Hiển thị các bài đăng có nhãn Thế trận Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thế trận Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 1 tháng 1, 2013

Luật Biển Việt Nam có hiệu lực bắt đầu từ hôm nay 1/1/2013

Bất chấp mọi diễn biến tình hình, có hai động thái quan trọng khẳng định lập trường kiên định trước sau như một của Việt Nam liên quan đến chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông, đó là tuyên bố của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trước Quốc Hội tháng 11/2011 và việc Quốc Hội  thông qua Luật Biển tháng 6/2012, chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2013.
    
Nội dung cơ bản của Luật Biển Việt Nam
Luật Biển Việt Nam được Quốc hội của Việt Nam thông qua vào ngày 21/6/2012. Luật này gồm 7 chương, 55 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2013

Chương 1: gồm các quy định chung về phạm vi điều chỉnh, định nghĩa.

Chương 2: quy định về vùng biển Việt Nam với các quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải.

Chương 3: quy định về hoạt động trong vùng biển Việt Nam, trong đó có các quy định: đi qua không gây hại trong lãnh hải, tuyến hàng hải và phân luồng giao thông trong lãnh hải.

Chương 4: dành cho phát triển kinh tế biển, với các điều khoản về nguyên tắc phát triển kinh tế biển.

Chương 5: quy định về tuần tra, kiểm soát trên biển với các điều khoản về lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển.

Chương 6: Quy định về xử lý vi phạm và biện pháp ngăn chặn.
Toàn văn  Luật Biển Việt Nam

Một số bình luận quốc tế

​​Biển Đông sẽ tiếp tục dậy sóng trong năm 2013, dựa trên những tin tức trong ngày cuối năm liên quan tới cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo và tài nguyên ở Biển Đông giữa Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, và một số nước khác trong khu vực.

Chương trình Talk Vietnam khi loan tin này hôm nay nói rằng đây là lần đầu tiên có luật quy định đầy đủ chế độ pháp lý các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam.

Talk Vietnam nói rằng Luật Biển Việt Nam quy định về lãnh hải, nội thủy, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các quần đảo khác thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Luật biển Việt Nam khẳng định đảo, quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Luật này quy định các hoạt động trong vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, cũng như vấn đề phát triển kinh tế, quản lý và bảo vệ biển đảo.

Theo quy định của Luật Biển, các cơ quan, tổ chức và công dân Việt Nam đều có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với các vùng biển, đảo và quần đảo, tài nguyên và môi trường biển.

Một số luật khác cũng trở nên hiệu lực từ đầu năm dương lịch cùng với Luật Biển Việt Nam, gồm có  Luật Giáo dục đại học, Luật Công đoàn, Luật về Giá cả, Luật Giám định Tư pháp, Luật Tài nguyên nước, và Luật phòng, chống rửa tiền.

Trong khi đó, Hãng tin Reuters tường trình rằng Trung Quốc hôm nay đã có động thái nhằm giảm thiểu mức độ căng thẳng trong cuộc tranh chấp Biển Đông, nói rằng các quy định cho phép cảnh sát biển Trung Quốc kiểm soát tàu bè qua lại trong vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố có chủ quyền chỉ có hiệu lực ngoài khơi vùng duyên hải gần kề đảo Hải Nam mà thôi.

Các quy định này cũng sẽ có hiệu lực vào đầu năm tới đã gây ra quan ngại sâu xa trên khắp khu vực Đông Nam Á , vì các nước lo sợ rằng Trung Quốc sẽ có thái độ cứng rắn hơn trong cuộc tranh chấp Biển Đông.

Quan ngại càng lên cao vì trên nguyên tắc, Hải Nam có quyền quản lý và tài phán đối với vùng biển và các đảo mà Trung Quốc đòi chủ quyền, làm dấy lên lo ngại là cảnh sát biển Trung Quốc có thể lùng soát bất cứ tàu bè nào qua lại trong vùng này.

Nhưng lên tiếng trong một cuộc Hiến Pháp báo thường lệ hôm nay, Phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, bà Hoa Xuân Doanh, khẳng định rằng quy mô của các quy định do truyền thông nhà nước loan báo hồi tháng 11, không đề ra thay đổi nào so với các luật lệ đã được thông qua hồi năm 1999, hạn chế việc thi hành luật lệ trong vòng 12 dặm từ bờ biển đảo Hải Nam.

Đây là lần đầu tiên nhà nước Trung Quốc giải thích chi tiết về địa bàn thi hành các quy định mới.

Các nhà ngoại giao hàng đầu ở Đông Nam Á đã khuyến cáo rằng luật này có thể khơi ra những trận đụng độ giữa các lực lượng hải quân, tác động tới nền kinh tế khu vực, trong khi chính phủ Hoa Kỳ cho hay sẽ yêu cầu Trung Quốc xác minh luật này.
Nguồn: Reuters, Tuoi Tre,VOA tiếng Việt

Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2012

Biển Đông 2013: Ba kịch bản, một giải pháp

Kịch bản là bộ khung để phân tích tình huống. Giải pháp các bên chấp nhận mới là đích tìm kiếm của cả "ba tay chơi": Trung Quốc, Mỹ và ASEAN trong cuộc cờ hiện nay. Nếu không đi đến một kết cục có hậu thì một cuộc chiến tranh lạnh và ngăn chận mới có thể diễn ra trong tương lai.

