảo và tam thất (ở
Vân Nam trồng thì gọi là Điền thất, Điền thất là thứ tam thất hàng đầu
của Trung Quốc). Ở Côn Minh, chúng tôi được thưởng món đặc sản “bún qua
cầu” rất lạ. Một sợi bún dài như vô tận được cho đi qua một bát nước
dùng mà trên mặt có váng mỡ để giữ cho được nóng lâu. Người ăn cứ việc
hút sợi bún đó mà ăn đến no thì dừng lại. (Phải mở ngoặc là lúc đó Trung
Quốc còn chưa trở mặt với ta, tôi còn được vợ đồng chí Lý Thế Thuần đưa
đi và làm phiên dịch - Khi tôi đã nghỉ hưu, đồng chí Lý Thế Thuần làm
Đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội).
Năm
1975, tôi lại được cùng đoàn ngoại giao đi Tân Cương, đó là nơi biên
giới xa xôi, giáp với Liên Xô. Ở đây cuộc sống và phong tục rất khác lạ.
Họ cho ăn thịt cừu và uống sữa ngựa. Thứ sữa đó mùi vị như bia, uống
vào thấy hơi say say, họ nói chỉ có khách quý mới được uống, còn thì chỉ
dành cho bệnh viện, nhất là cho người bị bệnh lao. Ở Tân Cương có giống
dưa lưới và đào bẹt (gọi biển đào), ăn cực ngon. Chúng tôi đến Tân
Cương đúng vào mùa đào chín, họ cho vào vườn tha hồ hái, ăn chán thì
thôi. Chúng tôi cũng gặp nhiều người dân địa phương ở đây, họ ăn mặc rất
rực rỡ, đàn ông thì cao lớn, phụ nữ thì xinh đẹp như tiên, trông họ có
vẻ như lai Á lai Âu, nét mặt thật sáng sủa.
Năm
1976, lại được đi chơi núi Thái Sơn (thuộc tỉnh Sơn Đông). Mặc dù không
phải núi cao và lớn hàng đầu của Trung Quốc, nhưng Thái Sơn (cao 1.500m
so với mặt nước biển) lại rất nổi tiếng, đã đi vào câu nói hàng ngày và
văn thơ của Trung Quốc. Ở Trung Quốc người ta thường nói “có mắt mà
không nhìn thấy Thái Sơn” hoặc “nặng như Thái Sơn”… Ngay cả trong thơ ca
Việt Nam cũng có câu “Công cha như núi Thái Sơn - Nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra” v.v… Phong cảnh ở đây rất đẹp, y như trong tranh
thủy mặc ở Trung Quốc vậy. Và rất tự hào là trong chuyến đi đó, cả đoàn
ngoại giao, chỉ có tôi và hai vợ chồng ông Đại sứ Hung-ga-ri là trèo
được mấy ngàn bậc đá lên tận đỉnh Thái Sơn, đứng đó để ngắm ra tận biển
Đông của Trung Quốc được xem mặt trời mọc từ biển lên rất hay. Tận trên
đỉnh cao như vậy mà người Trung Quốc từ xưa đã xây được lâu đài đình các
nguy nga, kể cũng đáng nể.
Năm
1980, sau khi Trung Quốc đã gây hấn đánh Việt Nam rồi, nhưng vì vẫn có
chuyến “lữ hành ngoại giao” và vì tôi là Trưởng đoàn nên họ phải mời tôi
cùng đoàn đi chơi tỉnh An Huy, thăm thắng cảnh Hoàng Sơn, cũng là một
trong những cảnh đẹp hàng đầu của Trung Quốc, có nhiều cây thông cổ thụ
mọc trên vách đá cheo leo, đủ hình đủ thế, theo đường núi lên đến đỉnh
thì thấy đền đài cổ kính, xây cất rất đẹp và công phu. Từ cổ xưa, các
triều đại phong kiến Trung Quốc đã hay tìm những nơi có cảnh thiên nhiên
đẹp, cho xây dựng lên những công trình tráng lệ và cũng may cho đất
nước Trung Quốc là ít bị chiến tranh tàn phá nên bây giờ các công trình
còn lại khá nhiều.
