Thứ Sáu, 13 tháng 6, 2014

Tư liệu: Tính cách người các tỉnh của Trung Quốc

Trong bối cảnh quan hệ Việt-Trung đang đứng trước một bước ngoặt lịch sử do nhu cầu phát triển và bành trướng lãnh thổ của nước TQ mới. và điều này một lần nữa cũng đặt ra sự thách thức vô cùng cam go đối với dân tộc Việt Nam như một thực thể độc lập còn lại duy nhất của các dân tộc Bách Việt sau mấy mấy ngàn năm bành trướng của Hán tộc từ phương Bắc, Chủ blog Bách Việt muốn cung cấp thêm tư liệu để bạn đọc tham khảo khi tìm hiểu về quan hệ Việt-Trung. 
Tài liệu này được trích từ website nghe hơi lạ tai "Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam", trong đó có lời giới thiệu vắn tắt " tài liệu do nhà nghiên cứu Dương Danh Dy sưu tầm và trích giới thiệu từ tư liệu Trung Quốc" . Xin hãy coi đây đơn thuần là một tài liệu tham khảo - Bách Việt.

Bản đồ đánh số vị trí các tỉnh của TQ được đề cập trong tài liệu

1. Người Hà Nam
Tỉnh Hà Nam là cái nôi của dân tộc Trung Hoa, trong sáu cố đô của Trung Quốc có ba cái ở Hà Nam. Thế nhưng thanh danh hiện nay rất xấu, các công ty lớn tại Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng châu, Thâm Quyến đều không muốn thuê dùng người Hà Nam. Đã có câu nói: “phòng lửa, phòng trộm,(đề) phòng người Hà Nam”, thậm chí tại Thâm Quyến đã từng có biểu ngữ “nghiêm khắc đả kích bọn tội phạm HàNam
Có thể là do đất hẹp ngưòi đông           (sắp đạt 100 triệu dân), nên cạnh tranh dữ dội, rất nhiều ngưòi dường như xảo quyệt là thiên tính. Độ tín nhiệm của các công ty Hà Nam rất xấu, hễ lừa được là lừa, hễ hãm hại được là hãm hại, buôn bán làm ăn với họ là rất mạo hiểm. Trịnh Châu, Tân Hưong, An Dương tập trung rất nhiều công ty lừa gạt, dùng các phương thức như uỷ thác gia công, liên minh, để lừa gạt, chính quyền địa phưong về căn bản không quản lý. Người Hà Nam phổ biến có địa vị không cao tại các thành phố lớn nhưng tiếng tăm lại rất nổi; “ thu nhặt đồ phế phẩm rất nhiều ”(và thường thuận tay giắt bò). Số gái điếm cũng không ít, thưòng lang thang tại thành phố.Tỷ lệ người Hà Nam phạm tội ở Bắc Kinh chỉ dưói ngưòi Đông Bắc, nên ở đâu cũng bị chèn ép, thậm chí nhiều người Hà Nam phải nói dối là người Hà Bắc, người Sơn Đông.
Thực ra ngưòi Hà Nam rất chăm chỉ, chịu khổ được, tập quán sinh họat vốn thật thà chất phác, nhất là ngưòi nông thôn. Tuy vậy có nhược điểm là bảo thủ, thành kiến, không nghĩ đến tiến thủ. Là tỉnh có sức lao động lớn nhất Trung Quốc.
Người Hà Nam ở nhà rất coi trọng lễ nghĩa, các chuyện ma chay cưới xin, sinh đẻ, lễ tết …đều rất coi trọng lễ nghĩa. Tuy nhiên ngưòi Hà Nam nổi tiếng vì không thích tắm rửa.
Nói chung tiếng xấu với ngưòi Hà Nam đã thâm căn cố đế. Nhiều người thường trách mắng người HàNam, nhưng lại quên mất rằng tổ tiên ngưòi Khách Gia thậm chí người Thượng Hải đều là ngưòi HàNam.
2. Ngưòi Hồ Bắc
Là láng giềng của tỉnh Hà Nam, trình độ xảo quyệt không thua ngưòi Hà Nam, hàng giả tại một đưòng phố tại Hồ Bắc đã từng nổi tiếng tại Trung Quốc. Tuy vậy thanh danh ngưòi Hồ Bắc không xấu như vậy, đây được coi là tỉnh có nhiều hồ nước, nước nhiều tự nhiên tính tình linh hoạt, và có nhiều mỹ nữ. Ngưòi Hồ Bắc rất thông minh, số ngưòi đạt kết quả cao trong các kỳ thi vào đại học rất cao. Ngưòi Hồ Bắc học giỏi, trường trung học phổ thông Hoàng Cưong nổi tiếng cả nước, thậm chí nhiều trường học trọng điểm của Bắc Kinh, Thưọng Hải cũng không bằng  Thiên Môn nổi tiếng là quê hương của Hoa Kiều trong nội địa. Hồ Bắc có những nơi rất giàu, có thể so sánh với vùng ven biển. tuy vậy ở mấy nơi tiếp giáp với Đại Biệt Sơn tỉnh An Huy, Hà Nam lại là vùng nghèo nhất nước.
Huyện Hồng An của Hồ Bắc đựoc gọi là “huyện của các vị tướng”(có tới 223 vị tướng) đó là vì thời thế tạo anh hùng, những năm tháng đó nơi nào càng nghèo, tinh thần tham gia cách mạng càng cao.
Người Hồ Bắc hướng nội, biết giấu mình chờ thời, nhưng dũng khí (trong khi tìm hiểu đối tưọng) không bằng ngưòi Hồ Nam.
Hồ Bắc cũng là tỉnh có nhiều nông dân vào thành phố làm thuê.
3.  Người Hồ Nam
Ngưòi Hồ Nam được gọi là “ngưòi phương bắc của phưong nam” tính cách bộc trực, khí khái dữ dội như ớt cay, cổ họng cũng tưong đối lớn. Sử sách cố có nhiều từ ca ngợi ngưòi Hồ Nam nhất( ví dụ: “Sở chỉ còn 3 hộ vẫn có thể diệt Tần”, “không có Hồ Nam không thành quân đội”, “người Hồ Nam chưa đổ, Hoa Hạ chưa đổ”. Quân Hồ Nam của Tăng Quốc Phiên, Tả Tông Đưòng đã kéo dài thêm hương hoả nhà Thanh gần nửa thế kỷ, nhiều nguyên lão khai quốc của đảng cộng sản là ngưòi Hồ Nam. Có thể nói bộ cận đại sử Trung Quốc và nửa bộ hiện đại sử Trung Quốc là do ngưòi Hồ Nam dùng máu tươi và sinh mệnh của mình viết nên.
Người Hồ Nam thông minh, dũng cảm, mạnh mẽ quả quyết, dám đảm nhiệm việc lớn coi thiên hạ hưng vong là trách nhiệm của mình, “nước Trung Hoa chỉ diệt vong khi ngưòi Hồ Nam chết hết” ngưòi Hồ Nam tập trung đựoc mỹ đức ưu tú của dân tộc Trung Hoa. Học tập, đi lính đánh nhau, lao động đều tốt. Thế nhưng gần đây phong khí xã hội đã có xu thế giảm sút. Trường Sa là thành phố tiêu dùng điển hình, các nhà tắm đầy thành phố (đều kèm theo  gái) nhung giá rất đắt, dân địa phưong không có tiền vào tắm và thưòng do ngưòi Quảng Đông tới làm mưa làm gió.
Song Phong là”quê hưong làm các loại giấy chứng nhận giả” của Trung Quốc. Huyện Sâm Châu toàn là tham quan. Ngưòi Hồ Nam có 3 loại khí: linh khí, phỉ khí và bá khí, một khi trở thành nhóm bạo lực thì nguy hại cực lớn. “Đảng ô tô” mà Quảng Đông đang đả kích mạnh chủ yếu là ngưòi Hồ Nam, “Nhóm Hồ Nam” vượt trội hơn “Nhóm Đông Bắc” và “Nhóm Quảng Tây”
Hồ Nam có nhiều gái đẹp, đảm đang thông tuệ, làm việc tháo vát, nhưng làm vợ thì không đáng tin lắm, đã có câu nói”Tương nữ đa tình”( gái Hồ Nam đa tình)  số ngưòi làm việc trong ngành dịch vụ bằng vai phải lứa với các chị em Tứ Xuyên, Đông Bắc. Ở đây có câu “chỉ cưòi nghèo chứ không cưòi xướng ca”. Là tỉnh lớn xuất khẩu “ các vợ hai”.
4. Người Quảng Đông
Ngưòi Quảng Đông là nhóm ngưòi phức tạp nhất Trung Quốc, thân thể nói chung nhỏ, lùn, trán rô, mắt nhỏ mà sâu, mũi hơi rộng, môi dày. Có 3 ngôn ngữ chính: tiếng phổ thông, tiếng Triều Châu, tiếng Khách Gia. Trong lịch sử Quảng Đông là một vùng pha tạp của Bách Việt, vùng ven biển còn có ngưòi Đông Nam Á đến ở, gọi là ngưòi Quảng Phủ, gồn cả ngưòi Hồng Công, Ma Cao; ngưòi vùng Triều, Sán cũng có ngôn ngữ và phong tục độc đáo. Hai loại ngưòi này thuộc ngưòi ở đất Quảng Đông. Xem xét từ mặt sinh vật thấy nguồn gốc dân tộc không giống ngưòi phưong bắc.
Sau “ngũ Hồ loạn Hoa” ngưòi Hán vùng trung nguyên(chủ yếu là ở Hà Nam) di cư một lưọng lớn về phía nam, tập trung sinh sống tại vùng Mai Châu, Hà Nguyên, và một phần vùng Kiết Dưong, Sán Vỹ, nói tiếng Khách Gia. Bộ phận ngưòi Hán này phải được coi là ngưòi Hán “thuần chủng” về huyết thống nhất(ngưòi phưong bắc luôn luôn ở vào vị thế dân tộc hoà nhập). có khoảng hơn 10 triệu nguời. Tôn Trung Sơn, Lý Gia Thành cũng đều là ngưòi Khách Gia. Quảng Đông là tỉnh có ngưòi Hoa ra nuớc ngoài sớm nhất để kiếm sống, có hơn 20 triệu Hoa Kiều, ngưòi Triều Sán và Ôn Châu nổi tiếng ở nuớc ngoài vì kinh doanh, buôn bán.
