Thứ Ba, 12 tháng 3, 2013

Ở nhà nhất mẹ nhì con...

Con người, chữ con đi trước chữ người đi sau! Ông trời công bằng thật! Ngay danh từ này đã chỉ rõ con người dứt khoát phần xấu xí nhiều hơn phần tốt đẹp! Điều này nhiều dân tộc khác đã thừa nhận. Nhưng người Việt Nam thì hình như không muốn nhận mình xấu xí hoặc nghĩ rằng người khác xấu, chứ không phải bản thân mình (!?)
Xin dẫn lại dưới đây đường link tới một bài viết mới xuất hiện trên Vietnamnet nhân ngày 8/3/2013 để mọi người tiện tham khảo bài viết và cả những lời bình. 
Thật ra bài viết đó chỉ mới đề cập một vài trường hợp cụ thể  của một số người Việt Nam đến Châu Âu, hầu hết thuộc giới quan chức đi công tác hoặc người đi du lịch, tức là đều thuộc tầng lớp khá giả trong xã hội Việt Nam. Nếu xét đến những trường hợp khác thuộc các đối tượng khác nhau và đến các vùng lãnh thổ khác nhau, thì tình hình chắc còn sinh động và hãi hùng hơn thế!. Được biết khi người Việt đến các nước kém phát triển hơn mình (như Campuchia, Lào và Châu Phi...) cũng vẫn tỏ ra xấu xí hơn thì phải (?). Nhân bài viết có nói về thói xấu xỉa răng..., tôi nhớ lại đã từng chứng kiến cảnh một ông xỉa răng cứ cà cà cái que tăm vào hàm răng, rồi búng tách một cái...trong sự kinh ngạc của những người nước ngoài xung quanh! Chuyện mang điếu cày vào khách sạn 5 sao cũng rất rắc rối, vậy mà cũng có người cho là đáng tự hào...thật khó hiểu(?)
 
Một cảnh xấu xí ở VN
Ngẫm nghĩ mãi vẫn chưa tìm ra nguyên nhân tại sao có nhiều điều "không giống ai" trong quản lý và điều hành kinh tế-chính trị-xã hội Việt Nam và chúng cứ ngang nhiên tiếp diễn mãi Phải chăng đó vẫn là câu chuyện của câu ngạn ngữ cổ xưa " nhà nhất mẹ nhì con..." và khi ra đường (ra nước ngoài) thì con người Việt thường bị "phô" ra như thế, và đất nước Việt Nam thì bị lạc lỏng khó hòa nhập với thế giới ? Nhiều người đ lỗi cho ngành giáo dục, ngành văn hóa, thậm chí đ lỗi cho hướng dẫn viên du lịch hay nhân viên Sứ quán tháp tùng không chỉ dẫn cn k, v.v... Tôi nghĩ, phần chính là lo mỗi người, phần còn lại do hai Ông Nhà nước và Trời. Bạn nghĩ sao?        

Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2013

Đâu chỉ nhầm cờ

Vụ sách giáo khoa in cờ TQ là một bằng chứng nữa về tình trạng (nếu không nói là "nảo trạng") lẫn lộn bạn/thù, tù mù chiến lược của đất nước ta hiện nay -Xem thêm tại đây: http://trankinhnghi.blogspot.com/2012/12/lan-lon-banthu-tu-mu-chien-luoc.html

Ngay cả khi sự việc đã vỡ lỡ ra rồi mà những người có trách nhiệm vẫn không nhận ra vấn đề lại còn biện bạch, "tiếc của"...chỉ định thay trang nào có lỗi để giữ lại quyễn sách!  Không trách trên cao thì mù mờ kiểu cấp cao, bên dưới thì mù mờ kiểu cấp dưới(?) Vấn đề đâu chỉ ở việc in nhầm lá cờ (?); nó bắt nguồn từ tư duy sai lệch một cách có hệ thống. Hãy nghe ý kiến phân tích mà tôi cho là "chuẩn" của nhà nghiên cứu Phạm Toàn tại đây
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2013/03/130306_pham_toan_sach_in_co_tq.shtml  

Thiết nghĩ, vấn đề không thể khắc phục bằng việc chỉ thay một vài trang sách, mà phải thay toàn bộ cách tư duy của đội ngũ lãnh đạo quản lý,.và không chỉ trong lĩnh vực sách giáo khoa, mà trong toàn bộ hệ thống chính trị-xã hội của đất nước.
   

Thứ Ba, 5 tháng 3, 2013

Chuyện cũ nhớ lại: Ngoại giao làm xây dựng

Tại các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài có một loại công việc không thuộc danh mục “hoạt động ngoại giao” nhưng không thể thiếu, đó là việc chăm lo nhà cửa trụ sở để cơ quan "an cư lạc nghiệp".  Do đặc thù của ngành, công việc này thường do cán bộ ngoại giao kiêm nhiệm. Bản thân tôi tuy chỉ có 3 lần đi công tác nhiệm kỳ sứ quán, nhưng 2 nhiệm kỳ phải làm công việc bắt đắc dĩ này với những kỷ niệm vui, buồn khó quên. 
   