Thông
thường đoàn ngoại giao đi đến tỉnh nào thì Tỉnh trưởng ở đó tiếp đón và
khi kết thúc chuyến đi thì Tỉnh trưởng lại đãi tiệc. Trước bữa tiệc,
sau khi Tỉnh trưởng phát biểu thì đến Trưởng đoàn ngoại giao thay mặt
các Đại sứ đọc đáp từ. Thời kỳ quan hệ hai nước đang căng thẳng thì tôi
làm Trưởng đoàn ngoại giao, khi nói đều phải tránh không ca ngợi lãnh
đạo và thành tích của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, chỉ ca tụng cảnh
đẹp của địa phương, sự đón tiếp của những nơi đoàn đến thăm, các sản
vật quý của địa phương, chúc sức khỏe các vị lãnh đạo địa phương để lãnh
đạo phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân trong địa bàn…
(Riêng lần đi An Huy này thì có chuyện buồn cười như đã thuật ở phần
trên).
Thời
gian ở Bắc Kinh, tôi cũng tạo được điều kiện cho vợ chồng Minh Hà (con
gái thứ 3 lấy chồng người Đức là Verner) từ Đức sang thăm Trung Quốc. Và
một lần từ Trung Quốc bay sang Mát-xcơ-va, tôi và bà xã cũng tranh thủ
đi xe lửa sang chơi bên Đức, thăm nhà con gái.
Cũng nhờ việc làm Đại sứ ở Bắc Kinh nên tôi còn được biết cả thủ đô các nước Triều Tiên, Ap-ga-nit-xtan, Pa-kit-xtan nữa.
Vào
mùa hè năm 1977, có Hội nghị quốc tế về nông nghiệp do Triều Tiên đăng
cai. Bên nước điện sang cử tôi và anh phiên dịch tiếng Anh đi dự, vì vậy
có dịp thăm quan thành phố Bình Nhưỡng thủ đô Triều Tiên. Thành phố đó
không gọi là lớn nhưng rất đẹp, các công trình kiến trúc cũng đẹp, có vẻ
phô trương, đồ sộ. Ví dụ có một nhà hát chỉ độ 500 chỗ nhưng khuôn viên
khá lớn và trang trí rất lộng lẫy. Đường phố hai bên trồng toàn cây ngô
đồng, đang mùa hè nên lá rất xanh tốt. Tôi được ăn một bữa tiệc ngồi
cùng bàn với ông Kim Nhật Thành và lần đầu tiên được biết món “kim chi”
nổi tiếng của Triều Tiên, rất ngon.
Một
lần tôi đi tháp tùng đồng chí Nguyễn Duy Trinh (Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao) đi thăm Ap-ga-nit-xtan, đến thủ đô Ca-bun, thật tiếc là thủ đô đó
chẳng gây cho mình ấn tượng và cảm xúc gì. Sau khi đi thăm
Ap-ga-nit-xtan (lúc đó có chính quyền thân Liên Xô), đoàn sang thăm
Pa-kit-xtan nhưng chẳng được việc gì, họ đối xử rất nhạt nhẽo vì họ đang
theo Trung Quốc, mâu thuẫn với Ap-ga-nit-xtan. Ở Pa-kit-xtan không được
uống bia rượu và ăn thịt lợn, vì nước đó theo đạo Hồi. Pa-kit-xtan lúc
đó rất nghèo và phụ thuộc Trung Quốc. Có một con đường lớn nối từ thủ đô
Is-la-ma-bat đến Trung Quốc men theo sườn dãy Hi-ma-lay-a, được biết là
do Trung Quốc làm giúp. Thành phố Ca-ra-si, nơi có sân bay quốc tế, gọi
là lớn nhưng lúc đó cũng rất lèo tèo.