Do ngưòi Qưuảng Đông bị ma quỉ hoá tuyên truyền nên tại Mỹ và Canada có có phong trào “bài Hoa” kéo dài nửa thế kỷ. Quảng Đông là nơi bắt nguồn cách mạng dân chủ cận đại, là giao điểm của văn minh đông, tây là lô cốt đầu cầu và ngưòi lính đứng đầu của cải cách mở cửa. Ngưòi Quảng Đông là nhóm người hải dương, tràn đấy khí huyết và sức sống, đầu óc linh hoạt, giầu tính mạo hiểm, tính sáng tạo, dám đi trước thiên hạ. Ngưòi Quảng Đông không thích thú lý luận rỗng tuếch, và cũng chẳng để ý bàn bạc triết lý, con ngưòi, và cũng không hứng thú với chính trị.. Người người đều vào ra bận rộn vì tiền, suốt ngày hết đông lại tây. Ngưòi phương bắc suy nghĩ trước, hành động sau, còn người Quảng Đông lại hành động truớc rồi mới suy nghĩ sau, coi trọng hiệu quả và giá trị, không coi trọng hình thức và thể hiện bề ngoài. Hiện nay Quảng Đông đã trở thành vùng kinh tế phát triển nhất Trung Quốc,. Phụ nữ Quảng Đông rất hiền hậu, giỏi việc bếp núc. Thế nhưng hình tưọng nhân văn của Quảng Đông lại là hộ phất điển hình. Mấy đánh giá thưòng thấy là:
-Lạnh nhạt, bài ngoại, tự đại. Quảng Châu là thế giói phồn hoa, là thành phố lãnh đạm nhất thế giới, nếu như chỉ hỏi đường với một ngưòi Quảng Đông mà lại nói tiếng tỉnh ngoài thì rất ít khi được trả lời. Láng giềng với nhau mà cũng cửa đóng then cài, chẳng ai để ý tới ai, thêm một việc chẳng bằng bớt đi một việc. Ở Quảng Châu muốn tìm một ngưòi sẵn sàng làm việc nghĩa còn khó hơn lên trời. Ngưòi Quảng Đông bài ngoại  từ lâu, đã từng gọi những ngưòi ngoài Quảng Đông là “thằng vơ vét”  gọi phụ nữ là “em gái xứ bắc”, gọi ngưòi phưong tây là “quỉ”.. thậm chí ngay ngưòi Triều Sán ngay trong tỉnh cũng bị gọi là “thằng lạnh nhạt”. Nhiều ngưòi Quảng đông tri thức địa lý nghèo nàn, thưòng tự cho mình là trung tâm, ngoài Quảng Đông ra đều là phưong bắc cả.
-Ngưòi Quảng Đông không có văn hoá. Có văn hoá trà, văn hoá rượu, văn hoá ăn thịt rắn, văn hoá uống canh, nhưng không tiếp nhận quốc tuý, chỉ sung bái văn hoá Hồng Công, Đài Loan. Ngưòi Quảng Đông về cơ bản không xem TV trung ương, giữa kinh tế và văn hoá không bao giờ có sự cùng tiến, hầu như là sa mạc văn hoá. 500 doanh nghiệp lớn nhất nước, 500 doanh nghiệp lớn nhất thế giới chẳng có mấy đơn vị chịu đặt tổng bộ tại Quảng Đông
-Người Quảng Đông không có tố chất. Mặc dù chưa ăn xong là họ đã sách túi chạy đi, rất vụ thực. Chẳng mềm tay trước mọi thứ của ngưòi khác. Tiêu thụ đũa ăn, hộp cơm dùng một lần  nhất toàn quốc. Bất kể là nam hay nữ, ban ngày đều mặc quần áo ngủ đi dạo phố, vào siêu thị như chỗ không ngưòi.
-Ngưòi Quảng Đông không quan tâm việc lớn quốc gia, không quan tâm tới sự phát triển của thế giới. Vinh nhục của đất nước chẳng hề bận lòng chỉ theo lối sống nhỏ bé của mình, chỉ quan tâm tới giá nhà ở và cổ phiếu của mình.
-Nghiện đánh bạc thành tính, nổi tiếng thế giới.Loại sổ xố nào cũng chơi, hễ phát hành là bán hết.
-Ngưòi Quảng Đông rát mê tín, thích đi lễ tại đền chùa, mỗi năm mấy lần. Bàn thớ trong nhà ngày lễ ngày tết không bao giờ để tắt khói hưong. Bản số ô tô, số nhà, số điện thoại, ngày kết hôn, ngày mở cửa hàng đều chọn số 6 và số 8. Còn đến mức mổ bụng mẹ để sinh con đứng ngày đã chọn. Ngày quốc sỉ 19/8 hàng năm(ngày Nhật xâm lược 3 tỉnh đông bắc) lại là ngày lành tháng tốt của ngườì Quảng Đông.( vì đối với họ số 9 và số 8 đều là số đẹp) Có ngưòi xây mộ cha ông còn hào hoa hơn nhà ở của mình( không hoàn toàn là vì hiếu kính)
-Đàn ông Quảng Đông rất vô sỉ, đàn bà thì chẳng ra làm sao. Đi trên phố thi thoảng gặp mỹ nữ thì đều là ngưòi Tứ Xuyên, Hồ Nam. Học sinh yêu sớm nổi tiếng cả nước, tiểu học đã bắt đầu biết tay nắm tay nhau, lên trung học là dám mạnh dạn hôn nhau. Liệu có ngưòi đàn ông Quảng Đông nào không chơi gái không? Liệu có anh Quảng Đông sẵn tiền nào không bao “vợ hai” không? Phụ nữ Quảng Đông nếu không có đàn ông là không tự tin vào cuộc sống, không biết dựa vào luật pháp để bảo vệ mình.
-Ngườì Quảng Đông cái gì cũng dám ăn. Rắn, chuột, chó, mèo, ấu trùng, xuyên sơn giáp… cho đến cả thai nhi cũng như tất cả các loại động vật dã sinh được bảo hộ đều ăn tuốt. Năm 1949 giải phóng quân Trung Quốc đánh xuống miền nam, tham dự chiến dịch Lưỡng Quảng đều là ngưòi Đông Bắc khi nghe kể về những thói ăn kỳ lại ở đây, có nhiều binh lính đã không muốn ra trận nữa.
-Ngưòi Quảng Đông rất kiêu ngạo trong buôn bán. Làm ăn, qua lại với ngưòi Quảng Đông sẽ thấy họ, một là tinh nhưng không tín, hai là ngạo mạn.Thưòng nhìn ngưòi khác bằng con mắt: ngưòi có ta cũng có, ngưòi không có ta có, muốn là làm không muốn là bỏ đi. Nhưng khi cần anh thì lại giả tạo đến mức chịu không nổi.
 -Sách giả, thuốc lá giả, đĩa giả, tiền giả.. .do ngưòi Quảng Đông chế tạo lan tràn khắp nước. Cho thêm nước vào bình gaz, cho thêm thuốc nhuộm mầu độc hại vào thực phẩm, biến cồn công nghiệp thành rượu nổi tiếng, lại còn thuốc giả, máy móc nhái thương hiệu nuớc ngoài. Quảng Châu, Đông Quán, Thâm Quyến là những thành phố không có cảm giác an toàn nhất, Thành phố Đông Quán vừa bẩn vừa loạn, cũng có sông đào nhưng mùi thối thấu trời. Đáng sợ nhất là ban ngày mà trộm cướp vần hoành hành. Quảng Đông là tỉnh lớn nhát về “vợ hai”, tại Thâm Quyến, Đông Quán có rất nhiều “thôn vợ hai” rất tráng lệ
5. Người Quảng Tây
Ở Quảng Tây chủ yếu có hai loại tiếng địa phưong là tiếng Quế, Liễu(tiếng Quế Lâm và Liễu Châu rất gần tiếng Hồ Nam) và tiếng Nam Ninh(loại biến chủng của tiếng phổ thông Quảng Đông, rất khó nghe). Khí hậu Quảng Tây viêm nhiệt. Ngưòi Quảng Tây bị coi là có tính cách nhu nhược nhấtửTung Quốc, thưòng đựoc coi là đại biểu cho sự mềm yếu có thể coi thưòng, từ thời xưa đã thiếu vắng dũng sĩ cũng như những bậc kiêu hùng, nếu tính cách người Trung Quốc đều như ngưòi Quảng Tây, thì đất lớn Trung Hoa đã bị các cưòng quốc chia cắt hết từ chiến trnh thuốc phiện. Người Quảng Tây phổ biến gầy ốm, nước da xấu , tỷ lệ nam thanh nữ tú thấp nhất trong cả nước.
Ô tô công cộng, thậm chí cả xe ngựa ở Nam Ninh cũng rất lùn nhỏ. Đường phố Nam Ninh nhỏ hẹp, siêu thị thô sơ(siêu thị lớn là từ ngoại tỉnh đến), xe máy đứng đầu cả nuớc, chôc này cũng thấy cửa hàng bán cây thuốc Ngưòi Nam Ninh ăn không khỏe và rát tiết kiệm
Quan chức hủ bại, bất học vô thuật(bỏ tiền mua quan). Kinh tế tuy lạc hậu, nhưng quan niệm về tính rất cởi mở, đã có câu “đại học Quảng Tây không còn gái trinh”. Có 1000 NDT(khoảng 3 triệu VNĐ) là có thể bao được nữ sinh viên Học viện Nghệ thuật Quảng Tây         . Quảng Tây có rất nhiều nơi du ngoạn đẹp, nhưng không biết kinh doanh. Ngành nhà đất, may mặc bị ngưòi Ôn Châu(tỉnh Phúc Kiến) nắm hết. Lưỡng Quảng(Quảng Đông, Quảng Tây) mặc dù cùng nguồn cội, nhưng lại “tính tương cận, tập tương viễn”. Tính  cách chung của cả hai tỉnh này là cái gì cũng dám ăn.
Đàn ông Quảng Tây tiểu khí, tự tư, nhát gan, nhưng một khi đến Quảng Đông thì đã có biến đổi lớn về tính cách. “Đảng ô tô” chủ yếu là ngưòi Quảng Tây. Người nông thôn Quảng Tây tương đối thiện lưong(kể cả ngưòi Choang ở vùng xa xôi hẻo lánh mà về cơ bản đã bị tộc Hán đồng hoá) thành thực, trung hậu, không có tính công kích, chỉ cần ngưòi ta thương hại là được. Nghiện đánh bạc, chơi các loại sổ xố khiến nhiều ngưòi tan cửa nát nhà, rất nhiều ngưòi chưa từng ngồi xe lửa.
6. Người Hải Nam
Là nơi tổ tiên ngưòi Lê dời đến sớm nhất, là một quận thời Tây Hán, đến Ngũ đại là nơi di dân trung nguyên đến nhiều nhất, trong đó thời Tống,Minh Thanh qui mô di dân lớn nhất mà chủ yếu là từ Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây. Tỉnh Hải Nam là tỉnh thành lập sau cùng của Trung Quốc, trứoc đó là vùng xa và lạc hậu của tỉnh Quảng Đông, tiéng nói chủ yếu là tiếng phỏ thông Quảng Đông mang đặc sắc Hải Nam
Dân Hải Nam gốc rất bảo thủ, tầm nhìn hẹp, tự cho mình là giỏi, nhưng ngay khi nói cũng để lộ sự yếu đuối. Nước da đen là một đặc trưng điển hình, thân ngưòi lùn nhỏ, rất ít trai tài gái sắc.
