Hiển thị các bài đăng có nhãn Ngoại giao. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Ngoại giao. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 15 tháng 11, 2012

Vì sao giải pháp Biển Đông bế tắc?


Theo dõi tình hình Biển Đông, ai cũng thấy lực cản chính của một giải pháp dĩ nhiên là Bắc Kinh. Nhưng không phải ai cũng nhận ra "lực cản phụ" là sự thiếu đồng nhất trong nội bộ ASEAN. Nếu thái độ phản trắc đối với những người cùng hội cùng thuyền ASEAN của Cămpuchia với tư cách nước chủ nhà của Hội nghị AMM lần thứ 45 thì thái độ của nước Lào tại Hội nghị Á- Âu (ASEM) do Lào làm chủ nhà mới đây cũng không khá hơn là mấy. Trong khi đó  3 nước Thái Lan, Singapore và Indonesia, dù rất muốn đóng vai trò, nhưng thái độ lại "nữa vời". Nhìn quanh rốt cuộc chỉ có  Philipine và Việt Nam phải "giơ đầu chịu báng". Đó là thực trạng của ASEAN trước một đối phương ngày càng quả quyết hơn là Trung Quốc. 

Vì sao có tình trạng "trống đánh xuôi kèn thổi ngược" trong nội bộ ASEAN? Có thể  đó là do bản thân một số nước còn nhầm tưởng rằng họ có thể đứng ngoài cơn mưa của chủ nghĩa bành trướng Bắc kinh (?) đồng thời những lợi ích kinh tế, thương mại, đầu tư và cả viện trợ từ Bắc Kinh tỏ ra quá hấp dẫn đối với họ (?)
    
Trong số các bài viết và phân tích của nhiều tác giả quốc tế và khu vực về chủ đề tranh chấp Biển Đông, có thể nói bài phân tích có tựa đề "A way ahead in the South East Asia" của tác giả David Brown (*)  đăng trên tờ Asia Times online ngày 7/11/2012 là một trong những bài phản ánh khách quan và chính xác hơn về thực trạng của vấn đề tranh chấp Biển Đông cho đến nay. Xin trích đăng lại Bài viết được dịch giả Hoàng Anh chuyển ngữ
dưới đây  để bạn đọc tiện tham khảo.

          Hướng tháo gỡ cho vấn đề Biển Đông

Tác giả : David Brown - Asia Times online , 07-11-2012
Người dịch: Hoàng Anh 
Người ta đã từng rất kỳ vọng rằng Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) sẽ tạo được một bức tường thành vững chắc, có khả năng ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc xuống các vùng biển trong khu vực Đông Nam Á. Và họ cũng đã từng nghĩ rằng để chuẩn bị ứng phó với tuyên bố chủ quyền “không thể bác bỏ” của Trung Quốc đối với các “vùng biển liên quan” mà có vẻ vươn tới tận sát vách Singapore, các nước ASEAN sẽ cùng thống nhất được một lợi ích chung, và vạch ra được một kênh mà các cường quốc ngoài khu vực như Nhật Bản, Úc, Ấn Độ và đặc biệt là Hoa Kỳ, có thể can thiệp giúp đỡ.
Tuy nhiên, cơ chế hoạt động dựa trên nguyên tắc đồng thuận và đối thoại không đối đầu của ASEAN lại là một lỗ hổng chết người trong trường hợp này. Bốn trong mười quốc gia thành viên – Lào, Campuchia, Thái Lan và Myanmar – một mực đặt ưu tiên cho việc duy trì mối quan hệ song phương nồng ấm với Trung Quốc lên trên sự thống nhất của khối ASEAN. Bởi sự chia rẽ nội bộ này, các thành viên ASEAN đã phải hội đàm không ngừng nghỉ, nhằm đi đến một kế hoạch khung có khả năng đáp ứng các đòi hỏi của Bắc Kinh ở mức tối thiểu.
Trong khi đó, họ lại không nhận được nhiều sự hợp tác từ phía Bắc Kinh. Trung Quốc lẩn tránh mọi đề xuất của ASEAN nhằm thiết lập một cơ chế kiểm soát xung đột, bao gồm cả bản dự thảo Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông. Bắc Kinh không đồng ý với việc đem các tuyên bố chủ quyền chồng lấn ra nhờ trọng tài quốc tế phân xử hay ngay cả việc đàm phán đa phương. Họ cũng chẳng thèm làm rõ phạm vi tuyên bố chủ quyền của mình ở Biển Đông. Và bởi lẽ đó, suốt hai thập kỷ qua, đã bao lần ASEAN nhóm họp để rồi chẳng làm nên trò trống gì.
Bốn trên tổng số mười nước ASEAN đang trực tiếp ở tuyến đầu của cuộc tranh chấp này. Malaysia, Brunei, Philippines và Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ hoặc một phần quần đảo Trường Sa, bao gồm một loạt rặng san hô, bãi đá và các hòn đảo nhỏ nằm rải rác khắp khu vực phía nam của Biển Đông. Việc kiểm soát các hòn đảo và bãi đá này lại dẫn đến các tuyên bố chủ quyền đối với các vùng biển xung quanh. Ngoài ra, hai nước Việt Nam và Philippines còn tuyên bố chủ quyền đối với một số đảo nhỏ và rặng san hô nằm về phía bắc quần đảo này, gần về phía Trung Quốc.
Đối với Hà Nội, họ tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, nằm giữa khu vực miền Trung Việt Nam và đảo Hải Nam của Trung Quốc. Bắc Kinh đã đánh chiếm quần đảo này từ tay chế độ Việt Nam Cộng hòa đang trên đà sụp đổ hồi năm 1974. Đó cũng là nơi mà hồi đầu năm nay, Bắc Kinh đã bày bố lớp vỏ cho cái mà họ gọi là thành phố Tam Sa với địa hạt bao trùm lên toàn bộ các tuyên bố chủ quyền rất bành trướng của Trung Quốc ở khu vực Biển Đông. Còn đối với Manila, họ tuyên bố chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough, một ngư trường ngoài khơi trù phú nằm cách Luzon, hòn đảo chính của Philippines, chỉ khoảng 200 km. Đây là nơi mà hồi tháng tư vừa qua Philippines đã phải đối mặt với các tàu tuần duyên của Trung Quốc, và rồi phải rút lui trong thế bất lợi.
Bởi vậy, không có gì phải ngạc nhiên khi Việt Nam và Philippines là hai nước tích cực nhất trong việc tìm kiếm một giải pháp triệt để nhằm đối phó với tham vọng của Trung Quốc muốn đạt được bá quyền trên vùng biển kéo dài gần 2.000 km về phía nam của đảo Hải Nam. Việc Manila và Hà Nội nóng lòng lôi kéo sức mạnh hải quân Hoa Kỳ vào cuộc tranh chấp này, đã khiến cho một số nước ASEAN anh em của họ cảm thấy khó chịu.
Ngược lại, Malaysia và Brunei luôn giữ một thái độ mềm mỏng hơn. Họ đã tự phân định tranh chấp với nhau và với Việt Nam, dựa trên các nội dung quy định trong Công ước Quốc tế về Luật Biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS) và theo tập quán quốc tế. Cả hai nước để mặc Việt Nam và Philippines tự bảo vệ các tuyên bố chủ quyền của mình ở khu vực phía bắc Biển Đông. Mặc dù không phải là nước cờ cao thượng cho lắm, nhưng cả Kuala Lumpur và Bandar Seri Begawan đều có vẻ hy vọng rằng tham vọng bành trướng của Trung Quốc sẽ được thỏa mãn trước khi nó lan tới vùng biển mà hai nước này tuyên bố chủ quyền, bất chấp ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy điều ngược lại.
Indonesia và Singapore cùng có chung lợi ích trong việc ngăn Trung Quốc theo đuổi các tuyên bố chủ quyền bành trướng của họ. Vùng biển nằm trong đường chín đoạn gây tranh cãi của Trung Quốc chồng lấn lên vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia ở gần quần đảo Natuna. Jakarta và Singapore cho đến nay đã nổi lên như là hai nước hậu thuẫn chính cho một “giải pháp ASEAN”, trong đó Singapore, như thường lệ, công khai chấp nhận vai trò lãnh đạo của Indonesia.
Mặc dù tuyên bố sẵn sàng đàm phán tranh chấp song phương với từng nước, nhưng Trung Quốc chẳng mảy may từ bỏ tuyên bố về quyền chủ quyền lịch sử của mình đối với vùng biển nằm trong đường chín đoạn. Như vậy, Bắc Kinh đang khẳng định quyền sở hữu đối với các nguồn tài nguyên biển nằm trong khu vực chiếm hơn 85% diện tích Biển Đông, bất chấp quy định của Công ước rằng tất cả các quốc gia có đặc quyền về kinh tế đối với phạm vi vùng biển cách bờ của họ 200 hải lý, hoặc xa hơn nếu thềm lục địa của họ rộng hơn, trừ khi nó tiếp giáp với vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia khác. Trung Quốc đã liên tục bác bỏ các quy định của Công ước, bằng cách tuyên bố rằng các nhà hàng hải và ngư dân của Trung Quốc đã ngược xuôi khắp vùng biển này từ thời xa xưa.
Tất cả các quốc gia tranh chấp đều có thể viện dẫn đến các bằng chứng lịch sử để lý giải cho các yêu sách của mình. Từ hàng nghìn năm nay, Biển Đông vẫn luôn là một khu chợ chung của cả khu vực. Việt Nam có thể trưng ra hàng đống bản đồ và chiếu dụ từ thế kỷ 18, thể hiện mối lợi ích trong việc tuyên bố chủ quyền đối với các hòn đảo trên Biển Đông một cách còn nhất quán hơn nhiều so với Trung Quốc. Cũng như ở Trung Quốc, những tài liệu cũ đã ố vàng đó lại góp phần khơi dậy ngọn lửa của chủ nghĩa dân tộc.
Tuy nhiên, tranh cãi dựa trên các bằng chứng lịch sử sẽ không thể đưa các nước tới lối thoát khỏi mớ bòng bong các tuyên bố chồng lấn này, trừ khi chúng được hậu thuẫn bởi một thế lực không thể gạt bỏ được – như ít nhất là có nhân vật nào đó bên phía Trung Quốc tin tưởng. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì đã từng có một tuyên bố gây xôn xao tại một cuộc họp vào tháng 8 năm 2010 do ASEAN chủ trì rằng “Trung Quốc là một nước lớn, còn các nước khác chỉ là những nước nhỏ, và đó là sự thật”.
Biển Đông dậy sóng
Từ vài năm nay, những triển vọng về một đột phá ngoại giao lại dấy lên mỗi khi bước vào những tháng mùa thu, khi mà Biển Đông phải dồn dập hứng chịu những cơn bão. Và cứ mỗi khi các cơn bão lắng dịu đi, thì các động thái khiêu khích của Bắc Kinh lại càng nhân lên gấp bội, đặc biệt tập trung vào việc quấy nhiễu, bắt bớ các ngư dân Việt Nam và Philippines, trong khi hăm dọa, xua đuổi các công ty năng lượng có ý muốn thăm dò nguồn dầu khí dưới biển do Hà Nội hoặc Manila cấp phép.
Bắc Kinh dựa vào hàng trăm tàu “hải giám” và “ngư chính” có vũ trang để mở rộng tầm kiểm soát của mình, trong khi hải quân Trung Quốc cũng đang được đầu tư phát triển tiềm lực từng ngày. Chẳng đáng phải ngạc nhiên khi Việt Nam, Malaysia, Indonesia và Singapore đã khẩn trương tăng tốc, củng cố tiềm lực không quân và hải quân của mình. Philippines là nước chậm chân trong cuộc đua này, nên mặc dù Manila đã có đôi chút chuẩn bị sau khi bị lôi kéo đột ngột vào những lần va chạm gần đây với Trung Quốc, các lực lượng của họ vẫn ở trong tình trạng đặc biệt lép vế.
