Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2011

Chỉ để xem chơi...

Lao động TQ tại VN dưới con mắt của nhà nghiên cứu Việt nam-Giáo sư Carl Thayer

Làm gì trước lao động giản đơn TQ?

GS Carl Thayer khuyên VN chỉ nên cấp phép cho người có trình độ thích hợp.
Giáo sư Carl Thayer, nhà quan sát và nghiên cứu Việt Nam nhiều năm, vừa đưa ra một số nhận định về giải pháp cho làn sóng lao động tay nghề thấp Trung Quốc vào Việt Nam.
Trong một tài liệu được ông công bố qua mạng, GS Thayer phân tích về nguyên nhân có thực trạng lao động này bất chấp chính quyền cấp địa phương cam kết ra tay.
Theo GS Thayer, lao động giản đơn Trung Quốc tiếp tục vào Việt Nam vì có sự thông đồng giữa chủ lao động Trung Quốc với nhà chức trách Việt Nam.
Lao động giản đơn Trung Quốc hoặc được cấp thị thực du lịch hoặc được cấp giấy phép lao động như công nhân lành nghề mà không được kiểm tra thích hợp.
Thực trạng này đặt ra các câu hỏi về mối quan hệ giữa những công ty Trung Quốc và biên phòng Việt Nam cũng như chính quyền địa phương tại Việt Nam.
Trong khi có tình trạng công nhân không có tay nghề Trung Quốc lấy mất việc làm từ lao động địa phương Việt Nam thì cũng thực tế là họ hiệu quả hơn trong công việc bởi họ hiểu được cách làm việc và ngôn ngữ của chủ lao động của họ.
'Không tuân thủ luật'
Công nhân Trung Quốc cũng hình thành cộng đồng riêng tại địa phương nơi họ cư trú và cũng có tin nói họ không tuân thủ luật Việt Nam.
Thực trạng lao động không phép và tay nghề thấp của Trung Quốc tại Việt Nam cũng được xem là vấn đề để các chính khách đem ra đấu đá nội bộ.

Chủ lao động Trung Quốc liệt kê nhiều lao động giản đơn là công nhân có tay nghề.
Vậy thay vì đổ lỗi lẫn nhau, nhà chức trách Việt Nam có thể làm được gì?
Theo GS Thayer, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và các bộ trưởng liên quan trực tiếp phải họp bàn và thông qua một chính sách áp dụng trên phạm vi quốc gia và phải được thực hiện nghiêm khắc.
Tiền phạt khi không tuân thủ các quy định của pháp luật phải được tăng cho cá đối tượng không tuân thủ.
Tiền phạt hiện quá thấp và chủ lao động Trung Quốc có thể trả tiền dễ dàng.
Chính quyền địa phương phải được thông báo kiểm tra giấy phép lao động và lý lịch của toàn bộ cái gọi là công nhân lành nghề Trung Quốc tại Việt Nam cũng phải được kiểm tra.
Bất kỳ người Trung Quốc nào bị phát hiện tới Việt Nam bất hợp pháp nên bị phạt tiền và trục xuất lại Trung Quốc, theo GS Thayer.
Phải đặc biệt chú ý an ninh biên giới với Trung Quốc để đảm bảo rằng họ nghiêm ngặt khâu xin thị thực cũng như yêu cầu cấp giấy phép lao động.
Được biết một nghị định mới có hiệu lực kể từ đầu tháng Tám, các doanh nghiệp nước ngoài đấu thầu hợp đồng với chính phủ Việt Nam sẽ được yêu cầu ưu tiên cho người lao động Việt Nam.
Câu hỏi đặt ra là làm thế nào Chính phủ Việt Nam có thể tận dụng tối đa của Nghị định này để tránh khỏi có nguy có làn sóng công nhân Trung Quốc không có tay nghề cơ tràn ngập đất nước một lần nữa?
GS Thayer cho rằng quản lý bằng nghị định là không đủ.
Theo ông, Việt Nam cần phải thay đổi cơ chế khuyến khích để các công ty nước ngoài sẽ thực hiện theo pháp luật.
Ngoài ra, Việt Nam cần giám sát và kiểm soát thực hiện nghị định này.
Trung Quốc trả đũa?
Việt Nam cũng nên cân nhắc các hình thức phạt tiền nặng hoặc phạt tù đối với người vi phạm nhiều lần.
Luật lệ nên nhắm tới cả công ty nước ngoài lẫn quan chức địa phương giúp đỡ người nước ngoài trốn tránh pháp luật.
Tuy nhiên Việt Nam có thể trừng trị thẳng tay những công nhân Trung Quốc tay nghề thấp bằng cách thắt chặt giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc ở Việt Nam hay không? Có cách nào cho Việt Nam để giảm thiểu thiệt hại đa diện?
"Việt Nam phải chuẩn bị cho sự trả đũa của Trung Quốc"
Giáo sư Carl Thayer
Đó là bởi nếu điều đó xảy ra, thiệt hại không chỉ đối với phía Trung Quốc mà còn cả lao động nước ngoài khác là không thể tránh khỏi.
Theo GS Thayer, giấy phép lao động là cho người lao động có tay nghề cao.
Nhiều công nhân Trung Quốc không có tay nghề được cấp giấy phép lao động vì chủ lao động nói rằng họ là lao động có kỹ năng.
Việt Nam cần cải thiện thủ tục kiểm soát của mình để chỉ cấp phép những người có trình độ thích hợp.
Điều này sẽ áp dụng đối với cả công nhân Trung Quốc và người nước ngoài có quốc tịch khác.
Ngoài ra, cần ghi nhận nhập cư bất hợp pháp là con đường hai chiều.
GS Thayer nói truyền thông Trung Quốc đưa tin có ít nhất 10.000 lao động Việt Nam bất hợp pháp ở Quảng Tây.
Con số này chắc chắn là cao hơn nếu tính số lao động Việt tại các tỉnh khác nữa và ông Thayer lưu ý rằng Việt Nam phải chuẩn bị cho sự trả đũa của Trung Quốc.