Ngưòi Hải Nam chịu được nghèo nhưng không chịu được khổ. Do có nhiều di dân, thưong nhân HảNam đã lộ rõ đặc sắc ưa thích đầu cơ, nhưng tư duy với tầm nhìn ngắn hẹp.
Hải Nam cũng là quê hưong Hoa Kiều, nhưng nhiều ngưòi trongbọn họ vẫn thuộc loại nghèo không thành đạt như ngưòi Triều Sán và ngưòi Khách Gia ở nước ngoài. Đây là nơi buôn lậu khá phổ biến. Kinh tế Hải Nam còn rất yếu. Có câu: đến Bắc kinh mới thấy quan mình nhỏ, đến Đông bắc mới thấy gan mình bé, đến Quảng Đông mới thấy tiền mình ít, đến Hải Nam mới thấy sức khoẻ mình rất không tốt!
7. Ngưòi Hồng Công
Ngưòi Hồng Công sớm nhất là di dân Quảng Đông, bị nuớc Anh thống trị lâu dải.Trên ngưòi Hồng Công có cả đặc trưng tính cách phưong đông và phương tây, hàm súc của phương đông, thẳng thắn của phương tây, nhiệt tình của phương đông, lãnh đạm của phưong tây, tình cảm của phương đông, khách quan của phương tây. Trừ một số cá biệt ra đa số người Hồng Công không tự đánh giá thấp nguồn gốc, dòng máu của mình và không tự phủ định. Cái phủ định là đại lục “không dân chủ”, “hủ bại” tâm trạng phổ biến là “yêu nước, yêu Hồng Công, nhưng chưa chắc đã yêu đảng”
Từ năm 1997 đến nay, tính đồng thuận của ngườì Hồng Công với tổ quốc đã không còn vấn đề gì, thậm chí những phần tử yêu nước ở đây,  còn kích tiến hơn cả đại lục( việc bảo vệ đảo Điếu Ngư-Senkaku là một ví dụ, phi công vũ trụ Dưong Lợi Vỹ được hoan nghênh nhiệt liệt ở Hồng Công) khiến đại lục toát mồ hôi. Hồng Công đất hẹp ngưòi đông do đó cạnh tranh rất ác liệt, tạo nên tính cách sáng suốt, dám làm, kiên nhẫn, thực tế, khẩn trương, tất bật. Ngưòi Hồng Công mặc dù đã gần bị tây hoá nhưng bất kể là trong việc cầu mong bình an, sự nghiệp thành đạt, chuyện hôn nhân, bệnh tật… đều đến chùa đền khấn vái cầu xin, có phần thành kính hơn ngưòi nội địa. Ngưòi Hồng Công cũng như ngưòi Đài Loan phần lớn bao “vợ hai” tại đại lục, ngay phu vận tải cũng bao “em gái Tứ Xuyên” tại Thâm Quyến
8. Ngưòi Macao
Bị Bồ Đào Nha thống trị hơn 400 năm nhưng quan niệm văn hoá truyền thống vẫn không thay đổi, Ma Cao và HồngCông chỉ cách nhau một cửa sông Châu Giang, nhưng Hồng Công thì chen chúc náo nhiệt khiến lòng ngưòi chẳng mấy khi yên,còn Ma Cao tuy chen chúc mà không náo nhiệt, căng thẳng mà vẫn yên tĩnh khiến người ta thoải mái thư nhàn, chỗ nào cũng thấy tình ngưòi ấm áp rất ít khi nghe thấy tiếng tranh cãi, càng chẳng thấy những hành động thô bạo. Có thể là nơi này đất hẹp ngưòi ít, ngưòi đi đưòng gặp nhau đều có cảm giác như là đã biết nhau rồi. Đàn ông Ma Cao “nhỏ ngưòi nhưng bụng dạ rộng lớn” ngụ ý tuy không cao lớn như đàn ông Đông Bắc nhưng rất độ lượng, không tính việc nhỏ, tinh thẩn trách nhiệm cao; phụ nữ Ma Cao hết lòng với việc nhà, hiến dâng vô tư cuộc sống của mình cho cha mẹ, chồng, con. Kinh tế Ma Cao đơn nhất, ngoài đánh bạc và du lịch ra chẳng có vị trí gì trên quốc tế. Việc Ma Cao về với tổ quốc có ý nghĩa tượng trưng chủ quyến lớn hơn ý nghĩa kinh tế. Do không giầu có như Hông Công nên rất nhiều ngưòi Ma Cao thích đến mua sắm tại Chu Hải(Quảng Đông)
9. Ngưòi Bắc Kinh
Là vùng thấy nhiều biết rộng, vừa tiêm nhiễm văn hoá vua quan vừa chịu tàn dư của phong tục con em nhà Mãn, vô cùng lưòi biếng, rất nhiều ngưòi thà ở nhà hưỏng bảo hiểm thấp chứ không chịu đi làm, khá nhiều ngưòi dựa vào tiền bồi thường nhà cửa cổ xưa do cha ông để lại khi phải di chuyển hoặc giá nhà đất gia tăng để sinh sống; có ngưòi là quan thưong dựa vào chính sách mà sống cuộc sống nhàn rỗi, ngưòi béo rất nhiều. Những tiếng tục của Bắc Kinh về cơ bản đều là của ngưòi tỉnh ngoại. Trong các thế hệ sau của Bắc Kinh con nhà giầu sang rất nhiều, chỉ chú ý hưởng thụ.
Phụ nữ rất cởi mở và rất có cá tính. Ngưòi Bắc Kinh muốn học đại học là học được, ngay cả với những truờng nổi tiếng như Thanh Hoa, Bắc Đại, sau khi tốt nghiệp nói chung được các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp ưu tiên tuyển dụng. Chỗ nào ở Bắc kinh cũng có quan, ngay ông lão đạp xe ba gác cũng ra vẻ ta đây vì nhà nào chả có dây mơ rễ má với mấy vị quan. Chính vì thế mới có câu nói ở trên “không đến Bắc Kinh không biết mình chỉ là quan nhỏ”
Hộ khẩu ở Bắc Kinh quí báu lắm, ngưòi Bắc Kinh cũng bài ngoại, nói chung cảm thấy mình là “ngưòi của trung ương”(rất nhiều ngưòi ngoại tỉnh ở Bắc Kinh sau khi trở thành ngưòi Bắc Kinh thì thế hệ sau của họ cũng bài ngoại). Cảnh sát nói chung đặc biệt “chiếu cố” mấy ngưòi ngoại tỉnh. Tuy vậy tính bao dung rất khá(tất nhiên không thể so sánh với Thâm Quyến)
Mở công ty nên hết sức tránh nhận ngưòi Bắc Kinh. Ngưòi Bắc Kinh cái gì cũng minh bạch, nhưng chỉ biết nói mà không thể làm, nghiệp vụ còn giỏi hơn ông chủ(ngưòi Bắc Kinh thích hợp làm nhân viên tài vụ , nhân phẩm đáng tin, lại trốn không nổi). Ngưòi Bắc Kinh mồm lưõi dẻo quẹo.
Tuy vậy nhìn chung ngưòi Bắc Kinh rất lương thiện, có chí khí lớn, có sự đồng cảm, coi trọng nghĩa khí, thích chuyện không đâu, nhất là những việc lớn quốc gia, thích tán chính trị(không ít tin vỉa hè từ đó), được coi là ngưòi có tố chất cao tại Trung Quốc, Ngưòi phát tài ở Bắc Kinh chủ yếu là người ngoại tỉnh, làm quan ở Bắc Kinh cũng chủ yếu là di dân tỉnh ngoài. Ngưòi Bắc Kinh lưòi biếng khó thành việc lớn.
Cùng với việc chính sách được nới rộng, chế độ hộ khẩu ngày càng bớt chặt chẽ, ngưòi tính ngoài đến Bắc kinh cướp cơm ăn tạo nên cảnh ngưòi Bắc Kinh thất nghiệp càng đông, cảm giác mất mát rất lớn. Văn hoá Bắc kinh là sự hoà nhập của nhiều loại, văn hoá thể chế quan phưong, văn hoá của phần tử trí thức và văn hoá dân gian đều ở trạng thái cộng sinh, văn hoá hiện đại chung sống hoà bình với văn hoá truyền thống, cái nào cũng có phong cách riêng, cũng có nét tự hào riêng.
10. Người Thiên Tân
Thật khó tưỏng tượng nổi, ở ngay cạnh Bắc Kinh mà tiếng nói lại vô cùng độc đáo(nghe nói bị ảnh hưỏng của quân đội Hoài của Lý Hồng Chưong), thu nhập về tiền lưong không hơn những ngưòi tương  đưong nhưng nằm trong diện rời khỏi công tác, cắt giảm biên chế ở Thẩm Dưong. Đó là một thành phố trực thuộc trung uơng dễ bị ngưòi ta quên. 
Tính cách đàn ông Thiên Tân sảng khoái nhưng có suy nghĩ yên tâm với hiện tại không tiến thủ. Là ngưòi nghĩa khí, làm việc quả đoán, rất dễ kết bạn, tính cách phụ nữ đã nam tính hoá, làm vợ không bằng làm bạn, chứi ngưòi không tiếc lời, không hiền lành chút nào!
Ngưòi Thiên Tân bản tính khôi hài.
Thực ra Thiên Tân không phát triển lắm, Bắc Kinh đã hút cạn các vùng xung quanh, Bắc Kinh không hề bị cắt điện, nếu có cắt thì cắt Thiên Tân, Hà Bắc.. Ngưòi Thiên Tân xưa nay không phục ngưòi Bắc Kinh, bóng đá mà gặp nhau là tử chiến! Kiến trúc ở Thiên Tân còn đậm màu sắc văn hoá truyền thống, nghệ nhân dân gian nhiều. Thiên Tân không thích hợp với định cư, dù cát bụi không bằng Bắc Kinh
11. Người Hà Bắc
Từ xưa Yên Triệu đã nhiều tráng sĩ khảng khái bi tráng. Ngưòi Hà Bắc trung hậu vụ thực, cam chịu làm chiếc lá xanh để làm đẹp Bắc Kinh. Vì Bắc Kinh mà chịu cắt điện, chịu ô nhiễm, chịu gió cát. Nội thành phồn hoa không kém ai, nhưng cứ ra khỏi tyhnhf phố là thấy những ngôi nhà nông thôn Hà Bắc nghèo nàn. Người Hà Bắc quen nhìn mắt ngưòi Bắc Kinh để làm theo, nhưng học nói tiếng Bắc Kinh thế nào cũng chẳng giống.