Có
một việc dường như cả những người thân cũng ít biết đến, đó là thời
gian tôi được cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Trung
Quốc, thì cũng kiêm luôn cả chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam
ở Pa-kit-xtan. Khi bay từ Bắc Kinh sang Is-la-ma-bat, qua dãy
Hi-ma-lay-a nóc nhà thế giới, nhìn thấy tuyết phủ dày trắng, mấy người
cũng đã nói đùa với nhau: giá mà rơi xuống đây thì đố có ai tìm được!
Đến thủ đô Pa-kit-xtan tôi phải đi trình quốc thư; rất ấn tượng với nghi
lễ của nước này: họ cho xe song mã, có lính bồng súng rất trang trọng
và rất oai đến đón. Đại sứ được ngồi xe song mã, đằng sau có 6 người
lính cưỡi ngựa cầm giáo hộ tống vào phủ Tổng thống.
Lại
nói chuyện về đi lại ở Trung Quốc, ngoài những chuyến đi với đoàn ngoại
giao, còn có một chuyến đi đáng nhớ nữa. Đó là chuyến đi theo đường sắt
Côn Minh - Thành Đô vào năm 1977. Dạo đó ở thành phố Côn Minh, ta có
một cơ quan Tổng lãnh sự, lại có khá đông các gia đình Việt kiều. (Số bà
con đó trước làm thợ hỏa xa phục vụ đường sắt Hải Phòng - Côn Minh từ
thời Pháp, sau ở lại Côn Minh). Vì vậy tôi có xuống thăm cơ quan và bà
con. Bình thường xuống Côn Minh, tôi vẫn đi theo đường xe lửa phía Đông,
từ Bắc Kinh qua Trịnh Châu, Vũ Hán, Trường Sa, Quý Dương rồi đến Côn
Minh và ngược lại. Đồng thời, theo quy định của Trung Quốc thì khách
nước ngoài muốn mua vé xe lửa phải mua qua “lũ hành xã” (kiểu như du
lịch quốc doanh bên ta) mới được. Những lần đó không hiểu sao anh em ở
cơ quan Lãnh sự quán lại tự đi mua được vé, mà lại mua được vé theo con
đường phía Tây. (Tức đường từ Côn Minh đến Thành Đô rồi qua Tây An, Thái
Nguyên về Bắc Kinh). Tôi cũng thích đi theo con đường đó vì chưa đi lần
nào, hơn nữa lại nghe nói rất nhiều về việc hoàn thành đoạn đường Thành
Đô - Côn Minh mới làm, Trung Quốc coi là thắng lợi lớn vì đoạn đó rất
khó thi công… Tôi đi cùng hai đồng chí Bí thư ở Sứ quán. Trên đường, qua
quan sát thì thấy quả là “danh bất hư truyền”, không thể không ngạc
nhiên thán phục công trình hoành tráng như thế. Xe lửa phải đi trên sườn
núi đá dài rất hiểm trở, vì vậy có nhiều hầm tuy-nen chui qua núi,
nhiều cầu cạn chênh vênh bắc giữa hai ngọn núi và nhiều đoạn leo đèo dốc
quanh co. Có đoạn qua sông Kim Sa nổi tiếng hung dữ (đã được nhắc đến
trong truyền thuyết thày trò Đường Tăng và Tôn Ngộ Không đi Tây Trúc lấy
kinh). Trên tàu, chúng tôi vô tư dùng tiếng Việt nói chuyện với nhau
nên đã gây chú ý cho nhân viên xe lửa Trung Quốc, có lẽ vậy họ mới đi
gọi điện báo cho người ở đâu đó. Một lúc sau, thấy hai nhân viên ăn mặc
sắc phục đường sắt đến ngồi bắt chuyện với chúng tôi. Khi đến Thành Đô,
họ nói: “Xe lửa bị hỏng, đề nghị các vị xuống phòng đợi”, họ xách hộ
hành lý cho chúng tôi. Sau đó họ nói tầu bị nghẽn còn lâu mới sửa xong.
Họ đưa chúng tôi vào một khách sạn trong Thành Đô. Ngày hôm sau chúng
tôi đường dẫn đi xem thành phố, được thăm nhà lưu niệm thi hào Đỗ Phủ.