Nguồn: BBC ngày 23/9/2011

 

Thứ Năm, 22 tháng 9, 2011

DN Nhà nước và những Titanic nội (*)

Hôm  nay, ngồi uống nước chè vỉa hè ở Văn Miếu, cạnh Bộ KH đầu ty, thằng Joan bảo, tháng trước, Kiểm toán nhà nước vừa hoàn tất chương trình kiểm toán kết quả tài chính năm 2010 các DN nhà nước và công bố trước bàn dân thiên hạ. Trong đó đáng liu ý là có số liệu khá chi tiết của 28 tập đoàn, tổng công ty.
Một số DN nhà nước, được coi là “chủ đạo”, là “quả đấm thép” là “xương sống của nền kinh tế” như cách gọi của anh Ba, anh Tư lại trở nên èo uột, lãi lẹt đẹt, không xứng với đồng tiền bát gạo bỏ ra. Thậm chí có DN còn lỗ nặng. Dẫu, bao nhiêu nguồn lực quan trọng, bao nhiêu tài nguyên và cả những thị phần béo bở đều iu tiên cho các DN này.
Ngoài hiện tượng Vinashin được coi là một “Titanic nội” của xứ Thiên đường được bố cáo từ năm ngoái, với số thâm thủng xấp xỉ 100 ngàn tỷ đồng (tương đương hơn 4tỷ đô Mỹ) còn có một số soái hạm khác cũng ngấp nghé ngập, đang chờ bàn tay trục vớt.
Theo đó EVN lỗ 11,7 ngàn tỷ đồng, tương đương 562 triệu đô Mỹ, Petrolimex lỗ 57.6 triệu đô, Vinashin lỗ 148.5 triệu đô... Ngoài ra trên bảng phong thần còn có Lilama lỗ 103 tỷ đồng, tổng Cty Sông Hồng gần 21 tỷ đồng và tổng Cty Bưu chính VN là 1.026 tỷ đồng. Nói tóm lại là các xương sống của nền kinh tế đều bị thâm thủng, sắp gãy. Chuyện đắm chỉ còn là vấn đề thời gian.
Lại nói chuyện chiến hạm Vinashin bị ngập với số tiền nợ hơn 4 tỷ đô Mỹ, trong số đó có ngót tỷ đô là nợ nước ngoài bằng trái phiếu Chính phủ. Có điều nho nhỏ có thể an ủi anh Ba là, kinh tế Mỹ suy thoái, đô đang mất giá từng ngày, vay là được, nếu không riêng chuyện trả lãi hàng năm cũng bỏ mịa.
Dưới bàn tay cầm lái vĩ đại của anh Ba, cùng với đà suy thoái kinh tế, tốc độ tăng trưởng ở xứ Thiên đường đang chậm dần đều thì chuyện năm sau lỗ cao hơn năm trước là đương nhiên. Tham vọng của anh Ba, anh Tư đưa các Tổng công ty nhà nước thành những tập đoàn kinh tế, những “quả đấm thép” xem ra không mấy khả thi. Không chừng, chính những quả đấm đó lại tương vào nền kinh tế èo uột của xứ Thiên đường, làm cho chúng xây xẩm mặt mũi, xác xơ tiêu điều.
Chuyện doanh nghiệp quốc doanh, chuyện định hướng CNXH là những thứ cũ như cái hũ. Thiên hạ người ta đã vứt vào sọt rác không thương tiếc, cớ sao xứ Thiên đường ta cứ loay hoay. Dăm năm một lần, đại hội đại hiếc, thảo luận thảo liếc, xem thằng nào là chủ đạo, thằng nào cần được iu tiên, thằng nào cần được rót vốn… nhưng rồi, anh Ba, anh Tư vẫn cứ kiên định đường lối cái hũ đó?
