Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Thư gửi mẹ: Bức thư gây xôn xao dư luận về quan niệm tiền bạc trong xã hội VN đương đại


Mẹ thân yêu của con !
“Trời ơi là trời ! Anh ăn đi cho tôi nhờ, đừng có nhịn ăn sáng nữa. Đừng có dở hơi đi tiết kiệm mấy đồng bạc lẻ thế, anh tưởng rằng thiếu tiền như thế thì tôi chết à ?”. Đó là những “điệp khúc” mẹ cất lên hàng ngày dạo gần đây vì con quyết định nhịn ăn sáng đi học để tiết kiệm chút tiền cho mẹ, cho gia đình. Có lúc mẹ còn gắt lên, hỏi con “Sao cứ phải đắn đo khổ sở về tiền đến thế nhỉ ?” .
Mẹ ơi, những lúc ấy mẹ đang giận nên con không dám cãi lại. Nhưng giờ đây con muốn được bày tỏ lòng mình rằng tại sao con lại có những suy nghĩ, hành động kì lạ như vậy. Vâng, tất cả là vì tiền. Chỉ đến tận bây giờ con mới nhận ra cả một quãng thời gian dài trước đó con đã non nớt, ngây thơ biết chừng nào khi nghĩ về tiền. Cách đây 8 năm bệnh viện đã chuẩn đoán mẹ bị suy thận mãn tính độ 4 (độ cao nhất về suy thận). 8 năm rồi nhà ta đã sống trong túng thiếu bần hàn, vì bố mẹ không kiếm được nhiều tiền lại phải dành tiền cho mẹ đi chạy thận. Nhưng bố mẹ vẫn cho con tất cả những gì có thể, và cậu bé học trò như con cứ vô tư đâu biết lo gì.
Hồi học tiểu học, tiền bạc đối với con là một cái gì đó rất nhỏ, nó là những tờ giấy với đủ màu có thể dùng để mua cái bánh, cái kẹo, gói xôi hay cái bánh mì … Con đâu có ngờ tiền chính là yếu tố quyết định sinh mạng mẹ mình, là thứ bố mẹ phải hàng ngày chắt bóp và bao người thân gom góp lại để trả cho từng ca lọc máu cho mẹ tại bệnh viện Bạch Mai, là thứ càng làm mẹ thêm đau đầu suy nghĩ khi mẹ buộc phải nghỉ việc làm vì điều kiện sức khỏe không cho phép.
Rồi đến khi con học lớp 8, mẹ càng ngày càng yếu và mệt, phải tăng từ 2 lên 3 lần lọc máu/ tuần. Những chỗ chích ven tay của mẹ sưng to như hai quả trứng gà, nhiều hôm máu thấm ướt đẫm cả tấm băng gạc. Do ảnh hưởng từ suy thận mà mẹ còn bị thêm viêm phổi và suy tim. Rồi ông lại bị ốm nặng, bố phải nghỉ việc ở nhà trông ông, nhà mình vì thế càng trở nên túng quẫn, mà càng túng thì càng khổ hơn. Tờ một trăm ngàn hồi ấy là một thứ gì đó xa xỉ với nhà mình. Cũng từ dạo ấy, đầu óc non nớt của con mới dần vỡ lẽ ra rằng tiền bạc chính là mồ hôi, nước mắt, là máu (theo đúng nghĩa đen của nó, vì có tiền mới được chạy thận lọc máu mà) và bao nỗi niềm trăn trở lo lắng của bố và mẹ.
Hôm trước con có hỏi quan điểm của mẹ về tiền bạc thế nào để con có thêm ý viết bài làm văn nghị luận cô giao. Mẹ hơi ngạc nhiên vì câu hỏi đường đột ấy. Rồi mẹ chỉ trả lời với 3 từ gọn lỏn “Mẹ ghét tiền”. Nếu con còn thơ dại như ngày nào, hay như một người ngoài nào khác thì chắc con đã ngạc nhiên lắm. Nhưng giờ đây con cũng đồng ý với mẹ : con cũng ghét tiền. Bởi vì nó mà mẹ phải mệt mỏi rã rời sau mỗi lần đi chạy thận. Mẹ chạy thận 3 lần mỗi tuần, trước đây bố đưa đón mẹ bằng xe đạp nhưng rồi mẹ bảo đi thế khổ cả hai người mà còn phải chờ đợi mất ngày mất buổi của bố nữa nên mẹ chuyển sang đi xe ôm. Nhưng đi xe ôm mất mỗi ngày mấy chục, tốn tiền mà lại chẳng kiếm đâu ra, mẹ quyết định đi xe buýt. Mỗi khi về nhà, mẹ thở hổn hển, mẹ lăn ra giường lịm đi không nói được câu gì. Con và bố cũng biết là lúc ấy không nên hỏi chuyện mà nên để yên cho mẹ nghỉ ngơi. Tám năm rồi, tám năm chứng kiến cảnh ấy nhưng con vẫn chưa bao giờ có thể quen được. Con chỉ biết đứng từ xa nhìn mẹ, và nghiến răng ước “giá như có dăm chục ngàn cho mẹ đi xe ôm thì đâu đến nỗi !”.
Con bỗng ghét, thù đồng tiền. Con bỗng nhớ hồi trước, khi mẹ vẫn nằm trong viện. Ba người bệnh chen chúc chung nhau một chiếc giường nhỏ trong căn phòng bệnh ngột ngạt và quá tải của bệnh viện Bạch Mai. Con đã ngây thơ hỏi mẹ “Sao mẹ không vào phòng bên kia, ở đấy mỗi người một giường thoải mái lại có quạt chạy vù vù, có tivi nữa ?”. Mẹ chỉ nói khẽ “cha tổ anh. Đấy là phòng dịch vụ con ạ”. Con lúc ấy chẳng hiểu gì. Nhưng rồi con cũng vỡ lẽ ra rằng đó là phòng mà chỉ những ai rủng rỉnh tiền thì mới được vào mà thôi. Còn như mẹ thì không được. Con căm nghét đồng tiền vì thế.
Con còn sợ đồng tiền nữa. Mẹ hiểu con không ? Con sợ nó vì sợ mất mẹ. Mẹ đã phải bốn lần đi cấp cứu rồi. Những người suy thận lâu có nguy cơ tử vong cao vì huyết áp dễ tăng, máu dồn vào dễ làm tắc ống khí quản và gây tắc thở. Mẹ thừa biết điều này. Nhiều người bạn mẹ quen trong “xóm chạy thận” đã phải chịu những cái kết bi thảm như thế. Nhiều đêm con bỗng choàng tỉnh dậy, mồ hôi đầm đìa mà lạnh toát sống lưng bởi vừa trải qua một cơn ác mộng tồi tệ …
Con sợ mẹ lại phải đi cấp cứu, và sợ nhỡ nhà mình không đủ tiền để nộp viện phí thì con sẽ mất đi người thân yêu nhất trong cuộc đời này. Mỗi buổi mẹ đi chạy thận là mỗi buổi cả bố và con đều phấp phỏng, bồn chồn, lo lắng. Mẹ về muộn là lòng con nóng như lửa đốt, còn bố thì cứ đi đi lại lại và luôn hỏi “bao giờ mẹ mày mới về?”. Với con cơ hội là 50/50, hoặc là mẹ chạy thận an toàn và về nhà, hoặc là …
Con lo sợ hơn khi đọc báo thấy bảo có người không đủ tiền trả phần ít ỏi chỉ là 5% bảo hiểm y tế, tiền thuốc men mà phải về quê “tự điều trị”. Với những bệnh nhân phải chạy thận, như thế đồng nghĩa là nhận bản án tử hình, không còn đường sống. Con bỗng hoảng sợ tự hỏi nếu không còn BHYT nữa thì sao? Và nếu ông mất thì sao? Chi tiêu hàng ngày nhà mình giờ đây phần nhiều trông chờ vào tiền lương hưu của ông, mà ông thì đã già quá rồi …
Mẹ ơi, tiền quan trọng đến thế nào với gia đình mình thì chắc mẹ hiểu rõ hơn con. Cứ nghĩ đến tiền là con lại nhớ đến những đêm bố mất ngủ đến rạc cả người, nhớ đến những vết chích ven sưng to như quả trứng gà của mẹ, nhớ đến cả thìa đường pha cốc nước nóng con mang cho mẹ để mẹ uống bồi bổ mỗi tối. Mẹ chắt chiu đến mức sữa ông thọ rẻ tiền mà cũng không mua để tự bồi dưỡng sức khỏe cho mình.
Con sợ tiền mà lại muốn có tiền. Con ghét tiền mà lại quý tiền nữa mẹ ạ. Con quý tiền và tôn trọng tiền bởi con luôn biết ơn những người hảo tâm đã giúp nhà mình. Từ những nhà sư tốt bụng mời mẹ đến chùa vào cuối tuần, những cô bác ở Hội chữ thập đỏ quyên góp tiền giúp mẹ và gia đình mình. Và cả những người bạn xung quanh con, dù chưa giúp gì được về vật chất, tiền bạc nhưng luôn quan tâm hỏi thăm sức khỏe của mẹ… Nhờ họ mà con cảm thấy ấm lòng hơn, vững tin hơn.
Con cảm thấy bất lực ghê gớm và rất cắn rứt lương tâm khi mẹ không đồng ý với các kế hoạch của con. Đã có lúc con đòi đi lao động, đi làm gia sư hay đi bán bánh mì “tam giác” như mấy anh sinh viên con quen để kiếm tiền giúp mẹ nhưng mẹ cứ gạt phăng đi. Mẹ cứ một mực “tống” con đến trường và bảo mẹ chỉ cần con học giỏi thôi, con giỏi thì mẹ sẽ khỏe.
Vâng, con xin nghe lời mẹ. Con vẫn đến trường. Con sẽ cố gắng học thật giỏi để mẹ và bố vui lòng. Nhưng mẹ hãy để con giúp mẹ, con đã nghĩ kĩ rồi, không làm gì thêm được thì con sẽ nhịn ăn sáng để tiết kiệm tiền. Không bán bánh mì được thì con sẽ ăn cơm với muối vừng. Mẹ đừng lo mẹ ạ, mẹ hãy an tâm chạy chữa và chăm sóc cho bản thân mình. Hãy để con được chia sẻ sự túng thiếu tiền bạc cùng bố mẹ. Vậy con khẩn thiết xin mẹ đừng cằn nhằn la mắng con khi con nhịn ăn sáng. Mẹ đừng cấm đoán con khi con đi lấy chầy, cối để giã lạc vừng. Dù con đã sút 8 cân so với năm ngoái nhưng con tin rằng với sự thấu hiểu lẫn nhau giữa những người trong gia đình thì nhà ta vẫn có thể sống yên ổn để đồng tiền không thể đóng vai trò cốt yếu trong việc quyết định hạnh phúc nữa.
Đứa con ngốc nghếch của mẹ
Nguyễn Trung Hiếu
Nguồn: VnExpress