Thượng Hải lôi kéo vùng đồng bằng sông Trưòng Giang phát triển, nhưng Bắc Kinh lại hút hết màu mỡ bình nguyên Hoa Bắc! Hà Bắc là vườn rau lớn của Bắc Kinh. Nhiều nguời Hà Bắc làm gác cổng nhà, bầy của hàng bán rau tại Bắc Kinh, thưòng bị những ngưòi quản lý thành thị ở đó khinh thường( một nông dân Hà Bắc do phẫn nộ mà giết một nhân viên quản lý thành phố Bắc Kinh, toà án sợ mâu thuẫn xã hội gay gắt thêm nên chỉ dám xử tử hình hoãn thi hành)Tiếng nói các vùng tại Hà Bắc khác nhau rất lớn. Tiếng Ký Châu Hà Bắc còn khó nghe hiểu hơn tiếng Quảng Đông, còn tiếng Đường Sơn, tiếng Trưong Bắc đều có đặc sắc riêng, tiếng Tần Hoàng đảo, Thừa Đức… lại gần với tiếng vùng Đông bắc.
Phụ nữ Hà Bắc thật thà chất phác lưong thiện, làm vợ rát thích hợp. Rất nhiều nông dân tỉnh ngoài vào Bắc Kinh làm thuê khâm mộ người Hà Bắc: vì lộ phí về nhà vợ chỉ tốn 30 NDT(khoảng chưa tới 1 triệu VNĐ)
12 . Ngưòi Sơn Tây
Nền tảng văn hoá sâu dầy, nhưng cặn bã chiếm đa số. “Mặt vuông, đường nét rõ ràng, mũi ngắn mà to” là hình tượng điển hình của ngưòi Sơn Tây. Ngưòi Sơn Tây thực thà, yên phận, trung thành đáng tin, thích đi bộ tới nơi làm việc. Nhưng đầu óc chưa đủ linh hoạt, đần độn cố chấp, cẩn thận nhưng sợ việc, không có phong cách kinh doanh. Nơi này ngưòi đông đất hẹp, đất đai cằn cỗi, công nghiệp lạc hậu, quan niệm lạc hậu, may mà có nhiều mỏ than. Mặc dù Sơn Tây nghèo nhưng ngưòi giầu không ít, phần lớn là đổi lấy từ xương trắng của công nhân các hầm mỏ trong tỉnh.
Đã từng có nhóm giầu có đến Bắc Kinh, tập thể vơ vét nhà đất, dù ăn vận đúng mốt vẫn không giấu nổi dáng vẻ xấu của bọn mới phất, bị ngưòi Bắc Kinh cười nhạo. Lâm Phần đựoc gọi là thành phố than, năm nay được xếp vào loại thành phố bẩn nhất thế giói. Trong không khí ở Thái Nguyên, Đại đồng có nhiều hạt sạn than. Khó tìm đựoc một nơi non xanh nuớc biếc tại Sơn Tây.
Những kẻ làm quan ở Sơn Tây vô cùng ngu muội, thích ra vẻ ta đây, lên thêm một chức là đã có ngưòi chết, chính quyền mà như nha môn. Đàn ông tuy đáng tin nhưng bủn xỉn. Ngưòi Sơn Tây nổi tiếng vì hà tiện. Ngưòi Sơn Tây dù ăn vận “nhà quan” vẫn không hợp thời, ăn uống giản dị, và ăn gì cũng phái có dấm, Phụ nữ mặc dù coi trọng đạo lý nhưng khi làm vợ cũng có chút sĩ diện Thương nhân Sơn Tây đi khắp thiên hạ, nhưng vẫn “lá rụng về cội”, thưòng đặt tổng bộ của mình tại mấy nơi nho nhỏ thuộc tỉnh quê hưong cho nên không phát triển được.
13. Người Nội Mông Cổ
Ở đây chủ yếu nói về phần phía tây Nội Mông, vì nguời dân từ Xích Phong trở về đông nói tiếng Đông Bắc. Mặc dù là khu tự trị nhưng hiện nay người Hán chiếm đa số. Thể hình ngưòi Mông Cổ thô khoẻ, mặt rộng tai lớn, con mắt như có thần, trán nhô, tóc quăn, tiếng nói kêu vang, cánh tay dài hơn nguời, trông uy vũ nhưng là cái dũng của kẻ thất phu. Có tấm lòng thiện lương, đôn hậu với người, tính cách sảng khoái, dám yêu dám ghét, ít có đường ngang ngõ tắt, uống rượu khoẻ, rất nhiều ngưòi đã Hán hoá. Ngưòi Hán ở phần tây Mông cổ rất giống ngưòi Tây Bắc dù đựoc gọi là Hoa Bắc, tiếng nói có màu sắc Tây Bắc, thật thà, an phận thủ cựu, không làm quan và buôn bán được. Bao Đầu, Hô Hoà Hạo(thành phố gang thép lớn của Trung Quốc và thủ phủ của Nội Mông) chủ yếu là ngưòi Hán di dân tới, không có nền tảng văn hoá gì,
14 . Ngưòi Đông Bắc(gồm 3 tỉnh Hắc Long Giang, Liêu Ninh, Cát Lâm và phần phía đông khu tự trị Nội Mông Cổ)
Sở dĩ gộp lại để nói vì ngôn ngữ, phong tục các vùng này rất giống nhau. Thời cổ đại Đông Bắc là vùng đất hoang dại, ngưòi Hán ngày nay ở đó chủ yếu là thế hệ sau của những ngưòi di dân nghèo khổ Sơn Đông, Hà Bắc, cũng từng là thiên đưòng của những tội phạm bị lưu đầy, những kẻ sát nhân vượt ngục trốn tội từ trung nguyên tới, chỉ trong nửa thế kỷ mà đã chịu sự thống trị của Thanh, Nga, Nhật, quân phiệt, Trung Hoa Dân Quốc, CHND Trung Hoa, ở trong tình trạng vô pháp vô thiên lâu dài, Cộng thêm sự hoà nhập Mãn, Mông, Triều, khí hậu rét mướt, đất đai rộng lớn đã hình thành nên nền văn hoá Đông Bắc độc đáo, là vùng có sự khác biệt gien lớn nhất(di truyền học cho rằng khác biệt gien càng lớn nhân chủng càng ưu tú)
Chiến dịch Bình,Tân và Liêu, THẩm chủ yếu là nhờ ngưòi Đông Bắc đánh, sau chiến dịch vượt sông, dã chiến quân số 4 do Lâm Bưu lãnh đạo đã đánh một mạch đến đảo Hải Nam, ngưòi Đông Bắc có tâm trạng lập công, lập nghiẹp, nổi tiếng rất mạnh. Đông Bắc đã từng là vùng công nghiệp phát triển nhất Trung Quốc, đựoc gọi là “con trai cả cửa nứoc Cộng Hoà”. Cho đến bây giừo vẫn là vùng có trình độ giáo dục cao nhất và giao thông phát triển nhất Trung Quốc. Hiẹn nay Đông Bắc là nơi có nhiều cán bộ công nhân viên phải rời bỏ công viẹc nhiều nhất, thưong nhân phần lớn là buôn bán nhỏ, không có lý tưởng cũng như gánh nặng cao xa, có thể nói là “to gan khi đánh trận, bé gan khi kinh doanh”.
Mấy năm gần đây đã xuất hiện một loạt nhân tài, số ngưòi giầu nổi tiếng không ít, và có nhiều ngưòi làm quan trong chính quyền . Ngưòi Đông Bắc là ngưòi có ưu khuyết điểm về tính cách rõ ràng nhất trong các ngưòi Trung Quốc(nam, nữ khác nhau biệt không lớn), nội tâm cưong nghị, bề ngoài mạnh mẽ, tính cách hào sảng, to gan, trọng nghĩa khí coi thưòng luật pháp, dễ kết bạn, thưòng nói : “đừng nói đến tiền, nói đến riền là tình cảm xa rời mất”
Rất dũng cảm, đấu tranh mạnh(kẻ trộm cắp Tân Cưong tinh ác nổi tiếng cả nứoc nhưng không dám tới Đông Bắc làm ăn).Ngưòi Đông Bắc thấy viẹc nghĩa là làm thích những việc không đâu. Phần đông ngưòi Đông Bắc rất lưong thiện, có lúc nhiệt tình đến mức ngưòi ta khó tiếp nhận. Có một số rất ít lòng dạ hẹp hòi, thích làm phỉ, xảo quyệt hung ác nên chú ý phòng ngừa.
Người Đông Bắ không cao to như một số miêu tả. Ngưòu Đông Bắc thích đánh nhau mà không tính hậu quả, khi đánh nhau ngưouì Đông Bắc thưòng tìm vũ khí nơi gầm nhất, chuyên đánh vào chỗ nguy hiểm(không ai muốn đánh nhau với ngưòi Đông Bắc) dễ bị lợi dụng làm kẻ giết ngưòi đánh thuê. Nhiều hộp đêm thích thuê ngưòi Đông Bắc làm bảo vệ. Tội phạm bạo lực ở Bắc Kinh chủ yếu là do ngưòi Đông Bắc làm, thu lộ phí đen trên mấy con đường ở Bắc Kinh về cơ bản đều là ngưòi Đông Bắc, tổ chức xã hội đen trên thị trường bán buôn tại Bắc Kinh đều do ngưòi Đông Bắc làm chủ
Xã hội đen tại Quảng Châu, Thâm Quyến, Hải Nam phần đông là ngưòi Đông Bắc, gần đây tại hầu hết các thàng phó lớn và vừa trong nứoc đều có nhóm tội phạm Đông Bắc xuất hiện(và cả tại Đông Âu, Nga, Bắc Mỹ, Nhật)  địư phưong có tửu lưọng lớn nhất Trung Quốc, tỷ lệ phụ nữ hút thuốc lá uống rượu cao nhất,
Có nhiều mỹ nữ, thân cao, chân dài, nhưng da không mịn lắm, tính cách quá bộc trực, thậm chí ngay trên xe công cộng cũng ăn to nói lớn.Gốc nền văn hoá quá mờ nhạt, thích trang điểm nhưng lại không biết trang điểm, Thế nhưng con gái Đông Bắc lại ngu dại đến đáng yêu, thích ai dù chết cũng không rời, hận ai có thể giết người không run tay, muốn lấy con gái Đông Bắc phải có sự chuẩn bị về tư tưỏng. Tuy vậy có số ít gái Đông Bắc không thua kém “em gái Xuyên”, “em gái Tưong” trong nghề
Ngưòi Đông Bắc tưong đối thông minh nhưng chịu khổ kém nên số nông dân vào thành phố làm thuê rất ít, và cũng ít ngưòi chuyên tâm làm kỹ thuật, tuy vậy có khả năng mở quán ăn, công ty.