Trước khi đưa ra quyết sách, các anh có hẳn đội quân tham miu nào là các Học viện chính trị, các viện nghiên cíu, các Hội đồng giám sát, các ban ngành… đông không kém gì quân Nguyên. Nhưng cũng có điều, lịch sử xứ ta đã ghi lại, để thắng quân Nguyên, người Việt có cụ Yết Kiêu, là chuyên gia đục đẽo, nhờ đó mà đánh đắm vô số chiến hạm của Hốt Tất Liệt.
Giờ đây, các lực lượng đệ tử của anh Ba, anh Tư đều là con cháu của cụ Yết cả. Năng lực đục đẽo của họ tỏ ra không kém gì cụ Yết Kiêu thời Trần, thậm chí còn vượt trội. Nếu không có chiến hạm quốc doanh, họ lấy đâu ra đất để thi thố tài năng? Bởi thế, họ phải nhất trí cao với các anh về tính chủ đạo của quốc doanh, nhờ đó mới có những chiến hạm vĩ đại như Vinashin, như EVN…
Sự độc tôn lãnh đạo khiến con cháu cụ Yết ngày càng có điều kiện nâng cao tay nghề. Các chiến hạm của anh Ba, anh Tư cứ bịt chỗ này lại rò chỗ kia, tiền thì chảy vào túi riêng còn tàu thì không chịu nổi. Bởi thế, dẫu các nguồn lực quốc gia đều được ưu ái cho các DN nhà nước nhưng doanh nghiệp nhà nước vẫn cứ chìm đều. Khi đại hội đại hiếc, lấy ý kiến ý kiếc, chẳng thằng nào chịu nói thật. Ngu gì lại nói thật, nói thật chỉ được cái sướng miệng. Vì lẽ đó kinh tế quốc doanh vẫn cứ phải chủ đạo, con cháu cụ Yết vẫn có việc đều đều.
Mới tháng 9, con số lạm phát đã vượt qua 20%, các bà vừa lĩnh lương hiu, móc ví rút tiền ra mua đồ ăn có cảm tưởng như mình bị móc túi. Giá thịt tăng 100%, giá một tô phở tăng bảy tám chục phần trăm, thượng vàng hạ cám đều tăng, kêu như vạc mùa hè. Có thể nói xứ Thiên đường ta có thể tự hào với thế giới về tốc độ lạm phát. Cứ đà này, thằng cha Mugabe ở Zimbabwe ở lục địa đen cũng phải nhanh chóng kết nạp anh Ba, anh Tư làm đệ tử ruột.
Đồng chí Nghĩa (Lê Xuân) Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, cho biết dự trữ ngoại tệ VN bây giờ chỉ còn khoảng 15 tỷ USD, con số này của tháng 6/2008 là 24,7 tỷ USD.  Năm 2011 chưa kết thúc, nhưng ngay từ lúc này có thể dự đoán, mục tiêu tăng trưởng GDP khoảng 5,8% là khó đạt, so với con số này của năm ngoái là 6,78%. Không cần phải suy ngẫm sâu xa cũng có thể thấy, không chỉ người dân đang bị nghèo đi mà cả quốc gia cũng đang ở tình trạng như thế.
Xin được tiết lộ những thông tin này để các nhà làm phim có ý tưởng viết thành kịch bản Titanic ở xứ Thiên đường, biết đâu lại kiếm được cái giải Oscar cũng mở mặt mở mày với thiên hạ.