Thứ Hai, 7 tháng 11, 2011

Vụ đàn áp khoa học sai lầm nhất của thời Xô viết


Vũ Cao Đàm


Trong thế hệ thanh niên Việt Nam trưởng thành sau 1954, cả người từng học ở LX trở về cũng như người học ở trong nước và công tác tại miền Bắc, hình ảnh LX đều để lại trong tâm hồn rất nhiều ấn tượng đẹp (những bài hát Đôi bờ, Thùy dương, Khúc hát nàng Solveg, Chiều Mascơva... bộ phim Đàn sếu bay, những bà mẹ Nga chất phác và nồng hậu, những tính cách Nga cực kỳ thẳng thắn dễ thương...). Nhưng phía sau mặt phải dễ nhìn thấy kia lại cũng có một mặt trái của LX mà ít người nhìn thấy. Dưới đây là hồi ức của GS Vũ Cao Đàm, người từng có dịp chứng kiến cái phía ít người nhìn thấy đó; mục đích của ông là muốn tâm sự vớichúng ta m
ột vài điều mà chính chúng ta phải tự rút ra bài học để tránh cho mình những tổn thất, bởi chúng ta đang sống trong chính cái cơ chế mà Liên Xô đã trải qua và với trí thức nước họ, nay... chỉ còn là một dĩ vãng
                                                                                   Bauxite Việt Nam 