Lần thứ nhất khi tôi đi nhiệm kỳ sứ quán tại Harare, Zimbabwe từ 1985-1988. Thời kỳ đó kinh tế Việt Nam đang kiệt quệ, Chính phủ chủ trương cắt giảm hàng loạt Cơ quan đại diện thường trú ở nước ngoài, nhưng lại mở Đại sứ quán mới tại Zimbabwe vì nước này sắp trở thành chủ nhà của Hội nghị cấp cao KLK 8. Để tiết kiệm, biên chế Sứ quán chỉ có 4-5 người kể cả đại sứ và phu nhân. Đó là nhiệm kỳ công tác sứ quán đầu tiên của tôi sau 15 năm ra trường. Với chức vụ "bí bét" (bí thư 3) kiêm phiên dịch tiếng Anh, trên thực tế tôi phải làm mọi việc "thượng vàng" thì ít, nhưng "hạ cám" thì nhiều, trong đó có một việc tôi chưa bao giờ làm, đó là mua, bán và sửa chữa nhà.

Số là khi tôi sang, Đại sứ quán đã có trụ sở đầy đủ rồi. Nó đã được các nhóm tiền trạm thực hiện khoảng nửa năm trước. Đó là một căn nhà 1 tầng khá to nằm giữa khu vườn rộng như công viên trên mặt một đại lộ dẫn vào trung tâm Thành phố, với giá 50.000 USD. Đó là giá bình thường ở nước Zimbabwe mới độc lập, nhưng là giá rẽ bất ngờ so với Việt Nam! Tuy nhiên, đúng lúc chỉ còn hơn 1 tháng trước ngày Hội nghị cấp cao, bổng xuất hiện hàng loạt các vết nứt nẻ trên tường. trần và sàn nhà. Lúc đó  là đầu mùa mưa. và cứ mưa là phòng nào cũng dột ướt sủng... Mọi người mất  ăn mất ngũ đã đành nhưng, vấn đề là làm sao khắc phục để kịp đón Đoàn trong nước sắp sang dự Hội nghị. Trước tình hình khẩn trương, Đại sứ Võ Anh Tuấn vốn là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp lão luyện và là người rất coi trọng hình thức, đã quyết định điện về Bộ  đề nghị cho mua ngay một ngôi nhà khác thay thế. Đó là một đề nghị phi thường vào thời đó, nhưng đã được Bộ chấp thuận ngay, có lẽ chủ yếu là nhờ uy tín của ông Đại sứ.

 Tòa Đại sứ  VN tại Harare (1986-89)
Sự cố bất thường đó khiến sứ mệnh của tôi dường như chuyển sang một hướng khác. Tôi lập tức được giao nhiệm vụ tìm hiểu học hỏi kinh nghiệm và tìm nhà để mua, qua đó được biết,  hầu hết nhà một tầng ở Harare thường được xây kết cấu mống nông, tường mỏng trên nền đất đỏ cao nguyên luôn co giản giữa mùa khô và mùa mưa, do đó chuyện nứt nẻ là rất bình thường. Chỉ nhà 2 tầng trở lên xây mống sâu, tường dầy thì ít bị hiện tượng này. Dân địa phương rất biết cách  “chung sống” với hiện tượng thiên nhiên đó, khi cần bán nhà họ “nguỵ trang” với chi phí thấp miễn sao bán được nhà trước mùa mưa là được. Người nước ngoài không biết nên mua phải nhà loại như thế cũng không có gì lạ.  Từ kinh nghiệm này, sau khi so sánh cân nhắc mọi yếu tố, ông Đại sứ đã quyết định mua một ngôi nhà 2 tầng tại một khu dân cư chủ yếu của người da trắng với một giá phải chăng là 100.000 USD. Nhà này chỉ cách nhà cũ khoảng 1 cây số, có thể đi bộ qua lại được. Mua nhà xong, cả Sứ quán liền bắt tay vào công việc sắp xếp lại cho mục đích sử dụng vừa làm trụ sở vừa làm nhà ở. Công việc lặt vặt cũng nhiều như dọn dẹp lau chuồi, sơn quét, lắp đặt trang thiết bị, treo quốc huy. gắn biển hiệu, dựng cột cờ...  Bây giờ  nói lại thì đơn giản, nhưng hồi đó là trăm thứ bà dằn...nhưng chỉ có mấy người làm, không có kinh phí thuê thợ địa phương, mà nếu thuê, họ cũng không làm ngoài giờ trong khi thời gian còn rất ít. Theo nội quy cơ quan thời đó, đi đâu cũng phải có hai người, nên cũng khó phân công mỗi người làm một việc... May mà lúc đó có anh Tâm (lái xe của Đại sứ) nguyên là Việt kiều ở Pháp về nên đỡ "rách việc". Cuối cùng mọi việc đã kịp hoàn tất trước khi Đoàn trong nước sang. 

Sau Hội nghi cấp cao, Sứ quán lại phải lo bán ngôi nhà dột để trả lại kinh phí Nhà nước. Với những kinh nghiệm vừa học được, tôi và anh Tâm đã "tút" lại căn nhà đó rồi rao bán vào đầu mùa khô. Một người Zimbabwe sống lâu năm ở Anh về nước định cư (có lẽ cũng mù mờ như người nước ngoài) đã mua căn nhà đó với giá 75.000 USD, tức là Sứ quán lãi được 25.000 USD bằng 2 tháng kinh phí của Sứ quán! Bản thân tôi thì được Đại sứ đề nghị về Bộ cho nâng lên hàm Bí 2 như một phần thưởng cho kết quả công tác vừa qua. Đó quả là một thành tích nếu so với trường hợp tương tự 3 năm sau, khi cả ông Đại sứ và tôi hết nhiệm kỳ rời Harare, những người mới sang thay với "đặc nhiệm" chỉ để đóng cửa  Sứ quán (sau  Hội nghị CC KLK), nhưng đã không thể hoàn thành nhiệm vụ đành phải ủy thác nhờ Đại sứ quán Cu Ba anh em lo giùm! Nghe nói số tiền còn lại chẳng được bao nhiêu.