Mấy năm gần đây, ngưòi Đông Bắc di dân tới Bắc Mỹ, Đông Âu tăng vọt, có một số ngưòi đã lập nên sự nghiệp, nhưng cũng có một số ngưòi bôi đen Trung Quốc. Tỷ lệ ngưòi Đông Bắc phạm tyội tại Bắc Kinh, khẳng định cao hơn người Hà Nam, có khả năng là tiếng nói có phần giống nhau cộng thêm nguời Đông Bắc và ngưòi Bắc Kinh có hàng ngàn mối liên hệ, số ngưòi công khai chửi nguời Đông Bắc tương đối ít hoặc là không dám chửi.
So sánh thêm, thấy ngưòi Liêu Ninh tròn trịa, kinh tế cũng phát triển nhất. Cơ sở thể dục thể thao như điền kinh, các loại bóng lớn là tỉnh tốt nhất trong các tỉnh. Ngưòi Hắc Long Giang tưong đối thô lỗ, giỏi hạ thủ Bắc Đại hoang mà(xã hội đen bức xạ cả nước) . Ngưòi Cát Lâm tưong đối quê có chú dụt dè “trứoc có sói, sau có hổ”sói là Liêu Ninh, hổ là Hắc Long Giang Điều kỳ lạ là tiếng Cáp Nhĩ Tân là tiếng vùng Đông Bắc gần gũi nhất với tiếng Bắc Kinh. Tiếng nói Đại Liên càng giống tiếng vùng Giao Đông. Ngưòi Đại Liên có cảm giác ưu việt, nhưng tưong đối hư vinh, cho là Đông Bắc chỉ có Đại Liên là đựoc, các thành phố khác đều chẳng ra sao.
Đàn ông Đông Bắc nói năng ngọt ngào, giỏi nịnh phụ nữ, nhưng đa số có khuynh hướng coi đàn ông là nhất, có ngưòi đánh vợ.
15. Người Sơn Đông
Quê hưong Khổng Mạnh, tỉnh của lễ nghiã, từ xưa Sơn Đông đã có nhiều tuớng, nhiều kẻ sĩ trung nghĩa.Có thể là do quá thẳng thắn nên ít có nhà âm mưu và hoàng đế. Hình tượng của người Sơn Đông nói chung khá tốt, đàn ông có tinh thần trách nhiệm cao, trung hậu, bộc trực, nặng tình người, trọng hiếu thuận, bên ngoài thô lỗ, bên trong tốt đẹp, được văn hoá nhà Nho tôi rèn, đặc biệt coi trọng quan hệ giao tiếp và tôn trọng đẳng cấp.
Quan niệm gia đình mạnh, rát thích hợp làm bố chồng; phụ nữ hiền hậu lo việc nhà, nhưng ngang ngựoc, chân tưong đối to, tiếng nói rất khó nghe. Ý thức quê cha đất tổ của người Sơn Đông rất nặng lòng tự hào rất mạnh. Ngưòi Sơn Đông nấu rượu giỏi nhưng phần lớn là rượu kém chất lượng. Ngưòi Sơn Đông thích ăn hành tỏi, nên phần lớn đều hôi mồm, nhưng ít ngưòi mắc bệnh ung thư, nói chung.ăn ít rau, cứ có hành tỏi là được.
Người Sơn Đông thích ăn màn thầu(bánh bột mì hấp không nhân) thân người cao lớn. Tíếng Sơn Đông nghe có vẻ thân thiết. Vùng ven biển rất giàu, nhất là vùng Thanh Đảo, Yên Đài, nghe nói kinh tế Sơn Đông sẽ nhanh chóng vượt Quảng Đông để trở thành nhất nứoc.
Quan niệm của ngưòi Giao Đông tưong đối mạnh, nhièu ngưòi Thanh Đảo cho rằng làm ngưòi Sơn Đông có chút thiệt. Đội bóng đá Thanh Đảo thi đấu quyết tử với đội bóng của tỉnh. Phụ nữ Thanh Đảo rất thời thưọng, mỹ nữ không ít, Một vài nơi trong tỉnh còn nghèo.
16. Ngưòi Giang Tô
Miền nam Giang Tô và miền bắc Giang Tô hoàn toàn không giống nhau. Miền nam mưa thuận gió hoà là nơi có nhiều tài tử giai nhân, trong lịch sử số ngưòi đỗ tiến sĩ đều nhiều hơn bất kỳ tỉnh nào, các đại gia nghệ thuạt, đại gia văn học, bậc thày khoa học đời nào cũng nhiều. Người nam Giang Tô nhã nhặn, có nhiều môn đệ thư huơng, nhà ở đẹp, món ăn ngon, con gái cũng đa tài đa nghệ, dịu hiền mê ngưòi( làm vợ rất tốt nhưng hay tiếng to tiếng nhỏ) . Nơi này mưa phùn nhièu, gió lành thổi khắp, ngay nam giưói cũng có tướng phụ nữ, da mịn, nói năng nhẹ nhàng, hành động từ tốn, giỏi tính toán, nhưng tinh ranh quá. Ngưòi ở đây rất thông minh khí chất thư sinh rất nồng, số ngưòi ra ngoài học tập đứng đầu cả nứoc.
Ngưòi nam Giang Tô rất tôn trọng pháp luật, trị an ở Nam Kinh, Tô Châu cũng đứng hàng đầu, kẻ gian trong khoa học phần lớn là ngưòi An Huy và bắc Giang Tô.Đàn ông Giang Tô nhu nhựoc dễ bị bắt nạt. Năm 1937, ngưòi Nhật một lúc sát hại hơn 30 vạn người mà nhiều người chạy không kịp. Năm 1644 quân Thanh vây thành Dưoing Châu, Giang Âm, một lính Mãn Thanh có thể giải 60 ngưòi ra pháp trưòng mà không phải trói, rồi lần lượt chém từng người, mà không ai dám chạy
Từ Châu là trung tâm của vùng bắc Giang Tô, ngưòi ở đây cao lớn.
Trước đây động một chút là khởi nghĩa, sau này lại nhiều ăn mày(trong lịch sử bắc Giang Tô, bắc An Huy nổi tiếng vì có nhiều ăn mày) Có tiền cũng đi ăn xin. Tiếng Từ Châu giống mà lại khônggiống tiếng Sơn Đông, tiếng Hà Nam, tựthành một giọng riêng. Bắc Giang Tô kinh tế tương đối lạc hậu, hình tưọng tại bên ngoài không hay lắm,, nhất là tính thích chiếm lợi nhỏ nổi tiếng số một. Trong bản tìm bạn trai của một cô gái Thượng Hải đã ghi “nhân sĩ bắc Giang Tô xin miễn bàn”
17. Người Thựơng Hải
Thượng Hải là thành phố phát triển nhất của Trung Quốc, tính bao dung kém, thịnh hành tiếng địa phương, ngưòi ngoại tỉnh khó hoà nhập. May mà không phải là thủ đô, nếu không ngay ngưòi Bắc Kinh cũng không coi ra gì, với ngưòi Thượng Hải ngưòi ngoại tỉnh nhất loạt đều là “dân nhà quê”. Thế nhưng Thưọng Hải mới có hơn một trăm năm lịch sử, có tới 1/3 dân Thưọng Hải là di dân Ninh Ba. Phụ nữ Thượng Hải cử chỉ dễ nhìn, ăn nói hoà nhã rất có phong cách nữ giới. Nhưng con gái Thưọng Hải không thích hợp với ngưòi ngoại tỉnh, phần lớn, chỉ thích lấy chồng Nhật, chồng Hàn quốc, trong đó lấy chồng Nhật là lý tưỏng của không ít cô.. Đàn ông Thượng Hải tiểu khí, tự tư, tính toán chi li, thưòng cãi vã hồi lâu trên đường phố, nhát gan, sợ vợ, thậm chí giặt cả đồ lót cho vợ, thưòng bị gọi là “thằng nhỏ”
Thực ra nếu nhìn từ góc độ khác sẽ thấy nam giói Thưọng Hải rất tôn trọng nữ giưói, chăm sóc vợ chu đáo. Trong tư giao người Thưọng Hải tương đối có lỹ trí, có thể là bạn tri âm về tinh thần. Cho nên có không ít nhà ngân hàng, thương nhân và học giả ngưòi thi nhân, nhưng khó có nhà thơ, võ tưóng và hiệp khách. Thương nhân Thưọng Hải đều là người tinh thông nghề nghiệp, vừa thông thạo hàng hoá vừa giỏi lý. Ngưòi Thưọng Hải kiếm tiền không giỏi, nhưng có tư cách, sinh hoạt nghiêm túc, biết giữu chữ tín, tông trọng luật pháp. Chất lưọng sản phẩm ThưọngHải đứng đầu cả nứoc. Ngưòi Thưọng Hải không tranh giành với người, thích hợp với việc kết bạn nhưng trước tiên phải làm cho họ nể mình.
18. Người An Huy
Từ xưa An Huy đã là nơi cùng khổ, ở giữa sông Trường giang và sông Hoài, thiên tai không dứt, mỗi lần chấe tranh, loạn  lạc đều không tránh An Huy. Người An Huy linh hoạt mềm dẻo không bằng người phương nam. cương nghị dũng mãnh không bằng người phương bắc, là tính cách quá độ của ngưòi phương bắc và ngưòi phương nam. Đàn ông An Huy chất phác ít nói, giỏi và nhanh nhạy trong suy nghĩ, chịu khổ được, kỹ thuật khá. Con gái An Huy mông lung, da trắng toát. Huyên Vô Vi nổi tiếng là tỉnh có nhiều bảo mẫu trong cả nước. Người An Huy giữ được nhiều mỹ đức truyền thống của dân tộc Trung Quốc. An Huy là tỉnh lớn có nhiều nông dân vầo thành phố làm thuê(sau tết nguyên đán có từng đoàn chuyên xa chở nông dân vào thành phố làm thuê quay lại Thưọng Hải) dân An Huy trên công trưòng khá nhiều.Tuy vậy thuơng nhân huyện Vi xưng hùng thế giới 300 năm. An Huy có ảnh hưỏng rất sâu xa tới chính trị và văn hoá cận đại Trung Quốc
Kinh tế An Huy hiện nay không nổi bật, thậm chí GDP không bằng một thành phố Tô Châu, Vô Tích, Thưòng Châu. Kêu gọi đầu tư khó, doanh nghiệp vừa mở cửa đã bị các loại phí làm sụp đổ, không làm anh chết cũng khiến anh phải bỏ chạy. Luôn mồm nói học Chiết Giang, học Sơn Đông nhưng chỉ học trên miệng, càng học khoảng cách càng lớn. Phựng Dưong là huyện thực hiện khoán đến hộ sớm nhất nước nhưng nay vẫn nghèo.