Trong các nước XHCN, khoa học là do Đảng Cộng sản (ĐCS) lãnh đạo.
Vụ án di truyền học ở Liên Xô do Lưxenko, Chủ tịch Viện Hàn lâm Nông nghiệp, đã nhân danh Đảng CSLX chủ xướng có thể xem là một vụ đàn áp khoa học đẫm máu nhất thế kỷ XX, đáng xem là một bài học đắt giá về sự lãnh đạo của ĐCS đối với khoa học.
Câu chuyện được bắt đầu khi thuyết Mendel-Morgan được truyền bá vào Liên Xô với Vavilov là một đại biểu của trường phái này.
Vavilov khi đó là Viện trưởng Viện Di truyền học thuộc Viện hàn lâm Nông nghiệp Liên Xô, cũng chính là người thành lập và lãnh đạo Viện Hàn lâm khoa học nông nghiệp từ trước năm 1935. Năm 1938, sau khi hai vị Chủ tịch kế nhiệm của Vavilov là Muralov và Meister bị bắt và bị tử hình thì Lưxenko đã giành ngay được chức vụ này. Năm 1940 Vavilov cũng bị bắt, và đầu năm 1943 ông bị chết trong tù. Lưxenko đã giành nốt chức Viện trưởng Viện di truyền học cũng do Vavilov thành lập. Lưxenko nhanh chóng lợi dụng chức Viện trưởng của chính Viện nghiên cứu về di truyền học để mở chiến dịch tấn công di truyền học. Nhiều nhà sinh học lỗi lạc như Viện sĩ Zhebrak, Zavadovski, Zhukovski, Nemtchinov và Rapoport đã lên tiếng bảo vệ cho sự tồn tại của trường phái khoa học này.
Tuy nhiên, Lưxenko đã dùng quyền lực trong Đảng và trong khoa học tuyên bố chỉ cho phép tồn tại một trường phái mà ông chủ trì trong ngành sinh học Xô viết. Đó là trường phái non-Mendel, đồng thời trực tiếp chỉ đạo việc đàn áp những nhà di truyền học đi theo Mendel và Morgan, gán cho họ tội danh "truyền bá chủ nghĩa duy tâm tư sản phản động".
Làn sóng khủng bố lan rộng. Hàng loạt nhà khoa học bị gọi tới cơ quan để viết kiểm điểm và buộc tuyên bố từ bỏ "trường phái khoa học phản động". Ai không chấp nhận thì bị đuổi khỏi cơ quan. Những người là đảng viên thì bị yêu cầu phải thừa nhận sai lầm trước Đảng. Nhiều người đã không làm như vậy, chẳng hạn Rapoport đã đến cơ quan Đảng để trả thẻ đảng và xin ra Đảng; Nhà sinh lý học thực vật Sabinin bị đuổi khỏi Đại học Matxcơva, bị chuyển đến Krưm, và đã tự sát; Hiệu trưởng Đại học Gorki đã gọi Chủ nhiệm Bộ môn Di truyền học Tchetverikov yêu cầu thay đổi quan điểm, nhưng ông không chấp nhận và đã bị sa thải; Bộ trưởng Bộ Giáo dục cao đẳng cách chức Nemtchinov, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Matxcơva; Zhebrak cũng bị cách chức Viện trưởng và Viện của ông bị giải thể. Nạn đại dịch khủng bố di truyền học lan tràn trong hàng loạt trường đại học có các ngành nông nghiệp, y, sư phạm, lâm sinh, công nghiệp thực phẩm và nhiều trường đại học khác. Toàn Liên Xô đã có gần ba ngàn nhà sinh học bị sa thải ngay trong thời điểm đó (*).
Kết quả là Liên Xô đã để mất những vị trí rực rỡ đã giành được trong lĩnh vực di truyền học, bước vào thời kỳ tụt hậu cả trong di truyền học, cả trong các khoa học ứng dụng về chọn giống, cả trong việc chữa các bệnh mang tính di truyền và trong công nghiệp sản xuất thuốc kháng sinh. Liên Xô đã bị loại hoàn toàn khỏi cuộc chạy đua với các cường quốc sinh học trong lĩnh vực quan trọng nhất, vừa có ý nghĩa kinh tế, vừa có ý nghĩa quân sự. Kết quả đau buồn là ngành di truyền học ở Liên Xô đã bị gạt sang bên lề của thế giới, nhiều nước đã vượt lên trước, thậm chí cả những nước mới vừa trước đó còn chưa dám nghĩ tới chuyện chạy đua với Liên Xô về di truyền học trong các lĩnh vực nghiên cứu bản chất và cấu trúc của tính di truyền.
Vào những năm 1970, đúng vào lúc Viện hàn lâm Liên Xô vẫn đang được xem là cơ quan khoa học "cao nhất", được hưởng những đặc quyền lớn nhất trong xã hội, thì các nhà điện ảnh Xô Viết đã cho ra đời bộ phim trào phúng có tên tiếng Nga là "Pienư". Bộ phim đả kích tệ sùng bái tước vị và khoa bảng trong cộng đồng khoa học Xô viết, một tệ nạn dẫn đến bị lũng đoạn bởi các công ty ma gồm những chuyên gia không hàm vị, chuyên viết thuê luận án cho các vị có chức quyền muốn giành ghế Viện sỹ Viện hàn lâm. Phim đã được chiếu dài ngày vào năm 1978 tại Hà Nội với nhan đề được dịch sang tiếng Việt là "Bèo bọt".
Ngày nay ở nước Nga vị trí của Viện hàn lâm đang thay đổi, từng bước được đặt vào vị trí “bình thường” trong mạng lưới tổ chức khoa học. Không những thế, ở nước Nga ngày nay còn xuất hiện thêm hàng loạt tổ chức khác cũng được đặt tên là Viện hàn lâm. Điều này khiến nhiều đại biểu của tư tưởng học phiệt phản ứng quyết liệt. Họ đã tìm cách gây ảnh hưởng để các nhà lãnh đạo ký sắc lệnh cấm sử dụng tên "húy" của Viện hàn lâm; một số Viện sỹ già nua còn viết bài đả kích trên công luận, xem đó là một thứ "ngụy khoa học". Nhưng xu thế dân chủ trong khoa học đã như luồng gió lành quét sạch tư tưởng phong kiến. Tất cả các tổ chức có tên là Viện hàn lâm ở nước Nga đều đang tồn tại như sự thách thức trước các nhóm học phiệt và hồi chuông cáo chung của chủ nghĩa học phiệt lỗi thời.
Ngay sau ngày bức tường Berlin sụp đổ, tôi có dịp viếng thăm nước Đức thống nhất. Trước cảnh vắng lạnh trong khuôn viên của Viện hàn lâm Đông Đức cũ, tôi bùi ngùi nuối tiếc Viện hàn lâm, nơi tôi vừa đến làm việc mấy tháng trước đó. Người bạn Đức đã nhận bằng Tiến sỹ tại Viện hàn lâm Liên Xô cũ, vốn lãnh đạo một viện thuộc Viện hàn lâm Đông Đức, hiểu ý, vừa chia sẻ tình cảm với tôi, vừa nói: "Sau ngày thống nhất, trong khi tất cả các trường đại học ở miền Đông nước Đức vẫn được giữ lại nguyên vẹn, thì Viện hàn lâm theo mô hình Xô viết đã bị giải thể hoàn toàn; công việc nghiên cứu khoa học được trả lại cho các trường đại học". Ông nhắc lại một lần nữa như sợ tôi không hiểu hết ý: "trả lại cho các trường đại học", và tiếp: "Tuy là người đã mất quyền lãnh đạo khoa học, và hiện đang mất việc làm, tôi vẫn khẳng định: Quyết định đó của Nhà nước Đức là đúng đắn”.
*
Lịch sử đàn áp khoa học của Liên Xô không phải chỉ diễn ra có một lần trong lĩnh vực Di truyền học. Cho đến tận những năm 1960, nhiều tư tưởng khoa học tiến bộ cũng vẫn chịu số phận như di truyền học. Chúng ta có thể kể đến hàng loạt lĩnh vực hiện đại đưa vào Liên Xô đều đã bị phê phán gay gắt, trước hết là từ giới triết học marxist-leninist, sau đó là giới chính trị gia và các thế lực học phiệt bám đuôi giới chính trị gia.
Chúng ta có thể kể đến hàng loạt lĩnh vực, như Điều khiển học (Cybernetics), Lý thuyết hệ thống (Systems Theory), Toán kinh tế (Mathematical Economics), và ngay cả John Bernal, nhà vật lý học, một đảng viên cộng sản người Anh, khi viết cuốn The Social Function of Science (1939) cũng đã bị đả kích gay gắt, khi ông đưa ra khái niệm thất nghiệp vì công nghệ (technological unemployement), vì đã đưa ra một luận đề mới về sự thất nghiệp do đổi mới công nghệ gây ra, trái với Marx, thất nghiệp chỉ có thể là do tư bản bóc lột.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, xem lại những bài học về quan hệ giữa chính trị và khoa học sẽ vô cùng cần thiết để hoạch định một chính sách đúng đắn cho sự phát triển khoa học của đất nước.
            
