Hiển thị các bài đăng có nhãn Giáo dục. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Giáo dục. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 11 tháng 1, 2013

Hơn cả lời từ chối

Mấy ngày qua dư luận nóng lên xung quanh sự kiện nữ Đạo diễn kiêm Diễn viên điện ảnh Nguyễn Thị Kim Chi từ chối giải thưởng của Hội điện ảnh Việt Nam. Từ chối giải thưởng không phải là chuyện lạ, nhưng điều đáng nói ở đây là lý do từ chối vì "không muốn trong nhà có chữ ký của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân".... Nghe thật bi, hùng, hài đúng không, thưa quý vị? 

Số là nghệ sĩ nổi tiếng Nguyễn Thị Kim Chi mới đây đã được Hội Điện ảnh Việt Nam gợi ý làm hồ sơ để đề nghị Thủ tướng khen thưởng. Nhưng không ngờ, bà đã gửi ngay một bức thư tới Hội xin từ chối phần thưởng đó với lý do thật ngắn gọn và rõ ràng:
“Tôi không muốn trong nhà tôi có chữ ký của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân. Với tôi, đó là một điều rất tổn thương vì cảm giác của mình bị xúc phạm".
Trong bức thư, bà Kim Chi cũng có nói: 
“…Được các đồng nghiệp có tâm, có tài khen ngợi mới thật là điều vinh dự".

Phần còn lại của bức thư và qua nội dung trả lời phỏng vấn sau đó bà Kim Chi đã giải thích rất rõ ràng, minh bạch về quan điểm và lý tưởng sống, chiến đấu, học tập và công tác của mình. Qua đó có thể thấy không một chút vấn vương, ích kỷ, vụ lợi nào trong quyết định từ chối giải thưởng của người nữ nghệ sĩ tài sắc mà đầy dũng khí này. Động cơ duy nhất của bà có lẽ là nói lên điều tâm nguyện của bản thân và đồng đội.

Lời từ chối như vậy mạnh hơn cả một lời tuyên bố. Có người đã ví nó như một tiếng sấm làm chấn động dư luận trong và ngoài nước trong những ngày qua. Điều đáng nói là sự kiện này xảy ra một cách ngẫu nhiên giữa lúc Ban Tuyên huấn Trung ương vừa kết thúc Hội nghị đánh giá công tác tuyên huấn còn nhiều "yếu kém" đồng thời quyết định tăng cường với hàng loạt biện pháp, trong đó có việc thành lập đội "Cộng tác viên xã hội" gần 1000 thành viên tham gia phản bác "các thế lực phản động" trên mạng internet!

Nghệ sĩ Kim Chi (bên trái) vừa là chiến sĩ vừa là nghệ sĩ
Thật khó hiểu tại sao Cơ quan tuyên huấn của Đảng lại tỏ ra xơ cứng đến như vây? Sau nhiều phát ngôn nhịu ngộ, sai sự thật của một số cán bộ tuyên huấn và trước làn sóng phản ứng của công luận thì sự từ chối giải thưởng của nữ nghệ sĩ Kim Chi làmột lời cảnh báo về tình trạng yếu kém và sai lầm của quá trình công tác tuyên truyền của Đảng và Nhà nước trong bối cảnh tình hình những năm gần đây. Lời cảnh báo đó phát ra bởi chính một trong những thành viên xuất sắc nhất của đội quân tuyên truyền của Đảng, chứ không phải kẻ địch hoặc ai xa lạ. Phải chăng đã đến lúc để các nhà lãnh đạo đất nước giật mình soi lại bản thân trong gương đồng thời rà soát lại toàn bộ khâu công tác tuyên huấn của Đảng? Lâu nay giới lãnh đạo và cán bộ tuyên huấn bao giờ cũng tự cho mình quyền phán xét đúng, sai và quyết đinh nhân dân cần nghe gì, nói gì. Lãnh đạo cũng ban phát những món quà tinh thần cho cấp dưới. Nhưng  giờ đây họ được nghe một lời nói thật từ cấp đưới. Và đó không phải một lời dẽ nghe như vẫn mong đợi. Đó là điểm mới của tình hình; nó cho thấy, đã đến lúc cần thay đổi một cách cơ bản về phương pháp công tác tuyên huấn, đó là phải lắng nghe quần chúng trước khi đưa ra lời huấn thị đối với họ. Người lãnh đạo cấp càng cao thì càng phải gương mẫu trong mọi hành động và lời nói. Một việc làm đúng đắn có giá trị gấp trăm lần những lời nói suông. Nói một đàng làm một nẻo sẽ làm mất lòng tin của dân chúng không bao giờ lấy lại được. Trong mấy năm gần đây công luận đã chứng kiến nhiều phát ngôn "bất hủ" của một số vị lãnh đạo và cán bộ tuyên giáo các cấp. Những tấm "bia miệng" vẫn còn trơ trơ đó cho thấy chất lượng công tác tuyên huấn bắt nguồn từ cấp cao và ở  đường lối chính sách. Một khi nôi dung đường lối chính sách chưa ổn thì càng tuyên truyền bao nhiêu sẽ càng bộc lộ yếu điểm và càng mất lòng tin từ phía người nghe bấy nhiêu. Hiện tượng nghệ sĩ Kim Chi từ chối phần thưởng là một giọt nước tràn ly của lòng kiên nhẫn mà nhân dân đang chịu đựng.

Không thể phủ nhận vai trò quan trọng của công tác tuyên huấn. Song tuyên truyền gì thì cũng phải tôn trọng sự thật, và phải theo phương châm "do dân vì dân", chứ không thể vì những thế lực vô hình để chống lại nhân dân, đi ngược lại lợi ích của dân tộc. Nhân đây xin nêu lên hiện tượng gần đây thấy xuất hiện khá nhiều nick mới trên Facebook và mạng internet nói chung với những hành tung và lời bình khiến ta nhớ lại thời "Hồng vệ binh" bên Trung Quốc. Phải chăng họ là những "Cộng tác viên xã hội" đang thực thi sứ mệnh đã được giao phó? Liệu họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ hay sẽ chỉ làm rối thêm tình hình và lại một lần nữa chuốc lấy hậu quả theo kiểu "lợi bất cập hại"?
     

Thứ Tư, 9 tháng 1, 2013

Sĩ và Sợ

Sĩ diện và sợ hãi là hai thuộc tính bản năng của con người. Ai sinh ra cũng đều biết sĩ diện và biết sợ hãi; khác nhau chăng chỉ là mức độ và khi con người ta càng lớn lên, chúng có thể diển biến  theo hai hướng trái ngược nhau và thường khi càng sĩ diện thì càng sợ hãi. Cả hai đều đóng vai trò điều tiết cách ứng xử của  con người tùy theo tình huống và trạng thái quan hệ xã hội của chủ nhân.

Ở Việt Nam hai thuộc tính sĩ và sợ có bề dầy lịch sử ngót 5.000 năm rồi đấy, chính xác là từ thời Kinh Dương Vương năm 2.879 trước CN. Nhưng không hiểu sao đã hơn nửa thế kỷ nay sách sử của ta có xu hướng giảm dần số niên đại xuống, gần đây chỉ còn "hơn 2.000 năm" thôi. Phải chăng đó cũng là một dấu hiệu của sự sợ hãi?

Lịch sử dân tộc Việt Nam có rất nhiều tấm gương phản ánh một cách sinh động về hai tính cách sĩ và sợ. Bên cạnh các anh hùng dân tộc từ huyền thoại như Thạch Sanh, Thánh Gióng đến các nhân vật có thật như Bà Triệu, Bà Trưng, Trần Quốc Tuấn, Tôn Thất Thiết, Lý Tự Trọng...bao giờ cũng có những kẻ như Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống,....  Sĩ và sợ không chỉ thể hiện trong chuyện quốc gia đại sự mà trong đời thường. Đó là chuyện anh nông dân nghèo rớt mồng tơi quanh năm  phải ăn cháo, nhưng khi ra ngõ không quên ngậm que tăm như để nói với thiên hạ rằng ta đây ăm cơm thịt!  Lối ứng xử này hình như vẫn còn đến ngày nay khi nhiều người thích ngậm tăm hoặc búng tăm tanh tách khi bước ra cửa hàng ăn. Còn nhớ Hà Nội thời Pháp với những cô gái dù giàu, nghèo khi ra đường nhất định phải khoác bộ cánh áo dài, đầu đội nón lá. Con gái  thời nay ít ra cũng phải có chiếc xe tay ga! Trong giới quan trường đang rộ lên "mốt" chơi bằng cấp, chức danh không khác nào loài chim khoe lông vũ. Nói chung là, cái tính sĩ có sức lan tỏa ghê gớm lắm và trở thành sự hảo huyền, hư danh (hửu danh vô thực) với rất nhiều cung bậc trong mọi tầng lớp xã hội.

Tính sợ cũng không kém phần tinh vi, phức tạp. Con người ta ai cũng có lý do để lo sợ. Sợ vu vơ là sợ ma, sợ bóng tối; sợ cụ thể là sợ kẻ thù, người ngay sợ kẻ gian; kẻ yếu sợ kẻ mạnh, người có chức sợ mất chức; quan dưới sợ quan trên; v.v...Sợ thời đương chức đã dành ,về hưu rồi vẫn sợ. Thậm chí có tướng tá chưa về hưu đã sợ mất sổ hưu(!). Nghĩa là trăm nổi sợ. Và nỗi sợ lấn át cả tính sĩ diện. Trãi qua hàng ngàn năm Bắc thuộc rồi Tây thuộc,  tính sĩ và sợ của người Việt có những đặc thù riêng, thời nào cũng có những kẻ chọn cách sống dựa dẩm vào ngoại bang. Người dân bình thường sợ một kiểu; tầng lớp quan lại sợ một kiểu khác. Phàm kẻ nào có nhiều chức quyền và giàu có hơn thì càng lo sợ hơn.