An Huy là tỉnh địa linh nhân kiệt, nhân tài ưu tú rất nhiều, mỗi năm  chạy ra tỉnh ngoài không ít. Thượng Hải là nơi ngưòi An Huy muốn tới nhất, nhưng về có bản người Thượng Hải lại coi ngưòi An Huy không ra gì. Nam Kinh là thành phố gương mẫu cả nước về trị an, tội phạm chủ yếu ở đó là người An Huy. Gạo nhiễm độc, thuốc giả đã huỷ hoại danh tiếng An Huy. Hợp Phì, và Trịnh Châu tập trung nhiều công ty lừa gạt. Nam An Huy phong cảnh rất đẹp là nơi du lịch phát triển.
19. Ngưòi Chiết Giang
Từ xưa là vùng đất hoang dại. Từ sau đời Đông Tấn khi mở mang Giang nam mới đựoc lhai thác. THời Nam Tống trở thành vùng giàu nhất Trung Quốc. Chiết Giang nhiều sôngnhiều núi, tiếng địa phương phức tạp như Phúc Kiến, tiếng Hàng Châu,tiếng Thiệu Hưng, tiéng Ninh Ba, tiếngd Đài Châu, tiếng Ô Châu chẳng ai nghe hiểu ai. Chiết Giang là tỉnh văn hoá lớn của Trung Quốc, có nhiều nhân tài”Giang nam nhiều sông nhiều núi nhiều tài tử”, nhưng hiện nay về giáo dục, khoa học, y tế, thể dục thể thao đều kém Giang Tô nhiều.
Trong lịch sử Chiết Giang đã từng có nhiều đại thưong nhân giàu có nhất thiên hạ, tài phiệt Chiết Giang là cơ sở của chính quyền Tưỏng Giói Thạch. Thương nhân An Huy là nhóm người biết kiếm tiền nhất nước. Đầu óc người Chiết Giang linh hoạt, giỏi suy tính, biết cách thay đổi., đoàn kết, thực tiễn. Phụ nữ dịu dàng như nước, chịu được khổ, buôn bán không thua nam giới  . Giầy da và quần áo của ngưòi Ôn Châu bán khắp thế giới. Ngưòi Chiết Giang đặt chan hàu như trên mọingành nghề của Trung Quốc như nhà đất, điện, khai thác mỏ, xây dựng, internet, kỹ thuật cao v.v… Trứoc đây Chiết Giang llà tỉnh xuất khẩu lao động lớn nhưng hiện nay ít thấy nông dân Chiét Giang vầo thành phố làm thuê vì họ đã hoàn thành tích luỹ tư bản nguyên thuỷ. Ngưòi Chiết Giang lấy bốn biển làm nhà, như kiến chạy khắp thiên hạ, hầu như xó xỉnh nào cũng có ngưòi Chiết Giang. Thương nhân Chiết Giang mà Ôn Châu là đại biểu được gọi là “người Do Thái Trung Quốc”
Năng lực sinh tồn của ngưòi Chiết Giang khiến ngưòi phương tây khiếp sợ. Trong đầu óc người Chiết Giang, buôn bán không có vùng miền, thị trưòng không có giới hạn. Chỉ cần kiếm được tiền thì dù là khuy áo, bật lửa, kính bút, giầy dép họ đều làm tất. Có tới 5 triệu người Chiết Giang thành đạt ở ngoài. Ngưòi Chiết Giang kinh doanh nhà đất khắp nước, khai thác than ở Sơn Tây, bán quần áo, giầy dép ở châu Âu, thậm chí mở siêu thị ở châu Phi.
Nhưng cũng có nhiều thưong nhân ngưòi Chiết Giang làm hàng giả bán hàng giả, buôn lậu . Giầy da, thắt lưng, quần áo Ôn Châu đã từn là đại danh từ cho sự giả mạo xấu xa, ảnh hưỏng nghiêm trọng tới danh tiếng hàng hoá Trung Quốc. Gần đây Mỹ tẩy chay hàng hoá Trung Quốc, Tây Ban nha đốt giầy Trung Quốc về cơ bản đều có liên quan tới ngưòi Chiết Giang, các cơ sở sắc tình ở Ô Châu nổi tiếng xấu cả nước. Chiết Giang cũng phân hoá hai cực, miền tây và một số nơi trong tỉnh còn nghèo.
20 .Ngưòi Giang Tây
Trong ngòi bút của Vưong Bột(nhà thơ Đưòng nổi tiếng), đây là “quê hưong của cá và gạo”. Các danh nhân văn hoá các đời nối nhau xuất hiện, Đào Uyên Minh, Vương An Thạch, Âu Dương Tu, Văn Thiên Tưòng, Thang Hiển Tổ…Lý học Trình Chu, tâm vuơng Lục vưong , Phật học Thiền tôn, Đạo học Lão Trang đều bắt nguồn ở Giang Tây, hoặc hình thành tại Giang Tây. Có thể nói Giang Tây chiếm một nửa văn hoá truyền thống ưu tú của Trung Quốc.
 Phần lớn ngưòi Giang Tây là ngưòi Khách Gia, cũng phần lớn là những dòng họ ở Trung nguyên phưong bắc thời Tấn, Đưòng di dân đến, là những người thừa kế văn hoá chính thống, được tôi rèn lâu dài tư tưỏng trung thành của nhà Nho và quan niệm vô vi của Đạo giáo, nên bằng lòng với hiện trạng, trung dung bảo thủ, trung thành, giữ chữ tín, ý thức mạo hiểm không sâu, quan niệm gia tộc rất mạnh, có tới 8994 nhà thờ họ tại Giang Tây, nhiều nhất nước, do vậy tiếp nhận tư duy mới, sự vật mới rất khó. Giang Tây thuộc vùng “đầu Ngô đuôi Sở” cộng thêm là thành phố trong nội địa, nên ngưòi Giang Tây có ý thức kinh tế tiểu nông như đóng của, bảo thủ, tự mãn tự rúc ở trình độ nhất định. Những tổ tiên của người Giang Tây phần lớn là chaỵ trốn chiến tranh mà đến nên tâm thái mong muốn hoà bình, an cư lạc nghiệp ảnh hưởng đến hậu duệ. Ngưòi Giang Tây thật thà, hàm súc, không khoe khoang và cũng không giỏi thể hiện.
Ngưòi Giang Tây khá giống câu nói “ngưòi sợ nổi tiếng, lợn sợ béo” đạo xử thế này có cái hay là quan hệ giao tiếp tưong đối hài hoà. Nhưng quan niệm này đồng thời cũng có khuyết điểm là không để cho ngưòi ta biết mình. Người Giang Tây nổi tiếng vì phong cách thận trọng. Con gái Giang Tây tuy không nổi tiếng phong tình như gái Hồ Nam sát ngay cạnh, nhưng tính nết hiền thục, nấu ăn rất giỏi.
Mặc dù là thủ phủ của tỉnh nhưng Nam Xưong là thành phố loại vừa miền trung của Trung Quốc, thành phố tương đối loạn, đầy rác rưởi, cữô nào cũng thấy ngưòi vi phạm kỷ luật trật tự, động một tí là cãi nhau. Cảnh Đức vốn được gọi là thủ đô sành sứ nay đã thành hư danh, hàng giả rất thịnh hành. Giang Tây là tỉnh nghèo nhất vùng Hoa Đông, số huyện nghèo đứng đầu cả nước, tại đây khó tìm ra một vùng giầu có.
21. Người Phúc Kiến
Phúc Kiến là tỉnh non xanh nứoc biếc nhưng giao thông rát kém, không đủ đát canh tác, chỉ giỏi buôn bán và lừa gạt. Nhiều Hoa Kiều và kiều bào ở Đài Loan. Bắc Mỹ, bắc Âu đều có ngưòi Phúc Kiến, ngoại tệ từ nứoc ngoài chảy về không dứt, các  thôn đều có ngân hàng. Ngưòi Phúc Kiến đặc biệt giỏi buôn bán, chăm chỉ chịu đựoc khổ, thích mạo hiểm năng lực thích ứng mạnh, thích thú giang hồ đó đây, không có học cũng làm ăn buôn bán(ngưòi đi học ở Phúc Kiến rất ít). Ngưòi Phúc Kiến không dễ tin ngưòi.
 Quần áo, giầy mũ Tuyền Châu, Tân Giang, Thạch Sư nổi tiếng thiên hạ, ngưòi huyện Sa mở quán ăn nhỏ khắp nước. Ngưòi Phu Điền ngoài việc bán quần áo còn có phưong thuốc gia truyền chữa bệnh liên quan đến tính biệt, có tới80% hiệu thuốc chữa các bệnh thuộc loại đó có ông chủ là ngưòi vùng này. Là tỉnh có nhiều tiếng địa phương như tiếng Phúc Châu, tiếng Ninh Đức, tiếng Tuyền Châu, tiếng Long Nhâm.. chẳng ai nghe hiểu ai. Nghe nói có nơi người bên này núi nghe không hiểu người bên kia núi nói, không khuyếch đại chút nào.. Dùng gái để lừa tiền tại Phúc Châu một dạo nổi tiếng.
22 . Người Đài Loan
Ngưòi Đài Loan hiện nay chủ yếu là do ngưòi dân đã ở đó từ trước, di dân nam Phúc Kiến thời kỳ đầu và di dân đại lục khi Quốc Dân đảng chạy ra đó tổ thành. Đài Loan là văn hoá đảo nhỏ là một nên văn hoá á Trung Quốc phụ thuộc Trung Quốc. Ngưòi Nhật thống trị Đài Loan 50 năm, ngưòi Đài Loan bị coi là công dânhạng hai, quan văn làm không đến trưởng khoa(khoa một đơn vị hành chính dưói cấp phòng) quan võ không đến cấp tá. Nghe nói ngưòi Đài Loan hiện nay ít có cảm giác đồng thuận với ngưòi Trung Quốc đại lục phần lớn chỉ cho mình là ngưòi Đài Loan, đồng thời đã bị tây hoá nặng nề
Thế nhưng người Đài Loan đến đại lục kinh doanh khong thích bàn chuyện chính trị. Ngưòi Đài Loan vô cùng mê tín, rát thích bao “nàng hai”. Tuy vậy họ sống có qui củ, có thứ tự trên dưới già trẻ, trọng nam khinh nữ.
Người Đài Loan trên đảo có cảm giác quần thể rất mạnh, nhưng các phe phái đấu tranh rất dữ. tuy vậy tính cách nhu nhược. Mafia Đài Loan thích dùng vũ khí tất nhiên là vũ sĩ đao. Tuy vậy mafia không được coi là chính đạo ở đây.