(*) Viết theo số liệu công bố trong Tạp chí Tia lửa nhỏ (Ogonjok) Số 8&9 năm 1987
Ghi chú: Bài do tác giả gửi trực tiếp đăng trên BauxitVn; tiêu đề và hình minh họa của Bách Việt 

Chủ Nhật, 6 tháng 11, 2011

Một tư liệu về Bách Việt





Bình luận của ASIA FINEST.COM

1- "Hồi cụ Phan Bội Châu mới sang Tàu, một nhân sĩ Trung Quốc là Dương Giác Đôn, đưa cụ đến yết kiến một viên đại thần của triều đình Mãn Thanh, là Trang Uẩn Khoan. Vị đại thần, tiếp rất tử tế, và biếu Cụ một món tiền trợ cấp. Sau khi cụ ra về, Trang Uẩn Khoan bảo Dương Giác Đôn: “Người An Nam có bản tính nô lệ (nô lệ căn tính), dù có vài chí sĩ như ông này (chỉ cụ Phan) cũng chẳng làm nên trò trống gì.”
Năm 1912, Tôn Văn viếng thăm Nhật Bản, và được chính khách Nhật là Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Tsuyoshi) khoản đãi. Sau bữa tiệc, Khuyển Dưỡng Nghị bất thần hỏi Tôn văn: “Tôi được biết Tiên sinh có dịp qua Hà Nội, xin Tiên sinh cho biết tôn ý về dân tộc An Nam ?”
Bị hỏi một cách đột ngột, Tôn Văn chỉ kịp nhớ lại câu của Trang Uẩn Khoan, hối hả đáp: “
Người An Nam vốn nô lệ căn tính. Ngày xưa, họ bị người Hán chúng tôi đô hộ, ngày nay họ lại bị người Pháp cai trị. Dân tộc ấy quả không có tương lai.”
Được dịp, Khuyển Dưỡng Nghị liền nói: “Về điểm này tôi xin phép không đồng ý với Tiên sinh. Ngày nay họ thua Pháp vì không có khí giới tối tân, nhưng cứ xét lịch sử, thì trong số Bách Việt (sic), chỉ có họ là thoát khỏi, không bị Hán hóa. Tôi tin rằng một dân tộc biết tự bảo vệ một cách bền bỉ, như vậy thì thế nào sớm muộn cũng sẽ lầy lại được quyền tự chủ.”
Tôn Văn đỏ mặt, vì hiểu ý Khuyển Dưỡng Nghị muốn châm chọc, cho rằng Tôn Văn là người Quảng Đông, tổ tiên là người A Khách (Hakka), một sắc tộc trong Bách Việt, nhưng kém xa dân tộc Việt Nam, vì đã bị Hán hóa hoàn toàn. Sau bữa tiệc, Khuyển Dưỡng Nghị gọi giây nói mời mấy học sinh người Việt do ông bảo trợ đến để kể cho họ câu chuyện, tỏ ý hớn hở đã thắng Tôn Văn trong cuộc đối thoại.
Trong số mấy người được Khuyển Dưỡng Nghị mời đến có Cụ Sở Cưồng Lê Dư, hồi ấy theo Cụ Phan sang Nhật du học. Chính Cụ Sở Cuồng đã kể câu chuyện ấy cho chúng tôi nghe. Hồi ấy chúng tôi còn ít tuổi, nên hết sức bất mãn, cho rằng người Tàu láo xược, bị Việt Nam đánh bại mấy lần, chẳng còn manh giáp, mà còn nói hỗn. [1]
Tư liệu trên forum w
ww.asiafinest.com không lấy gì làm chăc chắn, tuy hai cụ Lê Dư và Hoàng Văn Chí đều là những bậc sĩ phu. Chính khách nhiều khi nhỡ lời là chuyện thường gặp.
2- Giáo sư Vương Hàn Lĩnh (Viện KHXH Trung Quốc) sang Việt Nam dự Hội thảo quốc tế về biến Đông lần 2 tại thành phố Hồ Chí Minh (11-12 tháng 12 năm 2010) đã phát biểu trước báo chí "
kể từ năm 1885 về trước Việt Nam là thuộc quốc của Trung Quốc" và đe dọa "...anh sẽ gặp rắc rối trong tương lai...Tôi nhắc lại nếu không chọn cách giải quyết như tôi vừa nêu, các anh sẽ phải hứng chịu các xung đột bằng vũ lực thậm chí chiến tranh" [2], sau phát biểu này hai nhà ngoại giao kỳ cựu của Việt Nam là các ông Dương Danh Dy, Trần Kinh Nghị đều có bài viết mà đoạn trích sau đây là của Trần Kinh Nghị:
3- "ta có thể nhận thấy trong suốt quá trình "Nam tiến" và "Đông tiến" của Hán tộc, các tộc người Bách Việt như Ngô Việt, Âu Việt, Dương Việt, Đông Việt, Nam Việt, Man Việt, Di Việt v.v.... đều không thoát khỏi bị thôn tính và đồng hóa...., để cuối cùng đều biến thành "người Hoa" hiện đại. Nhưng riêng Lạc Việt vẫn tồn tại, có thời kỳ bao gồm cả vùng đất Quảng Tây, Quảng Đông và Bắc Bộ ngày nay.
Theo dòng lịch sử, ta còn thấy một thực tế là đã từng có rất nhiều người gốc Bách Việt tham gia vào bộ máy đô hộ của phong kiến Trung Hoa trong các thời kỳ khác nhau nhưng đã chọn Lạc Việt (sau là Chân Lạp, Giao Chỉ...) làm "hậu cứ" để chống lại Vương triều trung ương (như Hồ Quý Ly, Lý Bôn, Lý Bí chẳng hạn); rất nhiều người trong số họ thực sự đã tái hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam.Cũng đã từng diễn ra những đợt rời bỏ quê hương của người Hoa gốc Bách Việt thuộc nhiều thế hệ trước đến định cư tại Việt Nam và các nước Đông Nam Á.
Sử cận đại Trung Quốc cũng cho thấy,
cho mãi đến những năm 1940 danh từ "dân tộc Việt" mới bị Tôn Trung Sơn chủ trương xóa bỏ trong bản đồ dân số Trung Quốc. Cho đến này nay để ý thấy ít nhiều vẫn còn những tình cảm kỳ thị giữa các cộng đồng gốc gác Bách Việt tại Trung Quốc với người 'từ phương Bắc'."[3]
Như vậy, các ý trong 1,2,3 là nhất quán, không đáng ngờ.
Ghi chú:
[1]
http://www.asiafinest.com/forum/lofiversion/index.php/t135203.html
[2] Lịch sử đâu phải uốn cong, uốn thẳng là được !, Dương Danh Dy, Tuần Việt Nam, 15-11-2010
[3] Lịch sử cần sự thật, Trần Kinh Nghị, Tuần Việt Nam,28-12-2010.