Ngày 25/12, hãng tin Bloomberg trích nguồn tin từ tờ 21st Century Business Herald cho biết, Trung Quốc vừa chính thức phê duyệt dự án đầu tư 1,6 tỷ USD để xây dựng các công trình trái phép trên các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Trong đó, Trung Quốc dự kiến sẽ đầu tư khoảng 1 tỷ USD để xây dựng sân bay, bến cảng và nhiều công trình cơ sở hạ tầng khác trên một số hòn đảo ở Biển Đông thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam.
Theo tuyên bố của chủ tịch tỉnh Hải Nam Jiang Dingzhi, kế hoạch của Trung Quốc là đầu tư tới 10 tỷ NDT (1,6 tỷ USD) để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng cho thành phố. Tam Sa là đơn vị hành chính vừa được chính quyền Hải Nam thành lập trái phép hồi tháng 6/2012 (Bộ Ngoại giao nước ta đã lên tiếng phản đối!), trong đó cố tình bao gồm cả những hòn đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Căng thẳng trên Biển Đông giữa Trung Quốc và các nước láng giềng thuộc ASEAN đã liên tục tăng cao trong những tháng gần đây bởi thái độ ngày càng hung hăng và ngang ngược của Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền đối với gần như toàn bộ khu vực Biển Đông giàu tài nguyên thiên nhiên này. Sự căng thẳng về tranh chấp chủ quyền đã làm gián đoạn và suy yếu các mối quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN. Tình hình này cũng đặt bộ máy hoạch định chính sách an ninh và ngoại giao ở Washington (đang trong thời kỳ thành lập) vào tình thế lưỡng nan về chiến lược.
Ba kịch bản khác nhau
Trên Global Asia số cuối năm (tháng 12/2012), GS Nguyễn Mạnh Hùng, đại học George Mason/Mỹ, vừa đưa ra khung phân tích tình hình và dự báo tương lai đối với các tranh chấp hiện nay giữa Trung Quốc với một số nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam trên Biển Đông. Có thể tóm tắt khung phân tích này trong ba kịch bản sau đây:
Kịch bản thứ nhất là Trung Quốc tiến tới một giải pháp ôn hòa với các nước láng giềng. Quan ngại căng thẳng kéo dài trên Biển Đông sẽ đẩy phần lớn các nước trong khu vực vào "vòng tay" Mỹ, Trung Quốc sẽ bị cô lập, mất hết đồng minh nên Trung Quốc có thể có những nhân nhượng nhất định. Hiện nay, TQ đang muốn VN thỏa hiệp trong phân chia Vịnh Bắc Bộ. Thêm vào đó, một số quan chức Trung Quốc vẫn không thừa nhận là Trung Quốc đã từng tuyên bố "Biển Đông là lợi ích cốt lõi của họ". Việc từ chối này có thể là cách dành "đất lùi" cho thỏa hiệp tương lai? Một vài cố vấn cấp cao trong chính phủ Bắc Kinh buộc phải thừa nhận "tính chất khó giải quyết trong chính sách biển Đông của TQ", nhất là "quy chế của đường chín khúc". Giới think tank này quan ngại tình hình tranh chấp có thể làm Trung Quốc ngày càng bị cô lập và ảnh hưởng xấu đến "sự nghiệp cải cách của TQ".
Kịch bản thứ hai là giải pháp đối đầu như cách TQ đang làm với Philipinnes tại Scarboough hiện nay. TQ sẽ tiếp tục lấn tới nhằm kiểm soát toàn bộ vùng lưỡi bò bằng các hành động đơn phương, chính sách bên miệng hố chiến tranh, sách lược "tầm ăn dâu" và chia để trị đối với ASEAN. Hành động lật lọng của TQ ở  Scarborough: sau khi Phi rút tàu ra khỏi khu vực bãi cạn, TQ lập tức quay lại và thiết lập sự kiểm soát trên thực tế, cho thấy TQ coi thường luật pháp quốc tế, chủ trương "gây sức ép cường độ thấp", gây "mỏi mệt về chiến lược" và sau đó là cưỡng chiếm. Với trò "mèo vờn chuột" này, lại chiếm ưu thế về lực lượng hải quân so với láng giềng, TQ sẽ nhân rộng mô hình Scarboough, tạo ra một loạt tình huống sự đã rồi (faits accomplis) để độc chiếm BĐ.
Kịch bản thứ ba là giải pháp Mỹ-Trung bắt tay nhau. Kịch bản này là hệ quả của quá trình chuyển giao quyền lực êm thấm trong khu vực từ Mỹ, cường quốc thoái lui sang Trung Quốc, cường quốc trỗi dậy, và không chỉ trên Biển Đông, bởi vì, từ bản chất bành trướng, TQ sẽ không bao giờ chỉ dừng lại ở BĐ mà sẽ tiến ra giành giật quyền lãnh đạo khu vực Thái Bình Dương từ tay Mỹ. Nếu điều này xẩy ra, đây thật sự sẽ là một đảo lộn lớn lớn nhất của thế kỷ 21, đối với cả tiểu quốc lẫn cường quốc. Một khi "cựu" siêu cường Mỹ buộc phải "thần phục" TQ và trao cái gậy chỉ huy cho thiên triều thì các quốc gia còn lại sẽ lần lượt phải "xếp hàng" theo sự chỉ dẫn của một sen đầm mới Bắc Kinh. Hẳn nhiên, hệ lụy của kịch bản này cực kỳ nguy hiểm đối với cả khu vực lẫn toàn cầu.
Ảnh: Lê Anh Dũng
Tránh kỷ nguyên"chiến tranh lạnh"
Ba kịch bản nói trên xuất phát từ ba cách tiếp cận khác nhau đối với các tranh chấp biển đảo giữa TQ với các nước láng giềng ĐNÁ. Thứ nhất, nếu coi đây đơn thuần chỉ là sự va chạm về lợi ích kinh tế giữa các nước duyên hải và chỉ tập trung vào các tranh chấp xung quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì có thể "mơ" về kịch bản thứ nhất, kịch bản của hòa bình. Nhưng đáng tiếc, bản chất xung đột trên Biển Đông từ mấy năm trở lại đây là một cuộc xung đột quốc tế. Những thành tố tạo nên cách tiếp cận thứ hai như yêu sách "đường lưỡi bò" của TQ, phản ứng công khai của Mỹ và quan ngại của tất cả các nước trong khu vực, từ lớn đến bé. Tuy nhiên, đối với lợi ích dân tộc và chủ quyền quốc gia, thật ra không thể đo bằng quy mô lớn hay bé. Trung Quốc nên hiểu rằng, có thể ở chính thể này, chế độ kia, Trung Quốc có thể cưỡng chiếm tạm thời một phần chủ quyền và thu tóm một phần lợi ích quốc gia của một số nước, nhưng lịch sử là công bằng, cái gì của Cesar rồi sẽ phải trả về cho Cesar!
Cách tiếp cận thứ ba phải chăng là một định mệnh trong quan hệ quốc tế, đó là sự chuyển dịch quyền lực trên cấp độ đại-hệ thống. Trong cuộc Đối thoại chiến lựơc và kinh tế giữa TQ và Mỹ tháng 5 năm 2010, đại diện TQ tuyên bố rằng chủ quyền của TQ ở Biển Đông là "quyền lợi cốt lõi" của họ. Chỉ hai tháng sau, tại Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton phản ứng lại bằng cách xác định  Mỹ có "quyền lợi quốc gia" trong việc bảo vệ tự do hàng hải, tự do khai thác tài nguyên chung trong vùng biển Á châu, và việc tôn trọng luật quốc tế ở biển Đông. Đây là những tuyên bố rất đáng quan tâm vì nếu để mẫu thuẫn quyền lợi quốc gia giữa các cường quốc trở nên đối kháng thì dễ dẫn đến tình trạng đối đầu trong một cuộc chiến tranh lạnh kiểu mới (khác với cuộc chiến tranh lạnh trong thế kỷ 20).
Tranh chấp trên Biển Đông từ nay dường như đã trở thành cuộc đối đầu/cạnh tranh quyền lực trên cấp độ toàn cầu giữa Mỹ, siêu cường được coi là đang trượt dốc với Trung Quốc, đại cường đang nổi lên, lăm le "tung hê" cái trật tự tồn tại hơn nửa thế kỷ nay để cài đặt vào đấy một trật tự mới mà giới quốc tế học đã đặt tên, cho dù nó chưa ra đời, đó là trật tự Trung Hoa (Pax Sinica/Hòa bình kiểu Tàu). Nhìn vấn đề từ góc độ này có thể hiểu ý đồ đằng sau đề nghị của TQ cách đây mấy năm đưa ra với Mỹ là hai bên có thể chia đôi biển Thái Bình Dương, mỗi bên hùng cứ một phương để Trung Quốc dễ bề "múa gậy vườn hoang" ở Đông-Thái Bình Dương mà không động chạm đến lợi ích của Mỹ.
"Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi"
Các tranh chấp giữa Trung Quốc với một số nước châu Á trên Biển Đông và Hoa Đông hiện nay đang gây khó cho Mỹ và có khả năng buộc Mỹ phải tiến hành chính sách "ngăn chặn kiểu mới"? Chủ trương của Mỹ giữ nguyên trạng trên Biển Đông đang làm cho các nước bị bắt nạt tự tin hơn trong đấu tranh chống lại các hành động xâm lấn của TQ. Tuy nhiên, các xung đột ở cường độ thấp sẽ đặt ra một nan đề là khi nào thì Mỹ cần bày tỏ cam kết để kềm giữ TQ, còn khi nào thì Mỹ phải làm thinh để các nước láng giềng của TQ đừng đi quá xa. Đối với Mỹ, lý do địa dư và tâm lý dân chúng hiện nay càng đẩy nan đề này thành vấn đề lớn. Đối với một số nước châu Á, lý lẽ duy trì căng thẳng với TQ là cách để "giữ chân" Mỹ phải ủng hộ họ vẫn là một vũ khí của kẻ yếm thế.
Để có một giải pháp hòa bình và công lý cho tranh chấp trên Biển Đông không thể trông đợi nhiều từ các kịch bản nói trên, đó chỉ là cái khung minh triết phân tích các tình huống chồng lấn phức tạp. Vì lợi ích của chính TQ, một quốc gia có bề  dày về văn minh và tư tưởng, nhất là tư tưởng của các chiến lược gia được xếp vào loại hàng đầu của túi khôn nhân loại, TQ nên tự kềm chế bớt lòng tham. Thế giới sẽ tôn vinh TQ như là "một cổ đông có trách nhiệm" trong làng toàn cầu đang oằn lưng chống "các loại bão", từ kinh tế đến môi trường, từ giá trị đến văn hóa, tất cả cùng chia sẻ một vận mệnh chung, một cơ may chung để tồn tại và phát triển. Ăn thua nhau trên biển để rồi chôn vùi các nền văn minh xuống đáy đại dương thì há chăng đó là sự lựa chọn thông minh. Bài học của tiền nhân "tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi" (biết đủ thì không nhục, biết dừng thì không nguy hiểm) hóa ra bị lãng quên mãi mãi?
Hải Đăng -Tuần VietnamNet ngày 30/12/2012



Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012

Lẫn lộn bạn/thù, tù mù chiến lược


Như thường lệ trong những ngày tháng 12 này cả nước lại tái hiện không khí thời chiến tranh chống Mĩ. Âu đó cũng là lẽ bình thường, quên sao được tội ác giặc ngoại xâm! Nhưng điều không bình thường là có một cuộc xâm lược khác không được nhắc đến, đó là những cuộc chiến lớn nhỏ do Trung Quốc gây ra từ biên giới Tây Nam lên biên giới phía Bắc và ngoài Biển Đông kể từ sau khi "Mĩ cút, ngụy nhào" đến nay vẫn chưa dứt. Người Việt Nam bình thường ai cũng nhận thấy điều vô lý này. Song điều không bình thường là ai cũng im lặng hoặc nếu có ai thắc mắc, sẽ được trả lời rằng đó là sách lược mềm dẻo, khôn khéo của ta! 
 
Dòng chữ trên một bia tưởng niệm chiến tranh biên giới bị đục bỏ
Vậy ra, đối với người Việt Nam, có hai loại chiến tranh xâm lược(?). Chiến tranh do Pháp, Mĩ gây ra thì phải ghi xương khắc cốt và tuyên truyền lên án công khai. Nhưng chiến tranh do người Trung Quốc gây ra thì phải cố mà quên đi, thậm chí  mấy cái  bia tưởng niệm trót dựng lên  ở Lạng Sơn cũng phải đục bỏ phi tang (ảnh bên); nếu thấy tàu Trung Quốc xâm lấn biển đảo, ức hiếp dân chài ta thì gọi là "tàu lạ", nó càng ức hiếp, ta càng bày tỏ lòng biết ơn "bạn" ở cấp cao hơn... Chỉ khổ thân những người lính đã ngã xuống trong các cuộc chiến tranh chống quân bành trướng chưa được chính thức vinh danh như các đồng đội chống Pháp chống Mĩ của họ. 
 
Nếu nói rằng đó là sách lược mềm mỏng, khôn khéo thì thật trớ trêu!  Vẫn biết, vì nhiều lý do, Việt Nam không nên chủ trương đối đầu với Trung Quốc, và sách lược mền dẻo, khôn khéo là rất cần thiết. Vẫn biết phải ưu tiên duy trì hòa bình, nhất là với một đất nước đã mất quá nhiều thời gian cho chiến tranh như Việt Nam. Nhưng độc lập và chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia phải là mục tiêu cao nhất và không thể nhân nhượng. Tuy nhiên, nhìn vào kết quả của quá trình vận dụng sách lược trong quan hệ Việt-Trung đến nay thấy trái ngược với mong đợi. Đó là lãnh thổ bị gậm nhấm, chủ quyền biển đảo bị xâm chiếm gần hết trong khi quan hệ hai nước vẫn luôn trong trạng thái căng thẳng, nguy cơ chiến tranh nóng có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Vì sao vậy?