Có lẽ chỉ những ai không có hai thứ đó mới có xu hướng đề cao tính sĩ diện. Và thuật ngữ "kẻ sĩ" ra đời từ đó. Tuy nhiên khái niệm kẻ sĩ vốn là một khái niệm  mơ hồ. Nó được sử dụng như một tiêu chí để phân loại về nhân cách và tính cách của con người Việt Nam trong bối cảnh một dân tộc bị ngoại bang đô hộ. Bằng khái niệm "kẻ sĩ" họ muốn tự vạch ra một ranh giới giữa cái thiện, sự liêm chính với cái ác độc và sự gian dối. Oái om thay, những kẻ sĩ thường là chẳng có chức tước, quyền hành gì; họ đơn giản chỉ là những người trí thức, đôi khi không xu dích túi. "Sĩ phu Bắc Hà" chính là một trong những loại kẻ sĩ như vậy. Trong bối cảnh xã hội phong kiến thuộcđịa, "kẻ sĩ" tồn tại như một khái niệm đạo đức lỏng lẻo không hề có tính ràng buộc nào. Nếu người Hán có khái niệm "Đại nhân", người Nhật có "Võ sĩ đạo", người Âu châu có "Hiệp sĩ" để chỉ tầng lớp quý tộc và quan lại thì ở Việt Nam không có một tiêu chí như vậy . Phải chăng đây chính là một nhược điểm trong phạm trù đạo lý của người Việt?. Và nó được cố ý duy trì bởi giới thống trị nhằm làm thuận tiện cho các tầng lớp quan lại và nhà giàu tránh trớ trách nhiệm trước bàn dân thiên hạ. Khi cần họ sẵn sàng làm những việc của kẻ hạ tiện mà không sợ bị chỉ trích hoặc cắn rứt lương tâm. Đây là lý do tại sao có rất ít trường hợp từ quan, từ chức trong xã hội Việt Nam xưa cũng như nay. Trong một xã hội mà quyền lực không chỉ là công cụ để "vinh thân phì gia" thì không ai lại chịu từ bỏ quyền lực. Xã hôi đó thật sự không có chỗ đứng cho những "kẻ sĩ" thực thụ, mà là mãnh đất dung dưỡng thói dối trá và đạo đức giả. Ở đó một ông quan có thể tha hồ thi thố mọi thủ đoạn đê tiện để làm giàu, nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả đối với xã hội và cũng không cảm thấy xấu hổ trước bàn dân thiên hạ.  
  
Lạm bàn qua đôi điều như trên chỉ để gợi mở một cách nhìn trước những diễn biến tình hình chính trị-xã hội  đất nước ngày nay. Hiện đang có nhiều ý kiến đổ tại trình độ dân trí còn thấp nên chưa thể có những cải cách lớn lao...Và theo họ, hãy chờ đợi, và trong khi chờ đợi hãy chấp nhận nổi sợ hãi mà quên đi sự sĩ diện cần thiết, bất chấp những ý kiến phản biện đầy tâm huyết của giới trí thức và học giả vốn là nguồn nguyên khí quý báu của quốc gia. Xem ra, dân trí là một chuyện; cách tư duy về đạo lý giữa sự sĩ diện và nổi sợ hãi của người Việt Nam ta như nói trên mới là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến tiến trình cải cách kinh tế-chính trị-xã hội của đất nước./.


Thứ Ba, 8 tháng 1, 2013

Tết cổ truyền nên tổ chức theo dương lịch(*)

(*) Đó là ý kiến của Ông Võ Tòng Xuân -Giáo sư – Tiến sĩ, Nhà giáo Nhân dân -nhà khoa học thuộc lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là ngành trồng lúa. Ông sinh năm 1940 tại Ba Chúc, Tri Tôn, An Giang, nguyên Hiệu trưởng ĐH An Giang. Nhân dịp năm mới Dương lịch vừa đi qua và Tết Âm lịch đang đến gần, Bách Việt muốn đăng lại bài viết của tác giả cách nay 7 năm để tham khảo. Vẫn biết để thay đổi một tập tục có bề dầy hàng ngàn năm hoàn toàn không đơn giản. Nhưng mọi sự thay đổi đều có giá trị của nó-Bách Việt.
 
Giáo sư - Tiến sĩ, Nhà giáo Nhân dân Võ Tòng Xuân là nhà khoa học thuộc lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là ngành trồng lúa. Ông được tặng nhiều giải thưởng cao quý trên thế giới, được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động. Ông có nhiều đóng góp cho trong việc nghiên cứu cây lúa ở ĐBSCLcũng như trong sự nghiệp giáo dục tại vùng này. Ông sinh năm 1940 tại Ba Chúc, Tri Tôn, An Giang, nguyên Hiệu trưởng ĐH An Giang.
GS-TS Võ Tòng Xuân
“Trong khi ta vui Tết âm bên chén tạc chén thù thì những đối tác của ta lại làm việc bình thường, còn trong khi chúng ta vẫn làm việc bình thường ở Tết dương thì ở nước ngoài người ta nghỉ, thị trường chứng khoán đóng băng”.
GS-TS Võ Tòng Xuân chia sẻ quan điểm Tết cổ truyền Việt Nam nên tổ chức theo dương lịch cùng thế giới trong thời đại hội nhập hiện nay. Dưới đây là nguyên văn bài viết của ông.
Ngày 14/02/2005 mục “Chào buổi sáng” của báo chí có đăng bài viết của tôi nhan đề Tết “hội nhập,” tại sao không? Ngay sau đó một làn sóng tranh luận rất sôi nổi đã dấy lên trong mục “Ý kiến bạn đọc” của tờ báo.
Chỉ trong vòng vài ngày mà đã có hơn 200 độc giả góp ý, trong số đó nhóm không đồng tình chiếm hơn 50%. Sự tranh luận này tiếp tục kéo dài cho đến năm nay 2012, qua nhiều diễn đàn. Tôi tải về tổng cộng được 396 trang A4 với cỡ chữ 8,5.
Thật sự tôi rất cảm kích sự quan tâm của độc giả về vấn đề này, vì đó là thể hiện sự tiến bộ của dân tộc Việt Nam chúng ta trong thời đại mới.
Vì ý kiến quá nhiều, tôi không thể đọc hết các chi tiết lập luận, nhưng có thể thấy được số ý kiến ủng hộ ngày càng nhiều hơn trước, nhất là khi các ý kiến ấy mới được nêu vào năm nay 2012, bảy năm sau khi bài báo xuất hiện.
Tuy nhiên tôi cố gắng đọc kỹ những ý kiến không đồng tình để học hỏi thêm lập luận của các bậc tiền bối.
Một điều tôi khám phá rất quan trọng là những lập luận không đồng tình này đã chỉ căn cứ vào cái tít của những thành viên diễn đàn (hoặc của biên tập viên nhà báo) viết cho kêu như “Có nên bỏ ngày Tết cổ truyền ở Việt Nam?”, “Tết Tây hay Tết ta?”, “Bỏ hay không bỏ ngày Tết cổ truyền Việt Nam?”, không đúng theo nội dung trình bày của tôi trong bài Chào Buổi Sáng 14/2/2005.
Vì không đọc kỹ lập luận của tôi mà chỉ căn cứ trên những cái tít giựt gân trên đây nên có một số vị độc giả đã viết những câu chê trách quá nặng lời. Sự hiểu lầm này nhằm vào 2 điểm chính:
1. Bỏ ngày Tết cổ truyền
Tôi không hề viết một ý kiến như vậy bất cứ ở đâu. Đọc lại bài trên mục Chào buổi sáng trên báo chí năm 2005, tôi viết rất rõ: “Đã đến lúc chúng ta định nghĩa lại “bản sắc dân tộc” của sự ăn Tết theo lịch Trung Quốc trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập thế giới.
Dứt khoát chúng ta không nỡ hưởng thụ đến 3-4 tuần lễ Tết dương lịch và âm lịch gộp lại trong khi các nước đang dành thời giờ đua làm giàu.
Và dĩ nhiên chúng ta cũng không muốn để lỡ cơ hội đưa đất nước tiến nhanh đến phồn vinh. Nên thống nhất ăn Tết cùng lúc với các đối tác thương trường của chúng ta, chuyển các tập quán ăn Tết âm lịch sang các ngày dương lịch, và giảm dần ngày nghỉ Tết âm lịch quá lê thê”.
Như thế, thí dụ tục lệ lì xì thay vì xảy ra vào ngày mồng 1 âm lịch thì ta đổi lại là mồng 1 dương lịch, v.v… Có độc giả chuyên chơi hoa đã cho biết là có thể điều khiển cho hoa mai và hoa đào nở vào ngày mồng 1 dương lịch.
Những phong tục tốt đẹp ngày Tết cổ truyền, dù có dược đổi sang dương lịch, vẫn cần phải được gìn giữ và phát huy.

                                                     Những phong tục tốt đẹp ngày Tết cổ truyền, dù có được  đổi sang  dương lịch, vẫn cần phải được gìn giữ và phát huy.