Chính triển vọng nắm được nguồn dầu mỏ và khí đốt dồi dào dưới lòng Biển Đông, cộng với việc bị dồn nén từ sự miệt thị của các quốc gia khác từ bấy lâu nay, đã khiến Trung Quốc quyết tâm ôm trọn Biển Đông vào tầm kiểm soát của mình. Thực tế những cuộc hội đàm của các quốc gia ASEAN đã thất bại trong việc tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng đang leo thang, cùng với việc Trung Quốc áp dụng chiến lược “vừa đàm vừa đoạt” không chùn bước, và hệ quả là Hoa Kỳ nhúng tay vào một mớ các tranh chấp này đã khiến cho giới chuyên gia trở nên gần như tuyệt vọng.
Những suy tính về các kịch bản có thể xảy ra về vị thế của Trung Quốc trong trường hợp họ, một nước Trung Quốc mang đậm tư tưởng phục thù, giành thắng lợi trong cuộc tranh chấp hiện nay đã khiến cho Hoa Kỳ phải bận tâm. Washington không muốn động thủ và vẫn còn chưa rõ xem liệu Hoa Kỳ sẽ ứng phó ra sao trong trường hợp Việt Nam, Philippines hay thậm chí Singapore bị rơi vào tầm ảnh hưởng của Trung Quốc. Tuy nhiên, ít ai nghi ngờ quyết tâm của Hoa Kỳ muốn ngăn chặn Bắc Kinh kiểm soát toàn bộ tuyến hàng hải đi qua Biển Đông.
Nếu không phải là ASEAN chủ động đứng ra đương đầu, thì còn ai ra thay thế họ đây? Hoa Kỳ và các nước khác trên thế giới cần một lý lẽ đủ mạnh để biện minh cho một cuộc can thiệp bền vững và có hiệu quả. Gần đây, đã quá chán ngấy với con ngáo ộp “vũ khí hủy diệt hàng loạt” tại Irắc, công chúng Mỹ tỏ ra e dè trước một cuộc phiêu lưu quân sự tiếp theo. Còn Nhật Bản thì vốn đã luôn e dè với việc phô trương sức mạnh của mình. Nếu các quốc gia Đông Nam Á quanh vùng biển này muốn Hoa Kỳ và các đồng minh hỗ trợ nhiều hơn là những lời tuyên bố giữ vững tự do hàng hải ở Biển Đông, thì họ phải chứng tỏ rõ được rằng họ cần và đáng nhận được sự trợ giúp.
Nhiều người trong giới chính sách quốc tế ở phương Tây tin rằng Hoa Kỳ nên làm bạn với một “Trung Quốc đang trỗi dậy”. Những căng thẳng đang leo thang tại Biển Đông là một mối đe dọa cho viễn cảnh của họ về một cộng đồng các nước Thái Bình Dương hòa bình và thịnh vượng. Một số chuyên gia ngoại giao này có vẻ sẵn sàng nhường lại một khu vực ảnh hưởng cho Trung Quốc – chẳng hạn như ASEAN – và họ sẽ không đứng ra bênh vực bên nào trong các tranh chấp này. Nhiều “chiến lược gia” phương Tây vẫn còn đàm luận về các cuộc đối đầu này như thể tất cả các bên đều có lỗi như nhau.
Tuy nhiên, quan niệm đó có thể thay đổi — chỉ cần các nước Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam thảo luận và đi đến một chỗ đứng chung. Họ có thể thực hiện điều này được bằng cách khoanh vùng lại, nếu không phải là dàn xếp ổn thỏa, các tuyên bố chủ quyền chồng chéo giữa họ với nhau, thông qua việc áp dụng các quy định trong Công ước về Luật Biển và các quy định khác trong công pháp quốc tế. Họ cũng có thể cam kết sẽ dựa vào  trọng tài quốc tế phân xử cho các tranh chấp còn lại. Các nước không có tranh chấp như Indonesia và Singapore có thể đứng đằng sau hỗ trợ cho quá trình dàn xếp này của các nước ASEAN.
Kết quả có thể thấy ngay được đó là việc phân định rõ các vùng tranh chấp chồng lấn hiện nay của bốn nước đối với các hòn đảo, rặng san hô và bãi đá ở quần đảo Trường Sa. Họ có thể ngắm tới việc thỏa thuận các “giới hạn lãnh hải” mà các hòn đảo, bãi đá này tạo ra, và nhờ đó khoanh vùng địa lý các khu vực còn tranh chấp. Điều này lại giúp tiếp tục phân định rõ quyền kiểm soát đối với các khu vực biển lân cận.
Đối với các tranh chấp bên ngoài quần đảo Trường Sa, lấy lại được một chút lợi ích trên bàn đàm phán còn hơn là chẳng thu lại được gì. Bởi lẽ, Trung Quốc đã kiểm soát quần đảo Hoàng Sa được gần bốn thập kỷ, và giờ đây lại tỏ rõ quyết tâm chiếm giữ cả bãi cạn Scarborough. Cho đến thời điểm này, việc Việt Nam và Philippines giành lại được hai khu vực đó dựa vào các tuyên bố chủ quyền lịch sử dường như là điều hoang tưởng.
Hướng giải pháp thực tế hơn là đấu tranh buộc Trung Quốc phải chấp nhận vùng đặc quyền kinh tế quy định trong Công ước về Luật Biển, mà theo đó Việt Nam có thể lấy lại được một phần phía tây quần đảo Hoàng Sa còn Philippines thì sẽ lấy lại được bãi cạn Scarborough. Nếu căn cứ vào đó thì Malaysia, Brunei, Indonesia và Singapore sẽ dễ dàng đứng sau hậu thuẫn hơn, cho dù là họ đã ngần ngại ủng hộ việc đấu tranh thông qua bằng chứng về chủ quyền lịch sử.
Những bước đi này, có lẽ sẽ đạt đến sau một vài tháng đàm phán quyết liệt và kín đáo, sẽ giúp kiến tạo nền móng cho một giải pháp hòa bình cho chuỗi các sự kiện mà nay đã hiện rõ là một cuộc khủng hoảng. Nó cũng giúp cho Hoa Kỳ và đồng minh có được một lý do thích đáng để tích cực hỗ trợ, và thậm chí là can thiệp quân sự – nếu tình hình thực sự leo thang đến mức đó.
Hành trang lịch sử
Trung Quốc, một khi có ban lãnh đạo mới cho vài năm tới đây, có thể sẽ tìm cách thoái lui khỏi thế đối đầu hiện nay. Các phát ngôn viên của Trung Quốc đôi lần đã nhắc tới việc nên giải quyết các tranh chấp dựa trên luật pháp quốc tế, và trong khi chưa giải quyết xong vấn đề tranh chấp yêu sách, các thỏa thuận về khai thác chung các nguồn tài nguyên của Biển Đông sẽ góp phần xoa dịu căng thẳng.
Tuy nhiên, sẽ không dễ dàng để Trung Quốc từ bỏ các tuyên bố về chủ quyền lịch sử của mình. Việc từ bỏ đó là điều không thể, trừ phi Việt Nam cũng làm vậy – nghĩa là, trừ khi Việt Nam cũng đồng ý phân định chủ quyền lãnh hải chỉ dựa trên Công ước về Luật Biển và các nguyên tắc liên quan khác theo công pháp quốc tế.
Giống như Trung Quốc, Việt Nam đầu tư rất nhiều nỗ lực cho việc đấu tranh dựa trên chứng cứ lịch sử. Trên thực tế, nhiều học giả độc lập cho rằng nếu dựa trên các chứng cứ lịch sử thì tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo tranh chấp có sức nặng hơn. Sẽ không dễ dàng đối với Việt Nam khi phải gác lại chuyện lịch sử, bởi dù sao, Việt Nam cũng là một quốc gia đã gây dựng bản sắc của mình một phần từ việc liên tiếp đánh bại các cuộc xâm lăng của Trung Quốc từ năm 938. Và vì vậy, trừ khi hai cựu thù truyền kiếp bất cân xứng này có thể vượt lên trên bóng ma của lịch sử, thì có rất ít cơ hội để đi đến một cái kết êm đẹp cho cuộc khủng hoảng tại Biển Đông hiện nay.
Một số ý kiến cho rằng phủ nhận các tuyên bố về chủ quyền lịch sử của Trung Quốc và đề xuất giải pháp cùng đàm phán dựa trên các cơ sở pháp lý phù hợp sẽ chỉ khiến cho siêu cường đang trỗi dậy này nổi giận. Tuy nhiên, khó có thể hình dung việc nhượng bộ trước những tham vọng của Trung Quốc lại có thể đem lại một kết quả tốt đẹp hơn.
Vẫn còn một kịch bản có nhiều triển vọng. Đó là, nhận thấy rằng họ không còn nhiều thời gian, bốn nước ASEAN tham gia tranh chấp sẽ tự dàn xếp chủ quyền lãnh hải của họ dựa trên các cơ sở pháp lý liên quan. Được Indonesia và Singapore – nếu không phải là cả khối ASEAN – hậu thuẫn, họ sẽ có thể tuyên bố sẵn sàng bước vào đàm phán với Trung Quốc với cùng một tiếng nói chung. Và thay vì phủ nhận các thành quả đàm phán đã đạt được của các nước hay một mực chỉ đồng ý đàm phán song phương, Trung Quốc chấp nhận bước vào tiến trình đàm phán. Theo kịch bản này, một thỏa thuận sẽ sớm đạt được, trong đó thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với một phần lớn quần đảo Hoàng Sa, và một vài đảo lẻ tẻ ở Trường Sa.
Các bên sau đó sẽ quay sang thảo luận đến các vấn đề liên quan, ví dụ như một Bộ Quy tắc Ứng xử. Tài liệu này sẽ khác xa so với Bộ Quy tắc Ứng xử mờ nhạt mà ASEAN đã từng vạch ra trước đây. Nó sẽ là một tài liệu có sức nặng, khẳng định các phương án dàn xếp chủ quyền kể trên. Và rồi, việc cùng khai thác các nguồn tài nguyên năng lượng có thể sẽ giúp quy tụ những nền tảng cho một tương lai ổn định, hợp tác ở khu vực Biển Đông. Các bên cũng có thể sẽ đồng ý “mở cửa” chào đón các quốc gia quanh vùng với điều kiên họ ứng xử có trách nhiệm.
Nói cách khác, bất kỳ cơ chế giám sát, quản lý khu vực Biển Đông nào muốn thành công đều phải đảm bảo quyền tiếp cận bình đẳng tới các nguồn tài nguyên biển cho các doanh nghiệp của Trung Quốc. Các nước quanh vùng phải chào đón và tạo điều kiện cho các dự án đầu tư và hợp tác của Trung Quốc, bao gồm cả việc cấp phép cho các công ty Trung Quốc khai thác các nguồn tài nguyên hyđrôcácbon. Việc đánh bắt hải sản có thể được các bên cùng quản lý và thực hiện một cách bền vững, trong khi tổ chức các cuộc tuần tra chung để bảo đảm rằng các quy định được tuân thủ nghiêm túc. Cuối cùng, các nước quanh vùng và các cường quốc hàng hải có thể đàm phán các quy tắc nhằm quản lý các tuyến đường, hệ thống báo hiệu, và quyền lưu thông hàng hải trong vùng Biển Đông.
Có thể sẽ có ai đó phản đối kịch bản tươi sáng này với lý lẽ nó có thể làm đổ vỡ các nguyên tắc về tổ chức và thông lệ về lãnh đạo vốn là hiện thân cho thứ được gọi là “Con Đường ASEAN”. Nhưng trong trường hợp này, chúng ta cần thừa nhận rằng ASEAN không thể giải quyết vấn đề dựa trên nguyên tắc đồng thuận. Nhìn vào thực tế đó, trong bối cảnh các tranh chấp đang ngày một leo thang, chúng ta có thể thấy được rằng, việc một mực cố gắng duy trì tính trung tâm của ASEAN trong vấn đề Biển Đông chỉ càng làm giảm uy tín và hiệu quả của tổ chức mười nước này mà thôi.
(*)David Brown là một cựu quan chức ngoại giao Hoa Kỳ tại Việt Nam. Ông chuyên viết bài về các vấn đề thời sự ở Việt Nam. Liên hệ e-mail: nworbd@gmail.com.
Nguồn: Asia Times