Để trả lời câu hỏi trên, trước hết hãy suy ngẫm về điều này: Tại sao Việt Nam phải đánh nhau liên tục với các "đế quốc to", hết họa đế quốc lại rước họa láng giềng bành trướng ? Có một cách giải thích đã trở thành cửa miệng của người Việt Nam: Vì nước ta giàu đẹp, và vì nước ta nằm ở vị trí địa chính trị quan trong..., nên thường xuyên bị các cường quốc tranh giành hoặc lợi dụng!. Cách giải thích này không sai, nhưng chỉ đúng một phần. Về lý do giàu đẹp, đến nay chính người Việt Nam khi có dịp tiếp xúc với thế giới và biết người biết ta hơn đã  không còn tin như vây. Về lý do bị tranh giành, lợi dụng, thì trước hết hãy xem lại sách lược bạn/thù của ta có gì chưa ổn (?) Phải chăng lý do chính là ở chỗ, người Việt Nam  tự vận vào mình một vai trò đáng ra không nên có, đó là đứng trên tuyến đầu chống chủ nghĩa đế quốc, đồng thời quá trung thành với ông bạn láng giềng cùng ý thức hệ cộng sản?  Hãy xem người Thái Lan, Ấn Độ, Indonesia,  Mã Lai và nhiều dân tộc khác có cùng cảnh ngộ trong khu vực đã không làm như vậy, và họ đã sớm có hòa bình để phát triển vượt xa Việt Nam vốn từ một mặt bằng như nhau sau Thế chiến thứ Hai.  Phải chăng nếu Việt Nam cũng có cách tiếp cận thực tế như các nước láng giềng thì chắn chắn đã có thể phát huy vị thế địa chiến lược một cách có lợi hơn cho mình?. Có thể có ý kiến rằng Việt Nam có đặc thù khác với các nước khu vực, đó là quá khứ Bắc thuộc. Nhưng trong cái rủi đã có cái may, đó là 100 năm Pháp thuộc ít nhiều đã có tác dụng đưa Việt Nam ra khỏi địa vị phiên thuộc của Vương Triều. Nền độc lập giành được sau Cách mạng tháng 8 năm1945 là một cơ hội lớn để vĩnh viễn thoát khỏi vị thế phiên thuộc đó. Nhưng cơ hội đó đã không được tận dụng, và Việt Nam một lần nữa lại rơi vào quỹ đạo Bắc thuộc dưới những chiêu bài mới . 

Đây là một câu chuyện dài mà chỉ lịch sử mới có quyền phán xét. Tuy nhiên, có điều chắc chắn là, không phải giới lãnh đạo Việt Nam không nhận ra điều này, có lẽ rõ nhất là thời kỳ sau giải phóng miền Nam và đã được đúc kết bằng phương châm " Việt Nam sẵn sàng  làm bạn với tất cả" từ Đại hội Đảng lần thứ VI. Song, đáng tiếc là phương châm đó đã không được thực hiện đầy đủ trong suốt quá trình về sau, thậm chí có những thời kỳ đi "chệch hướng". Nguyên nhân chính là do ý thức hệ "vừa là đồng chí vừa là anh em" đã khiến một bộ phận giới lãnh đạo thiếu kiên định với phương châm và mục tiêu đã đề ra. Sự kiện sai lầm mang tính quyết định là thỏa hiệp Thành Đô năm 1990. Từ đó đến nay Việt Nam chưa bao giờ lấy lại được thế cân bằng cần thiết, miệng nói "sẵn sàng làm bạn với tất cả", nhưng thực tế lại nghiêng về phía ông bạn láng giềng. Mặc dù nhiều phen bị ông bạn xâm hại vẫn cam chịu. Quan hệ với Mĩ và ASEAN không được thực sự coi trọng đúng mức. Chơi với họ nhưng luôn dè dặt, nghi ng. Điều này được thể hiện khá rõ trong những phát ngôn của nhiều nhân vật lãnh đạo chính trị, quân sự và  học thuật trong thời gian gần đây. Mới đây có một vị Đại tá, Phó Giáo sư tên là Trần Đăng Thanh khi lên lớp trước hàng trăm cán bộ lãnh đạo các trường đại học tại Hà Nội đã đưa ra cách nhận định, đánh giá về bạn/thù thật rối rắm như sau:
“… Các đồng chí nhớ người Mĩ ... nếu có tốt chỗ này, có ca ngợi chúng ta chỗ kia, có ủng hộ chúng ta về Biển Đông chẳng qua vì lợi ích của họ. Họ đang thực hiện “thả con săn sắt, bắt con cá rô”. Họ chưa bao giờ tốt thật sự với chúng ta, tội ác của họ trời không dung, đất không tha.” 
“...Đối với Trung Quốc hai điều không được quên”:“ họ đã từng xâm lược chúng ta nhưng ta cũng không được quên họ đã từng nhường cơm xẻ áo cho chúng ta. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa” .
Suốt mấy ngày qua dân mạng phê phán, thậm chí chửi bới ông này dữ quá. Nhưng suy cho cùng ông ta đã thể hiện đúng thực trạng tình hình nhận thức của giới Lãnh đạo và lý luận đất nước trong thời kỳ "hậu đổi mới". Đó là tình trạng lúng túng về đường lối chủ trương chính sách, nhầm lẫn trong việc lựa chọn bạn/thù trước bối cảnh tình hình biến động mau chóng tại khu vực và thế giới. Còn nhớ khi tiếp xúc cử tri Quận Ba Đình ngày 1/10/2011, người đứng đầu của Đảng đã từng đưa ra cách đánh giá về vấn đề tranh chấp Biển Đông như sau:
Nói Biển Đông không phải chỉ là Biển Đông. Nói Biển Đông không phải quan hệ ta với Trung Quốc. Nói Biển Đông không phải toàn bộ vấn đề Biển đông. Nó chỉ có một cái chỗ đảo Hoàng Sa với lại… quần đảo Hoàng Sa với lại chỗ quần đảo Trường Sa ấy … và cái ranh giới thềm lục địa theo công ước luật biển quốc tế...”.   

Nói vậy có nghĩa Biển Đông nào có quan trọng gì và nó là vấn đề của người khác chứ không phải của Việt Nam. Vậy chẳng trách  đối với những trường hợp phát ngôn nhu ngộ khác được ghi nhận từ các cấp trong mấy năm gần đây. Ví dmột ông Viện trưởng Mác-Lê lập luận rằng trong quá khứ ông cha ta mỗi lần đánh thắng xâm lược Phương Bắc đều trở lại triều cống ...cớ sao bây giờ lại đòi chống Trung Quốc(?) và một ông Phó ban Biên giới đánh giá hành động tàu Trung Quốc cắt cáp tàu dầu khí Bình Minh II của Việt Nam hồi năm ngoái là "thương cho roi cho vọt..." (!) Vân vân và vân vân.... Tất cả cho thấy điều gì nếu không phải là tình trạng thiếu nhất quán trong việc nhận định đánh giá tình hình, là sự lẫn lộn bạn/thù, tù mù chiến lược? Không phải họ "không thuộc bài"  mà vì bài bản nó như vậy!

Phải chăng đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến những việc làm khó hiểu gây bức xúc trong dư luận cả nước gần đây? Đó là việc mất cảnh giác khi cho "bạn" thuê đất rừng đu nguồn và đất canh tác  dọc đường biên, đưa hàng nghìn công nhân vào khai thác bo-xit trên Tây Nguyên, du nhập, lưu hành tràn lan văn hóa phẩm cũng như hàng hóa các loại từ Trung Quốc bất chấp nguyên tắc có đi có lại, v.v...Chủ trương đàn áp không phân biệt các cuộc biểu tình phản đối hành động xâm lấn của Trung Quốc trên Biển Đông cũng là một biểu hiện. Những việc làm đó, dù cố tình hay vô ý thức, đã và đang gây bức xúc và đánh mất nốt chút lòng tin còn sót lại của nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Chỉ kẻ thù được lợi và đắc chí, nhưng chúng không vì thế mà dừng lại./.
 

Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2012

Vài suy nghĩ sau tuyên bố của Đô đôc Samuel Locklear


Đài VOA ngày 7/12/2012 dẫn nguồn tin của Bộ Quốc Phòng Mĩ  (US Department of Defense PR/ Freebeacon.com) đưa tin về tuyên bố báo chí của Đô đốc Samuel Locklear, Tư lệnh Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương của Mĩ ngày 6/12 với tiêu đ "Mỹ từ chối hỗ trợ đồng minh Châu Á trong tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc".Tiếp ngay bên dưới là lời dẫn đề nêu rõ:      
Đô đốc Samuel Locklear 
"Hoa Kỳ không hỗ trợ các đồng minh và nước bạn quan trọng trong khu vực Châu Á có dính líu tới các tranh chấp chủ quyền lãnh hải với Trung Quốc giữa bối cảnh các hành động gây hấn của Bắc Kinh ở Biển Đông đang leo thang" .
(Xem tin đầy đủ tại đây http://www.voatiengviet.com/content/my-tu-cho-ho-tro-dong-minh-chau-a-trong-tranh-chap-bien-dong-voi-trung-quoc/1560465.html

Bản tin thật ngắn gọn, nhưng có lẽ đã cho ta một lời kết về câu chuyện rất dài mà cả thế giới đã chăm chú theo dõi bấy lâu nay -.đó là chờ xem Mĩ sẽ hành động như thế nào trước âm mưu và hành động xâm lược  trắng trợn của nước Trung Quốc "đang trỗi dậy" đối với các quốc gia láng giềng nhỏ yếu hơn xung quanh. Trước mối hiểm họa của chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán, các quốc gia khu vực dù không muốn vẫn phải chấp nhận sự trở lại của Mĩ và mong đợi cường quốc số I này  đóng vai trò như một hiệp sĩ đứng ra bảo vệ cho họ. Về phần mình nước Mĩ đường như chợt nhận ra một cơ hôi để kèm chế đối thủ, nhưng đồng thời cũng nhận ra những hạn chế của bản thân, nhất là trước bối cảnh khủng hoảng kinh tế-tài chính kéo dài và những cam kết phiền toái khác trên toàn cầu. Cũng như xu hướng chung của khu vực, người Việt Nam trong và ngoài nước, dân thường và chính khách, ít nhiều đã  tin rằng Mĩ sẽ không khoanh tay đứng nhìn Trung Quốc độc chiếm Biển Đông. Thậm chí không ít  người tin rằng Mĩ sẽ nhân cơ hội này giáng cho Bắc Kinh một đòn chí tử(!?) Tuy nhiên diễn biến tình hình ngày càng cho thấy không như vậy. Trước việc Mĩ đã không can thiệp gì trong vụ đụng độ Scarbourough giữa  Philipin-Trung Quốc, rồi vụ Senkaku giữa Nhật-Trung, dư luận đã bắt đầu nghi ngờ về vai trò hiệp sĩ của nước Mĩ. Mới đây giới quan sát đã bàn tán về hiện tượng "trầm lặng" của Tổng thống Obama tại Hội nghị cấp Cao Đông Á (EAS) tại Pnom Pênh tháng 11  trong khi phía Trung Quốc vẫn tiếp tục ngang ngược lấn lướt tại Biển Đông. Và bây giờ là lời tuyên bố của vị Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương.