23 . Người Tứ Xuyên
Tứ Xuyên có thể coi là tỉnh lớn văn hoá trong lịch sử, mỗi đời đều có nhiều nhân tài. Nổi tiếng có nhà thơ Lý Bạch đời Đường(cũng có thuyết nói là ngưòi Cam Túc)  có “ba Tô” đời Tống(chỉ 3 cha con nhà văn Tô Tuần), các nhà văn hiện đại Ba Kim, Quách Mạt Nhược, các chính khách tướng lĩnh như Chu Đức, Lưu Bá Thừa, Trần Nghị, Đặng Tiểu Bình v.v.. đều là ngưòi Tứ Xuyên. Đất Ba Thục thời xưa được gọi là “thiên phủ chi quốc”(kho của nhà trời), sản vật dồi dào, Lưu Bang, Lưu Bị đều lấy đó làm căn cứ địa, dân số  khá đông. Nhưng bị trói buộc, hạn chế bởi văn hoá bồn địa(vùng trũng), bản tính bảo thủ, khép kín. Người Tứ Xuyên hiếu chiến, hay chửi bậy, họng to nói lớn. Đàn ông Tứ Xuyên phần lớn béo lùn, mặt to, mũi nghiêng, mắt to, thông minh lanh lợi. Thích uống rượu, kỹ thuật nấu rượu nhất Trung Quốc, có nhiều loại rượu ngon.
Ngưòi Tứ Xuyên giỏi ăn uống chơi bời, thích đánh bạc. Thích ăn cay, lẩu cay nổi tiếng cả nước. Thành Đô là một thành phố nhàn tản, nhiều ngưòi chơi chim cảnh, hoặc đi dạo phố. Nhiều thành phố thị trấn ở Tứ Xuyên thiếu sức sống. Năng lực phụ nữ Tứ Xuyên rất mạnh, nhiều đàn ông phải dựa vào vợ nuôi sống. Mỹ nữ Tứ Xuyên rất nhiều, là tỉnh lớn nhiều mỹ nữ nhất Trung Quốc. Số lưọng làm “vợ hai” đông nhất nước, số phụ nữ phong trần cũng đông nhất nước. Tứ Xuyên là tỉnh có nhiều nông dân vầo thành phố làm thuê, họ tới hầu hết các thành phố lớn trong nước, nhất là vùng đồng bằng sông Châu Giang.
24. Ngưòi Trùng Khánh
Thời xưa Tứ Xuyên thuộc đất của ngưòi Thục, Trùng Khánh thuộc đất của ngưòi Ba, người Ba và ngưòi Thục coi nhau là tử thù(hiện nay hai đội bóng hai nơi này gặp nhau là tử chiến) Nhưng Ba Thục đã trải qua mấy lần chiến tranh loạn lạc, thời Minh, Thanh khi quân đội vào Xuyên đã gây ra nhiều cuộc thảm sát, ngưòi Thổ Giả dưòng như bị giết gần hết(đến đầu đời Thanh chỉ còn 90 vạn ngưòi) Vì vậy dân Tứ Xuyên ngày nay là sự hoà nhập của di dân Hồ, Quảng, Vân Nam. Trùng Khánh là thành phố trên núi, còn bề bộn lắm.
Số ngưòi Trùng Khánh nghiện hút tương đối nhiều, thịnh hành đánh bạc, ngưòi mở quán trà đông, uống trà nhiều có khả năng để đánh bạc, chủ quán trà phần lớn là mafia. Mùa hè chỗ nào cũng thấy ngưòi đầu trọc chân đất đi du ngoạn hoặc vây quanh nồi lẩu sặc mùi ớt  ăn uống. Đàn ông Trùng Khánh hiếu sắc. Trùng Khánh  ban đêm được coi là Hồng Công nhỏ, trăm hồng ngàn tía vô cùng phồn hoa. Mấy huyện của Trùng Khánh dù kinh tế chưa ra làm sao nhưng ngành dịch vụ rất sôi nổi. Ngưòi Trùng Khánh không giống ngưòi Hồ Bắc làm xong rồi mới chơi mà lại chơi rồi mới làm.
Phụ nữ Trùng Khánh cũng giống như phụ nữ Tứ Xuyên có thói quen chơi mạt chược. Họ không ưa đàn ông bản địa mà thích rời xa quê hương đi làm thuê. Trùng Khánh có trên 32 triệu dân, nhưng số ngưòi có trình độ từ trung cấp chuyên nghiệp trở lên chỉ có hơn 1 triệu, vào khoảng 3%. Ngưòi Tứ Xuyên đều cho rằng Trùng Khánh chỉ là một bộ phận của Tứ Xuyên, nhưng người Trùng Khánh sau khi được tách ra thành thành phố trực thuộc trung ương đã trở mặt không cho là như vậy. Tuy nhiên về nguồn gốc lịch sử hai nơi không có khác biệt lớn.
25. Người Quý Châu
Quý Châu là tỉnh dễ bị lãng quên nhất, nghe nói khi thành lập tỉnh còn tranh cãi không thôi. Quý Chây là tỉnh duy nhất tại Trung Quốc không có đồng bằng, vào Quý Châu như vào một đất nước toàn núi đồi, hầu như không thấy một mảnh đất bằng phẳng nào lớn một chút.
Dân vùng núi có cuộc sống tưong đối nghèo nàn. Thành phố thủ phủ Quý Dương có hơn 1 triệu dân, gần đây được Cục Khí tưọng quốc gia cho là “thủ đô nghỉ mát của Trung Quốc” khiến ngưòi Quý Dương rất tự hào đắc ý. Tuân Nghĩa là nơi Hồng quân đi qua trên đưòng trường chinh, với cuộc họp mang tính lịch sử mà nổi tiếng.
Trong 3 tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên tập quán ăn uống và ngôn ngữ của Quý Châu gần với Tứ Xuyên hơn. Quý Châu có thể coi như tỉnh của dân di cư, ngoài một số dan tộc thiểu số như Mèo, Bố Y… ra, ngưòi Hán đến đó đều qua mấy lần di dân lớn. Do mấy nguên nhân như là miền núi xa xôi, giao thông không tiện, phát triển chậm, văn hoá lạc hậu.. Quý Châu ít có nhân tài. Người Qưúy Châu tại các tỉnh trong nội địa, khoả mạnh hay làm, nhưng tinh thần chịu khổ không bằng người Tứ Xuyên. Gàn đây số nông dân vào thành phố làm thuê tăng nhiều, phần lứon tới đồng bằng sông Chau Giang, số thiếu nữ lâm vào cảnh phong trần không ít.
26. Người Vân Nam
Trong 3 tỉnh vùng Tây Nam, Vân Nam là tỉnh có mầu sắc vùng biên nhất. Thời Hán Vũ đế đựoc gọi là “đám mây đầy màu sắc ở phưong nam”. Thành phố thủ phủ Côn Minh bốn mùa là xuân khí hậu tốt lành cảnh vật tuyệt đẹp. Vân Nam là tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số nhất Trung Quốc, Các dân tộc đều có văn hoá độc đáo của mình như ca múa của dân tộc Bạch tại Đại Lý, nhạc cổ của tộc Nạp Tây vùng Lệ Giang. Dân tộc Thái ở Xi Song Bản Na phong tình, đều là những điểm du lịch đông khách. Nhìn chung do được thiên nhiên ưu đãi về địa lý và môi trường văn hoá nên Vân Nam được coi là tỉnh có sức hấp dẫn lớn về du lịch
Vân Nam phát triển tưong đối muộn vì ngưòi nội địa rất ít muốn tới vùng đất xa xôi này. Sau thời cận đại mới có người tới . Những ngưòi nổi tiếng của Vân Nam là nhà hàng hải Trịnh Hoà, nhà âm nhạc Nhiếp Nhĩ, nhà triết học Ngãi Tư Kỳ. Ưu đãi của thiên nhiên đã khiến ngưòi Vân Nam phải trả bằng tính khép kin. So sánh với ngưòi Tứ Xuyên, ngưòi Vân Nam tỏ ra thoả mãn với cái vòng nho nhỏ của mình, an cư lạc nghiệp, tầm nhìn ngắn hẹp, tính cách nhu nhược, ít ra ngoài, rất ít gặp ngưòi Vân Nam tại các nơi khác trong nuớc.
Kinh tế Vân Nam phát triển không hài hoà, còn nhiều vùng nghèo. Thuốc lá là ngành công nghiệp chủ đạo và cũng là tỉnh lớn nhất về ma tuý.Có vùng biên giới gần “tam giác vàng”, rất nhiều người kiếm sống bắng cách buôn ma tuý, có nhiều “thôn gái goá”(đàn ông bị bắn chết)
 Vân Nam là tỉnh khá đông dân(45 triệu), người Vân Nam nhỏ bé ít trai tài gái sắc
27. Người Tây Tạng
Có nguồn gốc là hậu duệ của Thổ Phiên thời xa xưa, và pha tạp với huyết thống thổ dân Tây bắc. Vưong triều Thổ phiên Tùng Tán Can Bố thịnh trị một thời. Sau khi Hốt Tất Liệt chinh tây mới bị đưa hẳn vào bản đồ Trung Quốc. Người Tây Tạng mang khí hậu cao nguyên, tia tử ngoại ở đây chiếu khá mạnh, sắc mặt người đen, da có màu giống da ngưòi Ấn Độ, tuy vậy không đen đều. Đàn ông ngưòi Tạng tóc quăn. Phụ nữ Tây Tạng không đẹp. Ngưòi Tây Tạng coi trọng thờ cúng, chân thật mà khoan dung. Tây Tạng là nước Phật, ở đây không có đạo nào khác.
Nói chung người Tây Tạng ít nói chuyện vệ sinh( nghe nói rất nhiều ngưòi chỉ tắm rửa khi mới chào đời và sau khi chết). Họ hiếu khách, thường mời uống trà sữa, rượu hoa quả. Vùng núi phía nam là “Giang Nam của Tây Tạng” có khí hậu á nhiệt đới, sản vật dồi dào, là nơi bắt nguồn của văn minh Tây Tạng nhưng phần lớn bị Ấn Độ chiếm đóng(120.000km2, lớn hơn tỉnh Chiết Giang) là một bang của Ấn Độ. Ceylan vốn là thuộc quốc của Tây Tạng, “Tạng độc”(tổ chức ngưòi Tạng đòi độc lập) tại hải ngoại được Ấn Độ, Âu Mỹ ủng hộ. Ngưòi Tây Tạng có quầy hàng nhỏ tại nhiều nơi trong nuớc, bán một số đồ trang sức đặc sắc Tây Tạng, so với người Duy Ngô Nhĩ(Urge) thì tưong đối ôn hoà, ít có tội phạm bạo lực. Ngưòi Hán ở Tây Tạng chưa hình thành văn hoá địa vực, chủ yếu là ngưòi Tứ Xuyên, Trùng Khánh v.v. đến Tây Tạng buôn bán và làm nhân viên. Diện Tích Tây Tạng rộng lớn, dân số ít, khí hậu khắc nghiệt, ngưòi Hán chủ yếu tập trung tại các thành phố, phần đông ngưòi Tạng đã qua cuộc sống du mục.