Thứ Ba, 30 tháng 10, 2012

Một cách nhìn về Cựu hoàng Nordom Sihanouk

Nhân dịp Quốc vương Sihanouk qua đời có rất nhiều bài viết về thân thế sự nghiệp của con người nỗi tiếng về tính cách hay thay đổi này. Trong số đó, cómột  bài viết khá công phu  của một nữ tác giả tên là Nguyễn Thu Trâm với cách  nhìn nhận và đánh giá khách quan với những chứng cứ lịch sử khác nhau mà chủ blog tôi chưa kiểm được nhưng muốn đăng lại như một tài liệu tham khảo, không nhất thiết phản ánh quan điểm của bản thân (Bách Việt).

NORODOM SIHANOUK qua đời: HỔ TỬ LƯU BÌ, NHÂN TỬ LƯU DANH 

 Người ta còn nói :”Hổ tử lưu bì, nhân tử lưu danh” : cọp chết để da, người ta chết để tiếng. Có người để lại danh thơm tiếng tốt để lưu danh muôn thưở. Có người để lại tiếng xấu để cho muôn người nguyền rủa.  Vì thế, bất cứ ai cũng phải sống “xứng phận” để lưu lại tiếng tốt cho các thế hệ mai sau..ImageThủ Đô Phnom Penh trong ngày tang lễ Norodom Sihanouk Hôm nay, ngày 15 tháng 10 năm 2012, truyền thông thế giới đồng loạt đưa tin Norodom Sihanouk cựu hoàng Campuchia sống lưu vong tại Bắc Kinh, Trung Quốc vừa qua đời ở tuổi 90 sau nhiều năm chống chọi với nhiều tật bệnh. Hơn 700 tờ báo lề đảng của cộng sản Việt Nam cũng cùng đưa tin, với nhiều lời tán dương “công đức” của vị cựu hoàng này, mặc dù đối với chính thần dân Campuchia, thì Sihanouk chỉ là một “hoàng đế của các hoàng đế ăn chơi trác táng” và là “một ông vua thích được nô lệ cộng sản”, cho nên việc các báo chí lề đảng ca ngợi Sihanouk cũng là một topos lẽ thường. Norodom Sihanouk sinh ngày 31 tháng 10, 1922 là cựu quốc vương, và hiện nay là Thái thượng hoàng của Vương quốc Campuchia.Image Ông từng là vua của Campuchia trong nhiều giai đoạn cho đến ngày thoái vị để nhường ngôi cho con trai của ông là quốc vương Norodom Sihamoni vào ngày 7 tháng 10 năm 2004. Sihanouk là con trai của cựu quốc vương Norodom Suramarit và hoàng hậu Sisowath Kossamak. Ông đã đảm nhiệm nhiều chức vụ khác nhau kể từ 1941, nhiều vị trí đến nỗi Sách kỷ lục Guiness đã đưa ông vào danh sách các chính khách giữ nhiều chức vụ nhất: Bao gồm 2 lần làm vua, 2 lần thái tử, 1 lần chủ tịch nước, 2 lần thủ tướng và một lần quốc trưởng Campuchia và nhiều chức vụ khác nữa của chính phủ lưu vong. Phần lớn là chức vụ bù nhìn, kể cả lần cuối làm vua - trị vì nhưng không cai trị. Thời gian trị vì thực sự của ông hoàng này là từ 9 tháng 11 năm 1953 đến khi bị Lon Nol phế truất ngôi vào 18 tháng 3 năm 1970, khi ông đang ở Moscow trong chuyến công du Liên Bang Sô Viết.ImagePhạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đón Sihanouk tại Hà Nội năm 1970 Thời niên thiếu, Sihanouk học tiểu học tại Phnom Penh, trường Pháp École François Baudoin, rồi sau khi học xong tiểu học, Sihanouk sang học trung học tại tại trường Lycée Chasseloup Laubat tại Sài gòn cho đến khi lên ngôi, sau đó học tại trường binh bị Saumur, Pháp. Khi ông ngoại của Sihanouk là vua Sisowath Monivong băng hà vào ngày 23 tháng 4 năm 1941, Hội đồng Tôn vương đưa Sihanouk lên ngôi vua. Ông đăng quang tháng 11 năm 1941.Image Sau 1945 đến cuối thập kỷ 1950, vua Sihanouk có xu hướng dân tộc chủ nghĩa và bắt đầu yêu cầu Pháp trao trả chủ quyền và về nước. Tháng 5 năm 1953, ông sang tị nạn tại Thái Lan và từ chối hồi hương cho đến khi có độc lập. Ông về nước ngày 9 tháng 11 năm 1953. Ngày 2 tháng 3 năm 1955, ông thoái vị nhường ngôi cho cha mình, và giữ chức thủ tướng vài tháng. Sau khi vua cha mất năm 1960, ông lại được bầu làm chủ tịch nhà nước nhưng với danh vị hoàng thân. Khi Chiến tranh Việt Nam xảy ra ác liệt, Sihanouk chủ trương Campuchia trung lập, đứng ngoài cuộc chiến, cùng đồng thời đứng về phía Trung Quốc và Hoa Kỳ và tán thành chính sách Bên thứ 3. Vào mùa xuân 1965, ông đã thỏa thuận với Trung Quốc và Bắc Việt Nam cho phép sự hiện diện của các căn cứ của cộng sản Bắc Việt ở phía Đông của Campuchia và cho phép Trung Quốc được viện trợ lương thực, thuốc men và vũ khí đạn dược cho Cộng Sản Bắc Việt Nam thông qua các cảng Campuchia, bù lại bằng cách Trung Quốc sẽ mua gạo của Campuchia với giá cao. ImageSihanouk và vợ trên đường Trường Sơn, trở về vùng "giải phóng" Góp phần tuyên truyền cho cộng sản, Norodom Sihanouk cũng nhiều lần lên tiếng rằng phe cộng sản ở Đông Nam Á sẽ chiến thắng trong cuộc chiến ý thức hệ Quốc Gia và Cộng Sản là không thể tránh khỏi và chính Sihanouk cũng cho rằng chủ nghĩa Mao đáng để mọi người tôn vinh và thực hành. Trong giai đoạn 1966-1967, Sihanouk đã ra sức đàn áp chính trị loại bỏ nhiều phe phái chính trị chính ở Campuchia. Tuy vậy, chính sách hữu hảo với Trung Quốc của ông và ý đồ muốn biến Campuchia thành một nước theo chế độ cộng sản của ông đã bị phá sản do thái độ cực đoan của Trung Quốc vào thời kỳ cao trào của Đại Cách mạng văn hóa. Dù vậy, với sự yểm trợ của chính quyền Bắc Kinh, ông đã loại bỏ được các phe phái cánh tả. Sau khi bị Lon Nol lật đổ vào ngày 18 tháng 3, 1970, Hoàng thân Sihanouk đến Bắc Kinh và bắt đầu chính thức ủng hộ Khmer Đỏ và thành lập chính phủ Khmer kháng chiến, chống chính phủ cộng hòa Khmer của Lon Nol ở Phnom Penh. Vào lúc nước Cộng hòa Khmer rơi vào tay Khmer Đỏ vào năm 1975, Hoàng thân Sihanouk trở thành nguyên thủ quốc gia bù nhìn của chính phủ mới khi Pol Pot còn nắm quyền lực. Ngày 4 tháng 4 năm 1976, Sihanouk đã phải từ chức vì thấy được sự tàn bạo của Khmer đỏ trong chính sách diệt chủng của Pol Pot và Iêng Sary. Từ đó Sihanouk sang tị nạn tại Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Không có tiền chuyển lậu ra ngoại quốc, không giống như những nhà cai trị bị lật đổ khác, Sihanouk không có cách nào khác là đành phải nhờ vào sự giúp đỡ của hai nước Trung Hoa và Bắc Triều Tiên bạn hữu. Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai nói với ông rằng ông muốn ở lại Bắc Kinh bao lâu cũng được. Chủ tịch Bắc Triều Tiên Kim Nhật Thành ra lệnh xây một lâu đài vĩ đại nhìn xuống hồ Chhang Sou On ở Bình Nhưỡng cho ông cư ngụ.ImageTôn Đức Thắng đón Sihanouk tại Hà Nội Tháng 9 năm 1975, Sihanouk đang ở Bình Nhưỡng thì phó Thủ tướng chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia Kampuchia, là chính phủ lưu vong do Sihanouk thành lập có sự hợp tác của Khmer Đỏ, viết tắt theo thiếng Pháp là GRUNK -Royal Government National Union of Kampuchia - Khiêu Samphan và bộ trưởng thông tin Ieng Thirith -vợ của Ieng Sary- đến mời. Sihanouk nhớ lại Khiêu Samphan nói với ông: “Nay chúng tôi hết sức sẵn sàng đón chào Ngài. Bây giờ chúng tôi tạo đủ điều kiện trăm phần trăm Cộng Sản. Chúng tôi đã vượt qua Trung Hoa anh em. Với một bước nhảy vọt vĩ đại, chúng tôi có thể đạt tới mục đích của chủ nghĩa Cộng Sản mà không cần kinh qua giai đoạn xã hội chủ nghĩa”. Điều ấy làm ông hết sức bối rối nhưng ông vẫn hồi hộp về việc trở về nước. Họ cùng về Bắc Kinh bằng tàu lửa. Ở đây, một chiếc Boeing 707 của Trung Hoa đưa họ về Phnom Pênh. Trước khi rời Bắc Kinh, Sihanouk và Monique có Khiêu Samphan đi kèm, đến cáo biệt chủ tịch Mao và thủ tướng Chu. Run rẩy vì bịnh Parkinson, Mao, 82 tuổi, không nói được nhiều. Tuy nhiên, một trong những lời chỉ dẫn của ông sau đây là rõ ràng. Ông ta nói với Khiêu Samphan và Ieng Thirith “Xin vui lòng đừng đưa thái tử Sihanouk và vợ ông vào hợp tác xã.” Với Sihanouk, lời nói nầy chính là lời cứu mạng. Bị bịnh ung thư tới thời kỳ cuối, Chu Ân Lai chỉ còn là cái bóng của mình. Với giọng nói yếu ớt chỉ đủ nghe, ông năn nỉ Khiêu Samphan “Vui lòng tiến lên Cộng Sản chủ nghĩa chầm chậm, từng bước một. Bạn không thể tiến ngay lên Cộng Sản Chủ Nghĩa, phải từng bước một. Xin vui lòng đi từng bước nhỏ, chậm và chắc.” Xúc động hơn là lời khuyến cáo tiên liệu của ông: “Đừng đi theo con đường “Bước Nhảy Vọt vĩ đại” đã thất bại của chúng tôi.” Ông ta nhắc lại những chiến dịch ảo tưởng của Trung Hoa nhằm khẩn trương xây dựng Cộng Sản chủ nghĩa hồi cuối thập niên 1950 đã để lại một nền kinh tế như trong lò sát sinh. Samphan và Thirith cười một cách thông cảm. Nghe nhiều khoa trương việc đang xây dựng một chế độ Cộng Sản thuần túy cho Kampuchia, Sihanouk hiểu ngay những nụ cười ấy nói lên được gì.ImageSihanouk và Mao Trạch Đông tại Bắc King 1970 Ngày 9 tháng Chín lại một lần lễ lớn: Thiên An Môn được trang hoàng cờ, đèn, hoa, chúc mừng Sihanouk, điều mà Đặng Tiểu Bình nói về Sihanouk trước kia “Trở về trong vinh quang.” Khi chiếc máy bay Boeing của Trung Hoa nhắm hướng hạ cánh xuống phi trường Pochentong của Phnom Pênh, Sihanouk nhìn xuống những mái ngói đỏ và cột tháp vàng của thành phố nằm dài bên đưới. Đây là lần đầu tiên kể từ tháng giêng 1970 ông lại đưa mắt nhìn xuống thủ đô đã quay lưng lại với ông. Phnom Pênh trông lạ hẵn và không có sự sống dưới hơi nóng mặt trời giữa buổi sáng mai. So với mười ngàn người đứng chật đường phố Bắc Kinh để chào từ biệt ông hoàng, ở đây chỉ có một đám đông hỗn tạp ở phi đạo Pochentong. Một nhúm các ông sãi áo vàng nghệ cũng đứng trong đám đông cầu nguyện cho ông trước khi ông lên xe đi vào thành phố vắng tanh. Đó là sự nhượng bộ cuối cùng mà ông đã chứng kiến dưới chế độ Khmer Đỏ ở Kampuchia.Image Sihanouk muốn khóc khi nhìn thành phố ma quái mà một thời được coi là thành phố đẹp nhất của Đông Dương thuộc Pháp. Những đại lộ với hai hàng cây xanh, công quán, những biệt thự theo kiểu nhiệt đới Nam Mỹ, tháp vàng, lâu đài hoàng gia và chùa chiền vẫn còn đây, trong màu tang tóc. Khmer Đỏ giải thích với ông hoàng việc xua dân ra khỏi thành phố là cần thiết vì không có đủ lương thực nuôi dân và cũng vì vấn đề an ninh. Họ không nói với ông hoàng đó là bước đại nhảy vọt tiến lên Cộng Sản chủ nghĩa. Trong việc xua đuổi hàng loạt dân chúng hồi tháng Tư, có ông chú già của Sihanouk, ông hoàng Monireth và một trong những bà cô của ông cũng bị đuổi về vùng quê. Lời yêu cầu của ông được đi thăm những người ấy bị từ khước. Họ trả lời với ông “Họ được chăm sóc cẩn thận. Ngài sẽ được thăm họ khi Ngài từ Nữu Ước trở lại.” Tuy nhiên, không bao giờ ông gặp lại họ. Kế hoạch của Khmer Đỏ trong chuyến đi ba tuần lễ ở Phnom Pênh là tạo niềm tin đối với sự lãnh đạo của ông trước khi họ gởi ông đi Nữu Ước để đòi chiếc ghế cho Kampuchia tại Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc. Sihanouk và tùy tùng được đưa đi thuyền trên sông Mékông, tiệc tùng sang trọng, các buổi hội tối có tính cách mạng nhưng không bao giờ ông gặp những người dân đã biến mất khỏi Phnom Pênh.Image Sihanouk và vợ tại một trạm dừng chân trên đường Trường Sơn Chẳng bao lâu Sihanouk biết những gì Khmer đỏ nghĩ về những lời khuyến cáo của Chu Ân Lai là từng bước chầm chậm tiến lên Xã Hội chủ nghĩa. Son Sen, tư lệnh Quân đội, và Khiêu Samphan nói với ông Kampuchia sẽ chứng tỏ cho thế giới biết rằng chỉ trong một nhát chổi lớn, họ đã tiến lên Cọng Sản chủ nghĩa hoàn toàn. “Vì vậy tên tuổi đất nước chúng ta sẽ được viết bằng chữ vàng trong lịch sử thế giới như là một quốc gia đầu tiên thành công trong việc cộng sản hóa mà không có bước chân nào là vô ích.” Sau khi trở về Bắc Kinh hồi đầu tháng Mười, ông ta để cho những người trong gia đình và những người theo ông tùy ý lựa chọn. Ông ta, vì là người yêu nước và người đứng đầu quốc gia, sẽ về lại Kampuchia sau khi đại diện cho nước ông ở Liên Hợp Quốc, còn họ muốn ở đâu thì tùy. Một số phụ tá của ông vì xúc động trước cảnh Phnom Pênh nên không dám trở về. Họ đi Pháp.ImagePhạm Văn Đồng và Tôn Đức Thắng tiếp đón Sihanouk tại Hà Nội Trên đường đi, Sihanouk ghé qua Pháp. Một số đông người Kampuchia đến chào mừng ông tại phi trường Charles De Gaulle. Sau đó, một số trong bọn họ tới tư dinh của đại sứ Kampuchia ở Paris để nghe ông hoàng lần đầu tiên nói chuyện về sự sinh sống của người dân dưới chế độ Khmer Đỏ. Họ ngạc nhiên vì ông hoàng vốn thường sôi nổi thì bây giờ lại thận trọng. Một người hỏi ông về những binh lính của Lon Nol bây giờ ra sao! Ông ta trả lời là Angkar – tức tổ chức Cộng Sản đầy quyền lực - cho mỗi người một chiếc chiếu, một cái mùng và đưa họ đi trồng lúa. Ông ta nói thêm họ có được những gì họ cần. Ngồi sát cạnh ông, Ieng Sary chỉ cười và những lãnh tụ Khmer Đỏ khác gật đầu tán thưởng. Không có một người bạn cũ nào của Sihanouk có thể vượt qua được mạng lưới an ninh để gặp riêng ông. Sihanouk có thể thấy trước điều gì đang đến. Nhưng vì lòng tự cao, những tình cảm bắt buộc, có thể kêu gọi ông bỏ đi rất nhiều. Tháng 12 năm 1975, ông cùng vợ, bà Monique, mẹ vợ, 22 đứa con và cháu, lên đường trở về Kampuchia. Năm 1991, các đảng phái ở Campuchia đã đàm phán các bên ký thỏa thuận hòa giải toàn diện ở Paris. Ngày 14 tháng 11 năm 1991, Hoàng thân Norodom Sihanouk trở về Campuchia sau 13 năm lưu vong. Năm 1993, Sihanouk lại trở thành quốc vương Campuchia và con trai ông, thái tử Norodom Ranariddh làm thủ tướng. Theo Hiến pháp của Campuchia, quốc vương chỉ "trị vì nhưng không cai trị". Do bệnh tật, ông phải đi lại thường xuyên đến Bắc Kinh để chữa trị và an dưỡng. ImageXe Tăng T54 của Nga Sô được nhập qua cảng Pampongthom cho VC Cũng như Hồ Chí Minh là người du nhập chủ nghĩa cộng sản về để mang thương đau cho cả dân tộc Việt Nam qua cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn trong suốt 20 năm, Norodom Sihanouk, mặc dù là Quốc Vương của một nước Quân chủ những ông lại có tư tưởng sùng bái cộng sản, ông ta rất cuồng tín chủ nghĩa Mao, đó là lý do mà ông ta đã hết lòng ủng hộ Khmer đỏ trong công cuộc “giải phóng dân tộc Campuchia”. Vì vậy, sự kiện chế độ Khmer đỏ đã thực hiện chính sách diệt chủng, tàn sát hơn 3 triệu Người dân Campuchia bao gồm tất cả nhân sỹ trí thức và các nhà tư bản, “để vượt qua Trung Hoa anh em. Với một bước nhảy vọt vĩ đại, có thể đạt tới mục đích của chủ nghĩa Cộng Sản mà không cần kinh qua giai đoạn xã hội chủ nghĩa” chắc chắn là có trách nhiệm của Norodom Sihanouk, một ông hoàng từng được người Khmer bản xứ gọi là Samdec, nghĩa là “cha già dân tộc” lại có góp phần một cách gián tiếp trong vụ diệt chủng hơn 3 triệu người dân! Sao mà giống “Cha già dân tộc” của cộng sản Việt Nam vậy?ImageSihanouk và vợ tại một vùng "giải phóng" Chắc chắn là ít người Việt Nam Quốc Gia hiểu được rằng ngay cả việc cộng sản Bắc Việt đã cưỡng chiếm thành công miền Nam Việt Nam vào năm 1975 và bức tử nền Cộng Hòa Đệ Nhị của miền Nam cũng bởi có sự góp phần không nhỏ của ông hoàng Sihanouk. Chính Sihanouk và những người theo Sihanouk thấy trước rằng “cuối cùng Hà Nội sẽ thắng và sẽ là một quốc gia hùng mạnh ở Đông Dương”, ông đổi hướng trung lập, dành cho Hà Nội một vùng đất thánh dọc theo biên giới Việt-Miên, và cho phép Trung cộng viện trợ vũ khí cho cộng sản bắc Việt thông qua những hải cảng ở Kampuchia đó là lý do mà cộng sản Bắc Việt đã xây dựng thành công một đường ống dẫn xăng dầu từ miền Bắc vào tận chiến khu D, đưa cả đại pháo, xe tăng của Nga sô Trung cộng vào tận chiến trường nam với hàng trăm ngàn tấn vũ khí, đạn dược để đánh chiếm Bình Long, An Lộc, làm bàn đạp đánh chiếm cả thủ đô Sài gòn, xóa bỏ tên của một chính thể, một quốc gia trên bản đồ thế giới. Dẫu mới thân cộng chứ chưa chính thức trở thành người cộng sản, nhưng Norodom Sihanouk không những đã mang đau thương tang tóc đến cho dân tộc của ông mà còn cho cả dân tộc Việt nam nữa. Dẫu là ông hoàng, bà chúa hay chủ tịch …. vĩ đại hay bất cứ ai cũng không thoát khỏi quy luật “sinh hữu hạn, tử vô kỳ” Ngày hôm nay 15 tháng 10 năm 2012, ông Hoàng Sihanouk cũng đã qua đời. Thân xác ông vốn từ bụi đất, sẽ trở về với đất, nhưng những gì ông đã làm, những đau thương tang tóc ông đã tạo ra đã mang đến cho dân tộc ông, bởi sự lầm lạc của ông khi sùng bái cộng sản, sẽ là một vết nhơ tồn tại ngàn đời trong bia miệng của thế gian. 
Nguyễn Thu Trâm, Ngày 15 tháng 10 năm 2012