Thứ Sáu, 4 tháng 11, 2011

'Vua sám hối'- bức dị tượng độc nhất Việt Nam(*)

Năm 2006, nhân dịp UNESCO công nhận lễ Phật đản là lễ hội tôn giáo thế giới, nhiều công trình văn hóa Phật giáo đặc sắc khắp châu Á được nhắc đến, trong đó có pho tượng Vua sám hối độc nhất ở Việt Nam, với tạo hình độc đáo. Hiện tượng “vua sám hối” cũng được ghi vào sách kỷ lục Guinness.
Bức tượng được sơn son thiếp vàng, tạc hình ảnh một nhà vua mặc triều phục đang quỳ gập người, hai bàn tay cung kính mở rộng để trên mặt đất, còn bên trên lưng là một pho tượng Phật cao lớn ngồi trên tòa sen nằm đè lên.
Tượng “Phật cưỡi vua” độc nhất vô nhị.

Một chiều thu lang thang trên những con phố ở Hà Nội, đi ngang qua con phố Hàng Than, thấy chùa Hòe Nhai ngày nào giờ sửa sang lại khang trang quá, cửa chùa để ngỏ, tôi chợt dừng bước ghé chân vào thăm để tìm một chút tĩnh lặng giữa những mớ bộn bề của cuộc sống.
Từng ngọn gió thu mát rười rượi thổi dọc theo dãy hàng lang đi quanh chùa, lại thêm cảnh vật yên tĩnh, trong lành khiến tâm hồn thư thái đến lạ thường. Đi dạo một vòng quanh chùa, bất ngờ tôi phát hiện ở gian phòng thờ bên trái thượng điện có một bức tượng hết sức kỳ dị thật mà không một ngôi chùa nào khác có được.
Bức tượng kỳ lạ bí ẩn ở chùa Hòe Nhai, Hà Nội
Đó là một bức tượng to, được sơn son thếp vàng, tượng tạc hình ảnh một nhà vua mặc triều phục đang quỳ gập người, hai bàn tay cung kính mở rộng để trên mặt đất, còn bên trên lưng là một pho tượng Phật cao lớn ngồi trên tòa sen đè lên lưng nhà vua.
Đem sự tò mò đến hỏi trụ trì của chùa là hòa thượng Thích Tâm Hoan, tôi mới được hay biết đằng sau bức tượng này là cả một truyền kì dài gắn với tên tuổi của một vị vua trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Trụ trì Thích Tâm Hoan cho biết: “Bức tượng này là độc nhất vô nhị, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới, có bao nhiêu người được chiêm ngưỡng là bấy nhiêu sự ngỡ ngàng và ngạc nhiên khi được nghe về huyền tích sự ra đời của tượng “vua sám hối”.
Nhiều người khi nhìn bức tượng này cho rằng đây là một sự trừng phạt nhưng trái lại, "Dáng quỳ gối phủ phục sát mặt đất của tượng vua thể hiện một sự quy phục tuyệt đối. Đó là sự hối lỗi chân thành, một sự thay đổi xuất phát từ sâu sắc trong tim chứ không gượng ép và do đó đây là một sự nhận lỗi, sửa sai chứ không phải là một sự trừng phạt”, nhà sư Thích Tâm Hoan nói.
“Pho tượng không chỉ là một sự hoài cổ, mà nó là một bài học lưu truyền cho muôn đời sau học tập. Làm người ai cũng phải sửa bỏ thói hư tật xấu thì mới đạt được kết quả tốt. Ai sống trên đời cũng đều mắc sai lầm, nhưng điều quan trọng là phải biết nhìn nhận và sửa sai, để được tha thứ. Khi biết nhận lỗi, những người khác sẽ không đánh giá và quy tội nữa.
Sự ra đời của pho tượng sám hối kỳ lạ
Theo lời của trụ trì Thích Tâm Hoan, thì vào khoảng năm 1670, lúc này Phật giáo đang trong thời kỳ suy sụp, các nhà sư đều điêu đứng vì bị cho rằng sự tồn tại của họ là không có lợi cho xã hội, các tăng ni và phật tử trong chùa đều là những người lười nhác và sống ỉ lại vào sự hảo tâm của mọi người, lãng phí của cải.
Khi vua Lê Hy Tông lên nắm quyền năm 1675 đã ra sắc lệnh đuổi hết sư sãi ở các chùa lên rừng, ai ngoan cố không đi sẽ bị khép vào trọng tội đem ra xử trảm, khiến Phật giáo thời kỳ này rơi vào thảm cảnh hơn bao giờ hết trong lịch sử. Chùa triền bỏ hoang, kẻ cắp vào tàn phá, các nhà sư phải bỏ lên rừng, nhiều người không chịu được đói rét lại cởi áo cà sa quay về kiếp phàm trần.
Cùng thời gian này có một vị thiền sư đắc đạo tên Tông Diễn, ông thuộc thế hệ thứ hai của phái Tào Động. Ông được mọi người thời bấy giờ gọi là “tổ cua” vì tương truyền có một lần Tông Diễn mua được một mớ cua mẹ sau đó liền thả hết chúng trở về mương vì khi nhìn thấy chúng sùi bọt ông cho rằng chúng đang than khóc cho số phận của mình.
Tượng "vua sám hối" độc nhất vô nhị đã được ghi vào sách kỷ lục Guinness
Nhìn thấy sự đi xuống của Phật giáo và sự khốn khổ của các vị sư, Tông Diễn đã quyết tâm tìm cách trở về kinh thành Thăng Long nơi có vua Lê Hy Tông ngự để ngộ giác tư tưởng nhà Vua, cứu lại niềm tin Phật pháp vô biên.
Vì khi đó vua Lê Hy Tông đang rất kì thị và căm ghét nhà sư nên Tông Diễn phải cải trang sau đó giả vờ dâng tặng nhà vua một viên ngọc quý, nhưng thực chất bên trong là một tờ sớ được viết bằng tâm huyết của Tông Diễn, giúp vua Hy Tông ngộ ra được chân lý của Phật giáo.
Điều mà bức sớ của Tông Diễn muốn nói với vua Hy Tông là ở đời Trần, đời Lý, các vua hết sức coi trọng đạo Phật và rồi quốc gia thịnh trị, đạo Phật khiến người ta biết ăn uống đúng mực, không sân si, không giết người cướp của, nó như một viên ngọc quý của quốc gia, vậy tại sao cho đến giờ đạo Phật lại bị cho rằng không mang lại lợi ích gì cho xã hội...
Khi truyền đến tay, vua Hy Tông sau khi đọc hết bức sớ chứa đầy những suy nghĩ đúng đắn của vị thiền sư trong giây lát như bừng tỉnh, thoát khỏi cơn mộng mị. Nhà vua liền lập tức cho triệu ngay Tông Diễn vào triều, cúi mình tạ lỗi trước nhà sư, sau đó thu hồi sắc lệnh cấm Phật giáo và hứa sẽ sửa mình với Tông Diễn.
Để thể hiện lòng thành, vua cho người tạc bức tượng lớn mà trong đó có hình nhà vua lấy theo mẫu vua Hy Tông đang phủ phục dưới đất cõng trên lưng tượng đức phật Thích Ca Mâu Ni đang ngồi thiền trên đài sen và đặt tên đó là bức tượng “vua sám hối”.
Bức tượng do vua Hy Tông sai tạc ngoài việc để sám hối với đức Phật vì hành động “phá đạo” của mình, ông còn muốn tất cả mọi người hãy tự biết tu thân sửa mình để sống tốt hơn, nhất là những quan lại nắm chức, cầm quyền trong tay cũng phải xem lại chính mình. Sự ngự trị trong cõi này còn có một cõi ngự trị siêu hùng ưu việt hơn, đó là lực lượng của trí tuệ, một sự tự thân, của bản thể duy nhất.
Như vua Lê Hy Tông, người mang quyền lực tối cao trong một nhà nước đã biết nhận lỗi, sửa lỗi. Sự sám hối này không chỉ cho mình ông, mà còn để răn dạy bao thế hệ về sau nữa", nhà sư Thích Tâm Hoan chỉ dạy.
Năm 2006, nhân dịp UNESCO công nhận lễ Phật đản là lễ hội tôn giáo thế giới, nhiều công trình văn hóa Phật giáo đặc sắc khắp châu Á được nhắc đến, trong đó có pho tượng Vua sám hối độc nhất ở Việt Nam, với tạo hình độc đáo. Hiện tượng “vua sám hối” cũng được ghi vào sách kỷ lục Guinness.
Tác giả: KINH VÂN
(*)TL sưu tầm do một người bạn gửi cho
--------------