2. Bỏ lỡ cơ hội kinh tế (làm giàu)
Tôi nêu mấy thí dụ cho thấy trong khi ta vui Tết lê thê thì thị trường chứng khoán ở Tokyo, New York, London đang hoạt động; các doanh nghiệp bạn hàng của ta ở ngoại quốc cũng đang hoạt động, chắc chắn ta sẽ bỏ lỡ cơ hội tốt.
Tôi viết: “Ở An Giang, Công ty XNK thủy sản Afiex liên tục nhận fax của khách hàng nước ngoài đặt mua cá filê. Cũng trong mấy ngày Tết ta này tôi vẫn nhận đều đều 30 – 40 bức điện, thư mỗi ngày, trong đó có hai thư phải trả lời ngay để kịp thời hạn.
Một thư về dự án Asia Link (Kết nối Á châu) của Trường Đại học Corvenus ở Budapest, và thư kia của ông Hiệu trưởng Đại học Tufts của Mỹ yêu cầu cho biết ngay tôi có thể tham gia hội nghị quốc tế hiệu trưởng một số trường đại học thảo luận chuyên đề vai trò đại học trong phục vụ xã hội hay không.
Tôi chắc chắn hàng nghìn người chức trách điều hành các ban ngành trung ương và các doanh nghiệp công và tư cũng đã nhận được những điện thư khẩn của các đối tác từ nước ngoài gửi về cần được trả lời ngay trong lúc chúng ta đang “ăn Tết”.
Thực vậy, trong khi chúng ta vui Tết bên dưa hành và bánh chưng, bánh tét, bên chén tạc chén thù đến nhức cả đầu thì những đối tác của ta lại đang làm việc bình thường, và các dịp may trong thương trường quốc tế không thể chờ ta ăn Tết xong, mà chúng sẽ lọt vào tay những ai đáp ứng trước.
Nhớ lại khoảng thời gian từ 24/12 đến 3/1 dương lịch, trong khi chúng ta vẫn làm việc bình thường thì ở nước ngoài người ta nghỉ Tết Tây (kể cả Nhật Bản), thị trường chứng khoán Tokyo, New York, London… đóng băng.
Lúc ấy cho dù ta muốn giao thương với họ vẫn không ai làm việc hoặc gửi thông tin gì cho ta. Như vậy trong thời hội nhập kinh tế thế giới, nếu Việt Nam tiếp tục ăn Tết theo âm lịch thì đương nhiên chúng ta hưởng hai lần nghỉ Tết, tổng cộng ít nhất 3 tuần lễ nghỉ.
Chúng ta biết trên thương trường quốc tế, chỉ hơn thua nhau vài phút là có thể giật lấy hoặc bỏ rơi cơ hội mang về những lợi ích quan trọng. Nếu vì mải mê ăn Tết mà để lỡ cơ hội thì cơ quan sẽ bị thiệt thòi hoặc bỏ lỡ nhiều cơ hội làm giàu.”
Tôi nghĩ rằng nếu tất cả quí vị độc giả có thời gian đọc kỹ bài viết của tôi thì chắc sẽ đồng tình với những lập luận của tôi, như tôi đã cảm nhận khuynh hướng này trong số đông ý kiến mới nhất trong các diễn đàn.
Trong khi các nước đang thi nhau làm giàu, Việt Nam có tiềm năng bắt kịp họ hoặc hơn họ trong tương lai gần nếu bớt ăn nhậu, vui chơi kéo dài, dành thời gian làm việc vào những ngày thế giới làm, nghỉ theo những ngày thế giới nghỉ.
Dĩ nhiên các tập quán cổ truyền lành mạnh của ta chúng ta vẫn giữ và sẽ cử hành vào ngày dương lịch như thế giới đang làm. Chúng ta nên cương quyết đổi mới, không ăn tết 2-3 thậm chí 4 tuần theo âm lịch nữa mà chỉ nên ăn tết 4 ngày theo dương dương lịch là đủ.
Thay đổi tập quán rất khó, nhưng trong tập quán Tết Việt Nam chúng ta thay đổi không khó vì chúng ta vẫn cử hành các tập quán đó, nhưng trong ngày dương lịch. Có quyết tâm đổi mới “Ăn Tết Ta theo ngày dương lịch,” đất nước Việt Nam sẽ có những điều lợi sau đây:
1- Vừa giữ được các tập quán Tết cổ truyền, vừa ít bỏ lỡ cơ hội nắm bắt đối tác kinh doanh, giao thương với nước ngoài.
2- Ít mất thời giờ của nông dân (đại bộ phận người dân) dành chăm sóc lúa đông-xuân, vụ lúa tiềm năng cao nhất trong năm.
3- Học sinh và sinh viên có thời khóa biểu học tập và thi học kỳ một cách hợp lý, không gượng ép nghỉ theo âm lịch, do đó không phí thời gian học hành.
4- Giám tối thiểu tình trạng dân chúng nhậu nhẹt, bài bạc dưới nhiều hình thức, rất tốn kém tiền của và thời gian học tập, tổn hại sức khỏe và tính mạng trong giao thông.
5- Chấm dứt lãng phí nhiều ngày làm việc mà mình nghỉ, trong khi quốc tế làm việc.
Theo VTC News

--------------

Thứ Năm, 3 tháng 1, 2013

Tình người trên đất miến (*)

(*) Đây là bài viết của tác gitên Dương Đình Giao và là nạn nhân "người thật việc thật" gửi đến Blog Bách Việt; sau khi kiểm chứng thông tin, xin đăng lên để bạn đọc tiện tham khảo. Với hai tiểu mục "Thoát nạn xứ người","Gặp hạn xứ mình" bài viết đã nói lên nghịch cảnh của bn thân tác giả và gia đình mình vừa thoát khỏi một tai nạn máy bay ngày 25-12-2012 tại Miến Điện. Câu chuyện càng chua chát khi so sánh cung cách làm việc của quan chức Việt Nam với nước bạn láng giềng Myanma mới đây còn bị thế giới coi là độc tài, lạc hậu. Hy vọng đây là một bài học sinh động về tình trạng quan liêu, tc tách của ngành hành chính công nói chung và của các Cơ quan đại diện ở nước ngoài nói riêng của Việt Nam. Xin cảm ơn  tác givà bạn đọc quan tâm (Bách Việt). 

Thoát nạn ở xứ người

Chiếc máy bay vẫn bốc cháy nhiều giờ liền sau vụ tai nạn.Thêm chú thích
Ngày thứ 2 của hành trình, hôm 25-12-2012, máy bay của hãng hàng không Air Bagan đưa chúng tôi từ Yangon đi Heho, nơi có hồ Inle nổi tiếng. Theo lịch trình, chuyến bay sẽ đến Heho lúc 9 giờ sau khi dừng lại ở sân bay Mandalay để đón và trả khách trong khoảng 30 phút.

Khi máy bay hạ độ cao chuẩn bị xuống sân bay Heho, tôi nhìn đồng hồ, lúc ấy là 8 giờ 55 phút. Một lát sau, tôi cảm thấy một cú tiếp đất mạnh hơn bình thường khi máy bay hạ cánh. Ngay sau đó là những rung lắc liên tục trong vòng khoảng 10 giây. Đang bất ngờ vì không hiểu chuyện gì đã xảy ra, tôi nghe một tiếng kêu ở phía sau. Biết là đã có chuyện, tôi nhắc mọi người bình tĩnh và đứng lên bật nắp khoang hành lý để lấy ba lô của mình. Nhưng nắp vừa bật, tôi bị đẩy ngã nhào về phía trước. Đứng lên, quay lại nhìn phía sau, tôi thấy các thành viên trong gia đình mình đã rời khỏi ghế và ra được lối đi. Bước lên mấy bước, tôi chợt ngửi thấy mùi khói. Một ý nghĩ thoáng qua: “Chỉ cần một tiếng nổ là tất cả sẽ chấm hết!”

Xuống khỏi thang máy bay, tôi mới thấy máy bay đã không hạ cánh trên đường băng bê tông mà đang nằm trên một cánh đồng, phía đuôi máy bay đang bốc cháy, khói nghi ngút. May mắn bất ngờ, tất cả chúng tôi (6 người trong gia đình và hai mẹ con bà thông gia người Úc) đều an toàn. Tôi vội giục mọi người nhanh chóng chạy ra xa.
Trên chuyến bay có 65 người, kể cả phi hành đoàn, trong đó ngoài 5 người Việt Nam trong gia đình tôi, còn lại đều là khách du lịch từ các nước Mỹ, Pháp, Hà Lan, Hàn Quốc, …
Nơi máy bay hạ cánh khẩn cấp cách sân bay khoảng 3 km và cách đường ô tô khoảng 200 m. Khi ra tới nơi, mấy xe cứu hỏa đã có mặt đang tìm cách tiếp cận với đám cháy. Nhưng vì không có lối vào, phải nối dài vòi rồng nên việc cứu chữa không thật kết quả. Trên đường, chúng tôi đã thấy nhiều biển tên khách của các công ty du lịch, khách sạn mà khách du lịch trên chuyến bay đã đặt chỗ. Họ nhanh chóng tiếp cận với khách của mình. Sự có mặt của họ dù là những người chưa quen biết cũng khiến chúng tôi yên tâm hơn, vì đã có người sẵn sàng hỗ trợ khi khó khăn nơi đất khách quê người. Nhiều xe máy, ô tô đã dừng lại chứng kiến đám cháy trong đó có cả nhiều người dân Myanmar đang làm việc trên cánh đồng. Lúc này dù đã hơn 9 giờ, nhưng mặt trời chưa kịp xua tan sương mù. Trời khá lạnh. Thật cảm động, khi thấy những người nông dân lam lũ, cởi những chiếc khăn choàng khoác lên vai, trùm lên đầu những đứa trẻ, bỏ những đôi dép mình đang đi cho những phụ nữ phương Tây xa lạ đang chịu cảnh rét mướt.
Trên đường thoát hiểm, nhiều túi, xắc, mũ, ba lô,… bị rơi được mọi người tập hợp bên lề đường, để người thất lạc đến nhận. Rất nhiều người dân Myanmar có mặt, nhưng không hề thấy ai để ý đến.
Một lát sau, hai xe khách loại lớn đưa tất cả về sân bay Heho. Khi xe dừng lại bên ngôi chùa gần sân bay, tôi nghĩ người dân Myanmar sùng đạo Phật đã đưa chúng tôi đến đây để tạ ơn Trời Phật giúp thoát nạn. Nhưng không phải! Air Bagan đã nhanh chóng liên hệ với chính quyền sở tại mượn ngôi chùa làm nơi để chúng tôi tạm nghỉ, tránh cái lạnh giá ngoài trời.