Phải chăng cái gì đến đã đến. Lời tuyên bố mới này có thể được hiểu như một tuyên bố chính thức về lập trường của nước Mĩ, đó là  đứng ngoài cuộc tranh chấp chấp chủ quyền biển đảo giữa các quốc gia nhỏ yếu hơn với cường quốc Trung Quốc. Nói cách khác, Mĩ sẽ khoanh tay đứng nhìn các thế lực bành trướng Trung Quốc tác oai tác quái tại Biển Đông . Có lẽ chỉ còn một điều chưa hoàn toàn rõ ràng là Mĩ sẽ làm gì nếu một ngày kia tàu bè của bản thân nước Mĩ sẽ không được tự do qua lại vùng Biển Đông như họ đã từng được làm như vậy suốt thế kỷ qua. Rất có thể câu chuyện riêng tư này cũng sẽ được Bắc Kinh yêu cầu "thỏa thuận song phương Trung -Mĩ !"

Những ai có chút am hiểu về nước Mĩ, đặc biệt qua những chặng đường biến thiên trong lịch sử quan Mĩ-Trung, nhất là thời kỳ sắp kết thúc chiến tranh Việt Nam, sẽ không mấy ngạc nhiên trước kết cục nói trên.  Còn nhớ người Mĩ đã từng bỏ rơi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và để mất quần đảo Hoàng Sa như thế nào trong thời gian trước biến cố tháng 4/1975. Thực ra sự câu kết Mĩ -Trung đã bắt đầu từ cuộc gặp bí mật Thượng Hải 1972, chứ không phải đợi đến sau khi kết thức chiến tranh lạnh.  Nếu hiểu được sự thật này sẽ thấy rằng lời tuyên bố của Tư lệnh Thái Bình Dương mới đây chỉ là một sự tiếp nối có lo-gíc mà thôi. Đó là một vấn đề có tính chiến lược của nước Mĩ trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh mà trong đó nước Mĩ không sớm thì muộn buộc phải chia sẻ quyền lực với Trung Quốc.
                  
Là người Việt Nam, chúng ta không có gì để ngạc nhiên trước kết cục nói trên. Các cường quốc dù là Mĩ hay Trung Quốc chưa bao giờ thực sự là đồng minh lâu dài của các quốc gia độc lập dân tộc, nếu có chăng chỉ là tạm thời và có điều kiện. Sự nghiệp bảo vệ độc lập và  toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của mỗi quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào nội lực của mỗi nước. Lịch sử thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã chứng minh điều đó. Dĩ nhiên Việt Nam cũng không thể trông chờ hoặc phụ thuộc mãi mãi vào một cường quốc. Vẫn biết vai trò Mĩ rất quan trọng, nhưng bạn bè thiết thực của Việt Nam là những nước có cùng cảnh ngộ trong khu vực như Nhật Bản, Ấn Độ, Philipine, Hàn Quốc, ASEAN, Úc, Nga...  Nhớ lại thời đại phong kiến ít khả năng liên kết với quốc tế, người Việt Nam đã từng chiến thắng xâm lược Phương Bắc, huống chi trong thời đại toàn cầu hóa bạn bè có ở khắp nơi . Đối với Việt Nam , bí quyết thành công của mọi cuộc kháng chiến chống ngoại xâm chính là lòng tự tôn, tự cường dân tộc; sức mạnh để chiến thắng kẻ thù chính là khối đoàn kết toàn dân. Nếu không ghi nhớ bài học đơn giản này, sẽ không thể tin vào thắng lợi tất yếu của dân tộc. Người lãnh đạo nào không thấm nhuần bài học này thì nên từ bỏ vai trò lãnh đạo nếu không muốn bị nhân dân đào thải.

Trong việc chọn bạn/thù, Việt Nam nên học hỏi thêm bài học kinh nghiệm của Nhật bản, Hàn Quốc, chừng mực nào đó của Đài Loan và Hồng Kông. Bí quyết thành công của các nước và vùng lãnh thổ nói trên là phải giữ khoảng cách trong quan hệ với Đại lục. Bài học này cũng giải thích tại sao cùng một dân tộc, nhưng Bắc Triều Tiên mãi lạc hậu trong khi Nam Triều Tiên thì phát triển như vậy . Từ bài học này cho thấy, Việt Nam tuy không bao giờ nên chủ trương đối đầu, nhưng nhất quyết phải tách khỏi ảnh hưởng về "ý thức hệ" với  Trung Quốc. Chỉ khi nào thoát khỏi thế kèm cặp của Trung Quốc, Việt Nam mới có thể tận hưởng nguồn tri thức và khoa học-kỹ thuật tiên tiến của nhân loại để phát triển lên một tầm cao mới . Và phát triển là điều kiện để đảm bảo độc lập dân tộc. Nói cách khác, giữ khoảng cách thích hợp với Trung Quốc là thượng sách đối với Việt Nam. Thực tế cũng đã cho thấy trong thời kỳ 100 năm thuộc Pháp dù sao lãnh thổ và biển đảo của Việt Nam đã không mất vào tay Trung Quốc. Từ sau tháng Tám 1945, quan hệ Việt-Trung càng gần gũi bao nhiêu nguy cơ mất lãnh thổ càng lớn bấy nhiêu. Hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc đã nổ ra trong sự bất ngờ của Việt Nam và thế giới, qua đó biên giới phía Bắc đã bị gặm nhấm, mất quần đảo Hoàng Sa  và một phần quần đảo Trường Sa, hiện  đang có nguy cơ mất cả vùng đặc quyền kinh tế. Thực tế cũng cho thấy nền kinh tế Việt Nam đã từng có cơ hội  phát triển theo hướng hiện đại hóa ngay trong thời kỳ từ 1980- đầu những năm 2000 khi quan hệ Việt -Trung căng thẳng và lạnh nhạt. Nhưng từ khi bình thường hóa quan hệ,  máy móc cũ lỗi thời cùng hàng hóa, thiết bị kém chất lượng của Trung Quốc tràn vào bóp chết các cơ sở sản xuất hiện đại mới manh nha của Việt Nam. Đó là chưa kể những âm mưu phá hoại ngầm của ông bạn "4 tốt" từ việc chào thầu thấp để tranh giành các dự án khai thác boxit Tây Nguyên, các nhà máy nhiệt điện, chiếm dụng các vùng đất, rừng, mặt biển trọng yếu v.v...gây nhiều hậu quả và khó khăn cho phía Việt Nam.

Tóm lại, dù  trong bất cứ tình huống nào, có hay không sự can thiệp của Mĩ trong cuộc tranh chấp Biển Đông, thì Việt Nam vẫn kiên quyết đấu tranh bảo về chủ quyền biển đảo của mình vì đó không chỉ là nguồn sống mà là cửa ngõ, là tương lai sinh tồn của dân tộc. Tuyên bố mới đây của Mĩ  "không hỗ trợ đồng minh và nước bạn..." chắc chắn sẽ khuyến khích các hành động lấn chiếm ngang ngược hơn của tàu thuyền Trung Quốc trên khắp vùng Biển Đông khiến Việt Nam, Phlipin thêm điêu đứng . Nhưng tình hình mới sẽ thúc dục Việt Nam và các bên bị tác động xích lại gần nhau hơn để đối phó với Trung Quốc. Việt Nam không có cách nào khác là phải kiên định hơn nữa trong quan hệ với Trung Quốc. Đó là một thời kỳ mới với cả thách thức và cơ hội đòi hỏi Việt Nam, trước hết là giới lãnh đạo, phải thích ứng để tồn tại và phát triển. Đây là cơ hội để Việt Nam điều chỉnh lại quan hệ đồng minh, bạn/thù phù hợp với tình hình mới, đối xử ngang nhau với hai cường quốc Mĩ, Trung. Đây là thời điểm thuận tiện để Việt Nam chuyển sang một chính sách ngoại giao cởi mở, minh bạch, trong đó mọi ân, oán với các cựu thù, kể cả Mĩ và Trung Quốc, cần được giải bày nhằm đi tới cơ sở đồng thuận mới công bằng hợp lý hơn.       
       .

Chủ Nhật, 28 tháng 10, 2012

Đôi điều sau chuyến du lịch Cămpuchia(*)


Tang lẽ Cựu Hòang Sihanouk tại Phnom Penh
Do điều kiện nghề nghiệp khi còn công tác tôi đã may mắn được đến khá nhiều nước khác nhau trên thế giới, nhưng chưa bao giờ được đến Cămpuchia ngay bên cạnh Việt Nam. Đó là điều thôi thúc tôi giờ đây dù đã nghĩ hưu vẫn muốn đi một chuyến đến nước láng giềng "gần nhà xa ngõ" này xem sao. Và tôi đã làm được điều đó bằng đường bộ cuối tháng 10 này, chỉ hơi tiếc một chút là vào dịp quốc tang Cựu Hoàng Norodom Sihanouk nên không được xem Hoàng cung và hoạt động tại các sòng bạc bên kia biên giới. Nhưng dù sao chuyến đi cũng giúp tôi kiểm chứng lại một số nhận thức về đất nước và con người vốn là chủ nhân của những bức tượng Bayon có tới 4 mặt nhìn về mọi hướng.  Dưới đây là một vài  cảm nhận như vậy.

Một là, có thể khẳng định giá trị tuyệt vời của nền văn minh Angkor huy hoàng và sự phì nhiêu của miền đất nằm ở ví trí thuận lợi  nhất  giòng sông Mekông. Nhưng với một đất nước trù phú, đất rộng người thưa (chỉ có 13 triệu dân) như vậy ta lại càng  ngạc nhiên trước cảnh nghèo nàn và sự cách biệt giàu/ngèo quá rõ rệt của nó. Có thể dẽ dàng nhận biết sự cách biệt qua nhà ở và phương tiện đi lại của người dân. Người  giàu (hầu hết là quan chức nhà nước) thường ngồi bên trong các xe ô tô loại sang nhất thế giới và ở trong các biệt thự sang trong có vườn rộng "kín cổng cao tường" trong khi người nghèo đều ở trong các ngôi nhà sàn truyền thống nhỏ bé, đơn sơ và đi lại chen chúc nhau trên các phương tiện công cộng quá tải. Suốt chuyến thăm tôi chưa thấy một người giàu nào đi bộ trên đường, nhưng đâu đâu cũng thấy trẻ nhỏ và phụ nữ kiếm tiền bằng cách bán các thứ hàng lặt vặt hoặc ăn xin tại bất cứ nơi nào có khách du lịch nước ngoài.
 