--------------

Chủ Nhật, 21 tháng 10, 2012

Một thời trong ngoại giao

Chúng ta đã từng nghe rất nhiều những câu chuyện ngoại giao lý thú. Nói đến ngoại giao của thế giới, chúng ta liến nghĩ ngay đến Tiến sỹ Kissinger, Thủ tướng TQ Chu Ân Lai, Ngoại trưởng Liên Xô Môlôtôp thời Xtalin và Gromưcô thời Bregiơnep…Nhiều nhà lãnh đạo thế giới cũng chứng minh được tài ngoại giao khéo léo của mình: Hồ Chí Minh, Xtalin, Hitler, Nichxon, Bush…Không hiếm những câu chuyện ngoại giao độc đáo, thông minh, trí tuệ hơn người gắn liền với tên tuổi của họ. Một thời đại ngoại giao ngay trong những cuộc chiến tranh tàn khốc, những mối quan hệ lắt léo gắn với ý thức hệ. Trong không gian chính trị thế giới đó, ngoại giao vẫn chứng tỏ được vị thế riêng có của nó. Hiển nhiên, ngoại giao có vai trò to lớn và kết quả mà nó đưa lại không nhỏ cho mỗi quốc gia.
Đặc điểm nổi bật của ngoại giao thời đó có lẽ là tính trí tuệ được diễn đạt hết sức tinh tế. Các vấn đề ngoại giao được nhìn, phân tích với góc độ rất trí tuệ. Đối thoại cực hay, thú vị. Ngôn ngôn ngữ rất đa dạng, phong phú, trau chuốt, đầy ngụ ý, biểu cảm. Nghiên cứu lịch sử ngoại giao thế giới thật thú vị.
Ngoại giao VN lại càng gần gũi với chúng ta. Giữa muôn vàn hiểm nguy cho nước cộng hòa non trẻ vừa ra đời, Hồ Chí Minh vẫn đi Pháp bốn tháng nhằm tìm kiếm cơ hội hòa bình. Hiệp định sơ bộ 6.3, Tạm ước 14.9 là những sáng tạo tài tình của nhà ngoại giao Hồ Chí Minh. Ông đã tìm ra được chữ “tự do”: nước VN tự do nằm trong khối liên hiệp Pháp. Thế là người Pháp đồng ý ký!
Thế nhưng, ngày 19.12.1946, cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất bùng nổ. Tháng 5.1947, Hồ Chí Minh gặp Pôn Muýt, cố vấn chính trị của Lơcle trong một ngôi nhà duy nhất còn sót lại giữa Thị xã Thái Nguyên.
Pôn Muýt:
- Để thực hiện cuộc ngừng bắn, Cao ủy Pháp ở Đông Dương xin nêu với Chủ tịch bốn điều kiện: Thứ nhất, quân đội VN phải nộp vũ khí cho Pháp. Thứ hai, quân đội Pháp được quyền tự do đi lại trên đất nước Việt Nam. Thứ ba, Chính phủ VN phải trả lại cho Pháp tất cả những người bị bắt. Thứ tư, Chính phủ VN phải trao trả cho Pháp tất cả những người nước ngoài đã chạy sang phía VN.
Hồ Chí Minh:
- Những điều kiện ông Bôlae đưa ra là đòi chúng tôi phải đầu hàng! Ông Pôn Muýt, bản thân ông có nghĩ rằng chúng tôi có thể đầu hàng không? Phải là một con người hèn mạt mới chấp nhận những điều kiện như vậy.
- Thưa Chủ tịch, như vậy là chiến tranh vẫn tiếp diễn?
- Chúng tôi muốn hòa bình, nhưng không phải là hòa bình với bất cứ giá nào! Mà phải là hòa bình trong độc lập, tự do.
- Thưa Chủ tịch, chúc Người lòng dũng cảm.
- Tất nhiên, bao giờ cũng như vậy.
Hòa bình trong độc lập, tự do – tôi nghĩ, đó là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã tận dụng bất cứ cơ hội nào, dù là nhỏ nhất, nhằm tránh chiến tranh, vì ai cũng biết, chiến tranh tàn khốc như thế nào. Nhưng, Hồ Chí Minh không bao giờ hèn mạt chấp nhận những yêu sách vô lý của đối phương.
Đến đây, chúng ta điểm qua ngoại giao VN trong thời đại mới. Gần đây, ngoại giao VN nổi lên một đặc điểm lớn, đó là nền ngoại giao giao thiệp- với TQ.
- Việc TQ bắt giữ tàu cá số hiệu QNg 66478TS cùng 9 ngư dân Việt Nam tại vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa: “Từ đó đến nay, đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần giao thiệp với phía TQ về vấn đề này ở nhiều cấp khác nhau tại Hà Nội và Bắc Kinh”.
- Việc TQ tiến hành khảo sát địa chấn tại khu vực đảo Tri Tôn, quần đảo Hoàng Sa, san lấp, mở rộng đảo Tri Tôn: “Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần giao thiệp với phía Trung Quốc ở các cấp khác nhau và bày tỏ ý kiến chính thức của Việt Nam về vấn đề này. Tuy nhiên, đến nay, phía Trung Quốc vẫn tiếp tục triển khai các hoạt động nói trên”
- Việc Trung Quốc ban hành lệnh cấm đánh bắt cá tại một số vùng biển, trong đó có những khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông: “Phía Việt Nam tiến hành giao thiệp ngoại giao phản đối việc làm nói trên của phía Trung Quốc”.
Thật là một nền ngoại giao kỳ lạ, chưa từng có trên thế giới. Và ông cha ta lại càng không bao giờ làm như vậy. Các ông Vua ngày xưa lo nhất là nhục quốc thể. Trả lời chậm: nhục quốc thể. Không lý giải nổi một câu đố của sứ thần họ: nhục quốc thể. Đối đáp kém với họ: nhục quốc thể. Rụt rè không thể gọi là ngoại giao được. Lịch sử dân tộc ta không hiếm những sứ thần sang TQ, đối đáp sắc bén, khí phách hiên ngang, đầy tự hào dân tộc đã làm các hoàng đế TQ dù tức giận nhưng vẫn phải vì nể. Lịch sử cũng cho thấy, dù có tự nguyện làm nô lệ thì có bao giờ người chủ coi trọng nô lệ đâu!
Cùng thời điểm, cùng sự kiện tương tự, nước Nhật đã hành động như thế nào trước những yêu sách ngang ngược của TQ, chúng ta đều đã rõ. Hai quốc gia, hai lãnh đạo, hai ứng xử, hai thái độ và dĩ nhiên, hai kết quả trái ngược nhau.
Để kết thúc, ta hãy đọc lại câu đối của sứ thần Mạc Đĩnh Chi với vua Nguyên.
- Nhật: Hỏa, vân: Yên, bạch đản thiêu tàn ngọc thỏ
(Mặt trời là lửa, mây là khói; ban ngày đốt cháy vầng trăng).
Ấy là vua Nguyên kiêu căng, tự coi mình là mặt trời và coi Đại Việt như mặt trăng, ban ngày phải bị mặt trời thôn tính.
Nguyệt: Cung, tinh: đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô
(Trăng là cung, sao là tên; chiều tối bắn rơi mặt trời).
Vế đối đầy khí phách của sứ thần Đại Việt làm vua Nguyên thán phục. Thế thì, hỡi những nhà ngoại giao “giao thiệp”, các vị có còn nhớ đến tiền nhân?
Nguồn: Blog Lê Mai
--------------

Chủ Nhật, 7 tháng 10, 2012

Phát huy tinh thần độc lập, tự chủ...

Nguyễn Trọng Vĩnh

Lời tựa của Bauxite Việt Nam
Chúng tôi không biết rõ nội dung cụ thể của Hội nghị trung ương 6 khóa XI hiện đang họp tại cung đình ngoài những lời thông báo tổng quát của ông Nguyễn Phú Trọng trên các phương tiện truyền thông lề đảng, và thú thực cũng không để tâm cho lắm. Nhưng các vị lão thành cách mạng thì rất quan tâm đến mục tiêu và diễn biến của Hội nghị ấy. Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh là một trong số các vị lão thành đó. Ông vừa gửi đến BVN một bài viết trình bày một vài quan điểm cá nhân liên quan đến Hội nghị nói trên. Trên tinh thần tôn trọng ý kiến của một bậc cách mạng đàn anh suốt đời nêu tấm gương yêu nước nồng nàn và lối sống đạo đức mẫu mực cho con cháu, chúng tôi xin trân trọng đăng nguyên bài viết của ông, để các cấp có thẩm quyền và bạn đọc xa gần tham khảo. Qua điện thoại, tác giả có một lời nhắn đến chúng tôi, rằng ông chịu trách nhiệm hoàn toàn về những vụ việc dính dáng đến tên tuổi các nhân vật mà bài viết đề cập.
Chúng ta từng tuyên bố: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên tinh thần tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào nội bộ của nhau, hợp tác cùng có lợi”. Tuyên bố đó, về chiến lược, sách lược đều đúng.
Trong quan hệ quốc tế, các quốc gia độc lập, bất kỳ lớn nhỏ đều phải như vậy.
Đáng thất vọng là trong cuộc đàm phán Việt – Trung về bình thường hóa quan hệ lại không thể hiện tinh thần ấy.
Trong cuộc chiến xâm lược nước ta năm 1979 mà Đặng Tiểu Bình nói là: “Dạy cho Việt Nam một bài học”, tuy có giết hại được bộ phận đồng bào ta, tàn phá các tỉnh biên giới miền Bắc nước ta, nhưng cũng bị quân dân ta đánh cho sứt đầu mẻ trán phải tháo lui. Ta đâu có phải là bại trận mà trong đàm phán phải đi nước dưới để Trung Quốc đòi ta phải gạt bỏ Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, đòi không được nhắc đến trận chiến năm 1979… Phái đoàn ta lại chấp nhận?!
Đại hội VII năm 1991 gạt bỏ đồng chí Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, một nhà ngoại giao yêu nước, đầy tài năng và rất cảnh giác với bành trướng, bá quyền Trung Quốc; mỗi khi đến tháng 2 hàng năm (kỷ niệm Trung Quốc xâm lược vào các tỉnh biên giới) không dám có phái đoàn lên thắp hương tượng trưng cho đồng bào chiến sỹ đã hy sinh bảo vệ Tổ quốc; thậm tệ hơn, chỉ cách đây vài năm, trước cái ngày Trung Quốc đánh Việt Nam đúng một ngày, bà Phó chủ tịch Quốc hội còn mở tiệc chiêu đãi Đại sứ Trung Quốc (chiêu đãi mừng chính cái kẻ, vào đúng ngày này 30 năm trước, đã “quạt lửa” vào mặt chúng ta, thử hỏi có nước nào rửa cho sạch nhục?). Mỗi người Việt Nam yêu nước đều cảm thấy nhục nhã.
Từ nhiệm kỳ của nguyên Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, Trung Quốc càng dễ can thiệp vào nội bộ nước ta và muốn gì được nấy.
Lãnh đạo Trung Quốc muốn khai thác bô-xít và chiếm lĩnh điểm chiến lược Tây Nguyên, được Tổng bí thư chấp nhận ngay mặc dầu chưa có ý kiến tập thể Bộ Chính trị. Mỗi lần Bộ Chính trị phía ta chuẩn bị dự kiến nhân sự cho nhiệm kỳ tới, thì thế nào cũng có Ủy viên Bộ Chính trị Trung Quốc sang thăm để thăm dò sự sắp đặt nhân sự mới của ta, khi cần thì gợi ý “khéo”. Khi dự kiến các chức danh Chính phủ cho nhiệm kỳ Đại hội X, có ý kiến đề nghị đồng chí Phạm Bình Minh làm Bộ trưởng Ngoại giao thì Tổng bí thư Nông Đức Mạnh gạt đi, nói rằng “Trung Quốc không đồng ý”, và bố trí đồng chí Phạm Gia Khiêm.
Khi Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh và tàu Viking II của ta thăm dò khảo sát trong thềm lục địa Việt Nam, nhân dân phẫn nộ biểu tình phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền. Tình hình rất căng, đáng ra Trung Quốc phải “hạ nhiệt” thì phía ta lại cử đặc phái viên Thứ trưởng Ngoại giao sang Trung Quốc có vẻ cầu hòa. Trung Quốc tỏ ra bực mình vì những cuộc biểu tình, thì sau khi đặc phái viên về là các cuộc biểu tình bị đàn áp.
Cái gì Trung Quốc muốn cũng được, cái gì cũng nghe theo ý kiến Trung Quốc, cái Trung Quốc không bằng lòng thì không dám làm, vậy thì còn gì là độc lập tự chủ?
Được biết gần đây có việc bổ sung Ủy viên Bộ Chính trị, có ý kiến trong số người dự định bổ sung, nên có đồng chí M. thì liền có ý kiến sợ “căng thẳng với Trung Quốc”. Trong vụ Nguyễn Tấn Dũng có ý kiến can thiệp gì của Tập Cận Bình không? Nếu có thì theo Tập Cận Bình hay theo Ban Chấp hành trung ương và theo dân? Việc của nội bộ chúng ta thì chúng ta tự giải quyết việc gì phải nể vì ai, theo ai? Nếu không kiên quyết xử lý dứt điểm vấn đề Nguyễn Tấn Dũng trong thời điểm hiện nay để mắc mưu ông ta thoát khỏi bị xử lý ngay trong hội nghị trung ương kỳ này và kỳ họp Quốc hội tháng 11 tới thì vô cùng nguy hại.
Nhớ xưa: Vua và dân một lòng thì dù quân Nguyên Mông hùng mạnh nhất một thời cũng bị 3 lần đại bại. Hồ Quý Ly tuy có tư tưởng cải cách tiến bộ, có thành đá, hào sâu, nhưng vì không được dân ủng hộ nên mất nước.
Không nên quá sợ Trung Quốc đánh. Thắng bại trong chiến tranh chủ yếu là do thiên thời, địa lợi, nhân hòa, không chỉ do vũ khí và phương tiện. Na-pô-lê-ông đã thất bại trước nước Nga, Hít-le đã thất bại trước Liên Xô, Nguyên Mông và Mỹ đã thất bại trước Việt Nam…
Trung Quốc có chỗ mạnh nhưng cũng có đầy chỗ yếu. Bối cảnh quốc tế và nội tình Trung Quốc không thuận cho Trung Quốc gây chiến. Nhưng nếu ta nhu nhược quá thì Trung Quốc sẽ thực hiện được “bất chiến tự nhiên thành”.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

--------------
*****

Thứ Ba, 2 tháng 10, 2012

Quan hệ Việt - Trung qua hồi kí của cựu Đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh


1. 
Đầu năm 1974, thấy tôi xong nhiệm vụ ở Lào rồi mà chưa có việc gì khác, nhân đồng chí Ngô Thuyền đau ốm xin về, trên Trung ương Đảng mới quyết định cử tôi sang làm Đại sứ nước ta ở Trung Quốc. Lúc đó Việt Nam còn coi Liên Xô, Trung Quốc như anh cả anh hai cho nên để tỏ ý trọng thị, ta vẫn cử Ủy viên Trung ương Đảng làm Đại sứ hai nước đó. Trước khi lên đường đi sứ, nhân còn thời gian rỗi, tôi tranh thủ đi thăm một số tỉnh biên giới phía Bắc nước ta để nắm bắt một số tình hình cần thiết cho việc làm Đại sứ, hơn nữa tôi cũng muốn biết tình hình đất nước mình nói chung vì từ khi nhận nhiệm vụ giúp bạn Lào, tính ra đã mười năm xa rời thực tế của đất nước mình rồi. Lúc đó đất nước còn đang chiến tranh, đời sống nhân dân còn rất khó khăn, ở đâu quang cảnh cũng đìu hiu, trầm trầm không có gì là khởi sắc. Ngay cả những nơi bây giờ là khu du lịch nghỉ mát nổi tiếng như Tam Đảo, Sa Pa cũng thưa thớt bóng người, dân chỉ trông vào trồng lúa, nuôi lợn, nuôi gà đủ ăn và làm nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cho thương nghiệp quốc doanh thôi. Nhà cửa lâu đài biệt thự ở Tam Đảo, Sa Pa bỏ hoang phế, đổ nát, mặc cho dơi bay cú rúc… Nhưng lúc đó cũng có cái hay là môi trường còn nguyên sơ trong lành lắm, động vật hoang dại còn chưa bị săn lùng ráo riết như bây giờ. Còn nhớ khi lên Tam Đảo, một bác nông dân đang chăm ruộng lúa, bắt được con rùa vàng, bác liền vui vẻ tặng ngay cho cu Dũng nhà tôi vì thấy nó có vẻ lạ lùng và thích thú lắm. Một tối chúng tôi và trú nhờ ở huyện lỵ Bảo Thắng (lúc đó thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn), ăn cơm với huyện ủy, đồng chí Bí thư huyện còn tỏ ý rất tự hào vì “cả huyện tôi không có một cái chợ nào”, cho rằng quản lý như vậy là chặt chẽ và giữ được địa bàn trong sạch, không để cho việc buôn bán làm vẩn đục môi trường xã hội, chỉ có sản xuất mới là việc làm đúng đắn cần thiết. Lúc đó cả tôi cũng chẳng lấy thế làm ngạc nhiên, mà cũng chưa biết rõ rằng không có chợ buôn bán thì chính sản xuất cũng không thể phát triển nổi, chỉ quẩn quanh trong vòng tự cấp tự túc mà thôi.

Khoảng giữa năm 1974, tôi lên đường sang Trung Quốc. Từ khi đó cho đến tháng tư năm 1975 thì quan hệ Việt - Trung vẫn còn bình thường. Sau ngày thắng lợi của ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, Trung Quốc có cử một đoàn đại biểu cao cấp do ông Đặng Tiểu bình dẫn đầu đến Sứ quán ta chúc mừng thắng lợi. Ngày hôm sau, Trung Quốc tổ chức một cuộc mít tinh lớn ở Quảng trường Thiên An Môn để chào mừng chiến thắng của Việt Nam. Trong cuộc mít tinh đó, Đặng Tiểu Bình đọc diễn văn, tôi đọc đáp từ. Trong đáp từ tôi cũng có nói “nhân dân Việt Nam rất biết ơn Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc đã giúp đỡ to lớn cho nhân dân Việt Nam. Thắng lợi của Việt Nam không tách rời khỏi sự giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc”. Trong thực tế, khách quan mà nói Trung Quốc giúp ta nhiều thật: vũ khí, lương thực, thực phẩm, quân trang quân dụng, nếu không có sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc, ta cũng khó thắng Mỹ. Nhưng việc đánh ta, giết hại đồng bào ta, phá sạch nhà cửa của cải của ta năm 1979 đã xóa sạch ân nghĩa đó.