Xuống xe, chúng tôi lại thấy những người dân bình thường đang mang đệm, chăn của gia đình mình trải trên nền chùa bằng gạch men. Khi mọi người đã vào hết trong chùa, các nhân viên y tế đã có mặt. Họ thăm khám, đo huyết áp, băng bó cho những người bị thương nhẹ. (những người bị thương nặng đã ngay lập tức được đưa về Yangoon, có hai khách người Mỹ bị bỏng nặng đã được đưa sang Bangkok bằng trực thăng). Nước uống, bánh trái đã được mang đến.
Lúc 10 giờ, tức là sau khi sự cố xảy ra 1 giờ, ông chủ tịch huyện sở tại cũng đã đến thăm hỏi những người gặp nạn. Lúc này cảnh kẻ nằm người ngồi trong chùa vô cùng lộn xộn. Việc kiểm đếm những hành khách có mặt thật khó khăn. Những người có trách nhiệm có lẽ vì tôn trọng đã không yêu cầu chúng tôi ngồi cho ngay hàng thẳng lối. Họ cứ đếm đi đếm lại, người đếm bằng tiếng Myanmar, người đếm bằng tiếng Anh. Có lúc thấy ba bốn người cùng đếm. Sau tôi mới hiểu, họ cần nhanh chóng xác định số người có mặt ở đây để có thể phát hiện số người mất tích nếu có.
Phải đến khi có danh sách hành khách từ sân bay Yangoon và Mandalay gửi tới, việc kiểm đếm mới chấm dứt. Lúc này công việc đơn giản hơn. Những người có mặt được đánh dấu vào danh sách. Nhưng việc này cũng được thực hiện tới ba bốn lần bởi những người khác nhau, chứng tỏ họ rất thận trọng.
Đến 11 giờ, chúng tôi được đưa tới phòng khách của sân bay. Ở đây có bia, nước ngọt và những thức ăn nhẹ. Họ thông báo cho chúng tôi biết, ai muốn trở về Yangoon sẽ được bố trí một chuyến bay riêng, còn những ai muốn ở lại sẽ được đưa tới một resort bên hồ Inle chờ đợi giải quyết hậu quả. Gia đình chúng tôi quyết định ở lại và được đưa tới resort bằng hai xe con. Ở đây, chúng tôi đã được đón tiếp chu đáo, hai hoặc ba người được bố trí ở trong một biệt thự.


Xe cứu hỏa đến rất nhanh
Sau khi tạm nghỉ ngơi, đến 3 giờ, chúng tôi được báo đi ăn cơm. Ai cũng nghĩ chắc sẽ được một bát mì hoặc cái gì đại loại như thế, nhưng thật bất ngờ, tất cả được mời một bữa tiệc buýp-phê thịnh soạn, trên bàn ăn còn có cả hoa và thắp nến. Người quản lý giải thích “vì hôm nay là Noel!” Sau khi ăn xong, mỗi người chúng tôi được phát quần áo và một số tiền (tiền Myanmar và đôla) đủ để mua sắm lại những hành lý đã mất và tiếp tục hành trình nếu muốn. Ai cũng bất ngờ trước sự khẩn trương của Air Bagan.
Bảy giờ tối, mọi người lại được mời ăn cơm. Lại tiệc buýp-phê, hoa và nến, có thêm rượu champagne, rượu vang. Ông chủ tịch Tập đoàn HTOO (mà Air Bagan là một trong nhiều công ty con) đã từ Yangoon vượt gần một nghìn cây số tới thăm hỏi những người gặp nạn. Sáng hôm sau, chúng tôi lại được nhận thêm một số quần áo và tiền (chắc do lệnh của ông Chủ tịch tập đoàn).
Air Bagan đã vô cùng chu đáo và có trách nhiệm giải quyết hậu quả của vụ tai nạn. Trong suốt thời gian ở lại (5 ngày), ở Heho hay khi đã trở về Yangoon, tất cả hành khách trên chuyến bay đều được ăn ở tại những nơi tương đương khách sạn 5 sao, được hưởng các dịch vụ như giặt là, điện thoại quốc tế, … hoàn toàn miễn phí. Tôi vốn mơ ước một cuộc sống bình dị, rất sợ tất cả những gì là hào nhoáng, bóng bảy, nay trong hoàn cảnh không một xu dính túi, trên người chỉ độc một bộ quần áo (hành lý và xách tay đều đã cháy cùng máy bay, ngay cái máy ảnh đeo trên cổ cũng chỉ còn sợi dây đeo, kính cận thị cũng rơi mất), lại được ăn ở như thế này thật cũng là một bất ngờ thú vị. Chúng tôi không phải bước chân ra khỏi khách sạn, mọi công việc cần thiết đều do nhân viên của họ giải quyết. Ngay việc làm giấy thông hành để sử dụng khi còn trên đất Myanmar cũng được thực hiện ngay tại nơi ở. Theo họ, chỉ hai việc chúng tôi phải có mặt: đi kiểm tra sức khỏe và làm lại hộ chiếu. Nhưng với hai việc này, họ đều cho xe đưa đón và cử nhân viên đi theo hỗ trợ khi cần thiết. Họ đã hợp đồng với bệnh viện tốt nhất Yangoon để Giám đốc bệnh viện có mặt bất cứ lúc nào chỉ đạo việc thăm khám và chữa trị khi có khách do họ đưa đến.
Những nhân viên đi theo cũng ngồi đó chờ đợi và đưa khách về tận nơi ở sau khi việc thăm khám kết thúc. Vợ tôi và bà thông gia người Úc sau khi gặp chấn động mạnh bị đau lưng. Hai bà đã được thăm khám suốt hơn 3 giờ, mỗi người được làm đủ các loại xét nghiệm, chụp 4 tấm phim cỡ 50 x 50. Khi thấy không có vấn đề gì trầm trọng, họ đã cho mỗi người một cái đai bó lưng và thuốc giảm đau các loại. Bà xã nhà tôi đã nhận xét: Cả đời gần 70 tuổi, chưa bao giờ được thăm khám kỹ càng như thế!
Sau khi về Yangoon, Air Bagan đã tập hợp mọi người để thông báo về việc giải quyết bảo hiểm cho hành khách đi trên chuyến bay. Cuộc họp này cũng được thông báo cho các sứ quán có công dân trên chiếc máy bay gặp nạn. Sứ quán các nước đều có mặt đầy đủ để sẵn sàng can thiệp nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân nước mình, trừ sứ quán Úc (vì đang đóng cửa nghỉ Noel và Tết dương lịch) và sứ quán Việt Nam (không rõ lý do). Nhưng sứ quán các nước cũng không có nhiều việc phải làm, vì Air Bagan đã giải quyết vụ việc với đầy đủ tinh thần trách nhiệm. Địa chỉ và số tài khoản của hành khách được ghi lại để nhận kết quả sau khi một công ty bảo hiểm của Anh tiến hành bồi thường.
Không chỉ những người có trách nhiệm, suốt 5 ngày, dù ở đâu, chúng tôi cũng đón nhận được sự ân cần chu đáo của mọi nhân viên Air Bagan và nhân viên tại các khách sạn, resort dù tuổi đời còn rất trẻ. Họ dìu những người bị đau khi lên xuống các bậc thềm, đưa chúng tôi đến tận nơi, mở cửa, bật đèn rồi giơ tay mời vào khi hỏi đến nơi nào đó. Thấy trên tay ai có mấy túi nilon, vỏ hoa quả, họ đều nhanh chóng giơ tay đón lấy mặc dù thùng rác ở ngay trước mặt. Những cử chỉ ấy tôi hiểu không chỉ vì phương châm coi “khách hàng là Thượng đế”. Qua ánh mắt, nụ cười của họ, chúng tôi cảm nhận được sự đồng cảm, sẻ chia của những con người giàu lòng trắc ẩn.
Khi vào một làng dệt lụa thủ công trên hồ Inle, khi được biết chúng tôi là những người vừa gặp nạn, chủ cửa hàng lập tức hạ giá 30% cho toàn bộ sản phẩm mà chúng tôi mua. Số tiền thực ra không nhiều nhưng cử chỉ ấy của họ cũng khiến chúng tôi phải xúc động.
Sau 5 ngày, mọi thủ tục đã xong. Air Bagan lại cho xe đưa gia đình tôi ra sân bay. Ở đây, nhân viên của họ làm tất cả mọi thủ tục cho chuyến bay và chỉ ra về sau khi chúng tôi tạm biệt để vào phòng cách ly.
Từ Myanmar trở về, tôi cứ bâng khuâng và ân hận, vì sao một đất nước chẳng cách xa chúng ta là mấy, một xứ sở có những người dân giàu lòng nhân hậu, vị tha như thế mà tôi chưa hiểu biết được bao nhiêu?
Trong cuộc đời chưa bao giờ gặp một tai họa lớn và lại thoát hiểm “ngoạn mục” như vậy, chúng tôi biết ơn Ông Bà, Cha Mẹ đã ăn ở hiền lành, tu nhân tích đức dù trong biết bao vất vả thiếu thốn để con cháu bây giờ được hưởng phúc. Tôi xin cám ơn những người dân Myanmar đã giang vòng tay che chở khi gia đình tôi gặp nạn. Tôi cám ơn Air Bagan, đã cư xử đàng hoàng, đầy trách nhiệm trước sự cố chắc chắn họ không hề mong muốn. Và tôi thầm nghĩ, chuyến đi hôm nay của chúng tôi dang dở, nhưng nhất định sẽ có chuyến đi khác. Một đất nước với những con người như thế xứng đáng để chúng ta khám phá.