Kiếm sống bằng hàng rong và ăn xin
Hai là, tính cách trầm tĩnh và khả năng chịu đựng của dân tộc Khmer thật là phi thường. Có lẽ đây là một trong tố chất để hiểu tại sao nhân dân Cămpuchia đã phục tùng chế độ Pol Pot và nếu không có sự can thiệp của Việt Nam thì chưa chắc họ đã tự đúng lên lật đổ Pol Pot (?) Tố chất này mãi vẫn còn đó. Trong dịp quốc tang Cựu hoàng Norodom Sihanouk, nhìn bề ngoài thấy người dân Cămpuchia ai ai cũng vô cùng tôn kính và yêu quý Quốc vương của họ. Nhưng trong câu chuyện riêng tư với họ ta sẽ nhận ra rằng đó là cách để người dân bày tỏ sự không tôn trọng đối với chính quyền hiện tại và bản thân ông Hunsen!   Đối với họ, chính quyền và chính sách của Hunsen không khác gì của Việt Nam. Nếu có gì khác thì (theo họ) ở Việt Nam người giàu không quá cách biệt với người nghèo so với tình trạng cách biệt giàu/nghèo quá rõ ràng, lộ liễu tại Căpmuchia!. Họ có thể đúng với nhận xét này khi họ không nằm trong cái chăn Việt Nam nên không biết trong chăn đó cũng có rận, và cả "sâu" nữa!

Trong suốt cuộc hành trình, anh bạn tourguide  nguời Khmer chính hiệu nhưng nói rất sõi tiếng Việt, không biết vô tình hay cố ý, hay kể những câu chuyện huyền thoại hàm ý rằng người Cămphuchia rất thật thà, chất phát, hiền lành (như con giun, con dế), nhưng không bao giờ chịu khuất phục...  Họ cũng hay có những so sánh khá tinh tế giữa đất nước mình với Việt Nam, ví dụ lưu truyền câu chuyện tiếu lâm nói rằng nếu người Việt ra đường sợ Công An bao nhiêu thì người Cămpuchia ra đường sợ Con Bò bấy nhiêu, vì chúng đều có quyền chặn người tham gia giao thông bất cứ lúc nào! Do đó, Công An Việt Nam = Con Bò Cămpuchia !!! Phải chăng đó là cách "phê bình nhẹ nhàng" đối với người  Việt Nam? . Dù sao nó cũng nói lên sự khác biệt giữa tính cách người Khmer và người Việt . Quan sát dọc đường thấy những  cảnh sát giao thông Cămpuchia cũng nhận tiền hối lộ của lái xe, nhưng có vẽ lịch sự và "hiệu quả" hơn nhiều so với cảnh sát Việt Nam. Mỗi khi thấy lái xe vi phạm, họ giơ tay cảnh báo, và  lái xe  vẫn ngồi yên trong xe dúi tiền vào tay viên cảnh sát, hai bên cười vui vẽ không cần đếm số tiền thường  là tiền lẽ có giá trị bằng bát phở hay tách cà fê mà thôi. Do đó, dòng xe cộ vẫn tiếp tục di chuyển không ảnh hường gì đến giao thông chung. Nhưng ở Việt Nam cảnh sát bao giờ cũng chặn xe lại , rồi hai bên giằng co, cải vã ,van xin rất lâu , có khi đánh nhau ...khiến giao thông bị ách tắc, quan hệ hai bên càng căng, và cảnh sát mất hết uy tín.

Phương tiện di chuyển của người nghèo  ở C
Trong lĩnh vực đối ngoại cũng vậy. Có một sự nhất quán trong quan niệm bạn/thù của người Campuchia, đó là cả 3 nước Việt Nam, Thái Lan và Lào đều chiếm đất đai của họ; và do đó họ không ngần ngại treo bản đồ thời Đế chế Angkor ở các nơi công cộng. Nhưng  khi có mặt người Việt Nam, người Cămpuchia rất biết cách kiềm nén không nói xấu Việt Nam, mà chỉ nói xấu Thái Lan hoặc Lào...để người Việt Nam tự hiểu về bản thân mình! Rất có thể họ cũng làm như vậy khi đi với người Thái, người Lào hoặc người Trung Quốc, người Mỹ....  Có thể gọi đó là môt  thủ pháp truyền thống của người Cămpuchia thì phải, vì cả thế giới đều biết tật  "nói trước quên sau" hoặc tính cách "sáng nắng chiều mưa"  của người Cămpuchia mà một trong những bậc thầy của họ chính là Vua Norodom Sihanouk.Những diễn biến trong chính trường ASEAN gần đây chứng minh điều đó.  

Ba là, về quan hệ Việt Nam-Cămpuchia, có thể nói, do vị thế địa chính trị và quan hệ lịch sử hai nước Việt Nam và Cămpuchia luôn cần duy trì mối quan hệ hòa bình hữu nghị (không nên gọi là "đặc biệt" để tránh gây hiểu nhầm không cần thiết). Cămpuchia có hận thù lịch sử với Việt Nam nhưng cũng cần có vai trò của Việt Nam để đối trọng với một kẻ thù lịch sử khác là Thái Lan. Trên thực tế người Cămpuchia ngày nay lo ngại Thái Lan hơn là Việt Nam. Về lâu dài thì chưa chắc, nhưng trong giai đoạn hiện nay khi vẫn còn chính quyền Hunsen, có lẽ người Cămphuchia vẫn coi trọng quan hệ với Việt Nam vì cả hai lý do an ninh và kinh tế. Họ biết rõ chính người Việt đem lại sức sống cho nền kinh tế Cămpuchia, chứ không phải người Thái, thậm chí ngay cả khi ảnh hưởng của Trung Quốc đang tăng lên nhanh chóng tại đây. Hàng ngày hàng trăm ngàn người Việt Nam qua Cămpuchia làm ăn, buôn bán;  khách du lịch Việt Nam thường chiếm khoảng 1/2 tổng số khách du lịch vào Cămpuchia, trong khi du khách từ Thái Lan và Lào không đáng kể. Riêng việc người Việt Nam tham gia đánh bạc tại khu vực biên giới cũng đóng góp phần lớn vào nguồn thu của Cămpuchia. Có thể nói Cămpuchia cần Việt Nam hơn là Việt Nam cần Cămpuchia. Điều  Việt Nam cần là quan hệ hòa bình hữu nghị và an ninh để xây dựng đất nước.

Trong điều kiện thế và lực giữa Việt Nam và Cămpuchia và trong khuôn khổ ASEAN, quan hệ hai nước có thể đảm bảo bền vững. Việc Cămpuchia tìm kiếm quan hệ với các nước lớn ngoài khu vực, kể cả Trung Quốc nên được hiểu là bình thường và lẽ đương nhiện. Ngay cả hành động câu kết giữa Cămpuchia và Trung Quốc tại Hội nghị AMM 45 vừa qua dẫn đến thất bại không đưa ra được tuyên bố chung về COC cũng có thể "hiểu được".  Tuy nhiên, xét trên tổng thể toàn bộ diễn biến tình hình gần đây, có thể nói,  với nhân tố thứ ba là Trung Quốc đang ra sức tăng cường ảnh hưởng bằng mọi giá tại Cămpuchia trong chiến lược chia rẽ nội bộ ASEAN nhằm ý đồ bành trướng xuống phía Nam của  họ mới là nhân tố đáng lo ngại. Với những bài học của quá khứ, không ai có thể đoan chắc rằng Cămpuchia với truyền thống "hay thay đổi" mà biểu trưng là những bức tượng Bayon 4 mặt (chứ không phải chỉ có hai mặt) sẽ không một lần nữa  thay đổi trong quan hệ với Việt Nam, nếu được sự hỗ trợ của một thế lực nước lớn. Đó là điều mà không chỉ Việt Nam mà cả Lào và Thái Lan cũng phải dè chừng.

Cuối cùng là, cũng từ kinh nghiệm mà hiểu ra, Việt Nam không nên đề ra yêu cầu  quá cao trong quan hệ với Cămpuchia, kể cả khái niệm quan hệ "đặc biêt" cũng không nên có. Việt Nam đã hy sinh quán hiều vì người anh em Cămpuchia trong hơn 10 năm chống Pol Pot. Tuy nhiên đổi lại, Việt Nam vẫn đứng trước nguy cơ rơi vào cảnh "trắng tay". Đó là sự thật dù có phủ phàng bao nhiêu. Do đó nên chăng trong tương lai, trong  bất cứ tình huống nào, Việt Nam cần kiên quyết tránh bị lôi kéo vào công việc nội bộ của  Cămpuchia, để tập trung  nguồn lực đảm bảo an ninh biên giới mà thôi. Đây không phải là điều dẽ, nhưng là một phương châm hành động ./.        
(*) Ghi chú: Bài viết đã có những chỉnh sửa bổ sung nhằm làm rõ thêm ý chủ đạo của nó. Xin thông báo và mong sự cảm thông của những ai  sử dụng nội dung bài viết.  Xin cảm ơn.
 

Chủ Nhật, 7 tháng 10, 2012

Phát huy tinh thần độc lập, tự chủ...