Cũng trong thời gian đó, ông Xi-ha-núc (Quốc vương Cam-pu-chia) và bà hoàng Mô-nic cùng sống ở Bắc Kinh, họ được Trung Quốc dành cho một biệt thư riêng. Họ quan hệ khá tốt với Đại sứ quán ta, với tôi. Có lúc ông Xi-ha-núc mời tôi và một số Đại sứ thân tình đến đánh cầu lông trong biệt thự riêng. Ngày Quốc khánh của Việt Nam, ông ta cũng đến chúc mừng. Cũng có lúc tôi viết thiếp mời hai ông bà sang Sứ quán ta ăn cơm. Trước đây đã có thời Xi-ha-núc ở Việt Nam khá lâu, cũng được dành một biệt thự ở phố Nguyễn Du Hà Nội, ăn Tết Nguyên đán ở Việt Nam do Thủ tướng Phạm Văn Đồng mời, ông ta có vẻ thân và kính trọng Thủ tướng lắm. Có lần ở Bắc Kinh, ông ta còn ngỏ ý với tôi là muốn được sang Việt Nam ăn Tết. Tuy ăn ở tại Trung Quốc nhưng xem ra ông ta thích ở Việt Nam hơn Trung Quốc. Ngay cả bọn Pôn-pốt Yêng-sa-ri sau này phản bội đem quân đánh Việt Nam, thi hành tội ác diệt chủng ở Cam-pu-chia, nhưng trước đó cũng có quan hệ tốt với Việt Nam, vì cùng chung kẻ thù là bọn Mỹ xâm lược. Khi Mỹ dựng lên chính phủ Lon-non, lật đổ Xi-ha-núc thì Đảng của Pôn-pốt đứng ra đánh Lon-non. Đã có vài lần chính Yêng-sa-ri sang xin viện trợ của Trung Quốc đã phải đến Sứ quán ta nhờ tôi điện về xin Chính phủ ta chuyển giúp vũ khí của Trung Quốc vào Cam-pu-chia giúp họ; cũng có lúc tôi đã mời Yêng-sa-ri ăn cơm ở Sứ quán. Nhớ lại lúc tôi còn làm việc ở Lào, ba nước còn chiến đấu chống Mỹ và bọn tay sai của Mỹ, đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn cũng đã từng mời đồng chí Kay-xỏn Phôm-vi-hản và Pôn-pốt (lúc đó gọi là đồng chí Thanh) sang hội đàm giữa ba Tổng bí thư. Hôm chiêu đãi hai Tổng bí thư Đảng Lào và Cam-pu-chia, tôi cũng được mời đến dự.

Lại nói chuyện Trung Quốc đối với Việt Nam, năm 1976, không khí quan hệ đã bắt đầu đi xuống. Phía Việt Nam cử đoàn quân sự cao cấp do đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng đầu mục đích chính là để cảm ơn Trung Quốc. Trước khi đi, đồng chí Giáp đã nghe Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao ta báo cáo tình hình, nhưng có lẽ bản báo cáo của đồng chí Hoàng Bảo Sơn lúc đó còn quá lạc quan nên đồng chí Giáp chưa tin, khi sang đến Trung Quốc đồng chí gọi tôi đi dạo nói chuyện riêng. Tôi báo cáo là thấy tình hình xấu đi, đồng chí Giáp cũng đồng ý như vậy. Quả thật, chuyến đó Trung Quốc đối xử với đoàn rất kém trọng thị. Khi đến thăm Tỉnh Cương sơn (di tích cách mạng của Trung Quốc) cùng với đoàn Tổng tham mưu trưởng quân đội Triều Tiên. Người ta đã bố trí đoàn Triều Tiên (cấp thấp hơn đoàn ta) ăn ở phòng sang trọng hơn, bố trí đoàn ta ăn ở phòng thường, thậm chí cho ngồi những chiếc ghế không có lưng dựa. Vì vậy, khi về đến Vũ Hán họp đoàn, nhận xét chuyến thăm, thì cả đoàn đều bất bình, đồng chí Giáp cũng bực lắm. Mọi người đều muốn gặp Bộ Ngoại giao Trung Quốc để nói rõ những sự đối xử không tốt đó và biểu thị thái độ bất bình. Nhưng tôi góp ý: Ta nên biết vậy thôi, bây giờ làm thế chỉ thêm căng thẳng, không giải quyết được vấn đề gì. Đoàn đồng chí Giáp cuối cùng đã đồng ý với tôi và ra về. Trên xe lửa, phía Trung Quốc vẫn chưa thôi thái độ xấu, cố dọn cho đoàn có cả một chiếc bát mẻ miệng (thật chẳng xứng mặt nước lớn chút nào?).

Tiếp đó lại đến vụ “nạn kiều”, ban đầu phía Trung Quốc gây ra việc dụ dỗ ép buộc người Hoa ở Việt Nam về nước để tìm cớ xa lánh Việt Nam bắt tay với Mỹ để tìm kiếm nguồn vốn là kỹ thuật từ Mỹ và đồng minh, để họ thực hiện mục tiêu “Bốn hiện đại hóa” của họ. Nói cho khách quan, thì phía lãnh đạo của ta cũng thành kiến và nghi ngờ người Hoa sẽ là đội quân thứ 5 của Trung Quốc nên cũng muốn tống người Hoa đi cho rảnh. Không những gây ra vụ “nạn kiều”, lên án Việt Nam xua đuổi Hoa kiều, Trung Quốc còn ngầm xui Khơ-me đỏ (Pôn-pốt Yêng-sa-ri) quay giáo đánh vào biên giới Tây Nam của ta, khiến Việt Nam vừa kết thúc cuộc chiến tranh lâu dài gian khổ với đế quốc Mỹ, lại phải đương đầu với chiến tranh Tây Nam, đánh nhau với người “bạn cũ”, hòng làm cho Việt Nam không bao giờ đủ mạnh để thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc. Xét về nguyên nhân sâu xa, có thể nói: với tư tưởng bá quyền nước lớn vốn thâm căn cố đế, đã từ lâu, Trung Quốc muốn kéo ta vào tầm ảnh hưởng của họ, bắt ta phải thuần phục họ. Hơn nữa, những người cầm quyền Trung Quốc cũng thường có thói quen đối xử với các nước nhỏ theo phương châm “thuận ngã giả xương, nghịch ngã giả vong” (theo lời ta thì được tốt đẹp, chống lại ta thì ta cho chết). Tuy biết họ như vậy nhưng phía ta mà khôn khéo hơn thì khó để họ lấy cớ gây hấn với ta, bởi vì Trung Quốc lại còn cái bệnh giả nhân giả nghĩa, rất muốn và rất cần che đậy dã tâm của mình. Trong thời gian sau năm 1976, ở Việt Nam cũng có những cái đầu nóng, khi Trung Quốc cố ý gây hiềm khích qua vụ “nạn kiều” thì phía ta lại cũng có ý “tát nước theo mưa”, thành kiến với người Hoa, kỳ thị người Hoa ở Việt Nam, bất kể có người đã là Đảng viên là anh hùng đã đóng góp thực sự cho cách mạng Việt Nam. Tiếp đó ta lại vội vã ký hiệp ước hợp tác hữu nghị với Liên Xô (vào tháng 11 năm 1978) nên cũng góp thêm phần làm cho Trung Quốc ra mặt thù địch với Liên Xô). Cho đến khi Việt Nam buộc phải đánh cho Pôn-pốt một đòn đau, tiến quân vào tận Nông-pênh thì Trung Quốc càng có cớ để động binh, thực sự gây chiến tranh với Việt Nam mà theo Trung Quốc nói công khai là “dạy cho Việt Nam một bài học” (về “tội” câu kết với Liên Xô và đánh Cam-pu-chia), Trung Quốc nói cần phải “chi viện” các đồng chí Khơ-me đỏ. Cuộc chiến tranh tháng 2/1979 tuy trên phương diện quân sự thì Trung Quốc thua, buộc phải rút quân về nước còn bị ta bắt sống nguyên một đại đội; nhưng Trung Quốc cũng đã đạt được nhiều mục đích riêng của họmà mục đích hàng đầu vẫn là để cầu thân với Mỹ (vốn là kẻ thù số một của ta vừa bị Việt Nam đánh cho thua đến “lấm lưng trắng bụng”) và phá hoại ba tỉnh của ta là Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai.

2.
...Lược lại một đoạn lịch sử quan hệ Trung Quốc - Việt Nam, thì thấy: ngay từ những năm 50 của thế kỷ 20, khi hai nước còn “hữu hảo” lắm, thì họ đã muốn chinh phục ta bằng lý luận tư tưởng Mao Trạch Đông qua nhiều con đường như sách báo, các đoàn cố vấn, các mối quan hệ qua lại… Ta cũng có thời kỳ bị ảnh hưởng về lý luận tư tưởng đó. Bằng chứng là lúc đó trong trường Đảng của ta còn có chương trình học tư tưởng Mao Trạch Đông và trong thực tiễn cũng làm nhiều việc theo cách của Trung Quốc như việc cải cách ruộng đất đấu tố địa chủ hoặc việc chỉnh đốn tổ chức cũng tổ chức đấu tố “phản tỉnh” trong nội bộ. Sau này, khi phát hiện cải cách ruộng đất là sai lầm, gây tổn thất nghiêm trọng, ta mới tỉnh ngộ, từ bỏ tư tưởng Mao Trạch Đông và không tổ chức thực tiễn theo phương pháp của Trung Quốc nữa. Thất bại trong việc chinh phục bằng lý luận tư tưởng, Trung Quốc chuyển sang chính sách chinh phục ta bằng kinh tế. Từ năm 1954 về sau. Trung Quốc đã giúp ta xây dựng hàng loạt nhà máy xí nghiệp (như Gang thép Thái Nguyên, Phân đạm Bắc Giang, Cao su - xà phòng - thuốc lá Thượng Đình Hà Nội, Bóng đèn phích nước Rạng Đông v.v….) nhưng chất lượng sản phẩm không cao bằng được Trung Quốc, một mặt vì họ cung cấp thiết bị và công nghệ cũ, mặt khác dù có công nghệ tốt họ cũng không chuyển giao cho ta.
Giúp nhiều như vậy, một mặt họ bắt ta phải hàm ơn, phải đi theo; mặt khác, buộc ta phải lệ thuộc họ về phụ tùng nguyên liệu. Vì vậy họ tiếp tục giúp ta về tiền và vật chất mãi đến khi chúng ta giải phóng hoàn toàn miền Nam. Cũng còn một mục tiêu là giúp Việt Nam là để giữ an toàn cho phía Nam Trung Quốc (nếu để Mỹ chiếm được cả Việt Nam thì sẽ diễn ra việc như vụ Mỹ ném bom sông Áp-lục sát biên giới và cả vào đất Trung Quốc hồi chiến tranh Triều Tiên). Sau khi ta ký hiệp định Giơ-ne-vơ, nước ta chia làm hai miền, Trung Quốc gợi ý ta xây dựng miền Bắc trước và thực hiện trường kỳ mai phục ở chiến trường miền Nam. Ý đồ là giữ chúng ta luôn ở thế yếu thì họ mới dễ khống chế (vì ta chỉ có một nửa nước). Họ không muốn ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, trở thành một nước mạnh tuột khỏi tay Trung Quốc. Nhưng khi Mỹ đã gây hấn ném bom ra miền Bắc, đổ quân vào miền Nam thì Trung Quốc vẫn giúp ta về vũ khí trang bị, về quân nhu hậu cần để an toàn cho họ. Sau Tết Mậu Thân, khi Mỹ giao động quyết tâm, ta cũng thấy có thời cơ thương lượng, thì Trung Quốc không muốn ta đàm phán mà muốn ta “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” vừa để cho ta kiệt quệ vừa để Mỹ sa lầy phải tìm đến Trung Quốc.

Qua nhiều sự việc Việt Nam chỉ làm theo ý mình mà không làm theo ý họ, rồi các nhà máy giúp Việt Nam cái thì kém hiệu quả, cái thì bị chiến tranh làm hư hại… Trung Quốc thấy việc lấy kinh tế để điều khiển Việt Nam có vẻ không thành công họ bèn chuyển sang thời kỳ ép ta về quân sự từ hai phía hòng khiến ta phải quy phục: phía Bắc nước ta thì họ làm nhiều con đường ra sát biên giới Việt Nam, phía Nam nước ta thì họ giúp tài chính và trang bị cho Pôn-pốt để nắm vững quân bài, hình thành hai gọng kìm kẹp hai đầu đất nước ta và đồng tình cho Pôn-pốt đánh ta làm cho ta tổn thất và không yên ổn để xây dựng lại đất nước.

Trong bối cảnh như vậy, quá trình tôi làm Đại sứ ở Trung Quốc đúng là một quá trình chủ yếu là tranh cãi và đối phó. Thường xảy ra việc như thế này: Mỗi khi có đoàn đại biểu nào của Việt Nam sang Trung Quốc thì tối hôm đó, trên đài truyền hình và phát thanh của Trung Quốc đều nói đến vấn đề “chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa là không thể tranh cãi” (tức các quần đào Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam). (Đối với các đoàn từ cấp Phó thủ tướng là họ đều làm như thế). Từ khi xảy ra vụ “nạn kiều” và việc ta ký hiệp ước hợp tác hữu nghị với Liên Xô thì các phương tiện thông tin đại chúng của Trung Quốc lúc nào cũng ra rả lăng mạ “tập đoàn Lê Duẩn”. Khi tôi cho trưng bày hình ảnh Pôn-pốt đánh phá biên giới Tây Nam nước ta ở bảng thông tin của sứ quán (đặt ngoài hàng rào) từ phía Trung Quốc mời tôi lên Bộ Ngoại giao để gặp Thứ trưởng Hàn Niệm Long, ông ta lên tiếng phản đối, đòi ta phải dỡ bỏ những hình ảnh và lời tố cáo đó. Nhưng tôi lại nói: “Những việc mà tôi trưng bày ra, đó đều là sự thật, chẳng lẽ Trung Quốc lại sợ sự thật? Hơn nữa, cái bảng thông tin mà chúng tôi treo ảnh trên hàng rào Sứ quán đó là nằm trong phạm vi chủ quyền của nước tôi, tôi không dỡ bỏ”. Ông ta nói: “Trung Quốc không cho phép nước nào nói xấu nước thứ ba trong lãnh thổ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”. Tôi nói: “Đồng chí nói sai rồi, cách đây ba hôm, tôi thấy đồng chí còn giúp cho Đại sứ của Pôn-pốt họp báo nói xấu Việt Nam chúng tôi và cuộc họp báo đó có nhiều cán bộ Trung Quốc làm phiên dịch cho họ”. Nói xong tôi ra về.

Ngày đến ngày 19-5, Sứ quán ta dự định chiếu phim Hồ Chủ Tịch vào buổi tốm hôm 19-5, đúng ngày sinh nhật Người. Ta đã gửi giấy mời đến Sứ quán các nước (lúc đó ở Bắc Kinh có độ trăm Sứ quán nước ngoài) trước đó bảy ngày. Đúng buổi chiều hôm ta đã mời, Trung Quốc lại điện tất cả các Sứ quán, mời đích danh các vị Đại sứ đúng 17 giờ đến Đại lễ đường nhân dân ở Bắc Kinh để xem triển lãm về Thủ tướng Chu Ân Lai. Thong thông lệ quốc tế, bao giờ các Đại sứ cũng phải ưu tiên đối với nước chủ nhà. Thế nên cũng chiều hôm ấy, chúng tôi phải huy động toàn lực ra làm giấy mời, rời buổi chiếu phim của ta sang 18 giờ chiều tối hôm sau. Thật là vất vả với cái trò trẻ con của phía Trung Quốc! 

Rồi lại rất buồn cười là dạo đó Trung Quốc bố trí hai chiếc xe ô tô con luôn luôn “chầu chực” ở hai cửa của Sứ quán ta, cán bộ sứ quán mình đi đâu nó theo đấy, ngay Đại sứ đi nó cũng đi theo.

Một lần nữa Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại mời tôi lên, đưa công hàm phản đối Chính phủ Việt Nam xua đuổi và tước đoạt “nạn kiều” Trung Quốc. Tôi nói: “Chính phủ Trung Quốc kêu gọi người Việt gốc Hoa về nước đã làm lỡ cả một số công việc của chúng tôi tại nơi mà họ đang đảm nhiệm trong cơ sở sản xuất và công sở. Hơn nữa, vào năm 1953, Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thỏa thuận với nhau là người Hoa ở Việt Nam được coi như công dân Việt Nam, do Việt Nam quản lý. Do đó, ở miền Bắc nước tôi đã không có Hoa kiều nữa. Vậy lẽ nào chúng tôi lại xua đuổi công dân của chúng tôi, cho dù họ là gốc Trung Quốc. Còn ở miền Nam, trong thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu cầm quyền, người Hoa đều đã đăng ký quốc tịch Việt Nam. Vậy cho đến nay trên cả nước Việt Nam đều không có ai là Hoa kiều nữa”. Hàn (Niệm Long) nói: “Vậy các ngài cũng công nhận chính quyền Nguyễn Văn Thiệu à?” - Rồi cuộc đối thoại cũng kết thúc.