Thứ Tư, 2 tháng 11, 2011

Thấy gì từ giái pháp "đóng ngã tư, mở chữ U" trên phố phường Hà Nội?

Mới đây do có việc tang gia tôi phải đi lại nhiều lần giữa phố Tô Hiệu, Quận Cầu Giấy đến khu Tập thể Nam Đồng. Đi bằng xe máy hoặc taxi tôi đều phải mất không dưới 1 tiếng đồng hồ giữa hai điểm nói trên, đoạn đường mà tôi còn nhớ “ngày xưa” đi xe máy chỉ mất trên đưới 20 phút.
Vẫn biết Hà Nội đang phát triển quá nhanh nên khó tránh khỏi tình trạng ách tắc giao thông, nhưng có một điều vô lý xung quanh cái gọi là “giải pháp” đóng/mở các ngã tư và thay vào bằng nhiều lỗi rẽ ngoặt (chữ U) giữa đường tại cái thành phố ngàn năm tuổi này.
Đúng ra, nếu các ngã tư vẫn được lưu thông, tôi đã có ít nhất 3 khả năng lựa chọn tùy theo phương tiện và thời gian: a) xuất phát từ phố Tô Hiệu qua đường Chùa Hà, bắt vào đường Cầu Giấy, đi đường La thành đến ngã 5 Ô Chợ Dừa rẽ phải đi tiếp đường Nguyễn Luơng Bằng tới Nam Đồng; b) từ Tô Hiệu ra đường Nguyễn Khánh Toàn, rẽ vào đường mới ven sông Tô Lịch đến ngã 5 Cầu Giấy rồi đi tiếp như tuyến một; c) vượt qua “nút cỗ chai” đê Cống Vị sang Đào Tấn, đến Khách sạn Deawoo qua ngã tư đi đường Nguyễn Chí Thanh rồi rẽ trái vào đường Huỳnh Thúc Kháng, đến Ngã tư Chùa Bộc –Tây Sơn rẽ trái, đi một đoạn thì đến Nam Đồng.
Nhưng bây giờ với nhiều điểm giao cắt bị đóng lại trên các tuyến phố đó, tôi buộc phải đi vòng qua đường Láng (tiếng là “đường vành đai” nhưng cũng đã bị chặn ở một số điểm giao cắt chính) để tìm một điểm “chữ U” quay lại tìm một lối khác đi Nam Đồng. Đi như vậy đúng thật sự là “mua đường”. Ngay cả với người không có việc gấp, chỉ dạo phố cũng mất hứng khi phải đi vòng vo như vậy! Nếu là người Hà Nội nhưng chưa quen đường cũng dễ gặp rắc rối và phải đi như “con kiến leo cành đa,...” rất mệt mỏi. Nếu là người người ngoại tỉnh hoặc nước ngoài thì đó là một "ma hồn trận"! Nói chung biện pháp "khóa" các ngã tư và thay vào bằng các điểm rẽ ngoặt “chữ U” cách đó vài trăm mét là một giải pháp "lợi bất cập hại". Người tham gia giao thông buộc phải chấp nhận cách đi vòng vo mất thời gian sức lực, vô hình trung làm tăng lượng xe cộ lưu thông trên đường, các loại xe di chuyển chậm chạp vừa tốn thêm nhiên liệu và xả nhiều hơn khí thải ra môi trường. Bản thân việc đóng mở đường như vậy còn vừa tốn kém vừa làm xấu cảnh quang đường phố. Cái lợi nếu có là cắt giảm rõ rệt số nhân viên giao cảnh(!)...nhưng chẳng lẽ để họ ngồi chơi ở trụ sở hoặc để tăng cường đón chặn bắt người vi phạm ở các vị trí không quan trọng khác (?). Tình hình chung là như vậy. Nhưng có điều lạ, mới đây Sở Giao thông Công chính vẫn khẳng định : "...qua khảo sát nhận thấy đa số ý kiến tán thành với giải pháp….”. Và đó là lý do để họ tiếp tục đóng- mở- đóng hàng loạt điểm giao cắt và điểm quay “chữ U” trên các tuyến phố của Thủ đô như ta thấy đến nay.


Người viết bài này đã thử tự mình làm một cuộc "khảo sát" bằng cách đi dọc một số tuyến đường, kết hợp trao đổi với người dân...Qua đó thấy: Chỉ một số ít người đồng ý với giải pháp với lý do "được tự do đi lại" không phải chờ đèn xanh-đỏ; một số khác thờ ơ, không tin tưởng vào giải pháp; đa số không tán thành, cho rằng cách làm lảng phí, kém hiệu quả và gây ô nhiễm …Một vài tài xế taxi nhận xét ” Đi kiểu này xăng tốn gấp hai ba lần …”. Có anh bức xúc:” Không hiểu sao các ông í (ý nói cơ quan chức năng) lại làm điều vô lý như vậy?. Một lái xe khác hóm hĩnh: “Nếu để kiếm thêm tiền của khách thì chúng cháu “thích thật”…, nhưng phải “quay vô lăng mỏi cả tay...đến nỗi đêm nằm ngủ vẫn mơ tay nắm vô lăng quay quay chóng hết cả mặt".