Nguyễn Trọng Vĩnh

Lời tựa của Bauxite Việt Nam
Chúng tôi không biết rõ nội dung cụ thể của Hội nghị trung ương 6 khóa XI hiện đang họp tại cung đình ngoài những lời thông báo tổng quát của ông Nguyễn Phú Trọng trên các phương tiện truyền thông lề đảng, và thú thực cũng không để tâm cho lắm. Nhưng các vị lão thành cách mạng thì rất quan tâm đến mục tiêu và diễn biến của Hội nghị ấy. Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh là một trong số các vị lão thành đó. Ông vừa gửi đến BVN một bài viết trình bày một vài quan điểm cá nhân liên quan đến Hội nghị nói trên. Trên tinh thần tôn trọng ý kiến của một bậc cách mạng đàn anh suốt đời nêu tấm gương yêu nước nồng nàn và lối sống đạo đức mẫu mực cho con cháu, chúng tôi xin trân trọng đăng nguyên bài viết của ông, để các cấp có thẩm quyền và bạn đọc xa gần tham khảo. Qua điện thoại, tác giả có một lời nhắn đến chúng tôi, rằng ông chịu trách nhiệm hoàn toàn về những vụ việc dính dáng đến tên tuổi các nhân vật mà bài viết đề cập.
Chúng ta từng tuyên bố: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên tinh thần tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào nội bộ của nhau, hợp tác cùng có lợi”. Tuyên bố đó, về chiến lược, sách lược đều đúng.
Trong quan hệ quốc tế, các quốc gia độc lập, bất kỳ lớn nhỏ đều phải như vậy.
Đáng thất vọng là trong cuộc đàm phán Việt – Trung về bình thường hóa quan hệ lại không thể hiện tinh thần ấy.
Trong cuộc chiến xâm lược nước ta năm 1979 mà Đặng Tiểu Bình nói là: “Dạy cho Việt Nam một bài học”, tuy có giết hại được bộ phận đồng bào ta, tàn phá các tỉnh biên giới miền Bắc nước ta, nhưng cũng bị quân dân ta đánh cho sứt đầu mẻ trán phải tháo lui. Ta đâu có phải là bại trận mà trong đàm phán phải đi nước dưới để Trung Quốc đòi ta phải gạt bỏ Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, đòi không được nhắc đến trận chiến năm 1979… Phái đoàn ta lại chấp nhận?!
Đại hội VII năm 1991 gạt bỏ đồng chí Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, một nhà ngoại giao yêu nước, đầy tài năng và rất cảnh giác với bành trướng, bá quyền Trung Quốc; mỗi khi đến tháng 2 hàng năm (kỷ niệm Trung Quốc xâm lược vào các tỉnh biên giới) không dám có phái đoàn lên thắp hương tượng trưng cho đồng bào chiến sỹ đã hy sinh bảo vệ Tổ quốc; thậm tệ hơn, chỉ cách đây vài năm, trước cái ngày Trung Quốc đánh Việt Nam đúng một ngày, bà Phó chủ tịch Quốc hội còn mở tiệc chiêu đãi Đại sứ Trung Quốc (chiêu đãi mừng chính cái kẻ, vào đúng ngày này 30 năm trước, đã “quạt lửa” vào mặt chúng ta, thử hỏi có nước nào rửa cho sạch nhục?). Mỗi người Việt Nam yêu nước đều cảm thấy nhục nhã.
Từ nhiệm kỳ của nguyên Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, Trung Quốc càng dễ can thiệp vào nội bộ nước ta và muốn gì được nấy.
Lãnh đạo Trung Quốc muốn khai thác bô-xít và chiếm lĩnh điểm chiến lược Tây Nguyên, được Tổng bí thư chấp nhận ngay mặc dầu chưa có ý kiến tập thể Bộ Chính trị. Mỗi lần Bộ Chính trị phía ta chuẩn bị dự kiến nhân sự cho nhiệm kỳ tới, thì thế nào cũng có Ủy viên Bộ Chính trị Trung Quốc sang thăm để thăm dò sự sắp đặt nhân sự mới của ta, khi cần thì gợi ý “khéo”. Khi dự kiến các chức danh Chính phủ cho nhiệm kỳ Đại hội X, có ý kiến đề nghị đồng chí Phạm Bình Minh làm Bộ trưởng Ngoại giao thì Tổng bí thư Nông Đức Mạnh gạt đi, nói rằng “Trung Quốc không đồng ý”, và bố trí đồng chí Phạm Gia Khiêm.
Khi Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh và tàu Viking II của ta thăm dò khảo sát trong thềm lục địa Việt Nam, nhân dân phẫn nộ biểu tình phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền. Tình hình rất căng, đáng ra Trung Quốc phải “hạ nhiệt” thì phía ta lại cử đặc phái viên Thứ trưởng Ngoại giao sang Trung Quốc có vẻ cầu hòa. Trung Quốc tỏ ra bực mình vì những cuộc biểu tình, thì sau khi đặc phái viên về là các cuộc biểu tình bị đàn áp.
Cái gì Trung Quốc muốn cũng được, cái gì cũng nghe theo ý kiến Trung Quốc, cái Trung Quốc không bằng lòng thì không dám làm, vậy thì còn gì là độc lập tự chủ?
Được biết gần đây có việc bổ sung Ủy viên Bộ Chính trị, có ý kiến trong số người dự định bổ sung, nên có đồng chí M. thì liền có ý kiến sợ “căng thẳng với Trung Quốc”. Trong vụ Nguyễn Tấn Dũng có ý kiến can thiệp gì của Tập Cận Bình không? Nếu có thì theo Tập Cận Bình hay theo Ban Chấp hành trung ương và theo dân? Việc của nội bộ chúng ta thì chúng ta tự giải quyết việc gì phải nể vì ai, theo ai? Nếu không kiên quyết xử lý dứt điểm vấn đề Nguyễn Tấn Dũng trong thời điểm hiện nay để mắc mưu ông ta thoát khỏi bị xử lý ngay trong hội nghị trung ương kỳ này và kỳ họp Quốc hội tháng 11 tới thì vô cùng nguy hại.
Nhớ xưa: Vua và dân một lòng thì dù quân Nguyên Mông hùng mạnh nhất một thời cũng bị 3 lần đại bại. Hồ Quý Ly tuy có tư tưởng cải cách tiến bộ, có thành đá, hào sâu, nhưng vì không được dân ủng hộ nên mất nước.
Không nên quá sợ Trung Quốc đánh. Thắng bại trong chiến tranh chủ yếu là do thiên thời, địa lợi, nhân hòa, không chỉ do vũ khí và phương tiện. Na-pô-lê-ông đã thất bại trước nước Nga, Hít-le đã thất bại trước Liên Xô, Nguyên Mông và Mỹ đã thất bại trước Việt Nam…
Trung Quốc có chỗ mạnh nhưng cũng có đầy chỗ yếu. Bối cảnh quốc tế và nội tình Trung Quốc không thuận cho Trung Quốc gây chiến. Nhưng nếu ta nhu nhược quá thì Trung Quốc sẽ thực hiện được “bất chiến tự nhiên thành”.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

--------------
*****

Thứ Bảy, 29 tháng 9, 2012

Tiến hành chiến tranh bằng các phương tiện phi qui ước: Thủ đoạn chính trị của Trung Quốc trong việc sử dụng các lực lượng biển