Tối về họ nói: “Thôi các vị phải đi máy bay về Bắc Kinh thôi”. Tôi nói:
“Chính phủ chúng tôi cấp tiền có hạn, không đủ tiền mua máy bay”. Họ
nói, sẽ giúp đòi lại tiền tàu của cơ quan đường sắt để các vị mua vé máy
bay. Tôi nói, dù có lấy lại được thì số tiền đó cũng không đủ mua vé
máy bay, chúng tôi còn nghèo, phải tiết kiệm. Chúng tôi sẽ đợi đến bao
giờ xe lửa thông thì chúng tôi sẽ về Bắc Kinh. Không còn cách nào, cuối
cùng họ phải nói thẳng: “Tuyến đường xe lửa này, Chính phủ nước Cộng hoà
nhân dân Trung Hoa không cho phép người nước ngoài đi”. Lúc này chúng
tôi mới biết họ là công an mật đã lên kèm chúng tôi từ giữa đường đến
Thành Đô. Sau đó phía Trung Quốc phải bỏ tiền lấy vé máy bay cho đoàn
chúng tôi về Bắc Kinh. Thì ra đường sắt Thành Đô - Côn Minh mà Trung
Quốc cố làm cho bằng được đó là con đường chiến lược bí mật của họ. Năm
1979 khi Trung Quốc tấn công ta thì cũng có một cánh quân xuất phát từ
Đại quân khu Thành Đô vào đánh ta ở hướng Lào Cai. Ta bắt sống được một
Đại đội, họ khai rằng, họ là quân của sư đoàn 150, quân đoàn 50 thuộc
Đại quân khu Thành Đô, được chở bằng xe lửa từ Thành Đô đến biên giới
Việt Nam qua Côn Minh.
5.
Khoảng
cuối năm 1985 (tức cuối kỳ làm Đại sứ), bỗng nhiên tôi bị những cơn tim
đập nhanh (140 nhịp một phút), phải đến bệnh viện Trung Quốc để khám.
Nhưng đi đến giữa đường thì cơn tim đó lại dừng nên đến bệnh viện khám
không thấy gì. Lần thứ hai cũng vậy, lần thứ ba thì cùng với cơn tim đập
nhanh lại kèm theo sốt nhẹ, tôi phải vào nằm viện để điều trị. Bệnh
viện cũng làm đủ mọi động tác xét nghiệm cần thiết như: đo điện tim,
siêu âm tin phổi thận, rửa ruột, xét nghiệm máu, soi dạ dày v.v… Sau một
loạt khám nghiệm cẩn thận như thế mà họ cũng chỉ kết luận được là “tim
đập nhanh đậu tính kèm theo sốt”. Tôi đề nghị điều trị theo cách Đông –
Tây y kết hợp. Họ chấp nhận nên hàng ngày cho thuốc viên đồng thời sắc
thuốc bắc cho tôi. Họ bố trí tôi nằm riêng một phòng có điều hòa nhiệt
độ và mắc vào người tôi những dụng cụ để theo dõi nhịp tim thường xuyên,
có màn hình hiện lên trước mặt, nằm ở giường cũng có thể trông thấy. Hễ
hơi động cựa mình hoặc dãy chân một tý là màn hình hiện lên con số 150
nhịp/ phút ngay. Về ăn uống bệnh viện cũng lo rất khá, 5 bữa một ngày.
Sáng sớm thì bánh bao hoặc sủi cảo, giữa buổi uống sữa, trưa ăn cơm, 2-3
giờ chiều ăn bánh ngọt hoặc hoa quả, tối ăn cơm. Điều trị được ba, bốn
ngày, bệnh tim vẫn không chuyển biến. Thế là lại phải nhịn ăn, lấy máu
xét nghiệm, lại rửa ruột… vẫn không tìm ra nguyên nhân gì. Rồi đến một
lúc tôi không ăn được, không ngủ được, thỉnh thoảng lại còn bị cảm (sau
mới biết là nằm trong phòng có điều hoà nhiệt độ thường xuyên, tôi không
quen nên mới bị cảm lạnh). Tình hình cứ thế kéo dài, tôi ngày càng gầy
sút, chân tay trở nên uể oải không có lực. Đến nỗi việc tắm rửa cũng
không tự mình làm được, phải nhờ anh em trong Sứ quán mình vào tắm giúp.