(*)Nguồn: Blog Phan The Hai


Thứ Tư, 21 tháng 9, 2011

Tổng thống Philippines: TQ nên biết điều

Tổng thống Philippines Benigno Aquino đang có mặt tại trụ sở Liên Hợp Quốc hôm qua bày tỏ trông đợi Trung Quốc "biết điều" trong căng thẳng liên quan đến bất đồng chủ quyền ở Biển Đông mà vẫn giữ được thể diện.

Ông Aquino, người mới có chuyến thăm chính thức Trung Quốc hồi đầu tháng này trong nỗ lực làm giảm căng thẳng ở Biển Đông, cho rằng điều cốt yếu hiện nay là cố gắng hiểu được quan điểm của bên khác trong tranh chấp và nhận diện những lĩnh vực có thể đạt thoả thuận.
"Trong trường hợp riêng của họ (Trung Quốc), khái niệm giữ thể diện rất quan trọng. Chúng tôi nghĩ rằng họ sẽ biết điều, nhưng họ cũng cần có một số cách thức để giữ thể diện cho mình", AFP dẫn lời Tổng thống Philippines Aquino phát biểu tại Hội châu Á (Asia Society) ở New York, nơi ông đang có mặt để tham dự khóa họp thường niên Đại hội đồng Liên Hợp Quốc.
Dù tỏ ra hiểu tình thế của Trung Quốc tại Biển Đông, ông Aquino vẫn khẳng định quan điểm rằng Bắc Kinh nên đạt một thoả thuận với cả 10 nước thành viên ASEAN về Bộ quy tắc ứng xử tại Biển Đông. "Nếu chúng ta làm việc này theo nguyên tắc song phương thì chúng ta sẽ chỉ thổi phổng và làm trầm trọng vấn đề tranh chấp chủ quyền mà thôi", ông Aquino nói thêm.
Năm 2002, ASEAN và Trung Quốc đã thông qua Tuyên bố giữa các bên về ứng xử ở Biển Đông (DOC) và đang hướng tới xây dựng một bộ quy tắc mang tính ràng buộc hơn. Tuy nhiên mục tiêu này vẫn chưa đạt nhiều kết quả và một trong những nguyên nhân theo một số nhà ngoại giao là do Bắc Kinh ngày càng muốn giải quyết bất đồng với từng nước, chứ không phải với chung khối ASEAN.
Căng thẳng tại Biển Đông bùng phát từ đầu năm nay sau khi Trung Quốc liên tiếp có các hành động gây hấn và xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và Philippines trên Biển Đông, như các vụ quấy rối ngư dân và cắt cáp tàu thăm dò dầu khí.
Trong khi đó, Tổng thống Philippines Benigno Aquino luôn tận dụng các diễn đàn và chuyến thăm quốc tế của mình để nêu rõ với các nước về vấn đề Biển Đông. Ngoài chuyến thăm Trung Quốc diễn ra từ 30/8 đến 3/9, ông Aquino cũng sẽ đề cập đến chủ đề này khi tới thăm Nhật Bản từ ngày 24 tới 29/9 tới.
Phát ngôn viên của ông Aquino cho biết trước chuyến đi rằng vấn đề bất đồng chủ quyền và những căng thẳng ngày một gia tăng giữa Trung Quốc và Philippines tại Biển Đông nên được phía Nhật Bản quan tâm, vì Tokyo cũng là một bên liên quan trong việc tìm kiếm hòa bình và ổn định tại Biển Đông. Hơn nữa Nhật có lợi ích trong việc đảm bảo tự do hàng hải tại Biển Đông.
Ngay sau đó, Đại sứ Nhật Bản tại Philippines Toshinao Urabe hôm qua tuyên bố quan điểm của Tokyo là ủng hộ một bộ quy tắc ứng xử chặt chẽ để ràng buộc các bên trong tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Ông khẳng định Nhật Bản cũng sẽ đề cập tới vấn đề Biển Đông khi Tổng thống Philippines Benigno Aquino tới thăm Tokyo.
Ngoài việc tích cực đưa vấn đề Biển Đông ra diễn đàn quốc tế, Philippines cũng đang tìm kiếm thêm nhiều sự hỗ trợ quân sự và thắt chặt hơn mối quan hệ với Mỹ. Tổng thống Aquino mới đây cũng quyết định phân bổ 11 tỷ peso (252 triệu USD) để nâng cấp hải quân Philippines với sự hỗ trợ của Mỹ.