Bản thân người viết bài này không làm trong ngành giao thông, nhưng đã tham gia giao thông hơn 1/2 thế kỳ tại Hà Nội , đặc biệt đã có dịp “tháp tùng” một số đoàn cán bộ giao thông công chính Việt Nam trong các chuyến tham quan học tập kinh nghiệm ở nước ngoài, nên cũng hiểu chút ít vấn đề này và thấy cần đóng góp vài suy nghĩ như sau:

Một là, không phải “bỗng dưng” mà cả thế giới này đã chấp nhận các điểm giao cắt (ngã ba, tư, năm, sáu ,bảy…), coi dấu cắt (+) như một biểu tượng về đường đi của nhân loại. Đối với các thành phố hiện đại người ta chỉ cải tiến các điểm giao cắt bằng các giải pháp công nghệ như xây cầu vượt, đường ngầm, đường nhánh,… đồng thời bố trí hệ thống đèn báo và lực lượng giao cảnh hợp lý, v.v…, chứ không mấy khi xóa bỏ hoặc cấm lưu thông tại các điểm giao cắt. Phải chăng chỉ có Hà Nội mới có cách làm giải pháp "không giống ai" như vậy?

Hai là, Bằng việc chặn ngã tư, thay bằng các điểm "ngoặc chữ U” có thể tạo cảm giác "tự do" di chuyển mà không cần nhiều nhân viên điều hành...nhưng thực chất là thái độ “đầu hàng“ trước nếp sống tự do cá nhân, tùy tiện còn rơi rớt lại của nền sản xuất tiểu nông mà trong đó “bác nào muốn đi thì cứ đi”!. Ngoài vài “cái lợi” nếu có, mặt hại còn lớn hơn nhiều; đó là sự lãng phí dưới dạng thời gian, xăng dầu phát sinh, khí thải môi trường, và cả những hậu quả tâm sinh lý tiềm ẩn…

Ba là, nếu ngắm nhìn các phố phường Hà Nôi từ bất cứ góc độ nào đều thấy cảnh lộn xộn, nháo nhác của những dòng dòng xe cộ di chuyển chậm chạp, cái quay ngược, cái quay xuôi, rẽ ngang chen lấn giữa đường càng dễ gây ùn tắc, va chạm v. v…. . Tất cả diễn ra trong bầu không khí bụi bậm dầy đặc khí thải xăng dầu, tạo nên một quang cảnh nháo nhác, lam lũ, nghèo nàn, lạc hậu không nên có tại một thành phố Thủ đô”.

Bốn là, xét trên phương diện giáo dục công dân như vẫn thường được đề cao với các khẩu hiệu “con người văn minh, lịch sự” và “thành phố xanh, sạch, đẹp, hiện đại” thì giải pháp nêu trên e rằng đang “góp phần” theo hướng ngược lại…, vì nó khuyến khích mỗi cá nhân được quyền chen lấn mà không phải tuân theo hiệu lệnh của cơ quan công quyền; hể ai có sức khỏe, có khả năng chen lấn thì cứ việc vươn tới phía trước, chỗ nào trống là lao xe vào …. Tai nạn và các cuộc xung đột, đánh chửi nhau cũng rất dễ phát sinh từ đó.
Cuối cùng, từ những gì đang diễn ra xung quanh quá trình tìm giải pháp chống tắc đường của Hà Nội, ta thấy một tình trạng tương tự đối với các lĩnh vực kinh tế- xã hội khác trên khắp đất nước này. Nó cho thấy hể khi nào và ở đâu mà Cơ quan chủ quản chưa “đạt chuẩn” thì không thể có giải pháp tốt, thậm chí ngược lại. Mỗi lĩnh vực, mỗi địa phương cụ thể có khác nhau, nhưng có một bài học chung là: Giải pháp nào cũng không nên làm trái với những kinh nghiệm đã được đúc kết của nhân loại. Cải tiến và sáng tạo là điều vô cùng cần thiết để góp phần đưa đất nước phát triển nhanh hơn. Nhưng đừng bao giờ nhân danh “cải tiến” và “sáng tạo” để biến một thành phố, một địa phương thành một phòng thí nghiệm cho những ý tưởng “không giống ai”./.

Trần Kinh Nghị
Ghi chú: Bài đã đăng tại http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-01-13-dem-ngu-van-mo-tay-nam-vo-lang-quay-chong-ca-mat-










Thứ Ba, 1 tháng 11, 2011

Việt - Nhật khẳng định tự do hàng hải ở Biển Đông

 Việt Nam và Nhật Bản khẳng định tự do hàng hải, giao thương không bị cản trở, và tuân thủ luật pháp quốc tế hiện hành bao gồm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.


Tại Tokyo chiều nay (31/10), nhân chuyến thăm chính thức Nhật Bản của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, hai bên đã ra Tuyên bố chung về triển khai hành động trong khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á giữa Việt Nam và Nhật Bản.

Tuyên bố chung đã đề cập 7 lĩnh vực hai nước sẽ tăng cường hợp tác sâu sắc trong thời gian tới.

Thỏa thuận về hạt nhân và đất hiếm

Năng lượng là một lĩnh vực hợp tác ưu tiên được nhấn mạnh trong Tuyên bố chung về triển khai hành động trong khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á giữa Việt Nam và Nhật Bản.

Ảnh: Cổng TTĐT Chính phủ

Trong Tuyên bố, phía Nhật Bản cam kết tăng cường an toàn hạt nhân thông qua việc chia sẻ kinh nghiệm và những bài học vừa qua liên quan tới sự cố hạt nhân tại nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi với sự minh bạch cao nhất và giải trình kế hoạch từng bước để nâng cao an toàn hạt nhân.

‘‘Việt Nam đã giải thích rõ sự cần thiết của năng lượng hạt nhân nhằm đảm bảo việc cung cấp năng lượng ở Việt Nam và bày tỏ nguyện vọng mạnh mẽ đối với việc Nhật Bản cung cấp công nghệ hạt nhân‘‘ - theo Tuyên bố chung.

Phía Nhật Bản bày tỏ ý định cung cấp cho Việt Nam những công nghệ đảm bảo mức an toàn hạt nhân cao nhất trên thế giới.

Nhật Bản đánh giá cao việc Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Hiệp định song phương về sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình. Việt Nam bày tỏ hy vọng hiệp định này sẽ sớm được phê chuẩn tại Nhật Bản sau khi hoàn tất những thủ tục nội bộ cần thiết.

Hai bên nhắc lại quyết định của Chính phủ Việt Nam trong việc chọn Nhật Bản là đối tác hợp tác để xây hai lò phản ứng hạt nhân tại nhà máy điện hạt nhân số 2 ở Ninh Thuận, Việt Nam.