Trong năm 1977, lại một lần nữa Trung Quốc mời tôi, cũng lại tranh cãi vấn đề Hoa kiều và người Hoa, không bên nào chịu bên nào. Sau khi đấu khẩu như vậy, Trọng Hi Đông (Thứ trưởng Ngoại giao, nguyên là tướng trong quân đội) nói: “Sống hòa bình với nhau thì tốt hơn, chiến tranh thì phức tạp đấy”. Tôi nói: “Tôi cũng đã là tướng, tôi cũng biết thế nào là chiến tranh. Và chúng tôi đã thắng Pháp và thắng Mỹ”.

Một lần khác, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại mời tôi lên gặp một Thứ trưởng Ngoại giao. Ông ta nhờ tôi gửi công hàm về cho Chính phủ ta, đồng thời thông báo: “Do chính phủ Việt Nam bức hại Hoa kiều nên Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quyết định đưa hai tàu Trường Lực và Minh Hoa vào cảng Hải Phòng và cảng Sài Gòn để đón nạn kiều của chúng tôi”. Tôi nói: “Tôi sẽ chuyển công hàm về cho Chính phủ. Nhưng trước hết tôi nói ở Việt Nam không có nạn kiều. Và Chính phủ chúng tôi còn xem xét, tàu Trường Lực và Minh Hoa có được phép vào Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh hay không đã, vì hai cảng đó thuộc chủ quyền của Việt Nam, không ai được tự tiện vào”.

Khi tôi từ Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra về, các phóng viên báo chí quốc tế xúm lại hỏi tôi, tôi nói lại sự việc vừa rồi và nói thêm: “Cảng thành phố Hồ Chí Minh và cảng Hải Phòng đâu phải là cái ao nhà của Trung Quốc mà họ tự ý quyết định đưa tàu vào được”. Sau đó các phóng viên đã đưa tin ra thế giới và tỏ ra thú vị với cách ông Đại sứ nói “cảng Việt Nam không phải là cái ao nhà của Trung Quốc”.

Ngoài những lần như vậy, còn có nhiều lần khác nữa, Bộ Ngoại giao Trung Quốc luôn mời tôi lên, ngoan cố vu cáo Việt Nam ta, lần nào tôi cũng phải đấu lý với họ. Về nguyên tắc, lập trường thì mình rất kiên quyết giữ vững, nhưng về thái độ mình phải đúng mực. Thường là họ phải chịu mình vì họ đuối lý.

3.
Một lần tôi về nước báo cáo (lúc đó muốn về Việt Nam, phải bay từ Bắc Kinh sang Mát-xcơ-va mới bay về được Hà Nội). Ra sân bay Bắc Kinh, nhân viên sân bay muốn bắt tôi đi vào cửa kiểm tra hành lý, tôi không chịu, tôi nói: “Tôi là Đại sứ, tôi được “miễn trừ ngoại giao” theo nguyên tắc quốc tế, nên không ai được kiểm tra khám xét. Nếu các ngài ngăn cản không cho tôi đi, tôi sẽ họp báo tố cáo các ngày vi phạm công ước quốc tế”. Nhân viên sân bay chạy đi đâu đó, ý chừng là đi báo cáo thỉnh thị cấp trên. Sau đó mở cho tôi đi theo đường cửa không soát hành lý.

Lần khác, tôi cũng ra sân bay về nước, họ lại định bắt tôi đưa hành lý vào cửa kiểm soát có chiếu tia X, tôi không chịu. Họ nói đây là kiểm tra an ninh thôi mà. Tôi nói: “Kiểm tra gì tôi cũng không đồng ý, các người nghĩ tôi là không tặc à? Từ trước tới nay tôi chưa hề được biết có nhà ngoại giao nào làm không tặc cả. Nếu nghĩ tôi là không tặc, tại sao lại chấp nhận tôi làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền bên cạnh Chủ tịch nước các người? Tôi nói cho các người biết, là phía Trung Quốc cũng có Sứ quán ở nước tôi, mà nguyên tắc ngoại giao là đối đẳng, nếu các người cố tình kiểm tra hành lý của tôi, tôi sẽ báo cáo về chính phủ, để bên Việt Nam cũng kiểm tra hành lý của Đại sứ các người khi xuất cảnh. Mà nước tôi thì chưa có phương tiện kiểm tra hiện đại, nhân viên Việt Nam sẽ phải mời Đại sứ các người đồng ý như vậy thì hãy làm bừa đi”. Nhân viên Trung Quốc lại phải chịu lý của tôi, lại phải mời tôi đi theo cửa tự do, không kiểm tra hành lý nữa. 

Có lần tôi ngồi xe có cắm cờ Việt Nam đi từ Sứ quán ta ra, đến một đoạn đường nọ, mặc dù đồng chí Quảng đang lái rất nghiêm chỉnh đúng luật, thế mà cảnh sát Trung Quốc lại thổi còi bắt dừng xe, nói rằng anh đã vi phạm luật giao thông, rồi bắt lái xe xuất trình giấy tờ. Giấy tờ đủ cả ! Đồng chí lái xe nói: “Tôi đi đúng luật, không vượt đèn đỏ, không lấn sang phần đường của xe khác?”. Rồi họ cũng phải cho đi tiếp vì không biết làm cách nào, không tìm ra cái gì để bắt bẻ nữa (chủ yếu là họ làm chậm hành trình để tôi sai hẹn với đối tác hoặc với Đại sứ nước nào đó).

Trong trường Đại học Bắc Kinh có nhiều sinh viên nước ngoài, có lần Trung Quốc đã xúi bẩy số sinh viên các nước thân Trung Quốc đến biểu tình trước Sứ quán ta. Ta đối phó việc đó bằng cách tuyên truyền vận động để họ hiểu biết sự thật, ai phải ai trái, phần lớn họ hiểu ra và thôi không tụ họp ở đó nữa. Nhưng cũng còn có 4,5 sinh viên cả trai lẫn gái còn ở lại chỗ gốc cây bên kia đường đối diện của Sứ quán ta. Tôi phải cho người đóng cửa Sứ quán vào và cử đồng chí Lê Công Phụng (lúc đó làm phiên dịch tiếng Anh) ra giải thích cho đám sinh viên đó. Vì cửa đóng sinh viên không vào được bên trong, họ ném trong bì thư (có lẽ bên trong viết nhưng nội dung phản đối Việt Nam) vào sân của Sứ quán. Đồng chí Phụng cầm phong bì ném ra, họ lại nhặt ném vào, đồng chí Phụng lại ném ra và nói: “Các bạn đã bị Trung Quốc lừa rồi, hãy về mà chăm chú học đi thôi”…

Cứ cái cách như vậy thật mệt. Sau này gặp đồng chí Ngô Thuyền, người tiền nhiệm của mình, tôi nói đùa: “Anh thì sang Trung Quốc uống rượu, tôi thì sang cãi nhau!”.

Trong thời gian quan hệ hai nước căng thẳng thì các đường đi lại giữa ta và Trung Quốc bị cắt hết: cả máy bay, tàu hỏa, điện thoại. Chúng tôi ở Sứ quán giữa Bắc Kinh mà cứ như ở đảo. Hàng ngày chỉ có hai ca liên lạc VAC, một ca buổi sáng, một ca buổi tối để liên hệ và nhận chỉ thị từ trong nước. Thành thử có nhiều việc xảy ra, chúng tôi phải tự động đối phó. Cũng vì vậy, nên mỗi lần tôi hết nhiệm kỳ Đại sứ, Bộ Ngoại giao báo cáo Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì đồng chí lại bảo: “Cứ để đồng chí Vĩnh ở đấy”. (Hơn nữa, trong tình hình khó khăn như vậy, chẳng ai muốn sang thay. Lúc ấy lương tôi chỉ được có 90 đô la một tháng, trong khi lương Đại sứ Thái Lan cùng ở Bắc Kinh là 3.000 đô la. Đến năm 1990, đồng chí Đặng Nghiêm Hoành sang làm Đại sứ ở Bắc Kinh, lương được 600 đô la một tháng. Lái xe của sứ quán Lào cũng được 400 đô la một tháng).

Do đã ở liền vài nhiệm kỳ ở Bắc Kinh, nên theo thông lệ quốc tế, tôi trở thành Trưởng đoàn ngoại giao một thời gian khá dài. Ngoại giao đoàn rất coi trọng chức trưởng đoàn đó, các Đại sứ mới đến Trung Quốc, sau khi đi chào các vị lãnh đạo của nước chủ nhà thì đều phải đến chào trưởng đoàn ngoại giao; khi tổ chức ngày Quốc khánh nước mình thì cũng đến mời trưởng đoàn ngoại giao, mà lại bố trí ngồi chỗ trang trọng nhất trước mặt mình. Khi có Đại sứ nào rời nhiệm, nếu có tổ chức gặp gỡ để chào từ biệt ngoại giao đoàn, thì cũng mời trưởng đoàn ngoại giao và trưởng đoàn ngoại giao sẽ thay mặt các Đại sứ phát biểu ý kiến tiễn biệt. Trong suốt thời gian làm Trưởng đoàn ngoại giao, tôi đã phải làm đến 60 bài diễn văn ngắn để chào mừng hoặc tiễn biệt những người đồng nghiệp. Tuy ngắn vậy thôi, nhưng cũng không phải dễ làm, bởi vì mỗi vị Đại sứ đại diện cho mỗi nước khác nhau, quan hệ với ta cũng khác nhau, 60 bài đòi hỏi phải sát hợp với những hoàn cảnh khác nhau đó. Có lần ông Đại sứ Thụy Điển đã nói với tôi: “Tôi theo dõi thấy ngài phát biểu không lần nào giống lần nào”.

Có chuyện ông Đại sứ Mỹ, khi đến nhận chức thì không đến chào tôi, nhưng khi rời chức, tổ chức gặp gỡ để từ biệt thì lại đến Sứ quán ta thông báo cho tôi là đã hết nhiệm kỳ và mời tôi đến dự. Tôi nói: “Khi ngài mới đến, hoặc là ngài còn hận Việt Nam, hoặc ngài sợ Trung Quốc nên đã không đến chào tôi. Nhưng hôm nay ngài đã đến và mời tôi tới dự buổi gặp mặt từ biệt, tôi nhận lời và sẽ phát biểu ý kiến tiễn chân ngài”. Cái khó là trong trường hợp này là, ca ngợi ông ta thì không được mà nói xấu ông ta cũng không xong. Tôi phải tìm những câu vô thưởng vô phạt để nói, cuối cùng thì cũng chức sức khỏe ông ta và gia đình, chúc ông ta lên đường gặp mọi sự may mắn. Các Đại sứ khác nghe vậy cũng thấy là được.

Mặc dù Trung Quốc lúc đó chẳng ưa gì Đại sứ Việt Nam, lại càng không ưa gì một người luôn đấu lý (và lại hay làm họ cứng họng) như tôi, nhưng cũng vì tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao nên dịp mừng Quốc khánh của họ hay dịp các nguyên thủ các nước đến thăm mà Trung Quốc mở tiệc chiêu đãi trọng thể, bao giờ họ cũng phải mời tôi ngồi bàn danh dự.

Rõ ràng phía Trung Quốc không muốn tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao nhưng không có cách gì truất chức đó của tôi, nên lắm khi họ bày ra những chuyện nực cười, rất trẻ con để chọc phá tôi.

Cái lần đoàn ngoại giao đi thăm tỉnh An Huy của Trung Quốc, khi kết thúc hành trình, lãnh đạo địa phương tổ chức tiệc chiêu đãi tại một công viên. Trước khi vào phòng tiệc, một cán bộ ngoại giao Trung Quốc đến nói với tôi: Những lần trước ngài đã phát biểu rồi, lần này nên làm khác đi, để ông Đại sứ Tan-za-nia (người thứ hai sau trưởng đoàn) phát biểu ý kiến. Tôi nói: “Nếu không cần phải phát biểu ý kiến gì thì thôi, còn nếu có, thì theo thông lệ quốc tế, tôi sẽ phát biểu chứ không phải người khác. Nếu các ngài cố ý làm trái, tôi sẽ không dự bữa tiệc này. Vả lại tôi cũng chẳng nói xấu gì về nước các ngài”. Cán bộ Trung Quốc nói: “Sẽ không có ai phát biểu cả”. Vậy mà ngay lúc đó, phía Trung Quốc lại đi vận động ông Đại sứ Tan-za-nia phát biểu trong bữa tiệc. Nhưng ông Đại sứ Tan-za-nia nói: “Không được! Phát biểu là quyền của ông Đại sứ Việt Nam. Chỉ khi nào ông ấy ủy quyền cho tôi thì tôi mới được nói”. Trong khi các Đại sứ khác đều đi vào phòng tiệc, tôi vẫn đi ở vườn hoa chưa vào. Lúc sau, cán bộ ngoại giao Trung Quốc ra mời tôi vào ngồi ở bàn số Một, đối diện với Tỉnh trưởng An Huy. Bên cạnh tôi vẫn còn chỗ trống, thì ra ông Đại sứ Tan-za-nia cũng ngại nên vẫn loanh quanh ngoài vườn hoa chưa vào. Họ lại phải đi tìm và mời vào chố trống đó. Lúc khai tiệc, chắc theo đạo diễn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Tỉnh trưởng không nói gì. Tôi vẫn chủ động đứng lên nâng cốc, cảm ơn về chuyến đi, chúc sức khỏe Tỉnh trưởng cùng Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc đi cùng và tôi quay lại chúc sức khỏe các bạn đồng nghiệp. Tôi chúc xong mọi người mới bắt đầu cầm đũa.

Trong thời kỳ làm Đại sứ, thỉnh thoảng tôi có tổ chức họp báo, lúc thì để giới thiệu tình hình nước ta, lúc thì để tố cáo bọn Pôn-pốt khiêu khích đánh phá biên giới Việt Nam. Khi Trung Quốc đánh ta, tôi cũng họp báo và tố cáo rằng: “Trung Quốc đang dùng 3 sư đoàn tiến đánh Việt Nam”. Một nhà báo Mỹ đứng lên nói: “Ngài Đại sứ nói quá lên thế chứ, còn theo tình báo của chúng tôi thì đâu có nhiều quân đến thế?”. Tôi nói: “Việc chúng tôi thì chúng tôi biết hơn ai hết. Còn tình báo của các ngài thì chúng tôi cũng đã biết. Tết Mậu Thân năm 1968, quân chúng tôi vào đánh khắp nơi, đánh cả vào Sứ quán Mỹ, mà trước đó tình báo Mỹ có biết gì đâu!”. Các nhà báo cười ồ cả lên. (Đến đây tôi chợt nhớ một chuyện về ngài Đại sứ, cũng là Mỹ ở Trung Quốc: Khi đến nhận chức ở Bắc Kinh, ông ta không đến chào tôi, vì vậy sau đó mỗi khi đứng cương vị Trưởng đoàn ngoại giao có việc gì cần gửi thông báo đến các Đại sứ, tôi không gửi cho Sứ quán Mỹ và cho ông ta. Một số Đại sứ khác ở Trung Quốc thấy tôi có thái độ “tẩy chay” Đại sứ Mỹ, đã đến vận động tôi đừng làm như vậy. Nhưng tôi nói, khi đến ông ta cậy thế nước lớn không đến chào tôi, vì vậy tôi cũng không việc gì phải giao thiệp với ông ta. Không biết có phải ông Đại sứ Mỹ đã được chuyển đến tai câu nói đó của tôi hay không, mà khi tổ chức chiêu đã rời nhiệm sở, ông ta lại phải đến tận nơi mời tôi?).

4.
Làm Đại sứ ở Trung Quốc trong những năm Trung Quốc cố tình khiêu khích và biến Việt Nam thành kẻ thù, đã đành là rất căng thẳng thần kinh và hao tổn thể chất; nhưng với tôi, cũng không phải là hoàn toàn chỉ có vất vả gian khổ. Cũng có những khi được “đắc ý” chứ. Ấy là niềm vui sau những cuộc đấu lý với Trung Quốc. Họ thì hùng hùng hổ hổ, đập bàn đập ghế, dùng những lời lẽ đao to búa lớn để vu cáo trắng trợn và đe dọa ta. Tôi thì vận hết “nội công” cố sức kiềm chế để không bị cuốn vào cái kiểu hùng hổ bất lịch sự, phi ngoại giao đó, để tìm những lý lẽ và ngôn từ đích đáng, đập lại họ, buộc họ phải rút dù. Sau mỗi cuộc như vậy, tôi thấy như người đánh cờ, thắng được một ván là có được một niềm vui.