Tác giả: Toshi Yoshihara (*)
Trần Ngọc Cư dịch, gửi đăng tại BauxitVN

Nguồn bản gốc: thediplomat.com
Hình minh họa (của Bách Việt)
Việc Trung Quốc phát triển và sử dụng một lực lượng biển (seapower) gồm có hải quân và các lực lượng phi quân sự không trực thuộc hải quân đã trở thành nguyên nhân cho sự lo ngại – một sự kiện có thể thay đổi cán cân lực lượng trong khu vực.
Thái độ quyết đoán gần đây của Trung Quốc trong biển Nam Trung Hoa [biển Đông Việt Nam] là màn dạo đầu cho nhiều vụ việc sắp tới. Dự án xây dựng hải lực của Bắc Kinh và các nguồn lực khổng lồ mà Bắc Kinh nắm được trong tay đã mở ra những viễn cảnh chiến lược mới mẻ cho giới lãnh đạo chính trị và các vị tư lệnh quân đội Trung Quốc. Nắm được các lực lượng biển hùng hậu và đầy đủ khả năng, Bắc Kinh có đủ điều kiện để hoạch định những chiến lược tinh vi, vừa hữu hiệu vừa khó chống trả. Mặc dù những chiến lược này không – nói đúng ra, chưa – báo hiệu một sự tái phối trí trật tự cơ bản trong vùng Đông Nam Á tiếp giáp với biển, nhưng chúng có khả năng dần dần tạo thuận lợi cho các mục đích to lớn hơn của Trung Quốc trong các vùng biển.
Hải lực toàn diện của Trung Quốc
Nỗ lực xây dựng lực lượng hải quân và hàng hải Trung Quốc đang tạo phương tiện cho Bắc Kinh theo đuổi những tham vọng của mình. Tốc độ và quy mô của tiến trình hiện đại hóa Quân đội Gỉải phóng Nhân dân (QĐGPND) đã bác bỏ nhiều tiên đoán của phương Tây, làm đảo ngược các kết luận lạc quan và thậm chí trịch thượng của các đối thủ về các khả năng trên biển của Trung Quốc. Nhưng, lực lượng biển (seapower) không phải chỉ là hải quân (the navy). Nói đúng ra, nó là một tập hợp của nhiều thành phần gần giống nhau (continuum) có thể tạo ra nhiều phương án để Bắc Kinh tùy nghi lựa chọn. Các chương trình và các hệ thống phi hải quân (non-naval) và phi quân sự (non military) chiếm một phần đáng kể trong lực lượng biển của Trung Quốc.
Các loại vũ khí tầm xa, bắn chính xác, được triển khai trên lục địa có thể ảnh hưởng, có lẽ một cách quyết định, đến các biến cố trên biển. Tên lửa đạn đạo chống chiến hạm – một loại tên lửa đạn đạo cơ động có thể bắn trúng những mục tiêu di động trên biển – chỉ là một thành viên thuộc đại gia đình tên lửa trong kho vũ khí Trung Quốc, có khả năng mở những đợt pháo kích ra biển. Thật vậy, QĐGPND thường khoe khoang về máy bay chiến đấu , máy bay thả bom, và các đơn vị tên lửa hành trình đóng trên bờ biển, có thể phóng những tràng tên lửa chống chiến hạm.
Sự tăng trưởng của ngành hải giám và tuần tra biển của Trung Quốc cũng ấn tượng không kém. Cánh dân sự trong các lực lượng biển Trung Quốc đã tạo điều kiện để Bắc Kinh gửi các tàu phi quân sự ra đối đầu với Philippines ở biển Đông Việt Nam và với Nhật Bản ở biển Đông Trung Hoa. Thậm chí những tàu dân sự cũng có thể tạo thành các lực lượng dân quân biển (maritime militias) để phục vụ các mục tiêu trên biển của Trung Quốc. Tắt một câu, Trung Quốc có đủ các thành phần đa dạng trong lực lượng biển của mình để bảo vệ đặc quyền trên các vùng biển.
Việc sử dụng các lực lượng quân sự và phi quân sự có tính cách chính trị
Các lực lượng biển ngày càng hùng hậu của Bắc Kinh đã cho phép chính quyền này sử dụng các chiến lược gồm cả việc vận dụng các phương tiện quân sự và phi quân sự của lực lượng biển với mục tiêu chính trị là chống lại các địch thủ nhỏ bé trên biển Đông. Các chiến lược này kết hợp khéo léo các khả năng tác chiến với các cuộc biểu dương lực lượng có chừng mực. Chúng gia tăng lợi thế của Trung Quốc trong các cuộc đấu tranh quân sự-chính trị trường kỳ bằng cách làm tiêu hao ý chí của đối phương.
Trong trường hợp có khủng hoảng trên biển vào thời bình giữa Trung Quốc với các quốc gia tương đối yếu tại Đông Nam Á, sự kết hợp đầy sáng tạo các lực lượng QĐGPND có thể được vận dụng để bẻ gãy ý chí của các nước láng giềng phía Nam. Hãy xét đến lợi điểm của tên lửa đạn đạo chống chiến hạm nói trên. Nếu khả năng hoạt động của nó hữu hiệu như được rêu rao, loại tên lửa này có thể bù đắp lại những khuyết điểm hiện nay trong các loại vũ khí trên biển của Trung Quốc. Tầm đạn của hoả lực yểm trợ từ bờ biển bắn đến các vị trí trên toàn biển Đông sẽ làm giảm bớt gánh nặng cho hạm đội Trung Quốc, đồng thời tạo sức ép thường xuyên lên các đối thủ dám thách thức các lợi ích của Bắc Kinh trong thời bình.
Dưới chiếc dù che chở của tên lửa đạn đạo chống chiến hạm, thậm chí các tàu chiến cỡ nhỏ của Trung Quốc cũng có thể trở thành vũ khí lý tưởng để đe dọa các phe yếu hơn. Chẳng hạn, các đội tàu nhỏ được trang bị tên lửa, có khả năng tấn chông chớp nhoáng, hoạt động trong quần đảo Trường Sa dưới sự yểm trợ của tên lửa từ bờ biển bắn ra, có thể đẩy lùi hầu hết các hạm đội Đông Nam Á. Thỉnh thoảng Trung Quốc lại tung ra các đội tàu nhỏ như thế để nói lên quyết tâm của mình, buộc đối phương phải xuống nước hay đáp ứng tham vọng của Bắc Kinh. Loại chính sách ngoại giao hạm thuyền mang đặc tính Trung Quốc này là điều ta có thể quan niệm được trong các cuộc khủng hoảng tương lai.
Khả năng của Trung Quốc trong việc sử dụng những yếu tố phi quân sự trong lực lượng biển của mình đã được phô trương đầy đủ tại Bãi cạn Scarborough mùa Xuân năm nay. Cuộc đối đầu với Philippines đã đưa đến việc sử dụng những tàu phi chiến đấu có chức năng tuần duyên đặt dưới quyền kiểm soát của Cục Hải giám Trung Quốc, một cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ các khu đặc quyền kinh tế của Bắc Kinh. Trong một hành động biểu dương quyết tâm chưa từng có trước đây, các tàu Hải giám Trung Quốc đã đi vào lãnh hải Nhật Bản gần quần đảo Senkaku, tiếp theo sau quyết định quốc hữu hóa các đảo tranh chấp này của Tokyo vào tháng Chín 2012.
Việc sử dụng các phương tiện phi hải quân (non-navy assets) trong các vụ xung đột về lãnh thổ đã phơi bày một chiến lược, vừa tinh vi vừa có phương pháp, nhằm đảm bảo các đòi hỏi chủ quyền trên biển của Trung Quốc. Việc sử dụng các phương tiện phi quân sự tránh được sự leo thang xung đột, đồng thời đảm bảo rằng các cuộc tranh chấp vẫn giữ được tính cách địa phương. Cụ thể là, nó không cho phép Mỹ và các cường quốc bên ngoài có đủ lý lẽ để nhảy vào bênh vực các quốc gia đang lâm trận ở trong khu vực.
Đồng thời, các tàu phi quân sự cho phép Bắc Kinh có khả năng áp đặt một sức ép ở cấp độ thấp và liên tục lên các đối thủ có yêu sách chủ quyền trên các đảo và lãnh hải trong biển Đông. Các cuộc tuần tra liên tục của Trung Quốc có thể thăm dò những chỗ yếu trong khả năng hải giám của các nước ven biển, đồng thời thử thách quyết tâm chính trị của những quốc gia này. Ngoài ra, việc giữ cho các cuộc tranh chấp diễn ra ở mức âm ỉ, cho phép Trung Quốc nắm thế chủ động ngoại giao trong việc làm gia tăng hoặc giảm bớt nhiệt độ căng thẳng, tùy theo đòi hỏi của các tình huống chiến lược.
Và nếu tất cả mọi phương tiện khác đều thất bại, Bắc Kinh vẫn còn có thể sử dụng hải quân và các loại vũ khí đặt dọc theo bờ biển để yểm trợ cho tàu của các cơ quan dân sự. Sự kiện Trung Quốc – khác với các đối thủ yếu kém – có sự lựa chọn leo thang tranh chấp chỉ làm tăng thêm yếu tố hăm dọa (the intimidation factor) ở những nơi như Bãi cạn Scarborough hay quần đảo Trường Sa. Như đã nói ở trên, nội khả năng Trung Quốc dùng hải quân để o ép cũng có thể khiến một đối phương phải xuống nước trong một cuộc khủng hoảng. Thật vậy, cán cân lực lượng hải quân càng nghiêng về phía Trung Quốc, thì nó càng có khả năng trở thành một mối ám ảnh cho các thủ đô Đông Nam Á, khi các quốc gia này cân nhắc các phương án lựa chọn của mình.
Tự bản thân, các cuộc tuần tra biển trong thời bình là không quan trọng, nhưng khi được yểm trợ bằng hoả lực thực sự, chúng có tầm quan trọng đáng kể. Tác động qua lại giữa các lực lượng quân sự và phi quân sự của Trung Quốc như vậy đã gia tăng lợi thế chiến lược của Bắc Kinh.
Một chiến lược làm đối phương kiệt sức trên biển
Những hành động o ép và dọa nạt có thể không tạo ra kết quả rõ ràng hay quyết định như một thắng lợi trên chiến trường. Một loạt các cuộc đọ sức quyết liệt có thể diễn ra, mà không có hồi kết thúc trước mắt hay mang lại một thành quả rõ rệt cho Trung Quốc. Nhưng, các hiệu ứng tích lũy của một tình trạng bế tắc liên tục có thể tạo ra sự mệt mỏi chiến lược cho đối phương, do đó sẽ phục vụ các mục tiêu của Trung Quốc. Vì chưa phải là một cuộc chiến bằng súng đạn, những khiêu khích của Trung Quốc là quá nhẹ không đáng cho Mỹ phải can thiệp bằng quân sự. Bằng cách cố giữ cho các hoạt động của mình nằm dưới ngưỡng leo thang, Trung Quốc sẽ có thêm khả năng điều động, để thử thách quyết tâm của Mỹ đồng thời củng cố các đòi hỏi chủ quyền của mình.
Trong khi Trung quốc vừa lấn tới vừa thăm dò, thì các kỳ vọng trong khu vực – rằng Mỹ phải làm một việc gì đó – tất yếu sẽ gia tăng, thậm chí cả khi các quốc gia nhược tiểu đang tìm kiếm những dấu hiệu về sự lung lay quyết tâm của Mỹ. Viễn cảnh về các cuộc đối đầu lặp đi lặp lại, mà không mấy hy vọng được Mỹ can thiệp trực tiếp, có thể đè nặng lên các thủ đô Đông Nam Á. Nếu được áp dụng bằng một thái độ kiên trì và có kỷ luật từ phía Trung Quốc, chiến lược tiêu hao lực lượng này có thể bào mòn lòng tin tưởng trong khu vực [đối với Mỹ] và hủy hoại ý chí chính trị [chống lại Trung Quốc] của các nước nhỏ.