Nguồn: VN-Express 21/9/2011 - Đình Nguyễn

Thứ Ba, 20 tháng 9, 2011

ASEAN xích lại gần nhau vì Biển Đông

Ảnh minh họa của chủ blog


 
ASEAN và các quốc gia phụ thuộc nhiều vào tuyến đường biển đi qua Đông Nam Á đang đến gần nhau vì mối lo chung trước các hành động của Trung Quốc trên biển Đông.
>> Philippines muốn Nhật quan tâm vấn đề Biển Đông
>> Bình Nhưỡng tăng cường hoạt động tàu ngầm

Nhà quan sát quân sự Michael Richardson viết trên báo Straits Times (Singapore) hôm 19.9 rằng: “Để bảo vệ quyền lợi của mình trong vùng biển rộng 3,5 triệu km2 bao gồm tuyến hải hành quốc tế quan trọng, vùng trời rộng lớn và hệ thống cáp viễn thông huyết mạch, các quốc gia bên ngoài khu vực đã đồng thuận với nhau về sự cần thiết phải duy trì hòa bình và quyền tự do đi lại trên biển, mà không đứng về phía nào trong cuộc tranh chấp biển Đông”. Và, “Đối mặt với những tuyên bố xâm lấn và ngày càng hung hăng, đòi kiểm soát đến 80% biển Đông của Trung Quốc, các nước ASEAN và các quốc gia phụ thuộc nhiều vào lưu thông đường biển đang xích lại gần nhau”, ông Richardson viết.

Theo ông, nhiều cường quốc kinh tế và quân sự có lý do chính đáng để quan ngại trước các hành động của Trung Quốc. Trước hết là Mỹ. Biển Đông và eo Malacca chạy ngang Singapore là con đường ngắn nhất mà Mỹ có thể đưa lực lượng hải quân từ hạm đội Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương để vào Trung Đông, Tây Á trong những tình huống cần kíp. Hai đồng minh châu Á của Mỹ là Nhật Bản và Hàn Quốc cũng cần sự hỗ trợ của hải quân Mỹ để đảm bảo hoạt động nhập khẩu nhiên liệu bằng đường biển của mình được trơn tru. Đồng minh thuộc châu Đại Dương của Mỹ là Úc trao đổi thương mại với châu Á chủ yếu qua đường biển Đông.

Gần đây, quốc gia với hơn 1 tỉ dân, Ấn Độ, cũng “gia nhập danh sách các nước lớn quan ngại trước hậu quả của những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc”, ông Richardson nhận định. Hồi tuần trước, New Dehli đã thẳng thừng bác bỏ phản đối của Trung Quốc về việc Công ty dầu khí quốc gia Ấn Độ, ONGC Videsh Ltd, hợp tác thăm dò dầu khí tại lô 127 và 128 của VN. Gọi phản đối đó là “không có cơ sở pháp lý”, Dehli khẳng định các lô này hoàn toàn nằm trong Vùng đặc quyền kinh tế của VN theo Luật biển quốc tế. Hồi tháng 7, tàu chiến Ấn Độ thăm VN cũng phớt lờ tín hiệu cảnh cáo từ một nguồn tự xưng là “Hải quân Trung Quốc”, và tiếp tục hành trình đi qua biển Đông theo đúng kế hoạch.