Gặp “hạn” với xứ mình

Tôi có một người bạn, do có hoàn cảnh nhiều thuận lợi (chú bác cô dì, anh em con cháu ở nhiều nước trên thế giới) nên anh đã đi khắp nơi trên cả các châu lục Âu, Á, Mỹ, Phi, Úc (chỉ còn thiếu châu Nam Cực). Một hôm, ngồi uống bia, anh dứ dứ ngón tay, bảo tôi: “Ông mà đi ra nước ngoài thì liệu mà giữ lấy cái hộ chiếu. Ông nên nhớ rằng, ông mất tiền bạc, người ta có thể cho ông, nhờ các tổ chức nhân đạo giúp ông. Nhưng nếu mất hộ chiếu thì, … thì,… chỉ có mà bỏ mẹ!”
Tôi nghe “lời răn dạy” mà thoáng có chút ngờ vực.
Vì thế, trong vụ tai nạn máy bay ở Myanmar, khi phát hiện bị mất hộ chiếu (mà lại tận 3 quyển của ba người), tôi thật sự lo lắng.
Tòa Sứ quán VN tại Myanma
Biết chúng tôi là người Việt Nam, ông quản lý khách sạn nơi tôi đang ở cho tôi số điện thoại của một người mà theo ông là nhân viên sứ quán Việt Nam ở Yangoon. Nhưng chủ nhân của số điện thoại này nói đúng là mình làm việc ở sứ quán nhưng không làm công việc về lãnh sự. Ông đã cho chúng tôi số điện thoại của ông Trần Văn Hoằng, Bí thư thứ nhất, phụ trách công việc này. Liên hệ với ông Hoằng, chúng tôi được ông trả lời, khi nào về Yangoon thì đến sứ quán và “không có gì khó khăn cả, giấy tờ sẽ được cấp ngay thôi”. Nghe lời ông Hoằng mà chúng tôi nhẹ cả người. Anh bạn tôi đã quá bi quan khi nói đến chuyện mất hộ chiếu.
Buổi trưa về tới Yangoon, chúng tôi đã điện thoại cho ông Hoằng và được ông hẹn đến vào buổi chiều.
Chiều hôm đó, tất cả những người cần cấp lại hộ chiếu trong gia đình tôi đã có mặt tại sứ quán Việt Nam ở Myanmar. Cùng đi có một nhân viên của Air Bagan. Vừa bước vào cổng, chúng tôi đã thấy một tấm baner kín bức tường lớn: Nhiệt liệt chào mừng quý khách tới thăm sứ quán Việt Nam ở Myanmar. Thật là thân thiện và mến khách! Nhưng chúng tôi đã lầm, vì chúng tôi không phải đến thăm mà đến xin sự giúp đỡ.
Sứ quán Việt Nam thật khéo chọn người! Bà lễ tân người Myanmar thấy năm sáu người bước vào phòng khách nhưng vẫn mải mê với chiếc điện thoại. Nghe cách nói cười bả lả, chắc đây không phải là chuyện công vụ. Sau khoảng 10 phút, bà mới đặt điện thoại và đến lúc này, nhân viên của Air Bagan mới có thể nói mục đích chuyến viếng thăm của chúng tôi. Bà gọi điện thoại đi đâu đó, rồi bảo chúng tôi ngồi chờ. Chờ tới 30 phút, không thấy ai ra tiếp, chúng tôi lại điện thoại báo để ông Hoằng biết chúng tôi đã ngồi chờ ngoài văn phòng của sứ quán. Ông Hoằng lại bảo chờ. Lại 30 phút nữa, mới thấy ông Hoằng xuất hiện. Chắc để tiết kiệm thời gian vì “công việc bề bộn” của sứ quán, nhà ngoại giao bỏ qua việc thăm hỏi, an ủi, động viên những đồng bào của mình vừa thoát chết, đưa cho chúng tôi mỗi người 3 mẫu in sẵn tờ giấy khổ A4, yêu cầu chúng tôi khai báo, đồng thời đòi nộp 3 tấm ảnh. Việc này khiến chúng tôi bất ngờ, vì nhà chức trách Myanmar chỉ chuẩn bị cho chúng tôi mỗi người một tấm ảnh để làm việc này. Nhưng ông Hoằng không giải thích gì thêm và quay vào trong với những “công việc bận rộn” của mình.
Rất may, anh nhân viên của Air Bagan đi theo bảo chúng tôi cứ khai giấy tờ, còn anh ta cùng lái xe đi làm thêm ảnh giúp chúng tôi. Đến khi có thêm mỗi người hai tấm ảnh, vẫn chẳng thấy ai có mặt. Mặc dù chưa hết giờ làm việc nhưng nhân viên lễ tân người Myanmar cũng chẳng thấy đâu. Gần 5 giờ, ông Hoằng mới xuất hiện và hẹn chúng tôi 3 giờ chiều hôm sau gọi điện đến để biết kết quả. Khi chúng tôi thắc mắc sao không được kết quả ngay, ông Hoằng giải thích, còn phải chờ thẩm tra ở trong nước (chắc vì sợ “thế lực thù địch” luồn về trong nước để phá hoại công cuộc xây dựng CNXH?). Nếu xong thì mai có giấy, còn nếu không xong thì phải chờ đến tuần sau (vì ngày mai đã là thứ 6, thứ 7 và chủ nhật sứ quán không làm việc). Chúng tôi trở vể với bao thất vọng.
Đêm ấy, tôi không ngủ được. Sao có thể yên tâm chờ đợi đến tuần sau trong khi người thì chấn thương, người thì có bệnh mãn tính mà các loại biệt dược mang theo đã mất hết. Tôi buộc phải nhờ đến sự giúp đỡ của ông Nguyễn Vũ Tú, Đại sứ Việt Nam tại Philippin. Có lẽ do sự tác động này, đến 3giờ chiều, điện thoại đến sứ quán, chúng tôi được ông Hoằng trả lời: đã có giấy tờ và hẹn 4 giờ rưỡi đến lấy. Chúng tôi lại thở phào nhẹ nhõm.
Đúng hẹn, 4 giờ rưỡi, chúng tôi có mặt ở sứ quán. Lại được bảo ngồi đợi. Thời gian cứ trôi, nhưng không thấy ai ra tiếp. Đến 5 giờ kém 10 phút, một kết quả không mấy tốt đẹp đã hiện ra trước mắt: 5 giờ, ông Hoằng sẽ xuất hiện mang theo 3 giấy thông hành, nhưng chúng tôi không thể nhận vì nhân viên thu tiền lệ phí đã ra về vì hết giờ làm việc. Sự cố gắng giúp đỡ của ông Nguyễn Vũ Tú có thể không có tác dụng. Lúc này, tôi lại nhớ tới lời “đe dọa” của anh bạn và cảm thấy anh ấy chưa nói hết sự nguy hiểm khi mất hộ chiếu. Tôi cảm thấy việc mất hộ chiếu còn đẩy tôi vào tình cảnh “trên cả bỏ mẹ”.
5 giờ kém 5, tôi quyết định phải hành động gấp nếu không muốn nằm chờ thêm mấy ngày nữa. Tôi kín đáo lên tầng 2 của văn phòng sứ quán tìm đến phòng làm việc của đại sứ Chu Công Phùng cầu cứu. Rất may, cửa phòng làm việc mở, ông Phùng đang ngồi viết, tôi “liều mạng” bước vào tự giới thiệu. Ông Phùng vồn vã đứng dậy bắt tay và mời tôi ngồi. Tôi vội cám ơn hết lòng vì sự giúp đỡ của ông Phùng. Sau khi biết tôi đang ở khách sạn do sự sắp xếp của Air Bagan, ông Phùng bảo tôi:“Chúc mừng bác và gia đình đã may mắn thoát khỏi hiểm nghèo. Thế bác đã nhận được đầy đủ giấy tờ rồi chứ?” Ông Phùng vô cùng ngạc nhiên khi tôi nói cho đến nay tôi chưa nhìn thấy những giấy tờ này như thế nào. Ông Phùng vội đưa tôi sang phòng làm việc bên cạnh của ông Trần Văn Hoằng – Bí thư thứ nhất phụ trách công tác lãnh sự.
Cửa mở, tôi thấy ông Hoằng tay đang di chuột máy vi tính, trên mặt bàn có mấy tấm phôi giấy thông hành. Sau khi nghe ông Phùng hỏi: “Giấy tờ của bác Giao đã làm xong rồi chứ?” Ông Hoằng vội rời máy vi tính và trả lời: “Xong bây giờ đây”! Lúc này là đúng 5 giờ. Lúc đó ông Hoằng mới viết tên, dán ảnh vào những tờ giấy thông hành chuẩn bị cấp cho chúng tôi. Ông Phùng vội xin lỗi vì đang dở việc gấp và nói tôi ngồi chờ. Khoảng 15 phút sau ông Phùng quay lại, gọi người pha nước và hỏi thăm về hoàn cảnh xảy ra tai nạn, về việc được bảo hiểm đền bù. Tôi cám ơn và trả lời ông Phùng: “Hôm qua, khi họp bàn về vấn đề bảo hiểm, Air Bagan đã mời sứ quán các nước có công dân trên máy bay gặp nạn đến dự. Các sứ quán đều đã cử người đến để sẵn sàng bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho công dân nước họ nhưng sứ quán Việt Nam không có mặt.” Tôi cũng không quên nói để ông Phùng yên tâm, mặc dù thế chúng tôi đã được “ăn theo” công dân của các nước “Tư bản giãy chết” nên vấn đề bảo hiểm không có gì khó khăn.
Khi ông Hoằng viết xong mấy giấy thông hành liền bảo tôi sang nộp lệ phí. Ông Phùng chính là người đã dẫn tôi đến nơi làm việc của bộ phận hành chính (có lẽ ông Phùng đã yêu cầu họ ở lại dù thời gian làm việc đã hết từ lâu). Nhân đây, một lần nữa, gia đình chúng tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến ông Chu Công Phùng – Đại sứ Việt Nam ở Myanmar. Tôi nộp lệ phí và nhận giấy thông hành. Nhân viên của Air Bagan vẫn chờ tôi ở tầng dưới. Lúc ấy đã là 6 giờ 30 phút.
Nhờ ba giấy thông hành này chúng tôi mới có thể trở về nước vào ngày Chủ nhật 30/12/2012.
Để các bạn hiểu thêm niềm sung sướng của một người dân trong một đất nước có độc lập tự do mà chúng ta vẫn đang tự hào, tôi xin kể hai câu chuyện xảy ra trong chuyến đi này:
- Câu chuyện thứ nhất: Bà thông gia người Úc của tôi cùng với cô con gái cũng bị mất hộ chiếu. Bà không may mắn như tôi vì sứ quán Úc đang đóng cửa nghỉ lễ. Nhưng chỉ một cuộc điện thoại vào đường dây nóng của Bộ Ngoại giao Úc, bà đã kéo được người phụ trách lãnh sự trở về nhiệm sở và nhận được hộ chiếu sau 2 giờ đồng hồ (Hộ chiếu chứ không phải giấy thông hành).
- Câu chuyện thứ hai: Từ khi đi cùng chúng tôi tới sứ quán Việt Nam để nhận giấy thông hành, nhân viên của Air Bagan đã qua điện thoại giữ liên lạc với cơ quan xuất nhập cảnh của Myanmar và yêu cầu họ ở lại sau giờ làm việc chờ giấy thông hành của chúng tôi đóng dấu xác nhận đã nhập cảnh (có như vậy khi ra sân bay chúng tôi mới có thể làm thủ tục xuất cảnh). Sau khi nhận được giấy thông hành lúc 6 giờ 30 phút nhân viên của Air Bagan đã đến cơ quan XNC làm thủ tục (chúng tôi ngồi chờ trên ô tô, không cần có mặt). Nhưng rất tiếc người nhân viên này quên không mang theo ảnh của chúng tôi. Anh ta trở về báo với chúng tôi 9 giờ sáng hôm sau cần có mặt tại khách sạn để cơ quan XNC Myanmar cho người đến chụp ảnh và họ sẽ trả lại giấy tờ sau khi hoàn tất.
Vì sao ông Hoằng đã hành xử như vậy với chúng tôi – những người đồng bào của ông đang gặp hoạn nạn ở nơi đất khách quê người? Điều ấy chỉ có Trời biết, Đất biết và ông Hoằng biết.
Dương Đình Giao
1200 đường Láng, Hà Nội.
ĐT 0983 240446.


Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012

Lẫn lộn bạn/thù, tù mù chiến lược


Như thường lệ trong những ngày tháng 12 này cả nước lại tái hiện không khí thời chiến tranh chống Mĩ. Âu đó cũng là lẽ bình thường, quên sao được tội ác giặc ngoại xâm! Nhưng điều không bình thường là có một cuộc xâm lược khác không được nhắc đến, đó là những cuộc chiến lớn nhỏ do Trung Quốc gây ra từ biên giới Tây Nam lên biên giới phía Bắc và ngoài Biển Đông kể từ sau khi "Mĩ cút, ngụy nhào" đến nay vẫn chưa dứt. Người Việt Nam bình thường ai cũng nhận thấy điều vô lý này. Song điều không bình thường là ai cũng im lặng hoặc nếu có ai thắc mắc, sẽ được trả lời rằng đó là sách lược mềm dẻo, khôn khéo của ta! 
 
Dòng chữ trên một bia tưởng niệm chiến tranh biên giới bị đục bỏ
Vậy ra, đối với người Việt Nam, có hai loại chiến tranh xâm lược(?). Chiến tranh do Pháp, Mĩ gây ra thì phải ghi xương khắc cốt và tuyên truyền lên án công khai. Nhưng chiến tranh do người Trung Quốc gây ra thì phải cố mà quên đi, thậm chí  mấy cái  bia tưởng niệm trót dựng lên  ở Lạng Sơn cũng phải đục bỏ phi tang (ảnh bên); nếu thấy tàu Trung Quốc xâm lấn biển đảo, ức hiếp dân chài ta thì gọi là "tàu lạ", nó càng ức hiếp, ta càng bày tỏ lòng biết ơn "bạn" ở cấp cao hơn... Chỉ khổ thân những người lính đã ngã xuống trong các cuộc chiến tranh chống quân bành trướng chưa được chính thức vinh danh như các đồng đội chống Pháp chống Mĩ của họ. 
 
Nếu nói rằng đó là sách lược mềm mỏng, khôn khéo thì thật trớ trêu!  Vẫn biết, vì nhiều lý do, Việt Nam không nên chủ trương đối đầu với Trung Quốc, và sách lược mền dẻo, khôn khéo là rất cần thiết. Vẫn biết phải ưu tiên duy trì hòa bình, nhất là với một đất nước đã mất quá nhiều thời gian cho chiến tranh như Việt Nam. Nhưng độc lập và chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia phải là mục tiêu cao nhất và không thể nhân nhượng. Tuy nhiên, nhìn vào kết quả của quá trình vận dụng sách lược trong quan hệ Việt-Trung đến nay thấy trái ngược với mong đợi. Đó là lãnh thổ bị gậm nhấm, chủ quyền biển đảo bị xâm chiếm gần hết trong khi quan hệ hai nước vẫn luôn trong trạng thái căng thẳng, nguy cơ chiến tranh nóng có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Vì sao vậy?

Để trả lời câu hỏi trên, trước hết hãy suy ngẫm về điều này: Tại sao Việt Nam phải đánh nhau liên tục với các "đế quốc to", hết họa đế quốc lại rước họa láng giềng bành trướng ? Có một cách giải thích đã trở thành cửa miệng của người Việt Nam: Vì nước ta giàu đẹp, và vì nước ta nằm ở vị trí địa chính trị quan trong..., nên thường xuyên bị các cường quốc tranh giành hoặc lợi dụng!. Cách giải thích này không sai, nhưng chỉ đúng một phần. Về lý do giàu đẹp, đến nay chính người Việt Nam khi có dịp tiếp xúc với thế giới và biết người biết ta hơn đã  không còn tin như vây. Về lý do bị tranh giành, lợi dụng, thì trước hết hãy xem lại sách lược bạn/thù của ta có gì chưa ổn (?) Phải chăng lý do chính là ở chỗ, người Việt Nam  tự vận vào mình một vai trò đáng ra không nên có, đó là đứng trên tuyến đầu chống chủ nghĩa đế quốc, đồng thời quá trung thành với ông bạn láng giềng cùng ý thức hệ cộng sản?  Hãy xem người Thái Lan, Ấn Độ, Indonesia,  Mã Lai và nhiều dân tộc khác có cùng cảnh ngộ trong khu vực đã không làm như vậy, và họ đã sớm có hòa bình để phát triển vượt xa Việt Nam vốn từ một mặt bằng như nhau sau Thế chiến thứ Hai.  Phải chăng nếu Việt Nam cũng có cách tiếp cận thực tế như các nước láng giềng thì chắn chắn đã có thể phát huy vị thế địa chiến lược một cách có lợi hơn cho mình?. Có thể có ý kiến rằng Việt Nam có đặc thù khác với các nước khu vực, đó là quá khứ Bắc thuộc. Nhưng trong cái rủi đã có cái may, đó là 100 năm Pháp thuộc ít nhiều đã có tác dụng đưa Việt Nam ra khỏi địa vị phiên thuộc của Vương Triều. Nền độc lập giành được sau Cách mạng tháng 8 năm1945 là một cơ hội lớn để vĩnh viễn thoát khỏi vị thế phiên thuộc đó. Nhưng cơ hội đó đã không được tận dụng, và Việt Nam một lần nữa lại rơi vào quỹ đạo Bắc thuộc dưới những chiêu bài mới . 