000

Lần thứ hai khi tôi đi nhiệm kỳ Sứ quán tại Đan Mạch (2005-08). Sứ quán này kiêm cả Na Uy và Iceland nhưng cũng chỉ có 7 biên chế, do đó mỗi người cũng phải kiêm nhiệm nhiều việc. Tôi là Tham tán - Phó Cơ quan đại diện, ngoài nhiệm vụ nghiên cứu chính trị-kinh tế còn trực tiếp phụ trách Lãnh sự và Quản trị.  

Lại một sự tình cờ, đúng vào thời kỳ tôi sang nhận nhiệm vụ, Sứ quán vừa mua một ngôi nhà dự định thay ngôi nhà đang thuê làm trụ sở. Nhưng có điều là, ông  Đại sứ tiền nhiệm vừa mua xong thì  hết nhiệm kỳ về nước, ông Đại sứ mới sang thay nhận thấy ngôi nhà không được ưng ý nên muốn bán đi để mua nhà khác. Tuy nhiên, theo nguyên tắc, trong nước không cho phép bán nhà mới mua. Ngôi nhà này tuy cổ kính, đất vườn rộng, nhưng diện tích sử dụng trong nhà rất hạn chế, bố cục cũng không thích hợp để làm trụ sở; nếu muốn làm, phải cải tạo sửa chữa rất tốn kém. Qua mấy lần đấu thầu, các công ty Đan Mạch đều bỏ giá không dưới 300.000 USD, một số tiền gấp rưỡi giá nhà và đủ để mua một ngôi nhà tốt hơn! Tình thế “tiến thoái lưỡng nan” đó đã khiến ngôi nhà trong suốt hơn 2 năm trời chỉ dùng làm chỗ ở tạm cho 1-2 gia đình nhân viên. Với hệ thống lò sưởi đã cũ nát ngôi nhà càng để lâu càng xuống cấp và có nguy cơ sụp đổ. Điều vô lý là, Sứ quán vẫn phải tiếp tục thuê nhà trụ sở với giá 20.000 USD/tháng (cao hơn gấp đôi so bình thường). 

Đến đầu năm 2007, nhân lúc sắp đáo hạn Hợp đồng thuê nhà, tôi đề nghị một giải pháp cải tạo sửa chữa ngôi nhà theo một cách khác hẳn so với các phương án trước đó. Đề nghị của tôi dựa trên cơ sở các thông tin tại chỗ, đặc biệt từ kinh nghiệm đấu thầu vừa qua . Theo đó, giá thành và thời gian thi công đều được giảm xuống chỉ cần hơn 100.000 USD, thời gian 5 tháng là có thể đưa vào sử dụng. Phương án mới này đảm bảo ngôi nhà sau khi cải tạo sẽ thay thế toàn bộ công năng của ngôi nhà đang thuê, tức là vừa làm trụ sở Sứ quán vừa làm nhà ở của Đại sứ và một gia đình nhân viên. Chỉ có điều là phải sử dụng nhân công Việt kiều làm cả trong và ngoài giờ hành chính, và do đó Sứ quán phải có người trực tiếp kiểm tra, đôn đốc (như Đốc công). Tôi tự nguyện nhận nhiệm vụ Đốc công với điều kiện được tạm thời miễn nhiệm vụ nghiên cứu chính trị-kinh tế trong thời gian Dự án. Ông Đại sứ đã tán thành. Nhưng không hiểu sao càng về sau ông  càng tỏ ra thờ ơ, ít quan tâm, thậm chí "mặc kệ"... Và điều này đã ảnh hưởng đến tinh thần của tập thể Cơ quan, dẫn đến một số trục trặc trong quá trình thực hiện Dự án.   
Sau khi Dự án được trong nước chấp nhận, đã chính thức khởi công vào đầu tháng 3/2007. Nhờ có sự chuẩn bị trước, nhất là trong việc hợp đồng thuê thợ và nguồn cung cấp vật tư, mọi việc đã diễn ra suôn sẻ, chóng vánh. Bản thân tôi thực ra đã nỗ lực “vượt qua chính mình” từ một người chỉ biết ngoại ngữ, để tìm hiểu nắm bắt kiến thức xây dựng đặc thù của Đan Mạch để chi huy thợ làm việc đúng yêu cầu kĩ thuật. Do điều kiện Cơ quan mỗi người một việc nên bản thân tôi phải chật vật tự xoay xở mỗi khi có nhiều việc cùng lúc, cả trong và ngoài giờ hành chính. Vào những thời điểm khó khăn  một vài người "nhàn cư vi bất thiện" tung ra lời dèm pha nghi kỵ rằng  tại sao ông Nghị tích cực thế? chắc là có thỏa thuận hay âm mưu gì...?  Dù không lạ gì thói đời này, trong lòng tôi thấy rất bất bình và tự trách mình đã "ôm rơm dậm bụng".... Đáng ra tôi hoàn toàn có thể không cần làm gì cho yên thân, đợi hết nhiệm kỳ về nước "hạ cánh an toàn". Nhưng nghí đi nghĩ lại, tôi quyết không bỏ cuộc. Nhiều hôm tôi phải đến công trường từ sáng sớm hoặc trở về nhà rất muộn tùy theo khả năng bố trí giờ làm thêm của thợ. Khi cần tôi còn "huy động" bà xã bỏ tiền túi ra để chuẩn bị đồ ăn tạm cho thợ bị nhỡ bữa nhằm động viên họ làm nốt công việc. Có thể nói, tôi đã làm việc vô tư với lương tâm vốn có của mình, không hề đòi hỏi bất cứ chế độ đãi ngộ nào.
 