Rồi đến lúc giơ tay lên đánh răng rửa mặt cũng thấy mỏi rã ra. Sau một
tháng tôi sút mất 10 cân, chân tay lẩy bẩy, đi lại phải vịn, phải lần.
Tôi nghĩ nếu cứ nằm đây thì sẽ suy sụp đến chết mất. (Trong khi đó ở Sứ
quán, anh em đã họp bàn với nhau, nói đến việc nếu Đại sứ chết thì chôn ở
Bắc Kinh hay đưa thi hài về nước). Tôi nói với bệnh viện là mình đỡ
rồi, xin về Sứ quán chữa ngoại trú, tôi không dùng máy điều hoà nhiệt
độ, chỉ dùng quạt ở mức nhẹ nhất, cho quay đi quay lại phe phẩy thôi.
(Ngoài trời lúc đó đang là nóng nhất trong năm). Về ăn uống thì chú Quế
(nấu cơm cho tôi đã lâu năm rất tận tình) thường đi mua thịt bò về làm
cho chín tái đi rồi ép lấy nước cho tôi, hoặc chú nấu cháo gà cho, nhưng
tôi vẫn chỉ ăn được một chút. Tôi thấy ngủ được hơn trong bệnh viện và
uống được chút nước thịt cũng hấp thu tốt hơn. Hàng ngày tôi vào bệnh
viện cho họ bắt mạch và cắt thuốc bắc về uống, vì hàng ngày vẫn còn sốt
âm ỷ. Tôi xem đơn thuốc họ kê cho thì thấy trong đó có nhiều vị tác dụng
tư âm thanh nhiệt, lần nào cũng thế. Từ trước tôi đã có mua và đọc
nhiều sách thuốc của Trung Quốc, đã có chút hiểu về Đông y; vì vậy khi
đọc đơn thuốc đó, tôi suy nghĩ: đã tư âm thanh nhiệt mãi mà không khỏi
sốt, ắt trong người phải có chỗ viêm nhiễm nào đấy (mà có thể nó chưa đủ
lớn để thày thuốc phát hiện được). Tôi nhờ anh Bảng phiên dịch tiếng
Trung Quốc ra hiệu thuốc mua cho vị kháng sinh thực vật là bồ công anh,
kim ngân hoa vàliên kiều về bỏ vào thang thuốc của bệnh viện sắc uống
trong ba ngày. Uống xong ba ngày thì hết sốt, sau đó tôi thấy trong
người ngày càng khá hơn lên, dần dần ăn được ít cơm. Tuy vậy người vẫn
còn yếu. Tôi định rủ bà xã về nước (tôi nghĩ nếu có chết thì chết trong
nước cho khỏi phức tạp, phiền hà đến cơ quan, tổ chức). Vừa lúc đó,
chị Lan bác sĩ của Sứ quán lại phát hiện bà xã tôi bị vàng da, vàng mắt;
đưa đi bệnh viện khám thì ra viêm gan cấp tính, phải nằm viện chuyên
khoa cách ly điều trị một tháng. Khi bà xã tôi khỏi bệnh ra viện, chúng
tôi cùng rời Bắc Kinh về nước. Khi ra sân bay, bác sĩ của Sứ quán vẫn
phải đưa tôi đến tận chân thang máy bay. Về đến Hà Nội, bác sĩ của Bộ
Ngoại giao ta phải ra tận máy bay đón tôi. Khi tôi có việc lên Bộ Ngoại
giao, chỉ có thể đứng dưới nhắn người của vụ Trung Quốc xuống mà gặp.