Hơn nữa, cũng có những lúc mình được hưởng cái sung sướng thực sự, đó là vào những cuộc “lữ hành ngoại giao” mà phía Trung Quốc, với cương vị nước chủ nhà đã tổ chức cho đoàn ngoại giao đi chơi thăm thú các nơi phong cảnh đẹp hoặc lạ ở trên đất nước họ. Tôi nghĩ nếu không có dịp làm Đại sứ thì đã mấy khi mình được du lịch không mất tiền nhiều như vậy?

Năm 1974, khi mới sang Trung Quốc, tôi được đi chuyến “lữ hành ngoại giao” thăm Côn Minh, đó là một thành phố đẹp và loại nhất của Trung Quốc, thuộc tỉnh Vân Nam sát với Việt Nam ta. Côn Minh còn được người Trung Quốc gọi là “Xuân Thành” vì khí hậu rất tốt, quanh năm mát mẻ như mùa xuân. Ở Côn Minh có rất nhiều phong cảnh đẹp và kỳ lạ như Thạch Lâm, Hồ Điền Trì, Ôn Tuyền v.v… rất nhiều chùa chiền đẹp và khuôn viên rộng lớn, sạch sẽ. Vì Côn Minh ở độ cao trên 1.500m nên người dân lúc nào cũng mặc áo len, trông lại càng nhiều màu sắc bắt mắt, ở đây cũng lưu truyền câu nói “nhất vũ thành đông” (tức là hễ có một trận mưa là rét như mùa đông). Ở đây có hai vị thuốc quý là đông trùng hạ thảo và tam thất (ở Vân Nam trồng thì gọi là Điền thất, Điền thất là thứ tam thất hàng đầu của Trung Quốc). Ở Côn Minh, chúng tôi được thưởng món đặc sản “bún qua cầu” rất lạ. Một sợi bún dài như vô tận được cho đi qua một bát nước dùng mà trên mặt có váng mỡ để giữ cho được nóng lâu. Người ăn cứ việc hút sợi bún đó mà ăn đến no thì dừng lại. (Phải mở ngoặc là lúc đó Trung Quốc còn chưa trở mặt với ta, tôi còn được vợ đồng chí Lý Thế Thuần đưa đi và làm phiên dịch - Khi tôi đã nghỉ hưu, đồng chí Lý Thế Thuần làm Đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội).

Năm 1975, tôi lại được cùng đoàn ngoại giao đi Tân Cương, đó là nơi biên giới xa xôi, giáp với Liên Xô. Ở đây cuộc sống và phong tục rất khác lạ. Họ cho ăn thịt cừu và uống sữa ngựa. Thứ sữa đó mùi vị như bia, uống vào thấy hơi say say, họ nói chỉ có khách quý mới được uống, còn thì chỉ dành cho bệnh viện, nhất là cho người bị bệnh lao. Ở Tân Cương có giống dưa lưới và đào bẹt (gọi biển đào), ăn cực ngon. Chúng tôi đến Tân Cương đúng vào mùa đào chín, họ cho vào vườn tha hồ hái, ăn chán thì thôi. Chúng tôi cũng gặp nhiều người dân địa phương ở đây, họ ăn mặc rất rực rỡ, đàn ông thì cao lớn, phụ nữ thì xinh đẹp như tiên, trông họ có vẻ như lai Á lai Âu, nét mặt thật sáng sủa.

Năm 1976, lại được đi chơi núi Thái Sơn (thuộc tỉnh Sơn Đông). Mặc dù không phải núi cao và lớn hàng đầu của Trung Quốc, nhưng Thái Sơn (cao 1.500m so với mặt nước biển) lại rất nổi tiếng, đã đi vào câu nói hàng ngày và văn thơ của Trung Quốc. Ở Trung Quốc người ta thường nói “có mắt mà không nhìn thấy Thái Sơn” hoặc “nặng như Thái Sơn”… Ngay cả trong thơ ca Việt Nam cũng có câu “Công cha như núi Thái Sơn - Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” v.v… Phong cảnh ở đây rất đẹp, y như trong tranh thủy mặc ở Trung Quốc vậy. Và rất tự hào là trong chuyến đi đó, cả đoàn ngoại giao, chỉ có tôi và hai vợ chồng ông Đại sứ Hung-ga-ri là trèo được mấy ngàn bậc đá lên tận đỉnh Thái Sơn, đứng đó để ngắm ra tận biển Đông của Trung Quốc được xem mặt trời mọc từ biển lên rất hay. Tận trên đỉnh cao như vậy mà người Trung Quốc từ xưa đã xây được lâu đài đình các nguy nga, kể cũng đáng nể.

Năm 1980, sau khi Trung Quốc đã gây hấn đánh Việt Nam rồi, nhưng vì vẫn có chuyến “lữ hành ngoại giao” và vì tôi là Trưởng đoàn nên họ phải mời tôi cùng đoàn đi chơi tỉnh An Huy, thăm thắng cảnh Hoàng Sơn, cũng là một trong những cảnh đẹp hàng đầu của Trung Quốc, có nhiều cây thông cổ thụ mọc trên vách đá cheo leo, đủ hình đủ thế, theo đường núi lên đến đỉnh thì thấy đền đài cổ kính, xây cất rất đẹp và công phu. Từ cổ xưa, các triều đại phong kiến Trung Quốc đã hay tìm những nơi có cảnh thiên nhiên đẹp, cho xây dựng lên những công trình tráng lệ và cũng may cho đất nước Trung Quốc là ít bị chiến tranh tàn phá nên bây giờ các công trình còn lại khá nhiều.

Thông thường đoàn ngoại giao đi đến tỉnh nào thì Tỉnh trưởng ở đó tiếp đón và khi kết thúc chuyến đi thì Tỉnh trưởng lại đãi tiệc. Trước bữa tiệc, sau khi Tỉnh trưởng phát biểu thì đến Trưởng đoàn ngoại giao thay mặt các Đại sứ đọc đáp từ. Thời kỳ quan hệ hai nước đang căng thẳng thì tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao, khi nói đều phải tránh không ca ngợi lãnh đạo và thành tích của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, chỉ ca tụng cảnh đẹp của địa phương, sự đón tiếp của những nơi đoàn đến thăm, các sản vật quý của địa phương, chúc sức khỏe các vị lãnh đạo địa phương để lãnh đạo phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân trong địa bàn… (Riêng lần đi An Huy này thì có chuyện buồn cười như đã thuật ở phần trên).

Thời gian ở Bắc Kinh, tôi cũng tạo được điều kiện cho vợ chồng Minh Hà (con gái thứ 3 lấy chồng người Đức là Verner) từ Đức sang thăm Trung Quốc. Và một lần từ Trung Quốc bay sang Mát-xcơ-va, tôi và bà xã cũng tranh thủ đi xe lửa sang chơi bên Đức, thăm nhà con gái.

Cũng nhờ việc làm Đại sứ ở Bắc Kinh nên tôi còn được biết cả thủ đô các nước Triều Tiên, Ap-ga-nit-xtan, Pa-kit-xtan nữa.

Vào mùa hè năm 1977, có Hội nghị quốc tế về nông nghiệp do Triều Tiên đăng cai. Bên nước điện sang cử tôi và anh phiên dịch tiếng Anh đi dự, vì vậy có dịp thăm quan thành phố Bình Nhưỡng thủ đô Triều Tiên. Thành phố đó không gọi là lớn nhưng rất đẹp, các công trình kiến trúc cũng đẹp, có vẻ phô trương, đồ sộ. Ví dụ có một nhà hát chỉ độ 500 chỗ nhưng khuôn viên khá lớn và trang trí rất lộng lẫy. Đường phố hai bên trồng toàn cây ngô đồng, đang mùa hè nên lá rất xanh tốt. Tôi được ăn một bữa tiệc ngồi cùng bàn với ông Kim Nhật Thành và lần đầu tiên được biết món “kim chi” nổi tiếng của Triều Tiên, rất ngon.

Một lần tôi đi tháp tùng đồng chí Nguyễn Duy Trinh (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao) đi thăm Ap-ga-nit-xtan, đến thủ đô Ca-bun, thật tiếc là thủ đô đó chẳng gây cho mình ấn tượng và cảm xúc gì. Sau khi đi thăm Ap-ga-nit-xtan (lúc đó có chính quyền thân Liên Xô), đoàn sang thăm Pa-kit-xtan nhưng chẳng được việc gì, họ đối xử rất nhạt nhẽo vì họ đang theo Trung Quốc, mâu thuẫn với Ap-ga-nit-xtan. Ở Pa-kit-xtan không được uống bia rượu và ăn thịt lợn, vì nước đó theo đạo Hồi. Pa-kit-xtan lúc đó rất nghèo và phụ thuộc Trung Quốc. Có một con đường lớn nối từ thủ đô Is-la-ma-bat đến Trung Quốc men theo sườn dãy Hi-ma-lay-a, được biết là do Trung Quốc làm giúp. Thành phố Ca-ra-si, nơi có sân bay quốc tế, gọi là lớn nhưng lúc đó cũng rất lèo tèo.

Có một việc dường như cả những người thân cũng ít biết đến, đó là thời gian tôi được cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Trung Quốc, thì cũng kiêm luôn cả chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam ở Pa-kit-xtan. Khi bay từ Bắc Kinh sang Is-la-ma-bat, qua dãy Hi-ma-lay-a nóc nhà thế giới, nhìn thấy tuyết phủ dày trắng, mấy người cũng đã nói đùa với nhau: giá mà rơi xuống đây thì đố có ai tìm được! Đến thủ đô Pa-kit-xtan tôi phải đi trình quốc thư; rất ấn tượng với nghi lễ của nước này: họ cho xe song mã, có lính bồng súng rất trang trọng và rất oai đến đón. Đại sứ được ngồi xe song mã, đằng sau có 6 người lính cưỡi ngựa cầm giáo hộ tống vào phủ Tổng thống.

Lại nói chuyện về đi lại ở Trung Quốc, ngoài những chuyến đi với đoàn ngoại giao, còn có một chuyến đi đáng nhớ nữa. Đó là chuyến đi theo đường sắt Côn Minh - Thành Đô vào năm 1977. Dạo đó ở thành phố Côn Minh, ta có một cơ quan Tổng lãnh sự, lại có khá đông các gia đình Việt kiều. (Số bà con đó trước làm thợ hỏa xa phục vụ đường sắt Hải Phòng - Côn Minh từ thời Pháp, sau ở lại Côn Minh). Vì vậy tôi có xuống thăm cơ quan và bà con. Bình thường xuống Côn Minh, tôi vẫn đi theo đường xe lửa phía Đông, từ Bắc Kinh qua Trịnh Châu, Vũ Hán, Trường Sa, Quý Dương rồi đến Côn Minh và ngược lại. Đồng thời, theo quy định của Trung Quốc thì khách nước ngoài muốn mua vé xe lửa phải mua qua “lũ hành xã” (kiểu như du lịch quốc doanh bên ta) mới được. Những lần đó không hiểu sao anh em ở cơ quan Lãnh sự quán lại tự đi mua được vé, mà lại mua được vé theo con đường phía Tây. (Tức đường từ Côn Minh đến Thành Đô rồi qua Tây An, Thái Nguyên về Bắc Kinh). Tôi cũng thích đi theo con đường đó vì chưa đi lần nào, hơn nữa lại nghe nói rất nhiều về việc hoàn thành đoạn đường Thành Đô - Côn Minh mới làm, Trung Quốc coi là thắng lợi lớn vì đoạn đó rất khó thi công… Tôi đi cùng hai đồng chí Bí thư ở Sứ quán. Trên đường, qua quan sát thì thấy quả là “danh bất hư truyền”, không thể không ngạc nhiên thán phục công trình hoành tráng như thế. Xe lửa phải đi trên sườn núi đá dài rất hiểm trở, vì vậy có nhiều hầm tuy-nen chui qua núi, nhiều cầu cạn chênh vênh bắc giữa hai ngọn núi và nhiều đoạn leo đèo dốc quanh co. Có đoạn qua sông Kim Sa nổi tiếng hung dữ (đã được nhắc đến trong truyền thuyết thày trò Đường Tăng và Tôn Ngộ Không đi Tây Trúc lấy kinh). Trên tàu, chúng tôi vô tư dùng tiếng Việt nói chuyện với nhau nên đã gây chú ý cho nhân viên xe lửa Trung Quốc, có lẽ vậy họ mới đi gọi điện báo cho người ở đâu đó. Một lúc sau, thấy hai nhân viên ăn mặc sắc phục đường sắt đến ngồi bắt chuyện với chúng tôi. Khi đến Thành Đô, họ nói: “Xe lửa bị hỏng, đề nghị các vị xuống phòng đợi”, họ xách hộ hành lý cho chúng tôi. Sau đó họ nói tầu bị nghẽn còn lâu mới sửa xong. Họ đưa chúng tôi vào một khách sạn trong Thành Đô. Ngày hôm sau chúng tôi đường dẫn đi xem thành phố, được thăm nhà lưu niệm thi hào Đỗ Phủ. Tối về họ nói: “Thôi các vị phải đi máy bay về Bắc Kinh thôi”. Tôi nói: “Chính phủ chúng tôi cấp tiền có hạn, không đủ tiền mua máy bay”. Họ nói, sẽ giúp đòi lại tiền tàu của cơ quan đường sắt để các vị mua vé máy bay. Tôi nói, dù có lấy lại được thì số tiền đó cũng không đủ mua vé máy bay, chúng tôi còn nghèo, phải tiết kiệm. Chúng tôi sẽ đợi đến bao giờ xe lửa thông thì chúng tôi sẽ về Bắc Kinh. Không còn cách nào, cuối cùng họ phải nói thẳng: “Tuyến đường xe lửa này, Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa không cho phép người nước ngoài đi”. Lúc này chúng tôi mới biết họ là công an mật đã lên kèm chúng tôi từ giữa đường đến Thành Đô. Sau đó phía Trung Quốc phải bỏ tiền lấy vé máy bay cho đoàn chúng tôi về Bắc Kinh. Thì ra đường sắt Thành Đô - Côn Minh mà Trung Quốc cố làm cho bằng được đó là con đường chiến lược bí mật của họ. Năm 1979 khi Trung Quốc tấn công ta thì cũng có một cánh quân xuất phát từ Đại quân khu Thành Đô vào đánh ta ở hướng Lào Cai. Ta bắt sống được một Đại đội, họ khai rằng, họ là quân của sư đoàn 150, quân đoàn 50 thuộc Đại quân khu Thành Đô, được chở bằng xe lửa từ Thành Đô đến biên giới Việt Nam qua Côn Minh.