Tòa Đại sứ  VN tại Copenhagen
Kết quả Dự án đã hoàn thành nhanh hơn tiến độ khoảng 1 tháng. Cụ thể vào đầu tháng 5/2007 các hạng mục cải tạo, sửa chữa cơ bản hoàn thành và chính thức khai trương  trụ sở mới của Đại sứ quán với Phòng khách Lãnh sự khang trang thuận tiện hơn chỗ cũ. Căn hộ của gia đình Đại sứ và một gia đình nhân viên cũng lần lượt bàn giao sau đó để tạo điều kiện trả lại nhà thuê đúng hạn vào cuối tháng 6. Kể từ đó, Cơ quan không phải chi trả 20.000 USD mỗi tháng để thuê nhà làm trụ sở nữa, vị chi mỗi năm tiết kiệm được hơn 240.000 USD cho ngân sách. Đó thực sự là  niềm phấn khởi chung của tập thể Sứ quán sau nhiều năm chờ đợi. Chuyến thanh tra tại chỗ của Vụ Quảng trị -Tài vụ ngay sau Dự án đã không đưa ra bất cứ một kết luận tiêu cực nào. Và đó là một bằng chứng hùng hồn nhất cho sự thành công. Tuy không được khen thưởng gì nhưng bản thân tôi tin vào việc mình đã làm và cảm thấy tự hào khi nhìn lại trên website Sứ quán hình ảnh tòa Đại sứ Việt Nam với lá cờ đỏ sao vàng tung bay giữa nển trời xanh của Thủ đô Copenhagen. Nó giúp tôi xua tan nỗi lòng trắc ẩn của một nhà ngoại giao bắt đắc dĩ phải “làm nghề xây dưng”. Đó không phải là lần đầu, nhưng là lần cuối tôi phải nếm vị đắng của sự dối trá và bất công trong cuộc đời công tác của mình. Đối với tôi đó là một kỷ niệm buồn nhưng không có gì phải ân hận. 


Chủ Nhật, 3 tháng 3, 2013

Đã tham nhũng còn lãng phí !

Vài tuần trước tôi có đăng một "chuyện thường ngày ở huyện" tại đây  http://trankinhnghi.blogspot.com/2013/01/cchuyen-binh-thuong-cua-mot-xa-hoi.html

Và chuyện đó chưa chấm hết...Hôm nay một nhóm thợ (mặc đồ thường dân) lại đến phố Tô Hiệu đào bới vỉa hè....Và họ đã làm vỡ một ống nước khiến nước tuôn ra ào ào suốt hơn một tiếng đồng hồ.  Người dân rất xót của nhìn giòng nước trôi xuống cống và tràn ngập lòng đường. Nước tạo ra bùn bẩn và cản trở giao thông. Tấm ảnh dưới đây được chụp sau khi giòng nước đã được tạm thời bịt lại chờ xử lý.
 
Hỏi ra mới biết mấy người "thợ không chuyên" đó đang tìm chỗ để cắt bỏ vĩnh viễn cái đường ống nước đã được thay thế hồi trước Tết! Không có sơ đồ đường ống, họ chỉ biết mò mẫm dò tìm hú họa dọc theo tuyến phố, không trúng chỗ này thì đào chỗ khác. Khi ống nước vỡ họ cứ loay hoai tìm cái họ gọi là "mối nối" gì đó... mà không quan tâm đến việc bịt chỗ ống nước vỡ, mặc kệ nước cứ chảy. Chỗ nước thất thoát ước tính mất hàng nghìn mét khối. Không biết ai chịu thất thoát này, nếu không phải là người tiêu dùng?

Qua đó cho thấy, cái gọi là "Dự án di dời đồng hồ nước từ trong nhà ra ngoài nhà" nghe đã vô lý. Và những việc làm khuất tất sớm muộn cũng phơi bày ra, trong đó có vụ vỡ ống nước hôm nay. Tuy nhiên, như thường lệ, mọi dự án đều "hoàn thành xuất sắc" và những kẻ vụ lợi đã cao chạy xa bay. Bây giờ chỉ thấy mấy người thợ thường dân được thuê để khắc phục hậu quả...; họ có nhỡ làm vỡ ống nước cũng là chuyện bình thường. Nước chảy, bèo càng dễ trôi mà ! Đó là thứ triết lý đơn giản ở  một xã hội mà tham nhũng đã trở thành "cơ chế". Bọn tham nhũng ăn một phá mười, lãng phí nước chỉ là chuyện vặt so với những vụ tầy đình như PMU, Năm Cam, Vinashin, Vinalines, Vietnam Airlines, v.v...../.        
       

Thứ Ba, 26 tháng 2, 2013

Ngẫm từ trường hợp nghị Phước

Dư luận cả nước lại được một dịp bàn tán về "ông nghị" Hoàng Hữu Phước. Rất nhiều người không chỉ kịch liệt phê phán mà còn tỏ ra vô cùng ngạc nhiên tại sao một Ns Quốc hội mà vừa dốt vừa thô lỗ đến vậy? Nhiều người đòi phế truất ông nghị này ngay lập tức kẻo ô danh Quốc hội nước nhà! Cũng có người nghi ông Phước mắc chứng bệnh tâm thần trong khi một số người khác thì nghi có bàn tay phá hoại nước ngoài. Có thể nói, dư luận đang tập trung vào trường hợp nghị Phước như một vật thể lạ (SFO) trong khi ông ta có vẻ hoàn toàn tự tin chống trả dư luận như thể mình bị oan uổng lắm. 