Đây là một câu chuyện dài mà chỉ lịch sử mới có quyền phán xét. Tuy nhiên, có điều chắc chắn là, không phải giới lãnh đạo Việt Nam không nhận ra điều này, có lẽ rõ nhất là thời kỳ sau giải phóng miền Nam và đã được đúc kết bằng phương châm " Việt Nam sẵn sàng  làm bạn với tất cả" từ Đại hội Đảng lần thứ VI. Song, đáng tiếc là phương châm đó đã không được thực hiện đầy đủ trong suốt quá trình về sau, thậm chí có những thời kỳ đi "chệch hướng". Nguyên nhân chính là do ý thức hệ "vừa là đồng chí vừa là anh em" đã khiến một bộ phận giới lãnh đạo thiếu kiên định với phương châm và mục tiêu đã đề ra. Sự kiện sai lầm mang tính quyết định là thỏa hiệp Thành Đô năm 1990. Từ đó đến nay Việt Nam chưa bao giờ lấy lại được thế cân bằng cần thiết, miệng nói "sẵn sàng làm bạn với tất cả", nhưng thực tế lại nghiêng về phía ông bạn láng giềng. Mặc dù nhiều phen bị ông bạn xâm hại vẫn cam chịu. Quan hệ với Mĩ và ASEAN không được thực sự coi trọng đúng mức. Chơi với họ nhưng luôn dè dặt, nghi ng. Điều này được thể hiện khá rõ trong những phát ngôn của nhiều nhân vật lãnh đạo chính trị, quân sự và  học thuật trong thời gian gần đây. Mới đây có một vị Đại tá, Phó Giáo sư tên là Trần Đăng Thanh khi lên lớp trước hàng trăm cán bộ lãnh đạo các trường đại học tại Hà Nội đã đưa ra cách nhận định, đánh giá về bạn/thù thật rối rắm như sau:
“… Các đồng chí nhớ người Mĩ ... nếu có tốt chỗ này, có ca ngợi chúng ta chỗ kia, có ủng hộ chúng ta về Biển Đông chẳng qua vì lợi ích của họ. Họ đang thực hiện “thả con săn sắt, bắt con cá rô”. Họ chưa bao giờ tốt thật sự với chúng ta, tội ác của họ trời không dung, đất không tha.” 
“...Đối với Trung Quốc hai điều không được quên”:“ họ đã từng xâm lược chúng ta nhưng ta cũng không được quên họ đã từng nhường cơm xẻ áo cho chúng ta. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa” .
Suốt mấy ngày qua dân mạng phê phán, thậm chí chửi bới ông này dữ quá. Nhưng suy cho cùng ông ta đã thể hiện đúng thực trạng tình hình nhận thức của giới Lãnh đạo và lý luận đất nước trong thời kỳ "hậu đổi mới". Đó là tình trạng lúng túng về đường lối chủ trương chính sách, nhầm lẫn trong việc lựa chọn bạn/thù trước bối cảnh tình hình biến động mau chóng tại khu vực và thế giới. Còn nhớ khi tiếp xúc cử tri Quận Ba Đình ngày 1/10/2011, người đứng đầu của Đảng đã từng đưa ra cách đánh giá về vấn đề tranh chấp Biển Đông như sau:
Nói Biển Đông không phải chỉ là Biển Đông. Nói Biển Đông không phải quan hệ ta với Trung Quốc. Nói Biển Đông không phải toàn bộ vấn đề Biển đông. Nó chỉ có một cái chỗ đảo Hoàng Sa với lại… quần đảo Hoàng Sa với lại chỗ quần đảo Trường Sa ấy … và cái ranh giới thềm lục địa theo công ước luật biển quốc tế...”.   

Nói vậy có nghĩa Biển Đông nào có quan trọng gì và nó là vấn đề của người khác chứ không phải của Việt Nam. Vậy chẳng trách  đối với những trường hợp phát ngôn nhu ngộ khác được ghi nhận từ các cấp trong mấy năm gần đây. Ví dmột ông Viện trưởng Mác-Lê lập luận rằng trong quá khứ ông cha ta mỗi lần đánh thắng xâm lược Phương Bắc đều trở lại triều cống ...cớ sao bây giờ lại đòi chống Trung Quốc(?) và một ông Phó ban Biên giới đánh giá hành động tàu Trung Quốc cắt cáp tàu dầu khí Bình Minh II của Việt Nam hồi năm ngoái là "thương cho roi cho vọt..." (!) Vân vân và vân vân.... Tất cả cho thấy điều gì nếu không phải là tình trạng thiếu nhất quán trong việc nhận định đánh giá tình hình, là sự lẫn lộn bạn/thù, tù mù chiến lược? Không phải họ "không thuộc bài"  mà vì bài bản nó như vậy!

Phải chăng đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến những việc làm khó hiểu gây bức xúc trong dư luận cả nước gần đây? Đó là việc mất cảnh giác khi cho "bạn" thuê đất rừng đu nguồn và đất canh tác  dọc đường biên, đưa hàng nghìn công nhân vào khai thác bo-xit trên Tây Nguyên, du nhập, lưu hành tràn lan văn hóa phẩm cũng như hàng hóa các loại từ Trung Quốc bất chấp nguyên tắc có đi có lại, v.v...Chủ trương đàn áp không phân biệt các cuộc biểu tình phản đối hành động xâm lấn của Trung Quốc trên Biển Đông cũng là một biểu hiện. Những việc làm đó, dù cố tình hay vô ý thức, đã và đang gây bức xúc và đánh mất nốt chút lòng tin còn sót lại của nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Chỉ kẻ thù được lợi và đắc chí, nhưng chúng không vì thế mà dừng lại./.
 

Thứ Ba, 18 tháng 12, 2012

Vì sao mãi day dứt?

Đó là câu hỏi có thể xuất hiện trong đầu mỗi người khi đọc bài viết mới đây của blogger Nguyễn Thông (nguyên văn dưới đây). Đúng như tác giả nhận xét "Chỉ có gỗ đá mới không biết trăn trở". Nhưng trớ trêu thay, ngày nay hầu hết người Việt Nam bằng da bằng thịt có ăn học và đang hoặc đã có chức quyền lại không hề  trăn trở hoặc cố tỏ ra không trăn trở theo kiểu "mũ nỉ che tai"... Đó là một nghịch lý thật to của đất nước này-(Bách Việt)

 

Sao không thể tái sinh Hội nghị Diên Hồng?

Người xưa nói "Tổ quốc hưng vong, thất phu hữu trách", vậy nên làm người lúc này chỉ có là gỗ đá mới không biết trăn trở, lo lắng. Với cương vị một công dân bình thường có nghĩa vụ đối với đất nước, tôi cũng muốn đem cái trí lực hèn mọn của mình góp vào việc chung.

Người xưa cũng nói "Ôn cố tri tân" nhắc cái cũ để biết cái mới, trước hết tôi xin nhắc lại một chuyện cũ:

Chuyện rằng, năm 1282 vua nhà Nguyên sai Sài Thung đưa Trần Di Ái (được phong làm An Nam quốc vương) về nước bị quân dân Đại Việt ta đánh cho tan tác, Sài Thung trúng tên mù mắt chạy về không còn mảnh giáp. Vua Nguyên giận lắm, năm 1284 cử Thoát Hoan đốc binh rầm rộ kéo sang, khí thế ngất trời, mạnh như chẻ tre. Nhiều đại thần xin hàng, chầu cống; riêng chỉ hai vị Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư quyết cầm quân chặn giặc. Nhưng giặc mạnh quá, vua Trần Nhân Tông lo quân ta không địch nổi, cứ phân vân. Tuy nhiên vốn là vị hoàng đế sáng suốt, ngài và Thượng hoàng Trần Thánh Tông quyết định triệu họp các phụ lão trong cả nước để trưng cầu dân ý, bàn việc nước, xin ý kiến về chủ trương hòa hay chiến, để dân quyết việc hệ trọng nước nhà. Hội nghị được tổ chức tại điện Diên Hồng nên sau này sử sách gọi là Hội nghị Diên Hồng, được đánh giá như là hội nghị dân chủ đầu tiên trong lịch sử nước ta, và cho đến nay chưa
có thêm sự kiện nào như vậy. Thời ấy các phụ lão có thể coi là những đại biểu của dân. Sau hội nghị, chính các phụ lão là những người truyền đạt lại chủ trương của chính quyền đến người dân. Đại Việt sử ký toàn thư (bản kỷ, quyển 5) của nhà sử học Ngô Sĩ Liên chép "Thượng hoàng triệu phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và hỏi kế đánh giặc. Các phụ lão đều nói "đánh", muôn người cùng hô một tiếng, như bật ra từ một cửa miệng". Ông cũng lý giải: "Giặc Hồ vào cướp nước là nạn lớn nhất của đất nước. Hai vua hiệp mưu, bầy tôi họp bàn há lại không có kế sách gì chống giặc mà phải đợi đến ban yến hỏi kế ở các phụ lão hay sao? Là vì Thánh Tông muốn làm thế để xét lòng thành ủng hộ của dân chúng, để dân chúng nghe theo lời dụ hỏi mà cảm kích hăng hái lên thôi. Đó là giữ được cái nghĩa người xưa nuôi người già để xin lời hay vậy".
Về chuyện này, nhà sử học Lệ thần Trần Trọng Kim cũng biên lại: "Nhân Tông thấy vậy lập tức cho triệu cả những bô lão trong dân gian, hội tại điện Diên Hồng để bàn xem nên hòa hay nên đánh. Các bô lão đều đồng thanh xin đánh. Vua thấy dân gian một lòng như vậy, cũng quyết ý kháng cự" (Việt Nam sử lược, quyển 1, phần nhà Trần).