28. Người Thiểm Tây
Thiểm Tây là nơi phát nguyên nên văn minh truyền thống Trung Quốc, ở đây có thể tìm thấy dấu vết ban đầu của Hoàng Đế(ông tổ nhân văn ban đầu” của Hoa Hạ. Các triều đại Tây Chu, Tần, Tây Hán, Tuỳ, Đường đều đóng đô ở đây, nghe nói có rất nhiều thôn trang cứ đào đất lên là thấy văn vật. Có rất nhiều danh nhân trong lịch sử, Bạch Cư Dị, Tư Mã Thiên, Lỹ Tự Thành… đều là ngưòi Thiểm Tây. Cơ thể ngưòi Thiểm Tây phát triển đều, rất khỏe, quân Tần xưa được mệnh danh là “đội quân hổ báo”, khiến quân chư hầu nghe thấy gió là bỏ chạy
Ngưòi mặt vuông dài rất phổ biến, chất phác thật tàh nhưng lại sảng khoái hào phóng. Nhưng họkhá bảo thủ, bằng lòngvới hiện trạng, thích hò hát nhưng không giỏi kiếm tiền do vậy về tổng thể, Thiểm Tây vẫn là tỉnh nghèo.
Ngưòi ThiểmTây không những thích hát dân ca mà chửi ngưòi không thua người Đông Bắc. Ngưòi Thiểm Tây ăn uống giản dị, thích ăn thịt thái to, uống rượu bằng bát. Đàn ông Thiểm Tây quyến luyến gia đình, ít ngưòi ham gái, càng không có “vợ hai”. Con Gái Thiểm bắc dịu dàng nhưng nội tâm cưong nghị.
Thiểm Tây có nhiều món ăn bình dân nổi tiếng, nhưng phần lớn là món ăn của dân tộc Hồ. Tây An l;à cố đô lớn nhất của Trung Quốc, đại học Tay An là đại học nổi tiếng của vùng tây. Ngưòi Tây An tương đối xảo quyệt bị coi là xấu nhất trong vùngTây Bắc. Vùng Thiểm bác tuy nghèo nhưng dân gian hiền hậu do đó đảng cộng sản Trung Quốc mới đứng đựoc ở đó lâu dài; phong tục, ngữ ngôn Thiểm bắc gần gũi với Tứ Xuyên, Hồ Bắc.
29 . Ngưòi Ninh Hạ
Ninh Hạ là nơi tập trung ngưòi Hồi đông nhất Trung Quốc, dân Hồi chiếm 1/3 dân số trong tỉnh. Dân Hồi đến từ Trung Á tạp cư với dân bản địa . Theo đạo islam, thức ăn đơn giản, thích ăn thịt bò, cừu, kiêng thịt lợn, thích đội mũ trắng không vành. Diện tích Ninh Hạ nhỏ, có 6 triệu dân, ngưòi mang họ Mã đông nhất, thổ phỉ “Mã gia quân” nổi tiếng ở Tây bắc. Ngưòi Hán ở Ninh Hạ rất ít là thổ phiên, phần lớn đến từ Sơn Tây, thời Minh di dân đến khai hoang có tới hàng chục vạn ngưòi . Phần lớn Ninh Hạ là sa mạc.
Rất nhiều ngưòi Ninh Hạ nhìnbên ngoài thấy huanh cá nhưng thực ra trong lòng nhân hậu, đối xử với ngưòi chân thành. Kinh tế Ninh Hạ tương đối lạc hậu, không có nơi nào giầu có, rất ít có danh nhân, giống với các tỉnh tây bắc khác tính ccáh ngưòi nơi đay bộc trực, bảo thủ kém thông minh. Khôngcó mỹ nữ. Ngân Xuyên là thủ phủ tỉnh nhưng qui mô chỉ bằng thành phố loại vừa vùng duyên hải.
30. Người Cam Túc
TỪ xưa Cam Túc đã là vùng biên tái, đất đai chủ yếu là hoàng thổ vấ mạc. Rất nhiều địa phưong “xuân phong bất độ Ngọc Môn Quan”(gió xuân không tới Ngọc môn quan) hoặc “Tây xuất Dương quan vô cố nhân”(ra khỏi tây Dưong quan là không có bạn) có thể nói là vô cùng thê lưong. Tìa nguyên văn hoá rất phong phú nhất là văn hoá Đôn Hoàng, thứ nữa là con đưòng tơ lụa. Danh nhân Cam Túc trong lịch sử có Phi tuớng quân Lý Quảng, Đưòng Cao Tôn Lỹ Zuyên, “thi tiên” Lý Bạch nghe nói quê ở Lũng Tây. Các nơi ở CamTúc đều nghèo.Ở một góc Tay bắc trong lịch sử thường loạn lạc không yên, nơi chính quyền giao tiếp dân tộc hội hợp
Cũng có thể do là nơi phân tranh trong lịch sử, nên nơi này bị nhiều vết thương từ bên ngoài và đã ảnh hưỏng nhiều tới tính cách người Cam Túc rất lớn, như quá bảo thủ, ít sáng tạo, chậm tiếp thu cái mới. Thành phố Lan Châu bốn mặt là núi, ô nhiễm nặng nề nhưng con gái ăn nói rất cởi mở. Ninh Hội là huyện nghèo cấp quốc gia, hiện nay ngay nước uống cũng còn là vấn đề nhưng là nơi năm đó Hồng quân hội sư trên đưòng trường chinh, tuy vậy dân rất hiếu học. Nghe nói chỉ riêng vùng thung lũng Silicon Bắc Kinh đã có tới hơn 1000 nhân tài cao cấp ngưòi Ninh Hội. Có thể vì là vùng sa mạc nên ngưòi Cam Túc phần đông mặt đỏ, thân ngưòi khoẻ mạnh,ít ốm vặt.
31. Người Thanh Hải
Câu nói “Ông mày đứng đái ở đầu Tam Giang thì có tới hai phần ba ngưòi Trung Quốc uống được” là để hình dung ngưòi Thanh Hải. Thanh Hải là nguồn nước lớn nhất Trung Quốc. Thanh Hải rộng tới 720.000 km2 nhưng chỉ có 5 triệu dân, nếu chỉ xét riêng về dân số sợ không tính nổi là một tỉnh. Dân cư chủ yếu là ngưòi Hán, ngưòi Tạng(trong lịch sử phần lớn thuộc vùng Tạng, hiện nay ngưòi Hán đã chiếm ưu thế tuyệt đối) Do dân số ítlại là vùng tụ cư của nhiều dân tộc cho nên không hình thành văn hoá địa vực độc đáo. Trên cao nguyên tia tử ngoại chiếu mạnh nên người sống ở đó có nứoc da đen nâu, tính cách sảng khoái, chất phác, lưong thiện, trung hậu, chưa bị ngoại giới làm ô nhiễm. Do ở sâu trong nội địa, nên học phong kém, khép kín, ít va đập, phát triển chậm, không có ngành sản xuất then chốt, chủ yếu là dựa vào xuất nguyên liệu, ít dân buôn, yên tâm với hiện trạng, hầu như chưa có danh nhân. Ngưòi Thanh Hải có tửu lượng có thể nói là đứng đầu cả nước. Nghe nói tại vùng dân tộc ít ngưòi rất dễ mua được súng. Thủ phủ Tây Ninh chỉ là một thành phố loại vừa, một số thành phố khác thực ra chỉ là thị trấn nhỏ.
32. Người Tân Cưong
Diện tích rộng lớn, tài nguyên phong phú, là tỉnh giầu nhất vùng Tây Bắc. Huyết thống và thành phần dân tộc khá phức tạp, nguồn gốc sớm nhất là Hung Nô rồi đến Đột Quyết rồi lại hỗn tạp với Mông Cổ,Tacta để hình thành dân tộc Duy Ngô Nhĩ và các dân tộc ít người khác. Tộc Duy Ngô Nhĩ thuộc hệ ngữ ngôn Đột Quyết, có nguồn gốc giống với  dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ , thực ra khá gần gũi với người da trắng. Phần lớn dân tộc thiểu số tụ cư tại miền nam, và phần đông theo đạo islam. Dân tộc thiểu số giỏi ca múa, mỗi khi vào dịp lễ hội islam già trẻ gái trai đều cuồng hoan hết sức. Ngưòi Duy Ngô Nhĩ hào sảng, nhiệt tình, hiếu khách, một khi đã kết bạn là mang hết rượu ngon thức nhắm tốt ra thết khách, khiến khách có cảm giác lầ khách nhưng như về nhà mình. Tuy vậy kiêng cấm nhiều, ngưòi ngoài tới nếu không am hiểu rất dễ bị trở mặt. Nữ giới cấm mặc quần áo hở hang, cấm đánh dắm(dù là kêu hay xịt). Không được ăn thịt lợn, lừa, chó.
Đàn ông Duy Ngô nhĩ nói chung đẹp trai, thân người cao lớn, mặt có góc cạnh, lộ rõ khí chất đàn ông. Phụ nữ có rất nhiều ngưòi đẹp mang đặc sắc Trung Á. Ngưòi Duy Ngô Nhĩ rất ít khi kết hôn với ngưòi Hán, tại vùng xa phía nam thế lực “Đông Đột”(một tổ chức chống đối) khá mạnh có mặt tại Đức, Mỹ, Australia, THổ Nhic Kỳ v.v.Những ngưòi Duy Ngô Nhĩ giầu có thưong kinh doanh cửa hàng ăn của dân tộc tại các thành phố lớn trong nội địa.
Do nghèo khổ nên kẻ trộm ngưòi Duy Ngô nhĩ có mặt tại hầu hết các thành phố lớn trong nuớc, vì sự doàn kết dân tộc chính quyền địa phưong không dám nghiêm trị, khién có kẻ không sợ dám cong khai trấn lột,ổtong tộc ngưòi Đông Hương, Duy Ngô Nhĩ có nhiều ngưòi buôn bán ma tuý, gần đây còn tham gia các trò lừa gạt, bán hàng giả. Người Hán ở Tân Cưong có lịch sử ngắn ngủi về cơ bàn là ngưòi trong các binh đoàn xây dựng tại đây sau khi phục viên đã ở lại và một số thanh niên lên núi xuống làng thời cách mạng văn hoá, và một số nông dân nghèo ngưòi Hà Nam, Hồ Bắc.. đến mưu sinh, nên chưa hình thành văn hoá địa vực rõ rệt, họ tập trung tại một số vùng như Urumqi, Shihezi, Karamay
Tính cách ngưòi các dân tộc Tân Cưong bộc trực, nhiệt tình, hiếu khách.

Nguồn: Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam  
http://www.vncold.vn/Web/Content.aspx?distid=2696

1 nhận xét:

  1. Khi nào mới có "tư liệu, tính cách người các tỉnh tại Việt Nam" ?

    Trả lờiXóa

Hoan nghênh mọi ý kiến thảo luận, nhưng làm ơn viết tiếng Việt có dấu và không chửi tục.

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này