Ns Hoàng Hữu Phước và Ns Dương Trung Quốc
Có lẽ chỉ một vài người còn dè dặt gọi hành động của nghị Phước là "vạ miệng". Nhưng đại đa ý kiến cho rằng một Ns như thế là không thể chấp nhận được. 

Tuy nhiên, có một điều cũng đáng suy ngẫm: Phải chăng hiện tượng nghị Phước chỉ là một cục băng nổi trong toàn bộ khối băng chìm của nền nghị trường Việt Nam. Khối băng chìm đó lâu nay luôn tồn tại trong một môi trường nhiệt độ lạnh lý tưởng, và giờ đây đang bắt đầu ấm dần lên khiến một vài cục băng tách ra và nổi lên mặt nước?  Điều gì sẽ xảy ra trong thời gian tới khi xu hướng nhiệt độ tiếp tục ấm lên? Và do đó, nên chăng đã đến lúc để nhận hiện tượng nghị Phước như một điều cảnh báo và một bài học?  

Đối với đại đa số người Việt Nam lâu nay, thì khái niệm Quốc hội là những cuộc họp "xuân thu nhị kỳ" diễn ra tại Hội trường Ba Đình nơi tập trung các loại xe con, xe to sang trọng đưa đón các đại biểu từ cả nước tụ về khiến hàng loạt tuyến đường trong trung tâm ách tắc. Người dân thường thấy hình ảnh Quốc hội họp nghiêm trang với hơn 500 đại biểu ngồi xếp hàng thẳng tắp hướng về phía Chủ tịch đoàn. Có lẽ cách sắp xếp ghế ngồi và khung cảnh trang nghiêm trong hội trường khiến mỗi đại biểu vốn nhỏ bé lại cảm càng cảm thấy mình bé nhỏ hơn rất nhiều. Và đó là một trong những điều kiện khiến cho các phiên họp Quốc hội đều diễn ra trong không khí cứng nhắc hoàn toàn giống nhau từ phiên này đến phiên khác. Phải thừa nhận là đã có một tiến bộ mới là gần đây khi người dân được theo dõi qua màn hình vô tuyến một số phiên chất vấn tại hội trường. Tuy nhiên về thực chất đó chỉ là sự phô diễn với những buổi truyền hình dài lê thê nhưng chỉ một số đại biểu đã quen mặt đứng lên đặt câu hỏi, và các bộ trưởng trả lời bằng cách đọc nội dung đã chuẩn bị sẵn. Nhiều khi người hỏi cứ hỏi,  người trả lời cứ trả lời theo ý của mình cũng chẳng sao. Tất cả dường như đều đã được "tập dượt" trước vậy.
Một phiên họp của Quốc hội (Ảnh minh họa)
Thiết nghĩ, hình thức sắp xếp hội trường và cách tổ chức các phiên họp như thế đã là một sự hạn chế về không gian tương tác giữa các Ns và giữa các Ns với Chủ tịch đoàn cũng như giữa Quốc hội với người dân. Sự gần gũi (nếu có) là qua màn hình người dân nhìn rõ những ông bà nghị ngủ gật hoặc làm việc riêng gì đó. Thử hỏi, trong hơn 500 nghị sĩ có bao nhiêu vị thật sự có đủ tâm và tầm để tham gia chất vấn và thảo luận một cách tự nhiên thoái mái với những nội dung mới mẻ như nhân dân mong đợi ? Có lẽ số này chỉ đủ đếm đầu ngón tay nhưng tiếc là một số vị đã phải về hưu giữa lúc đang còn sung sức. Với đà này, liệu bao giờ có đủ điều kiện để tạo nên không khí tranh luận lành mạnh có hiệu quả thật sự trong nghị trường Quốc hội nước nhà? 

Nghe nói tất cả các Ns đều được cử đi học vi tính và trang bị đầy đủ máy móc thiết bị hiện đại, nhưng khả năng ứng dụng còn rất hạn chế. Thực tế cho thấy đại đa số các ông bà nghị đều hạn chế về năng lực hoặc do động cơ cá nhân nên không thể hoặc không muốn tham gia chất vấn, tranh luận. Số này dân gian  gọi là "nghị gật". Trong bối cảnh đó, ông nghị Hoàng Hữu Phước vốn có chút ít tiếng Anh và biết sử dụng vi tính với cả một trang blog cá nhân. Có lẽ đó là thế mạnh mà ông ta muốn đem ra khoe trước đồng nghiệp và công chúng. Và ông ta đã trở nên "nổi tiếng" như mọi người thấy vừa qua? 

Câu hỏi ở đây là, điều gì sẽ xảy ra nếu tất cả hoặc đại đa số các đại biểu Quốc hội đều tham gia tranh luận, tức là không "gật" nữa mà "lắc" đầu? Chắc lúc đó sẽ có nhiều hơn những ông bà như "nghị Phước" thậm chí còn tệ hơn! Đó là chưa kể nhiều trường hợp các vị không chỉ nói sai mà cố tình làm sai gây ra những hậu quả khôn lường cho đất nước như đã từng thấy.   
         
Vậy nên chăng, dư luận dù có bức xúc bao nhiêu về trường hợp nghị Phước thì cũng nên dành chút lòng vị tha cho ông ta như một người đã gióng lên một tiếng chuông báo động về tình trạng của nghị trường đất nước lâu nay. Có lẽ trước khi có một nghị trường thực thụ chuyên nghiệp khó mà tránh khỏi những ông "nghị dởm" như Hoàng Hữu Phước./.   
 


Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2013

Tư liệu: Quân đội làm Kinh tế

Hiện tại, Bộ quốc phòng đang quản lý hơn 110 doanh nghiệp, hoạt động đa dạng trên nhiều lĩnh vực kinh doanh như: Cơ khí, hóa chất; Nông, lâm và hải sản; Điện, điện tử, viễn thông; Dệt may, da giày; Thực phẩm, đồ uống, dược phẩm; Thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ; Thương mại và dịch vụ; Xây dựng, Vật liệu xây dựng…

Thiếu tướng là cấp bậc cao nhất cho Tổng giám đốc Tổng Công ty
Thiếu tướng là cấp bậc cao nhất cho Tổng giám đốc Tổng Công ty.

Trực thuộc và chịu sự quản lý của Bộ Quốc Phòng, các doanh nghiệp quân đội tùy theo quân số (số lượng quân nhân, công nhân viên, nhân viên), tính chất và nhiệm vụ sẽ đóng vai trò tương đương một Quân khu/Quân chủng (Tập đoàn Viettel), Quân đoàn/Binh chủng (Các Tổng công ty), hoặc Sư đoàn (Các công ty).
Theo nghị định số 44/2005/NĐ-CP do Thủ tướng Chính phủ ký ban hành ngày 5-4-2005, quy định nhóm chức vụ chuẩn và cấp bậc quân hàm cao nhất tương ứng của sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam:

(Các quân hàm Chuẩn đô đốc/Phó Đô Đốc/Đô Đốc dùng cho binh chủng hải quân)
(Các quân hàm Chuẩn đô đốc/Phó Đô Đốc/Đô Đốc dùng cho binh chủng hải quân) .

Theo đó, Tập đoàn Viettel - tập đoàn kinh tế duy nhất của quân đội - cũng là doanh nghiệp quân đội duy nhất có TGĐ giữ quân hàm Trung tướng, đó là Trung tướng Hoàng Anh Xuân - Tổng giám đốc Viettel.
Quân hàm này tương tương ứng với chức vụ Tư lệnh Quân khu/Quân chủng/Chủ nhiệm tổng cục. Quân số Viettel hiện có hơn 30.000 người, cũng tương đương 1 quân đoàn.
Hai lãnh đạo khác của Tập đoàn Viettel đã được phong quân hàm Thiếu tướng là các Phó Tổng giám đốc: Dương Văn Tính (Bí thư Đảng ủy) và ông Nguyễn Mạnh Hùng.
Tại các Tổng công ty Quân đội (tương đương các Quân đoàn/Binh chủng), chức vụ Tổng giám đốc (tương đương Tư lệnh) và Bí thư Đảng ủy (tương đương Chính ủy) của các đơn vị này, cấp bậc quân hàm cao nhất được trao là Thiếu tướng.
Các Tổng giám đốc (~ Tư lệnh) và Chính ủy kiêm Phó Tổng giám đốc của Các Tổng Công ty đã được phong hàm cấp Thiếu tướng gồm:
Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn (Binh đoàn 12):
- Thiếu tướng Lương Sỹ Nhung, Tổng Giám đốc (Tư lệnh)
- Thiếu tướng Trần Thanh Hải, Chính ủy Binh đoàn 12 kiêm Phó Tổng giám đốc.
Tổng Công ty 15 (Binh đoàn 15): Thiếu tướng Nguyễn Xuân Sang, Tổng Giám đốc (Tư lệnh)
Tổng Công ty Đông Bắc: Thiếu tướng Phạm Ngọc Tuyển, Tổng Giám đốc (Tư lệnh)
Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn: Thiếu tướng Nguyễn Đăng Nghiêm, Tổng Giám đốc (~Chuẩn Đô đốc)
Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam (VNH): Thiếu tướng Hà Tiến Dũng, Chủ tịch kiêm TGĐ
Tại các Công ty Quân đội (tương đương các Sư đoàn/Vùng hải quân/Vùng cảnh sát biển), Tổng giám đốc (tương đương Tư lệnh) và Chính ủy của các đơn vị này, cấp bậc quân hàm cao nhất được trao là Đại tá.
Theo quy định, việc bổ nhiệm chức vụ, phong, thăng quân hàm đối với lãnh đạo này là do:
- Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm Chủ nhiệm Tổng cục, Tư lệnh Quân khu, Tư lệnh Quân chủng, Tư lệnh Quân đoàn và các chức vụ tương đương; phong, thăng quân hàm Trung tướng, Phó Đô đốc Hải quân, Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân;
- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng bổ nhiệm các chức vụ và phong, thăng các cấp bậc quân hàm còn lại.
Theo cấp tổ chức, Quân đội Nhân dân Việt Nam từ thấp đến cao là Tiểu đội, Trung đội, Đại đội, Tiểu đoàn, Trung đoàn, Lữ đoàn, Sư đoàn (trước đây gọi là Đại đoàn), Cấp cao nhất là Quân đoàn (Binh đoàn).
Về mặt địa lý, đơn vị quân sự cao nhất là Quân khu, chỉ huy quân địa phương và một số binh đoàn, binh đội trực thuộc.
Ngày 26-6-1980, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 27, về việc Quân đội thực hiện nhiệm vụ tham gia xây dựng kinh tế, sau đó, ngày 27-9-1980 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 579/QĐ-QP chuyển nhiệm vụ của các đơn vị lực lượng vũ trang từ huấn luyện quân sự sang nhiệm vụ xây dựng kinh tế, dưới hình thức các Công ty trong quân đội (tiền thân là các Sư đoàn/Binh đoàn).
Ngày 19-8-2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Công văn số 1455/TTg-ĐMDN về việc thành lập các Tổng Công ty hoạt động theo hình thức Công ty mẹ – Công ty con trên cơ sở tổ chức lại các Công ty TNHH một thành viên thuộc Bộ Quốc phòng, nhiều công ty đã chuyển đổi thành Tổng công ty.
Năm 2012, khối doanh nghiệp quân đội (100% vốn nhà nước) đạt doanh thu hơn 221 nghìn tỷ đồng (tăng 11% so với năm 2011), lợi nhuận đạt hơn 30 nghìn tỷ đồng (tăng 27% so với năm 2011), nộp ngân sách hơn 17 nghìn tỷ đồng (tăng 24% so với năm 2011), tạo việc làm và thu nhập ổn định cho 195 ngàn người, thu nhập bình quân người lao động 8,5 triệu đồng/người/tháng...
Theo Kỳ Anh CafeF/Tranhungo9