Nhắc lại chuyện xưa tích cũ để cùng nhau tỏ rằng thời nào cũng cần có bậc minh quân. Làm người chèo chống quốc gia phải sáng suốt, bản lĩnh, tin dân, đừng nghe theo bọn gian thần, nịnh thần, hèn thần. Trong triều đình nhà Trần khi đó thiếu chi kẻ ngồi chót vót, quyền cao chức trọng, thân thích ruột thịt của vua, như thái úy Trần Nhật Hiệu, Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc, Trần Di Ái (chú ruột vua)... chỉ một mực đầu hàng, chấp nhận khom lưng uốn gối. Nhưng đức Thánh Tông, Nhân Tông đã lấy dân-nước làm trọng. Và điều hết sức đáng khâm phục là các vị ấy cực kỳ tin tưởng vào dân. Trí tuệ nhân dân lúc bấy giờ được thể hiện ở các bô lão. Đại thần xin hàng, nhà vua phân vân. Bô lão quyết đánh, nhà vua theo ngay. Rõ ràng không phải lúc nào quan chức cũng là người đại diện cho đất nước. Ấp a ấp úng trước dã tâm kẻ thù, làm sao những kẻ đó quyết chiến như dân được.

Ngày xưa là bô lão, còn nay là những bậc nhân sĩ, trí thức. Họ là hiền tài, "nguyên khí quốc gia". Họ đại diện cho nhân dân. Không coi trọng họ tức là xem nhẹ ý chí, tinh thần, sự sáng suốt của nhân dân. Giữ nước mà không cùng đi với dân thì có bao giờ thành đạt. Giờ đây giặc Tàu đang lăm le bờ cõi, giở mọi quỷ kế hòng cướp thêm biển đảo của ta, từ ông chủ tịch nước đến kẻ thứ dân đều biết rõ. Vậy mà chẳng hiểu sao giữa nhà cầm quyền với dân chưa đồng ý đồng lòng, chưa chung tiếng nói, chưa chung hành động. Tại sao không giải tỏa bất đồng, tổ chức một cuộc gặp giữa những người lãnh đạo cao nhất với những nhân sĩ trí thức đã cùng đi dân trong các cuộc biểu tình chống Trung cộng hoặc một số sự kiện nổi cộm vừa qua. Hãy phát huy tinh thần thân dân, trọng nhân sĩ trí thức của cụ Hồ, nhất là thời kỳ sau cách mạng tháng tám và kháng chiến chống Pháp. Hãy biết lắng nghe, trao đổi, tiếp thụ; hãy thực sự cầu thị, đừng vội vàng quy kết dân khi họ trái với mình.

Tôi nghĩ, có thể lẩn thẩn chăng, sao các vị tứ trụ triều đình hiện nay, hoặc ông tổng bí thư, ông chủ tịch nước- những người nghe đồn được coi là gần dân, trong khi chưa thể tổ chức được cuộc hội nghị Diên Hồng quy mô thời hiện đại, tại sao không tạo nên một Diên Hồng nho nhỏ, mà bô lão chính là những nhân vật đang có nhiều ý kiến, quan điểm, thái độ, hành động gần gũi với dân, trái tim chung nhịp với đại đa số nhân dân. Họ là ai? Tôi cho rằng những con người mang cái tên sau đây rất đáng có mặt trong cái Diên Hồng mini mà tôi mong ước đó, rất nhiều người đã trải qua 2-3 mùa kháng chiến, vào sinh ra tử, từng giữ trọng trách trong bộ máy cầm quyền, từng là niềm tự hào của bao thế hệ, từng đóng góp nhiều sức lực, trí tuệ, tình cảm... vào công cuộc đấu tranh, lao động của dân tộc: Nguyễn Trọng Vĩnh, Nguyễn Quốc Thước, Đồng Sỹ Nguyên, Trần Quốc Thuận, Trương Trọng Nghĩa, Nguyễn Đình Đầu, Hạ Đình Nguyên, Cao Lập, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Công Giàu, Lê Hiếu Đằng, Tương Lai, Lưu Trọng Văn, Nhật Tuấn, Chu Hảo, Nguyễn Quang A, Phạm Xuân Nguyên, Huỳnh Ngọc Chênh, Đỗ Trung Quân, Nguyễn Thế Thanh, Lê Phú Khải , Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Huệ Chi, Dương Trung Quốc, Bùi Minh Quốc, Phạm Toàn, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Nhị, Tống Văn Công, Kha Lương Ngãi, Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Quang Lập, Tô Văn Trường, Phạm Đình Trọng, Bùi Văn Bồng, Ngô Đức Thọ, Nguyễn Trọng Huấn, Nguyễn Trung, Đào Tiến Thi, Trần Mạnh Hảo, Võ Thị Hảo, Thái Kế Toại, Nguyễn Duy, Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Minh Hiền, Thùy Linh, Đỗ Minh Tuấn, Thanh Thảo, Cù Huy Hà Vũ, Lê Hiền Đức... Nhiều lắm, nhiều lắm.

Một cuộc gặp Diên Hồng như thế sẽ đi vào lịch sử. Giải tỏa những vướng mắc, cản trở. Không có lý gì mà ai cũng nói cũng tự nhận mình yêu nước yêu dân mà rốt cục lại trái nhau, đối lập nhau, thậm chí thù hằn bắt bớ triệt hạ nhau. "Nhiễu điều phủ lấy giá gương", "gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau". Khi đã thống nhất được ý chí và hành động, cả nước một lòng, không kẻ thù nào có thể lấn át được chúng ta.

17.12.2012
Nguyễn Thông


Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

Viện Toán học (VN) có Viện phó mới là giáo sư trẻ nhất năm 2012

Theo tin V-Express 11/12/2012,  

 Được các viện nghiên cứu lớn ở Italia, Đức, Mỹ... mời làm việc với chế độ đãi ngộ và lương bổng cao nhưng TSKH Phùng Hồ Hải vẫn về nước làm việc và được bổ nhiệm làm Viện phó Viện Toán học.

TSKH Phùng Hồ Hải.
TSKH Phùng Hồ Hải. Ảnh: Viện Toán.
Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước vừa tổ chức kỳ họp thứ 10 xét đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư 2012. Sau khi thẩm định, bỏ phiếu kín, có 41 ứng viên được công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, một ứng viên được đề nghị công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư đặc cách; 426 ứng viên được công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh phó giáo sư, một ứng viên được đề nghị công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh phó giáo sư đặc cách.
Hai nhà khoa học được xét đặc cách là ông Phùng Hồ Hải, Viện phó Viện Toán học (sinh năm 1970, xét đặc cách chức danh giáo sư) và Phạm Hữu Anh Ngọc, giảng viên ĐH Quốc tế, ĐHQG TP HCM (xét đặc cách chức danh phó giáo sư).
Trao đổi với VnExpress, giáo sư Trần Văn Nhung, Tổng thư ký Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước cho biết, Hội đồng vừa làm tờ trình gửi Thủ tướng về việc đề nghị cho phép công nhận đặc cách đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư và phó giáo sư.
Theo GS Nhung, PGS Phùng Hồ Hải là nhà toán học trẻ, có nhiều công trình được đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế danh tiếng trên thế giới, có thành tích khoa học xuất sắc. Ông được mời làm việc tại các Viện Nghiên cứu Toán - Lý lớn như: Trung tâm Vật lý lý thuyết quốc tế ở Trieste (Italia), Viện Max Planck về toán ở Bonn (Đức), Viện Nghiên cứu các khoa học về toán tại Berkeley (Mỹ).
Ông Hải từng được nhận giải thưởng Baedeker dành cho luận án tiến sĩ khoa học xuất sắc nhất của Đức năm 2005, Giải thưởng Von Kaven của Quỹ DFG (Đức) năm 2006, Học bổng Heisenberg các năm 2005-2010, được Viện Hàn lâm khoa học thế giới thứ ba (TWAS) bầu làm Viện sĩ trẻ, đại diện cho khu vực Đông Á, Đông Nam Á và Thái Bình Dương nhiệm kỳ 2009-2013.
PGS Hải từng giảng dạy một số năm tại ĐH Essen (Đức), nhưng chủ yếu dành thời gian giảng dạy tại Viện Toán học và nhiều trường đại học khác tại Việt Nam. Ông là Phó Tổng Thư ký Hội Toán học Việt Nam, Phó tổng biên tập tạp chí Acta Math Vietnamica, Phó viện trưởng Viện Toán học (từ tháng 7/2012).
"Tuy có thể làm việc và sống ở nước ngoài với chế độ đãi ngộ, lương bổng cao, nhưng PGS Phùng Hồ Hải vẫn quyết tâm làm việc và sống tại Việt Nam. Vì vậy, dù chưa đủ một số tiêu chuẩn bổ nhiệm giáo sư nhưng hội đồng chức danh giáo sư nhà nước, các nhà khoa học vẫn đánh giá rất cao", GS Nhung cho hay.
Còn tiến sĩ Phạm Hữu Anh Ngọc có thành tích nghiên cứu khoa học xuất sắc, đã công bố 45 bài báo khoa học, trong đó 30 bài đăng ở tạp chí SCI và SCI-E (hàng đầu thế giới), có tổng số điểm công trình gấp 6 lần điểm quy định. Ông đã được nhận học bổng Humboldt của CHLB Đức - một học bổng danh giá dành cho các nhà khoa học trẻ (không quá 40 tuổi) có triển vọng.
Khi được Thủ tướng phê duyệt, ông Hải sẽ là giáo sư trẻ nhất năm 2012, còn phó giáo sư trẻ nhất là Nguyễn Khánh Diệu Hồng, công tác ở Viện Kỹ thuật Hóa học, ĐH Bách khoa (sinh năm 1981). 
Phóngviện: Hoàng Thùy



Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này