Trong bài viết với tựa đề Các tuyên bố chủ quyền trên biển gây phân cực của Trung Quốc (China’s polarising maritime claims), ông Richardson cũng nhắc lại bài viết của giáo sư Tommy Koh, một nhà ngoại giao và học giả nổi tiếng của Singapore, đăng trên Straits Times hôm 13.9. Là người chủ nhiệm việc soạn thảo Công ước LHQ về Luật biển (UNCLOS, 1982), ông Koh khẳng định trong bài viết của mình rằng tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đông là “không phù hợp”, và UNCLOS “không công nhận những tuyên bố chủ quyền như thế”. Ông Koh cũng nhắc lại rằng Trung Quốc đã đồng ý phê chuẩn Công ước thì phải “có trách nhiệm pháp lý trong việc đưa ra luật lệ và quy tắc ứng xử phù hợp với Công ước”.

Ông Richardson nhìn nhận: “Trung Quốc đang tìm cách ngăn chặn những dự án năng lượng và thủy sản của các nước khác trong vùng biển mà Trung Quốc cho là thuộc chủ quyền hoặc quyền tài phán của mình”. Và, “Điều đó dẫn tới những hệ lụy quốc tế và có thể khiến Trung Quốc đứng vào thế đối đầu với các công ty dầu khí quốc gia và tư nhân của nhiều nước, không chỉ Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei hay Indonesia”.

“Bất kỳ hành động nào của Trung Quốc có nguy cơ gây ảnh hưởng đến quyền tự do hàng hải và hàng không trong vùng biển sẽ khiến Mỹ và các đồng minh trở nên tích cực hơn trong cuộc tranh chấp. Và Ấn Độ có thể cũng tham gia”, ông Richardson cảnh báo.

Minh chứng cho nhận định trên, ông chỉ rõ: “Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Mỹ đã thống nhất lập trường của họ về biển Đông và có kế hoạch nêu ra trước Trung Quốc trong Hội nghị thượng đỉnh Đông Á vào tháng 11 tới ở Indonesia”. Và gần đây nhất, hôm 15.9, trong lễ kỷ niệm 60 năm đồng minh tại San Francisco, Mỹ và Úc đã tuyên bố họ cùng cả cộng đồng quốc tế có “lợi ích quốc gia” về một nền thương mại hợp pháp không bị ngăn trở trong vùng biển Đông. Hai bên cũng nói họ “phản đối việc cậy mạnh để đoạt lợi hoặc ngăn trở các hoạt động kinh tế chính đáng” ở biển Đông. Ông Richardson nói Washington và Canberra rõ ràng có chủ đích gửi thông điệp này đến Bắc Kinh.

Ấn - Trung cạnh tranh
Ngày 19.9, Báo The Times of India loan tin ngay sau khi Ấn Độ tuyên bố tiếp tục hợp tác với Việt Nam thăm dò dầu khí ở biển Đông, Trung Quốc thông báo sẽ mở rộng khu vực thăm dò tới 10.000 km2 đáy biển ở vùng tây nam Ấn Độ Dương. Đây là một phần trong chính sách phát triển đại dương cho giai đoạn 2011-2015 của Trung Quốc. “Chúng ta sẽ mở rộng độ sâu, phạm vi nghiên cứu đại dương và nâng cao sự hiểu biết của chúng ta về đại dương, đặc biệt tập trung vào những vùng địa cực và vùng biển sâu”, Tân Hoa xã dẫn lời ông Lưu Tứ Quý, Cục trưởng Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc. The Times of India nhận định động thái này của Trung Quốc sẽ có những hàm ý về an ninh.

Hồi tháng 7, Trung Quốc đã được Cơ quan quản lý đáy biển quốc tế cho phép thăm dò và khai thác khoáng sản ở đáy Ấn Độ Dương. Ngay sau đó, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Ấn Độ lập tức bày tỏ quan ngại, cho rằng Bắc Kinh có thể lợi dụng quyền này để triển khai tàu chiến trong khu vực, theo Báo The Indian Express. Hội đồng Tình báo Hải quân Ấn Độ thì cảnh báo sự kiện này có thể dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng đối với Ấn Độ vì “Trung Quốc có thể đưa ra những lý do để duy trì sự hiện diện liên tục trong khu vực” và “điều này sẽ cho Trung Quốc có cơ hội thu thập các dữ liệu hải dương học và thủy học hợp pháp”.