5.
Khoảng cuối năm 1985 (tức cuối kỳ làm Đại sứ), bỗng nhiên tôi bị những cơn tim đập nhanh (140 nhịp một phút), phải đến bệnh viện Trung Quốc để khám. Nhưng đi đến giữa đường thì cơn tim đó lại dừng nên đến bệnh viện khám không thấy gì. Lần thứ hai cũng vậy, lần thứ ba thì cùng với cơn tim đập nhanh lại kèm theo sốt nhẹ, tôi phải vào nằm viện để điều trị. Bệnh viện cũng làm đủ mọi động tác xét nghiệm cần thiết như: đo điện tim, siêu âm tin phổi thận, rửa ruột, xét nghiệm máu, soi dạ dày v.v… Sau một loạt khám nghiệm cẩn thận như thế mà họ cũng chỉ kết luận được là “tim đập nhanh đậu tính kèm theo sốt”. Tôi đề nghị điều trị theo cách Đông – Tây y kết hợp. Họ chấp nhận nên hàng ngày cho thuốc viên đồng thời sắc thuốc bắc cho tôi. Họ bố trí tôi nằm riêng một phòng có điều hòa nhiệt độ và mắc vào người tôi những dụng cụ để theo dõi nhịp tim thường xuyên, có màn hình hiện lên trước mặt, nằm ở giường cũng có thể trông thấy. Hễ hơi động cựa mình hoặc dãy chân một tý là màn hình hiện lên con số 150 nhịp/ phút ngay. Về ăn uống bệnh viện cũng lo rất khá, 5 bữa một ngày. Sáng sớm thì bánh bao hoặc sủi cảo, giữa buổi uống sữa, trưa ăn cơm, 2-3 giờ chiều ăn bánh ngọt hoặc hoa quả, tối ăn cơm. Điều trị được ba, bốn ngày, bệnh tim vẫn không chuyển biến. Thế là lại phải nhịn ăn, lấy máu xét nghiệm, lại rửa ruột… vẫn không tìm ra nguyên nhân gì. Rồi đến một lúc tôi không ăn được, không ngủ được, thỉnh thoảng lại còn bị cảm (sau mới biết là nằm trong phòng có điều hoà nhiệt độ thường xuyên, tôi không quen nên mới bị cảm lạnh). Tình hình cứ thế kéo dài, tôi ngày càng gầy sút, chân tay trở nên uể oải không có lực. Đến nỗi việc tắm rửa cũng không tự mình làm được, phải nhờ anh em trong Sứ quán mình vào tắm giúp. Rồi đến lúc giơ tay lên đánh răng rửa mặt cũng thấy mỏi rã ra. Sau một tháng tôi sút mất 10 cân, chân tay lẩy bẩy, đi lại phải vịn, phải lần. Tôi nghĩ nếu cứ nằm đây thì sẽ suy sụp đến chết mất. (Trong khi đó ở Sứ quán, anh em đã họp bàn với nhau, nói đến việc nếu Đại sứ chết thì chôn ở Bắc Kinh hay đưa thi hài về nước). Tôi nói với bệnh viện là mình đỡ rồi, xin về Sứ quán chữa ngoại trú, tôi không dùng máy điều hoà nhiệt độ, chỉ dùng quạt ở mức nhẹ nhất, cho quay đi quay lại phe phẩy thôi. (Ngoài trời lúc đó đang là nóng nhất trong năm). Về ăn uống thì chú Quế (nấu cơm cho tôi đã lâu năm rất tận tình) thường đi mua thịt bò về làm cho chín tái đi rồi ép lấy nước cho tôi, hoặc chú nấu cháo gà cho, nhưng tôi vẫn chỉ ăn được một chút. Tôi thấy ngủ được hơn trong bệnh viện và uống được chút nước thịt cũng hấp thu tốt hơn. Hàng ngày tôi vào bệnh viện cho họ bắt mạch và cắt thuốc bắc về uống, vì hàng ngày vẫn còn sốt âm ỷ. Tôi xem đơn thuốc họ kê cho thì thấy trong đó có nhiều vị tác dụng tư âm thanh nhiệt, lần nào cũng thế. Từ trước tôi đã có mua và đọc nhiều sách thuốc của Trung Quốc, đã có chút hiểu về Đông y; vì vậy khi đọc đơn thuốc đó, tôi suy nghĩ: đã tư âm thanh nhiệt mãi mà không khỏi sốt, ắt trong người phải có chỗ viêm nhiễm nào đấy (mà có thể nó chưa đủ lớn để thày thuốc phát hiện được). Tôi nhờ anh Bảng phiên dịch tiếng Trung Quốc ra hiệu thuốc mua cho vị kháng sinh thực vật là bồ công anh, kim ngân hoa vàliên kiều về bỏ vào thang thuốc của bệnh viện sắc uống trong ba ngày. Uống xong ba ngày thì hết sốt, sau đó tôi thấy trong người ngày càng khá hơn lên, dần dần ăn được ít cơm. Tuy vậy người vẫn còn yếu. Tôi định rủ bà xã về nước (tôi nghĩ nếu có chết thì chết trong nước cho khỏi phức tạp, phiền hà đến cơ quan, tổ chức). Vừa lúc đó, chị Lan bác sĩ của Sứ quán lại phát hiện bà xã tôi bị vàng da, vàng mắt; đưa đi bệnh viện khám thì ra viêm gan cấp tính, phải nằm viện chuyên khoa cách ly điều trị một tháng. Khi bà xã tôi khỏi bệnh ra viện, chúng tôi cùng rời Bắc Kinh về nước. Khi ra sân bay, bác sĩ của Sứ quán vẫn phải đưa tôi đến tận chân thang máy bay. Về đến Hà Nội, bác sĩ của Bộ Ngoại giao ta phải ra tận máy bay đón tôi. Khi tôi có việc lên Bộ Ngoại giao, chỉ có thể đứng dưới nhắn người của vụ Trung Quốc xuống mà gặp. Tôi không còn đủ sức trèo lên tầng ba để làm việc. May mắn là tôi có đem về được hai hộp bột tam thất Vân Nam (là thứ tốt nhất hồi đó, ở Việt Nam hầu như không thể kiếm được). Tôi uống bột tam thất, đồng thời động viên bà vợ cùng ăn gạo lứt để chữa bệnh. Kiên trì ngày một bữa gạo lứt trong hơn hai tháng thì sức khoẻ tôi đã hồi phục như bình thường.

Người ta nói “trong cái rủi có cái may”, bị một trận ốm thập tử nhất sinh ở Bắc Kinh như trên đã nói, rõ ràng là chẳng ai muốn, nhưng qua trận ốm đó tôi lại học được nhiều việc, tôi trở nên chú ý suy ngẫm, rút kinh nghiệm về bảo vệ sức khỏe và thêm hứng thú đi sâu nghiên cứu Đông y hơn. Sau này khi có điều kiện, tôi đã mầy mò nghiên cứu học hỏi cho có bài bản và trở thành thày lang của gia đình, chữa được nhiều bệnh cho vợ con, cháu chắt, bạn bè….

Cái thời những năm 80 thế kỷ trước, ở trong nước mọi thứ hàng hóa đều khan hiếm. Mỗi lần về nước là cán bộ nhân viên Sứ quán ta đều tranh thủ mua các thứ hàng tiêu dùng đem về, kỳ cho hết tiêu chuẩn trọng lượng hàng được phép theo quy định của hàng không mới thôi. Chú Quế đầu bếp của tôi cũng vậy, mua cả táo tàu (thứ táo nhỏ của Tàu sấy khô, quả nhăn nheo màu đỏ nâu hoặc đen) đem về ngâm vào phích nước nóng để uống. Một hôm chú khoe với tôi: “Cái ruột phích của em ngâm táo tự nhiên lại sáng choang như mới”. Nghe vậy, tôi bèn nghĩ: có lẽ trong táo tàu có chất a-xít gì đánh tan được cặn can-xi bám trong ruột phích nước. Rồi một lần về nước tôi cũng mua theo mấy cân táo tàu, về qua Thái Lan, ngủ ở nhà khách Sứ quán ta ở Băng-cốc cùng với một đồng chí cán bộ của ta cũng đi qua, tôi đem táo tàu mời đồng chí đó ăn. Đồng chí nói: “Trước đây tôi bị sỏi thận, có người bạn cũng cho tôi một cân táo tàu. Sau khi ăn ít hôm thì thấy đau bụng dưới nhiều, hai ba hôm mới khỏi”. Tôi hỏi: “Từ đó đến nay anh còn thấy đau nữa không?”. Đồng chí nói không. Thế là liên hệ việc này với việc cái ruột phích của chú Quế, tôi phát hiện ra rằng trong táo tàu có chất làm tan sỏi can-xi, khi ăn táo tàu nó bào mòn viên sỏi làm sỏi nhỏ đi đến mức có thể bài tiết ra ngoài qua đường niệu, trên đường đi ra, nó chà xát vào niệu quản làm đau. Đến lúc đồng chí Bảng được điều sang làm phiên dịch cho tôi thay một đồng chí khác đã hết nhiệm kỳ. Gặp tôi, Bảng nói: “Em bị sỏi thận đang điều trị thì Bộ bắt sang đây”. Tôi bảo Bảng ra ngoài hiệu thuốc mua lấy một cân rưỡi táo tàu, hai buổi, buổi sáng chiều trước bữa cơm đều ăn lấy một vốc. Mấy hôm sau Bảng nói với tôi: “Em có cảm tưởng sỏi nó đi đến gần xương cụt rồi”. Vài hôm sau nữa thì sỏi ra ngoài. Từ đó trở đi Bảng không bị đau thận nữa. Thế là chắc chắn “phát hiện” được thứ thuốc vừa ngon vừa lành là táo tàu nên dùng đủ liều lượng thì có thể làm tan sỏi can-xi trong thận!

Tôi nghĩ, 13 năm ở Bắc Kinh, vừa phải đấu tranh căng thẳng với Bộ Ngoại giao Trung quốc, vừa phải chống đỡ bệnh tật, nếu mình không đọc sách và biết về thuốc, cứ phó thác thân mình cho các giáo sư bác sĩ ở bệnh viện Bắc kinh thì có lẽ đã chết từ lâu rồi. Tự mình cứu mình nên đã sống thêm được vài chục năm nữa. Vào năm 1985, sau khi quan hệ Trung Quốc – Việt Nam đã bình thường hoá trở lại, Hiệp hội Ngoại giao Trung Quốc đã mời tôi với đồng chí Ngô Minh Loan, đồng chí Nguyễn Minh Phương là ba Đại sứ cũ ở Trung Quốc sang thăm nước họ. Tôi lại làm Trưởng đoàn, Đại sứ Lý Thế Thuần lại hỏi tôi muốn đi thăm nơi nào? Tôi nói tôi đi thăm đã gần hết các tỉnh của Trung Quốc, chỉ còn Hàng Châu và Thâm Quyến là chưa được đi. Hiệp hội Ngoại giao đã đáp ứng một cách nhiệt tình mấy nguyện vọng của tôi, mời cả đồng chí Hứa Pháp Thiện (tên Việt Nam là Thanh) vốn là cố vấn của Cục Tổ chức chúng tôi trong kháng chiến chống Pháp đến dự buổi chiêu đãi của họ (trong bữa tiệc có cả Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc đến dự). Cuộc gặp rất vui vẻ. Phó Thủ tướng Trung Quốc cũng có buổi tiếp chúng tôi. Sau đó Hiệp hội cử một nữ Trưởng phòng là Trịnh Nại Linh tháp tùng chúng tôi đi thăm quan các nơi như Hàng Châu, Thâm Quyến. Đi đến đâu họ cũng bố trí cho chúng tôi ở khách sạn 5 sao, riêng tôi được bố trí ở phòng VIP bằng tiêu chuẩn Phó thủ tướng có phòng ngủ, phòng khách riêng. Ở địa phương nào cũng có Phó tỉnh trưởng đến tiếp đón. Tôi thấy chỉ mới cách 8 năm thôi mà Trung Quốc thay đổi ghê gớm. Thâm Quyến xưa chỉ là bãi đất hoang mà nay trở thành một thành phố hiện đại hoàn chỉnh. Trong thành phố có một công viên rất rộng lớn gọi là tiểu Trung Hoa, họ xây dựng tất cả các danh lam thắng cảnh (thu nhỏ) tiêu biểu của các tỉnh Trung Quốc (ví dụ trong đó có Cố Cung, Trường Thành, Tây Hồ, Thái Hồ…). Còn Quảng Châu, Bắc Kinh tựa hồ như đã lột xác, trở thành những thành phố tráng lệ sầm uất gấp hàng chục lần so với lúc tôi làm Đại sứ.

Khi tôi đã thôi nhiệm vụ Đại sứ về nước, thì ở Việt Nam, Trung Quốc đã lần lượt thay mấy đời Đại sứ: Lý Thế Thuần, Trương Đức Duy, Lý Gia Trung, Tề Kiến Quốc đến Hồ Càn Văn. Họ đều biết tôi từ khi họ còn là các cán bộ phiên dịch của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đã dịch cho quan chức ngoại giao Trung Quốc “đấu đá” với tôi. Vì biết tôi là Đại sứ kỳ cựu nên mỗi khi có dịp chiêu đãi nhân Quốc khánh Trung Quốc hay nhân dịp kỷ niệm thành lập quan hệ ngoại giao hai nước, họ đều nhớ mời tôi.

Năm 1987, tôi được chính thức cho phép rời Sứ quán ở Bắc kinh sau khi đã hoàn thành tốt nhiệm kỳ Đại sứ dài dặc nhất trong lịch sử các Đại sứ Việt Nam ở nước ngoài: mười ba năm. Nghỉ ngơi trong một thời gian thì Bộ Ngoại giao yêu cầu tôi viết Hồi ký 13 năm làm Đại sứ ở Trung Quốc. Tôi đã viết xong và nộp cho Bộ Ngoại giao. Đến năm 1990 thì thực sự nghỉ hưu.

Khi về nước được hai năm, tôi gặp một đồng chí quan lúc đó là cán bộ của Ban Tổ chức Trung ương. Đồng chí hỏi: “Anh được tặng Huân chương Hồ Chí Minh năm 1987, anh đã nhận được chưa?”. Tôi bảo tôi không biết gì! Ban Tổ chức Trung ương bèn hỏi bên Bộ Ngoại giao. Thì ra Vụ Tổ chức Bộ Ngoại giao đã nhận, đem cất đi rồi quên mất (!) Vì vậy cho nên mãi đến năm 1990 trước khi tôi nghỉ hưu, Bộ Ngoại giao mới mời tôi lên. Đồng chí Bộ trưởng trao huân chương cho tôi và tặng một số tiền kèm theo là 100.000 đồng trong cuộc họp mặt có đông đủ cán bộ từ Vụ trưởng, Vụ phó trong Bộ. Lúc đó tôi mới tức cảnh làm bốn câu thơ:

“Vừa rồi được tấm Huân chương
Xa xôi nó phải đi đường hai năm
Bộ Ngoại giao tặng thêm một trăm
Đủ tiền làm một bữa nem ăn mừng!”.

Như vậy, năm 1990 đã kết thúc một quãng đời quan trọng của tôi mà tôi gọi là “thanh niên ba sẵn sàng”. Tôi luôn sẵn sàng chấp hành mọi sự điều động của Đảng, Nhà nước, không tính toán thiệt hơn, không hề có đề nghị, yêu cầu gì, nhận được mệnh lệnh là lên đường đi làm nhiệm vụ thậm chí không đợi cả làm đủ giấy tờ thủ tục, chẳng ngại sự thiệt thòi về lương bổng, về chế độ đãi ngộ, về nhà cửa. Với việc nào, tôi cũng chỉ đinh ninh một điều là làm sao cho tốt nhất so với năng lực của mình. Trong thời gian từ khi kết thúc kháng chiến chống Pháp đến năm 1990, tôi được phân công làm nhiều công tác như đã thuật ở trên, nhưng có thể nói có hai việc lớn và làm thời gian dài nhất là làm Cố vấn cho Bạn Lào và làm Đại sứ ở Trung Quốc (tổng cộng hơn 20 năm) và cũng là hai việc tôi có nhiều kỷ niệm đáng nhớ hơn cả và về cơ bản có thể nói là “đã đạt yêu cầu”. Vì vậy, tôi có thể mượn lời của con gái Nguyên Bình trong câu đối nôm na nó viết tặng tôi nhân buổi mừng sinh nhật 80 tuổi để làm câu kết cho câu chuyện đi sứ nước người của tôi:

Làm Cố vấn miền Tây, ghi lời Bác, không làm “lão Toàn quyền”*, luôn nhớ chữ “chủ quyền của bạn”.
Đi Đại sứ nước Tàu, theo ý Đảng, chẳng ngại “người Đại quốc”, giữ trọn điều “Quốc thể về ta”.

*Trước khi đi Lào nhận nhiệm vụ mới (làm Trưởng đoàn cố vấn giúp Lào – cuối 1964), Hồ Chủ tịch cho gọi ông Nguyễn Trọng Vĩnh tới ăn cơm và dặn dò một số điều. Người nói vui với Nguyễn Trọng Vĩnh: “Chú sang bên ấy, chú có ý kiến gì thì chú góp với Bạn để Bạn làm, chú không được làm thay và chú không được làm “Lão toàn quyền” đấy nhé!” – Chú thích của Bà Nguyễn Nguyên Bình, con gái Đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh.

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974 đến năm 1987. Dưới đây là câu chuyện của ông về thời gian ông làm Đại sứ tại Bắc Kinh.
 
Bách Việt

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này