Tháng 10 năm ngoái, trong chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Naoto Kan, hai bên đã ký kết thỏa thuận hợp tác trong phát triển công nghiệp đất hiếm tại Việt Nam.

Tuyên bố chung tại Tokyo đã nhắc lại vấn đề này, thúc đẩy hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực điều tra, thăm dò, khai thác và chế biến đất hiếm tại Việt Nam. Hai bên hoan nghênh sự hợp tác trong dự án đầu tiên về đất hiếm sẽ bắt đầu tại Đông Pao, tỉnh Lai Châu, dự kiến được thực hiện ngay sau chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

ODA

Với trọng tâm thảo luận là hợp tác kinh tế, Tuyên bố chung đã đề cập đến hàng loạt dự án cụ thể với tầm nhìn hành động.

Với dự án sân bay quốc tế Long Thành thông qua mô hình đối tác công tư (PPP), hai bên nhất trí cho phép sự tham gia của một tổ hợp các công ty Việt Nam và Nhật Bản, và Chính phủ Việt Nam sẽ tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các công ty Nhật Bản. Hai bên cũng nghiêm túc xem xét việc tiếp tục nghiên cứu dự án xây dựng đường sắt đô thị Hà Nội (tuyến số 5) bởi một tổ hợp công ty Nhật Bản.

Chính phủ Nhật Bản cam kết tiếp tục xem xét hỗ trợ các dự án đường cao tốc đoạn Ninh Bình - Bãi Vọt, Nha Trang - Phan Thiết, và các dự án tuyến đường tàu điện ngầm mới của Hà Nội và TP.HCM, cũng như cam kết của Nhật Bản hỗ trợ cho các lĩnh vực ưu tiên như xây dựng thể chế và năng lực, sử dụng chuyên môn và công nghệ tiên tiến của Nhật Bản.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao quyết định của Chính phủ Nhật Bản cung cấp khoản vay viện trợ phát triển chính thức (ODA) với tổng trị giá 71,6 tỉ yên cho Việt Nam và hoan nghênh việc ký kết các công hàm trao đổi và hiệp định vay cho bốn dự án.

Nhật Bản bày tỏ ý định sẽ cung cấp một khoản vay ODA cho dự án bệnh viện tỉnh và địa phương giai đoạn 2.

Về thương mại và đầu tư, Việt Nam bày tỏ mong muốn phát triển hai khu công nghiệp chuyên sâu với sự hợp tác của phía Nhật Bản ở Hải Phòng và Bà Rịa - Vũng Tàu…

Tự do hàng hải

Tuyên bố chung cũng đề cập đến hợp tác khu vực và quốc tế, trong đó có vấn đề liên quan đến Biển Đông.

Hai bên khẳng định hòa bình và ổn định ở Biển Đông là lợi ích chung của cộng đồng quốc tế. Hai bên hoan nghênh việc thông qua Quy tắc hướng dẫn thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC), kêu gọi thực hiện đầy đủ DOC và sớm xây dựng một bộ quy tắc ứng xử (COC), phù hợp với luật pháp quốc tế hiện hành.

Hai bên khẳng định tự do hàng hải, giao thương không bị cản trở, và tuân thủ luật pháp quốc tế hiện hành bao gồm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và việc giải quyết tranh chấp một cách hòa bình là phù hợp với lợi ích của các nước trong toàn khu vực. Hai bên cùng thừa nhận những lợi ích này cần được thúc đẩy và bảo vệ tại Biển Đông.

L.Thư
.



 

Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2011

Sẽ không còn phân biệt "lề phải"-"lề trái" ?

Không biết mọi người có để ý một mẫu tin tại trang 2 báo của Tuổi trẻ sáng nay (29/10): "Mạng xã hội làm tăng tính đối thoại của báo chí"(!?)

Đây có thể là kết qủa cụ thể của cuộc hội thảo "Mạng xã hội và báo chí" do Bộ Thông tin Truyền thông phối hợp với Đại sứ quán Thụy Điển tổ chức tại Huế ngày 28/10, và cũng là kết quả chung cuộc của cả quá trình hình thành và phát triển  hệ thống mạng xã hội ở Việt Nam từ hơn chục năm nay.

Phát biểu tại Hội thảo, ông Lưu Vũ Hải-Cục trưởng Cục PTTH-TTĐT đánh giá: " Mạng XH đã buộc các cơ quan báo chí phải thay đổi cách suy nghĩ từ làm báo một chiều sang đối thoại hai chiều với đọc giả". Tôi nghĩ, đây là sự nhìn nhận chính thức đầu tiên của Nhà nước đối với vai trò của mạng xã hội; hy vọng nó cũng là một tín hiệu "tan băng" trong mối quan hệ giữa hai luồng truyền thông "chính thống" và "phi chính thống" thường được coi là "lề phải" và "lề trái", mà trong đó "lề trái" thường bị kỳ thị, thậm chí cấm đoán ...(?)

Mãi đến nay mới có một hội thảo như vậy là hơi muôn, nhưng dù sao cũng rất bổ ích trong bối cảnh đang diễn ra nhiều sự cố đến mức "xì-căng-đan" trong lĩnh vực công tác truyền thông Nhà nước vốn dĩ không chỉ quản lý mà "bao cấp" (ít ra  là về mặt lý thuyết) đối với toàn bộ thông tin các loại,từ đường lối-chủ trương- chính sách đến văn học- nghệ thuật, thể thao, phim ảnh,và cả kinh doanh tiếp thị.... Họ nói gì thì dân biết nấy, tin hay không là do "tài khéo léo" của những người làm công tác tuyên truyền!  Và có lẽ vì chưa khéo léo lắm nên vẫn thường xảy ra những vụ việc không mấy hay ho , như gần đây có vụ "bao cao su Cù Huy Hà Vũ", rồi vụ Đài TH Hà Nội bị thưa kiện, mới đây lại có chuyện một nhân vật quan trong của Báo QĐND trích Hiến pháp nói "có hai loại nhân dân"... khiến dư luận rất ngỡ ngàng.

Trong bối cảnh nói trên, có thể nói cuộc Hội thảo là một cơ hội tốt để nhìn nhận lại và có sự điều chỉnh cần thiết trong lĩnh vực công tác truyền thông Nhà nước phù hợp với thời đại bùng nỗ thông tin toàn cầu, mà trong đó mọi công dân đều có thể tiếp cận các nguồn tin rất đa dạng, đa chiều. Cũng hy vọng sẽ tiến tới xóa bỏ tình trạng phân biệt "lề phải", "lề trái"... trong lĩnh vực thông tin mà chỉ coi đó là CÁC NGUỒN THÔNG TIN. Làm được điều này không chỉ bổ sung thêm thế mạnh của cơ quan truyền thông Nhà nước mà còn góp phần tăng cường khối đoàn kết toàn dân cho mục tiêu xây dựng và bảo vệ đất nước, thực hiện nước giàu, dân mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này