Tôi không còn đủ sức trèo lên tầng ba để làm việc. May mắn là tôi có đem
về được hai hộp bột tam thất Vân Nam (là thứ tốt nhất hồi đó, ở Việt
Nam hầu như không thể kiếm được). Tôi uống bột tam thất, đồng thời động
viên bà vợ cùng ăn gạo lứt để chữa bệnh. Kiên trì ngày một bữa gạo lứt
trong hơn hai tháng thì sức khoẻ tôi đã hồi phục như bình thường.
Người
ta nói “trong cái rủi có cái may”, bị một trận ốm thập tử nhất sinh ở
Bắc Kinh như trên đã nói, rõ ràng là chẳng ai muốn, nhưng qua trận ốm đó
tôi lại học được nhiều việc, tôi trở nên chú ý suy ngẫm, rút kinh
nghiệm về bảo vệ sức khỏe và thêm hứng thú đi sâu nghiên cứu Đông y hơn.
Sau này khi có điều kiện, tôi đã mầy mò nghiên cứu học hỏi cho có bài
bản và trở thành thày lang của gia đình, chữa được nhiều bệnh cho vợ
con, cháu chắt, bạn bè….
Cái
thời những năm 80 thế kỷ trước, ở trong nước mọi thứ hàng hóa đều khan
hiếm. Mỗi lần về nước là cán bộ nhân viên Sứ quán ta đều tranh thủ mua
các thứ hàng tiêu dùng đem về, kỳ cho hết tiêu chuẩn trọng lượng hàng
được phép theo quy định của hàng không mới thôi. Chú Quế đầu bếp của tôi
cũng vậy, mua cả táo tàu (thứ táo nhỏ của Tàu sấy khô, quả nhăn nheo
màu đỏ nâu hoặc đen) đem về ngâm vào phích nước nóng để uống. Một hôm
chú khoe với tôi: “Cái ruột phích của em ngâm táo tự nhiên lại sáng
choang như mới”. Nghe vậy, tôi bèn nghĩ: có lẽ trong táo tàu có chất
a-xít gì đánh tan được cặn can-xi bám trong ruột phích nước. Rồi một lần
về nước tôi cũng mua theo mấy cân táo tàu, về qua Thái Lan, ngủ ở nhà
khách Sứ quán ta ở Băng-cốc cùng với một đồng chí cán bộ của ta cũng đi
qua, tôi đem táo tàu mời đồng chí đó ăn. Đồng chí nói: “Trước đây tôi bị
sỏi thận, có người bạn cũng cho tôi một cân táo tàu. Sau khi ăn ít hôm
thì thấy đau bụng dưới nhiều, hai ba hôm mới khỏi”. Tôi hỏi: “Từ đó đến
nay anh còn thấy đau nữa không?”. Đồng chí nói không. Thế là liên hệ
việc này với việc cái ruột phích của chú Quế, tôi phát hiện ra rằng
trong táo tàu có chất làm tan sỏi can-xi, khi ăn táo tàu nó bào mòn viên
sỏi làm sỏi nhỏ đi đến mức có thể bài tiết ra ngoài qua đường niệu,
trên đường đi ra, nó chà xát vào niệu quản làm đau. Đến lúc đồng chí
Bảng được điều sang làm phiên dịch cho tôi thay một đồng chí khác đã hết
nhiệm kỳ. Gặp tôi, Bảng nói: “Em bị sỏi thận đang điều trị thì Bộ bắt
sang đây”. Tôi bảo Bảng ra ngoài hiệu thuốc mua lấy một cân rưỡi táo
tàu, hai buổi, buổi sáng chiều trước bữa cơm đều ăn lấy một vốc. Mấy hôm
sau Bảng nói với tôi: “Em có cảm tưởng sỏi nó đi đến gần xương cụt
rồi”. Vài hôm sau nữa thì sỏi ra ngoài. Từ đó trở đi Bảng không bị đau
thận nữa. Thế là chắc chắn “phát hiện” được thứ thuốc vừa ngon vừa lành
là táo tàu nên dùng đủ liều lượng thì có thể làm tan sỏi can-xi trong
thận!