Thứ Sáu, 22 tháng 2, 2013

Ngoại giao đâu chỉ việc lớn

 
Nhiều người ngoài ngành và cả một số người trong ngành ngoại giao vẫn tưởng rằng làm ngoại giao là làm những việc to tát hệ trọng như hội nghị quốc tế, đàm phán ký kết hiệp định, các chuyến thăm của nguyên thủ quốc gia hoặc các yến tiệc linh đình... Nhưng thực ra phần lớn công việc ngoại giao còn được thực hiện từ các khâu chức năng như lãnh sự, lễ tân, báo chí, và các khâu hậu cần như quản trị -tài vụ, hành chính, văn thư  v.v…Tất cả tạo thành sức mạnh tổng hợp của ngành này. Để minh hoạ, xin được kể một trường hợp cụ thể dưới đây. 
  
Một ngày giữa tháng 6/2006 có mấy người Việt kiều phóng xe vượt qua gần 200 cây số từ thị trấn Svenborg đến Đại sứ quán Việt Nam tại thủ đô Copenhagen để nhờ “cứu” một nhóm người mà họ gọi là “bà con” đang bị giam giữ tại Nhà tù Copenhagen chờ trục xuất về Việt Nam. Họ gồm 7 người Việt từ Thành phố Hồ Chí Minh mới sang Đan Mạch bằng thi thực du lịch nhưng lại đi làm việc thu hoạch mùa màng cho các nông trại nên đã bị cảnh sát bắt và giao cho Tòa án địa phương xét xử. Và mọi việc đã diễn ra rất nhanh gọn chỉ trong không đầy 1 tuần lễ, 7 người đó đã bị kết án “lao động bất hợp pháp”và chuyễn lên giam tại Nhà tù Copenhagen trong diện chờ "trục xuất ngay lập tức" (immediate expulsion).  

Thực ra ở Đại sứ quán chúng tôi đã nghe nói nhiều về tình trang “lao động đen” tại Đan Mạch, nơi mà mặc dù đang thiếu nhân lực trầm trọng nhưng vẫn áp dụng một khung pháp lý rất nghiêm khắc đối với người lao đông nước ngoài không có giấy phép. Trường hợp liên quan 7 người Việt Nam lần này cũng là bình thường không có gì đáng thắc mắc. Tuy nhiên, đây là trường hợp đầu tiên có Việt kiều từ địa phương xa đến Sứ quán “cầu cứu” trong tình trạng gấp gáp như vậy. Do đó, Sứ quán khó tránh khỏi sự do dự với những ý kiến khác nhau. Đa số cho rằng sự việc đã đến mức ấy thì không nhất thiết phải can thiệp, mà nếu can thiệp cũng chưa chắc có kết quả. Bản thân tôi lúc đó vừa đi công tác về nên hoàn toàn có thể không làm gì cả cho "yên thân". Nhưng nghĩ lại tôi thấy không đành lòng. Hơn nữa, là Tham tán trực tiếp phụ trách công tác lãnh sự, tôi thấy mình có trách nhiệm trong việc này khi tất cả số người đó đều là công dân Việt Nam, mang hộ chiếu của Việt Nam và đã xuất cảnh từ Việt Nam. Tôi quyết định gặp lại nhóm Việt kiều lúc đó đang nán lại tại Copenhagen chờ tin tức, chưa chịu về Svenborg. Qua đó được biết thêm: Vụ bắt giữ lần này là do có người trong nội bộ Việt kiều mâu thuẫn nhau trong làm ăn đã “mách“ cảnh  sát, chứ bản thân cảnh sát địa phương thì đã định “lờ đi”... Anh Nhân (đại diện nhóm Việt kiều) cũng cho biết: nguyên vọng thiết tha nhất của bà con là làm sao tránh được "tội danh trục xuất” để bảo vệ danh dự và việc làm khi về nước.
Xét thấy thời gian còn quá ít, tôi căn cứ vào các thông tin nói trên và gọi trực tiếp vàomáy di động của ông Cảnh sát trưởng địa phương Svenborg cũng là người trực tiếp xử lý vụ việc nói trên. Qua mấy lời chào hỏi giới thiệu, nhận thấy ông này nói tiếng Anh khá chuẩn và có thái độ đúng mực, tôi liền trình bày tiếp luôn vào trọng tâm vấn đề, bày tỏ đáng tiếc về vụ việc không hay đã xảy ra…, mong ông hiểu cho  người Việt Nam có phong tục giúp nhau thu hoạch mùa màng, đôi khi chỉ để ăn bửa cơm cho vui, chứ không vì tiền công…; hơn nữa  họ còn trẻ, sang Đan Mạch du lịch, nếu muốn kiếm thêm chút tiền để bù đắp chi phí thì mong các ông thông cảm…