Ngoài khu vực Ấn Độ Dương, Ấn Độ và Trung Quốc cũng đã có vài lần va chạm về biển Đông. Nhà phân tích Harsh V. Pant tại trường King’s College ở Anh, nhận định trên Báo Japan Times rằng Ấn Độ có quyền phản đối việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền toàn bộ biển Đông. Theo ông Pant, Ấn Độ nên phát triển quan hệ đối tác chiến lược với các nước khác trong khu vực để đối phó Trung Quốc.

Nguồn: Báo Thanh Niên 20/9/2011- phóngviên Thục Anh từ singapore 

Trần Kinh Nghị

Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2011

"Phái yếu" đang lên trên chính trường?


 Bà Helle Thorning-Schmidt sẽ trở thành nữ thủ tướng đầu tiên tại Đan Mạch sau khi khối trung tả giành chiến thắng sát nút trong cuộc tổng tuyển cử hôm 15/9.

Bà Helle Thorning-Schmidt sẽ trở thành nữ thủ tướng đầu tiên của Đan Mạch.
Với gần toàn bộ số phiếu được kiểm, khối trung tả do lãnh đạo Dân chủ Xã hội Helle Thorning-Schmidt đứng đầu đã giành đa số sít sao tại quốc hội.
Theo đó, khối trung tả đã giành 89 ghế trong quốc hội hồm 179 ghế của Đan Mạch, so với 86 ghế của phe trung tả. Số cử tri đi đi bầu cao, lên tới 87,7%.
“Chúng ta đã làm được điều đó… Hôm nay, chúng ta đã viết lên lịch sử”, bà Thorning-Schmidt nói trước những người ủng hộ.
Bà Thorning-Schmidt, 44 tuổi, dự kiến sẽ trở thành nữ thủ tướng đầu tiên tại Đan Mạch. Thủ tướng Lars Lokke Rasmussen sắp mãn nhiệm đã thừa nhận thất bại.
Bà Thorning-Schmidt đã vận động tranh cử dựa trên cương lĩnh tăng thuế và tăng chi tiêu công. Bà cũng cam kết điều chỉnh luật nhập cư chặt chẽ được đề xuất bởi một đối tác nhỏ trong liên minh cầm quyền hiện thời.
Ông Rasmussen đã gọi điện cho bà Thorning-Schmidt để chúc mừng chiến thắng của bà, nhưng nói thêm: “Tối nay, tôi chuyển giao chìa khoa văn phòng thủ tướng cho Helle Thorning-Schmidt. Và bà Helle thân mến, hãy giữ chìa khóa cẩn thận. Bà chỉ đang mượn chúng thôi”.
Khối trung tả do ông Rasmussen đứng đầu đã nắm quyền tại Đan Mạch trong một thập niên.
Đan Mạch đã chứng kiến sự suy giảm kinh tế tồi tệ nhất kể từ Thế chiến II. Mặc dù Đan Mạch là thành viên của EU nhưng nước này đã lựa chọn việc không sử dụng đồng tiền chung euro.
Bà Thorning-Schmidt kết hôn với con trai với cựu lãnh đạo Công đảng Anh Neil Kinnock, Stephen Kinnock, người bà gặp tại Bỉ.
Hiện bà Thorning-Schmidt sống cùng 2 con gái ở Copenhagen, trong khi chồng bà công tác tại Thụy Sĩ với cương vị giám đốc Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF).
Nguồn: Dân tri ngày 16/9/1011 đưa lại tin của AP và BBC

Thứ Ba, 13 tháng 9, 2011

Biển Đông-tương lai của xung đột

Chiến trường đặc trưng của thế kỷ 21 sẽ là trên biển.
Tác giả: Robert D. Kaplan, Tạp chí Foreign Policy, Tháng 9 / 10 năm 2011