Tôi
nghĩ, 13 năm ở Bắc Kinh, vừa phải đấu tranh căng thẳng với Bộ Ngoại
giao Trung quốc, vừa phải chống đỡ bệnh tật, nếu mình không đọc sách và
biết về thuốc, cứ phó thác thân mình cho các giáo sư bác sĩ ở bệnh viện
Bắc kinh thì có lẽ đã chết từ lâu rồi. Tự mình cứu mình nên đã sống thêm
được vài chục năm nữa. Vào năm 1985,
sau khi quan hệ Trung Quốc – Việt Nam đã bình thường hoá trở lại, Hiệp
hội Ngoại giao Trung Quốc đã mời tôi với đồng chí Ngô Minh Loan, đồng
chí Nguyễn Minh Phương là ba Đại sứ cũ ở Trung Quốc sang thăm nước họ.
Tôi lại làm Trưởng đoàn, Đại sứ Lý Thế Thuần lại hỏi tôi muốn đi thăm
nơi nào? Tôi nói tôi đi thăm đã gần hết các tỉnh của Trung Quốc, chỉ còn
Hàng Châu và Thâm Quyến là chưa được đi. Hiệp hội Ngoại giao đã đáp ứng
một cách nhiệt tình mấy nguyện vọng của tôi, mời cả đồng chí Hứa Pháp
Thiện (tên Việt Nam là Thanh) vốn là cố vấn của Cục Tổ chức chúng tôi
trong kháng chiến chống Pháp đến dự buổi chiêu đãi của họ (trong bữa
tiệc có cả Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc đến dự). Cuộc gặp rất vui
vẻ. Phó Thủ tướng Trung Quốc cũng có buổi tiếp chúng tôi. Sau đó Hiệp
hội cử một nữ Trưởng phòng là Trịnh Nại Linh tháp tùng chúng tôi đi thăm
quan các nơi như Hàng Châu, Thâm Quyến. Đi đến đâu họ cũng bố trí cho
chúng tôi ở khách sạn 5 sao, riêng tôi được bố trí ở phòng VIP bằng tiêu
chuẩn Phó thủ tướng có phòng ngủ, phòng khách riêng. Ở địa phương nào
cũng có Phó tỉnh trưởng đến tiếp đón. Tôi thấy chỉ mới cách 8 năm thôi
mà Trung Quốc thay đổi ghê gớm. Thâm Quyến xưa chỉ là bãi đất hoang mà
nay trở thành một thành phố hiện đại hoàn chỉnh. Trong thành phố có một
công viên rất rộng lớn gọi là tiểu Trung Hoa, họ xây dựng tất cả các
danh lam thắng cảnh (thu nhỏ) tiêu biểu của các tỉnh Trung Quốc (ví dụ
trong đó có Cố Cung, Trường Thành, Tây Hồ, Thái Hồ…). Còn Quảng Châu,
Bắc Kinh tựa hồ như đã lột xác, trở thành những thành phố tráng lệ sầm
uất gấp hàng chục lần so với lúc tôi làm Đại sứ.
Khi
tôi đã thôi nhiệm vụ Đại sứ về nước, thì ở Việt Nam, Trung Quốc đã lần
lượt thay mấy đời Đại sứ: Lý Thế Thuần, Trương Đức Duy, Lý Gia Trung, Tề
Kiến Quốc đến Hồ Càn Văn. Họ đều biết tôi từ khi họ còn là các cán bộ
phiên dịch của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đã dịch cho quan chức ngoại
giao Trung Quốc “đấu đá” với tôi. Vì biết tôi là Đại sứ kỳ cựu nên mỗi
khi có dịp chiêu đãi nhân Quốc khánh Trung Quốc hay nhân dịp kỷ niệm
thành lập quan hệ ngoại giao hai nước, họ đều nhớ mời tôi.
Năm
1987, tôi được chính thức cho phép rời Sứ quán ở Bắc kinh sau khi đã
hoàn thành tốt nhiệm kỳ Đại sứ dài dặc nhất trong lịch sử các Đại sứ
Việt Nam ở nước ngoài: mười ba năm. Nghỉ ngơi trong một thời gian thì Bộ
Ngoại giao yêu cầu tôi viết Hồi ký 13 năm làm Đại sứ ở Trung Quốc. Tôi
đã viết xong và nộp cho Bộ Ngoại giao. Đến năm 1990 thì thực sự nghỉ
hưu.