Bài "kể khổ” của tôi hình như đã kích đúng giây thần kinh nhân đạo của viên Cảnh sát trưởng của một đất nước giàu có và coi trọng con người. Bằng  một giọng xúc động thật sự mà tôi có thể cảm nhân được qua điện thoại, ông ấy thanh minh "đã không định bắt họ nếu không có người tố cáo...”. Lúc này chính tôi cũng trở nên cảm động về sự cảm động của ông Cảnh sát trưởng. Tôi nghĩ thầm, như vậy coi như đã 60% thành công rồi(!) nên xin cảm ơn và chào hẹn gặp lại.

Ngay sau đó, tôi bấm máy gọi Nhà tù Copenhagen  xin găp viên sĩ quan trực tiếp phụ trách 7 người Việt bị giam giữ. Tôi chỉ nói xã giao với ông này và tỏ rõ sự quan tâm của Sứ quán đến vụ việc.  Tôi cố ý đợi quảng 1 tiếng sau thì gọi lại cho ông bạn Cảnh sát trưởng Svenborg và “nói khó dễ” rằng tôi đã trao đổi ý kiến với đồng nghiệp của ông trên Copenhagen và được biết vụ này chủ yếu là do Cơ quan Cảnh sát và Toà án địa phương Svenborg thụ lý;  Nhà tù Copenhagen chỉ thi hành án… Do đó “còn nước còn tát’,  mong ông hãy làm ơn trao đổi lại với Copenhagen… Để tăng cường lý do thuyết phục, tôi lập luận rằng do hạn chế ngôn ngữ tôi sợ khó trình bày một việc có tính chuyên môn như vậy..., nên tốt nhất là ông giúp cho thì tiện lợi hơn rất nhiều. Biết ông  là người tình cảm, nên tôi cũng trình bày luôn rằng những  người Việt Nam dó đều là những người lao động, họ lo sau này về nước mang tiếng đã phạm pháp bị trục xuất thì sẽ mất việc làm…Rồi tôi gợi ý: Để tránh cho họ hình thức trục xuất, các ông có thể trao lại hộ chiếu tại sân bay Copenhagen và không cần người áp tải đến Việt Nám như thường lệ.  Nếu được thế,  Đại sứ quán chúng tôi xin đảm bảo họ sẽ về Việt Nam mà không xảy ra vấn đề gì”. Sau một hồi trao đổi ý kiến, cuối cùng ông Cảnh sát trưởng Svenborg đồng ý nhận đứng ra trao đổi ý kiến với Nhà tù Copenhagen. Điều này khiến tôi vô cùng vui mừng và xúc động.   

Nhưng kết quả còn đáng mừng hơn  khi gần trưa hôm sau đích thân ông  Cảnh sát trưởng Svenborg gọi di động lại cho tôi thông báo  "Mọi việc đã thu xếp xong theo yêu cầu của Sứ quán…”. Ông ấy cho biết thêm: 7 người Việt Nam đó sẽ  được trao lại hộ chiếu tại Sân bay Quốc tế Copenhagen và cho phép gặp lại một số bà con của họ tại sân bay để nhận lại các đồ đạc tư trang đem về nước, nghĩa là họ sẽ được về Việt Nam như hành khách bình thường.  Ông cũng cho biết  chuyến bay sẽ phải chậm lại 2 ngày so với dự định ban đầu. Có một chi tiết ông không nói ra nhưng lúc trao trả hộ chiếu tại sân bay phía bạn còn cấp cho mỗi “phạm nhân” 200 USD gọi là "tiền tiêu vặt"(pocket money).
Như vậy là mọi việc cơ bản đã được thu xếp trong một thời gian ngắn nhất có thể. Dĩ nhiên sau đó Đại sứ quán cũng đã cử người đến làm việc với trại giam, ra sân bay chứng kiến và tiễn  bà con về nước. Bà con Việt kiều  và những người về nước đều rất xúc động và biết ơn về sự giúp đỡ kịp thời  của Đại sứ quán.
                   
Đó chỉ là một việc nhỏ trong muôn vàn công việc mà các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài cần làm và có thể làm . Một hành động trợ giúp kịp thời như vậy không chỉ đơn thuần là hoàn thành chức năng nhiệm vụ bảo vệ công dân mà còn góp phần tăng cường quan hệ giữa cộng đồng Việt kiều với quê hương đất nước đồng thời nâng cao uy tín của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế rằng Nhà nước Việt Nam thật sự tôn trọng công dân của mình. Tôi còn nhớ,sau sự kiên “cứu người lao động" nói trên đã hình thành một quan hệ thân tình giữa cộng đồng Việt kiều tại Svenborg xa xôi với Đại sứ quán Việt Nam tại Copenhagen. Từ đó hai bên thường xuyên liên hệ và gặp nhau trong những dịp lễ, Tết…Có lần bà con đã mời Sứ quán đến thăm cộng đồng Việt kiều tại Svenborg và tự hào giới thiệu khu "Vườn Việt Nam" mà chính quyền địa phương cấp đất để bà con tự xây dựng nên. Thật xúc động khi mọi người cùng đứng bên nhau trong mãnh "Vườn Việt Nam" tại một vùng xa xôi tận cực bắc châu Âu. (xem ảnh)  

Hà Nội, mùa Hè 2009

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này