Nhưng đường lối tiêu hao này chỉ là hình ảnh chụp vội các lực lượng biển Trung Quốc ngày nay. Cũng có thể rằng, việc Bắc Kinh áp dụng sức ép theo từng cấp độ cũng chỉ là một biện pháp vá víu, để Trung Quốc có đủ thời gian tạo khả năng định đoạt các biến cố trên biển. Các xu thế gần đây cho thấy rằng các lực lượng quân sự và phi quân sự sẽ tiếp tục lớn mạnh nhờ sự tiếp sức liên tục bằng các loại vũ khí mới và nhân lực mới.
Ngân sách quốc phòng gia tăng liên tục trên 10% trong vòng hai mươi năm qua, đã cho phép Trung Quốc có đủ nguồn lực để phát huy các phương án vượt ra ngoài các phương án dành cho một tình huống đột xuất trên đảo Đài Loan – mãi cho đến gần đây, Đài Loan là mối quan tâm lớn nhất. Các nhà phân tích đã phát hiện được việc Trung Quốc đang xây dựng lực lượng quân sự tại các vùng sẽ làm nơi xuất phát, dành cho địa bàn hành quân tại Đông Nam Á. Bắc Kinh cũng có vẻ đang đẩy mạnh hoạt động tại các công xưởng hải quân, theo phương pháp đa trục, đồng thời đưa vào khuôn những thân tàu cho các chiến hạm đủ loại.
Tương tự như thế, các cơ quan tuần dương cũng đang tuyển mộ thêm nhân viên đồng thời tiếp nhận các tàu hải quân đã giải nhiệm. Hơn thế nữa, các xưởng đóng tàu Trung Quốc đang sản xuất các tàu tuần duyên hiện đại nhất như sản xuất lạp xưởng. Nhiều chiếc có khả năng đi tuần tra lâu ngày đến tận những vùng xa nhất ở biển Đông Trung Hoa và biển Đông Việt Nam, nhằm đảm bảo rằng Bắc Kinh có thể duy trì sự hiện diện nổi bật tại các vùng biển mà Bắc Kinh quyết đoán quyền tài phán chủ quyền của mình. Thật vậy, chiếc Hải Giám 84, một trong những chiếc tàu tuần dương hiện đại nhất của Trung Quốc, đã chiếm vị trí trung tâm tại cuộc đối đầu ở Bãi cạn Scarborough.
Chắc chắn là, Trung Quốc vẫn chưa có đầy đủ phương tiện quân sự để biến biển Đông thành một ao nhà của mình. Một khả năng kiểm soát, dù ít dù nhiều, có thể vĩnh viễn đẩy hải quân của các địch thủ ra khỏi những vùng biển này, vẫn còn nằm ngoài tầm với của Trung Quốc, nếu thực sự đấy là mục tiêu của Bắc Kinh.
Tuy nhiên, thậm chí một sự tăng cường khiêm nhượng trong các lực lượng biển của Trung Quốc cũng có thể làm nghiêng cán cân lực lượng về phía Trung Quốc một cách rõ rệt trong các tình huống đột xuất thời bình nếu không có sự can thiệp của Hải quân Mỹ. Một vài nước trong khu vực, chẳng hạn Việt Nam, đã lao vào những chương trình hiện đại hóa hải quân, nhưng họ không thể nào bắt kịp Trung Quốc. Qua một thời gian, nếu không gặp sự chống đối từ các cường quốc bên ngoài như Mỹ, Nhật Bản, hay Úc Đại Lợi, thì ngay cả những cuộc biểu dương lực lượng biển cỡ nhỏ của Trung Quốc, nhằm khuynh loát các hạm đội Đông Nam Á, cũng có thể bắt đầu đưa đến sự khứng chịu bất đắc dĩ của các nước trong khu vực trước các yêu sách đối ngoại của Bắc Kinh. Một sự đồng thuận như vậy, dù bất đắc dĩ đến đâu, cũng sẽ giáng một đòn nghiêm trọng cho nền tảng trật tự trong khu vực.
Những ngụ ý đối với chiến lược “tái quân bình lực lượng” Mỹ hướng về châu Á
Bản phân tích nói trên nhấn mạnh tình trạng nan giải của nhiều nước Đông Nam Á nếu họ phải một mình đối đầu với Trung Quốc. Thật không có gì đáng ngạc nhiên, khi nhiều chính phủ trong khu vực đã hướng về Mỹ như một bức tường thành chống lại những bước lấn tới của Trung Quốc. Những chính phủ này nhìn nhận rằng thế siêu cường của Mỹ trong các vùng biển châu Á sẽ là sức mạnh quan trọng định đoạt thắng-thua cho những tham vọng của Trung Quốc. Về phần mình, Washington đã đưa ra những tuyên bố rất công khai về lợi ích của mình tại các vùng biển châu Á. Chiến lược “xoay trục” hay “tái quân bình lực lượng” hướng về châu Á đã tìm cách trấn an các nước trong khu vực rằng Mỹ sẽ không từ bỏ vai trò ổn định tình hình mà Mỹ vẫn giữ từ lâu.
Cũng may là, hiện nay vẫn còn có đủ thì giờ để các nước tăng cường tối đa sự đồng thuận về lợi ích chung và tổ chức một hành động đối phó hữu hiệu. Trung Quốc phải cần ít ra một thập kỷ nữa mới xây dựng được một lực lượng biển hùng hậu có sức đuổi Mỹ ra khỏi biển Đông trong khi tự do hà hiếp các nước Đông Nam Á. Hiện nay, Washignton có thể theo đuổi nhiều biện pháp nhằm đảm bảo rằng việc các nước trong khu vực chịu khuất phục trước tham vọng của Trung Quốc không phải là một chuyện đương nhiên
Một là, Washington và đồng minh của mình phải tích cực giúp các quốc gia Đông Nam Á tự cứu mình. Các nước trong khu vực phải có một nội lực để đương đầu với các cuộc xâm lấn biển đảo đến từ Trung Quốc. Việc Mỹ chuyển giao cho Philippines những tàu tuần duyên chế tạo trong thập niên 1960 là một bước khiêm nhường đi đúng hướng. Thời điểm chuyển giao các tàu này hóa ra là một sự trùng hợp ngẫu nhiên: chiếc tàu Philippines đầu tiên đã đáp ứng mệnh lệnh khi còn ở ngoài khơi của Bãi cạn Scarborough là kỳ hạm (flagship) BRP Gregorio del Pilar, vốn là chiếc Hamilton thuộc Cục Tuần duyên Mỹ trước đây. Nhưng, những chiếc tàu cũ được chuyển giao lại này không đáp ứng đủ nhu cầu của Manila. Việc Nhật Bản gần đây đề nghị bán cho Philippines 12 tàu tuần duyên mới toanh là một dấu hiệu khích lệ cho thấy các cường quốc bên ngoài đang tìm cách để chỉnh sửa cán cân lực lượng trong khu vực.
Hai là, Mỹ phải thúc đẩy sự phát triển một nỗ lực trên toàn khu vực để theo dõi các lực lượng biển Trung Quốc. Những hệ thống vệ tinh không người lái trên không, chẳng hạn, có thể cung cấp cho các quốc gia chung quanh biển Đông một bức tranh chung về vùng biển này. Bằng cách vận dụng những công nghệ như thế, một hệ thống chia sẻ thông tin có khả năng minh bạch hóa các vùng biển châu Á, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, sẽ là một tiến bộ lớn trong việc nâng cao lòng tự tin và khả năng ngăn chặn trong khu vực. Cũng nên ghi nhận rằng, chính quyền Tokyo lâu nay vẫn cung ứng một dịch vụ truyền tin cho toàn khu vực bằng cách công khai tường thuật chi tiết các tàu hải quân Trung Quốc đi qua các eo biển quốc tế và các hoạt động khác của Trung Quốc gần lãnh hải Nhật Bản.
Ba là, Mỹ phải vạch ra các kế hoạch để quân đội Mỹ có thể triển khai các đơn vị có trang bị vũ khí pháo kích trên biển, như các ổ tên lửa hành trình chống tàu chiến địch được đặt trên lãnh thổ bạn hay đồng minh. Nắm được phương án để nhanh chóng đưa thêm vào lãnh thổ các đồng minh những lực lượng phòng thủ, liền sau khi được thông báo, sẽ trấn an được các đồng minh của Mỹ trong thời bình, cũng như củng cố khả năng hành động có hiệu quả của Mỹ trong các giai đoạn có khủng hoảng. Những lực lượng tăng viện của Mỹ sẽ trấn an được tâm lý đồng thời nâng cao quyết tâm tự vệ của nước sở tại. Mỹ phải khuyến khích các nước bạn và đồng minh phát triển và tăng cường các phương án tác chiến trên biển của chính mình.
Sau cùng, Hải quân Mỹ phải duyệt xét lại những giả định đang thịnh hành về khả năng của mình trong việc khống chế các vùng biển quốc tế. Nhiều năm được thoải mái sau thời Chiến tranh lạnh đã phát sinh một tâm lý tự tin hão huyền, khiến Hải quân Mỹ dễ coi thường việc kiểm sóat các biển. Cũng nên nói là, lần cuối cùng Hải quân Mỹ đã lâm trận với một kẻ thù đáng nể là tại Vịnh Leyte [Philippines] vào năm 1944. Khi Trung Quốc tiến quân ra biển, thì sẽ có một môi trường biển nguy hiểm hơn nhiều chờ đợi ở tương lai. Đối với một quân chủng đã lâu ngày quen thuộc với các vùng biển không tranh chấp, thái độ biết chấp nhận những nguy hiểm xảy đến cho hạm đội của mình sẽ là một ưu tiên khẩn thiết hơn bao giờ.
Tạo thành mạng lưới trong khu vực
Những biện pháp nói trên sẽ giúp tạo ra một thế phòng thủ được liên kết nhau và có nhiều tầng cấu trúc, một thế phòng thủ xuất phát từ chính các quốc gia trong khu vực. Là những quốc gia ở tuyến đầu, họ phải được tăng cường sức mạnh để có thể phản ứng trước nhất đối với các động thái của Trung Quốc ở trên biển. Việc chia sẻ thông tin giữa các quốc gia duyên hải sẽ nhấn mạnh sự mất còn của các quyền lợi chung trong những vùng biển quốc tế, đồng thời thúc đẩy một hành động tập thể. Một mạng lưới gồm các quốc gia biết cảnh giác trước những mưu mô của Trung Quốc sẽ có một cơ may tốt đẹp hơn trong việc ngăn chặn, và, nếu không làm được điều này, cũng phản ứng nhanh chóng hơn trước những hành động của Trung Quốc. Về phần mình, Mỹ sẽ phải cung cấp một hậu thuẫn chiến lược cho các quốc gia đối tác ở Đông Nam Á, bằng các phương tiện quân sự kín đáo, không để lại dấu vết, nhưng có khả năng tạo được cú đấm và được coi là biểu tượng mạnh mẽ cho sự cam kết của Mỹ đối với khu vực này.
Các nỗ lực làm gia tăng những chi phí và những rủi ro cho Trung Quốc, vì hành vi quyết đoán của nước này trong biển Đông, sẽ làm xáo trộn bài toán của Bắc Kinh, đồng thời khiến các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải suy nghĩ chín chắn trước khi hành động. Ngoài ra, khi các nước buộc Trung Quốc phải có thái độ thận trọng tức là họ đã hãm lại được đà tiến quân ra biển của Bắc Kinh, đồng thời làm tươi sáng viễn ảnh phục hồi thế quân bình trong khu vực và lấy lại thế chủ động chiến lược.
Toshi Yoshihara giữ ghế Chủ toạ John A. Van Neuren trong Chương trình nghiên cứu châu Á-Thái Bình Dương tại Trường Chiến tranh Hải quân Hoa Kỳ (the U.S. Naval War College). Bài báo này là một phiên bản được duyệt lại từ bản điều trần của Tiến sĩ Yoshihara trước Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ vào ngày 12 tháng Chín năm 2012. Quan điểm được trình bày ở đây là quan điểm riêng của tác giả.
T.Y.
--------------
Bách Việt 

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này