Khi
về nước được hai năm, tôi gặp một đồng chí quan lúc đó là cán bộ của
Ban Tổ chức Trung ương. Đồng chí hỏi: “Anh được tặng Huân chương Hồ Chí
Minh năm 1987, anh đã nhận được chưa?”. Tôi bảo tôi không biết gì! Ban
Tổ chức Trung ương bèn hỏi bên Bộ Ngoại giao. Thì ra Vụ Tổ chức Bộ Ngoại
giao đã nhận, đem cất đi rồi quên mất (!) Vì vậy cho nên mãi đến năm
1990 trước khi tôi nghỉ hưu, Bộ Ngoại giao mới mời tôi lên. Đồng chí Bộ
trưởng trao huân chương cho tôi và tặng một số tiền kèm theo là 100.000
đồng trong cuộc họp mặt có đông đủ cán bộ từ Vụ trưởng, Vụ phó trong Bộ.
Lúc đó tôi mới tức cảnh làm bốn câu thơ:
“Vừa rồi được tấm Huân chương
Xa xôi nó phải đi đường hai năm
Bộ Ngoại giao tặng thêm một trăm
Đủ tiền làm một bữa nem ăn mừng!”.
Như
vậy, năm 1990 đã kết thúc một quãng đời quan trọng của tôi mà tôi gọi
là “thanh niên ba sẵn sàng”. Tôi luôn sẵn sàng chấp hành mọi sự điều
động của Đảng, Nhà nước, không tính toán thiệt hơn, không hề có đề nghị,
yêu cầu gì, nhận được mệnh lệnh là lên đường đi làm nhiệm vụ thậm chí
không đợi cả làm đủ giấy tờ thủ tục, chẳng ngại sự thiệt thòi về lương
bổng, về chế độ đãi ngộ, về nhà cửa. Với việc nào, tôi cũng chỉ đinh
ninh một điều là làm sao cho tốt nhất so với năng lực của mình. Trong
thời gian từ khi kết thúc kháng chiến chống Pháp đến năm 1990, tôi được
phân công làm nhiều công tác như đã thuật ở trên, nhưng có thể nói có
hai việc lớn và làm thời gian dài nhất là làm Cố vấn cho Bạn Lào và làm
Đại sứ ở Trung Quốc (tổng cộng hơn 20 năm) và cũng là hai việc tôi có
nhiều kỷ niệm đáng nhớ hơn cả và về cơ bản có thể nói là “đã đạt yêu
cầu”. Vì vậy, tôi có thể mượn lời của con gái Nguyên Bình trong câu đối
nôm na nó viết tặng tôi nhân buổi mừng sinh nhật 80 tuổi để làm câu kết
cho câu chuyện đi sứ nước người của tôi:
Làm Cố vấn miền Tây, ghi lời Bác, không làm “lão Toàn quyền”*, luôn nhớ chữ “chủ quyền của bạn”.
Đi Đại sứ nước Tàu, theo ý Đảng, chẳng ngại “người Đại quốc”, giữ trọn điều “Quốc thể về ta”.
*Trước
khi đi Lào nhận nhiệm vụ mới (làm Trưởng đoàn cố vấn giúp Lào – cuối
1964), Hồ Chủ tịch cho gọi ông Nguyễn Trọng Vĩnh tới ăn cơm và dặn dò
một số điều. Người nói vui với Nguyễn Trọng Vĩnh: “Chú sang bên ấy, chú
có ý kiến gì thì chú góp với Bạn để Bạn làm, chú không được làm thay và
chú không được làm “Lão toàn quyền” đấy nhé!” – Chú thích của Bà Nguyễn
Nguyên Bình, con gái Đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974 đến năm 1987. Dưới đây là câu chuyện của ông về thời gian ông làm Đại sứ tại Bắc Kinh. |
Bách Việt