Nhìn Châu Âu thấy đất, nhìn Đông Á thấy biển.  Từ đó có một khác biệt quan trọng giữa thế kỷ 20 và 21.  Những khu vực bị tranh chấp nhiều nhất trên địa cầu trong thế kỷ trước nằm trên đất liền ở châu Âu, đặc biệt là trên vùng bình địa khiến cho những biên giới phía đông và phía tây của Đức trở nên giả tạo và trơ mình gánh chịu bước chân hành quân không thương tiếc của các lực lượng lục quân.  Nhưng trong vòng mấy chục năm, trục dân cư và kinh tế của Trái Đất đã chuyển đáng kể sang đầu bên kia của khu vực Âu-Á, nơi mà những khoảng không gian giữa các trung tâm dân số quan trọng chủ yếu là biển.
Do cách địa lý soi rọi và xác lập các thứ tự ưu tiên, những địa hình đặc thù này của Đông Á tiên đoán một thế kỷ hải quân – hải quân ở đây được hiểu theo nghĩa rộng để bao gồm những đội hình chiến đấu cả trên biển lẫn trên không mà nay ngày càng không thể tách rời nhau.  Lý do?  Đó là Trung Quốc; quốc gia này đang tiến hành một cuộc bành trướng hải quân không thể chối cãi được, đặc biệt là khi mà các biên giới đất liền của nước này hiện nay vững chắc hơn bất cứ lúc nào kể từ thời kỳ đỉnh cao của triều đại nhà Thanh vào cuối thế kỷ 18.  Chính bằng sức mạnh trên biển mà về mặt tâm lý Trung Quốc sẽ xóa sạch hai thế kỷ bị ngoại bang xâm lấn lãnh thổ của họ – buộc tất cả các nước xung quanh họ phải phản ứng.
Tham chiến trên bộ và trên biển khác nhau vô cùng, với những ý nghĩa quan trọng cho các đại chiến lược cần có để thắng – hoặc để tránh – cuộc chiến.  Những cuộc chiến trên bộ lôi kéo cả thường dân vào cuộc, trên thực tế khiến cho nhân quyền trở thành một thành tố chính của các nghiên cứu về chiến tranh.  Những cuộc chiến trên biển xem xung đột như một vấn đề phân tích lý thuyết và kỹ thuật, trên thực tế biến chiến tranh chỉ còn là một phép toán, trái ngược hẳn với những cuộc đấu trí vốn là đặc trưng của những cuộc xung đột trước kia.
Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai là cuộc đấu tranh luân lý chống lại chủ nghĩa phát xít, cái ý thức hệ dẫn tới sát hại hàng chục triệu thường dân.   Chiến Tranh Lạnh là cuộc đấu tranh luân lý chống lại chủ nghĩa cộng sản, một ý thức hệ không kém phần áp bức mà qua đó đặt ách thống trị lên những vùng lãnh thổ bao la bị Hồng Quân đánh chiếm.   Thời kỳ ngay sau Chiến Tranh Lạnh trở thành cuộc đấu tranh luân lý chống lại nạn diệt chủng ở vùng Balkan và Trung Phi, hai nơi mà chiến tranh trên bộ và các tội ác chống lại nhân loại không thể nào tách rời nhau.  Gần đây hơn, cuộc đấu tranh luân lý chống lại Hồi giáo cực đoan đã kéo Mỹ lún sâu vào những địa hình núi non khép kín của Afghanistan, nơi mà việc đối xử nhân đạo với hàng triệu thường dân có ý nghĩa trọng yếu cho thành công của cuộc chiến.  Trong tất cả những nỗ lực này, chiến tranh và chính sách đối ngoại đã trở thành những vấn đề không chỉ cho binh lính và giới ngoại giao, mà còn cho cả giới hoạt động nhân đạo và giới trí thức.  Thực vậy, hoạt động chống chiến tranh du kích thể hiện cực điểm của cái có thể xem là sự liên kết giữa các quân nhân và các chuyên gia nhân quyền.  Đây là kết quả của việc chiến tranh trên bộ phát triển thành chiến tranh toàn diện trong thời hiện đại.
Đông Á, hay chính xác hơn khu vực Tây Thái Bình Dương, hiện đang nhanh chóng trở thành trung tâm mới của thế giới về hoạt động hải quân, báo trước một thế cục khác căn bản.   Có thể sẽ có tương đối ít những thế tiến thoái lưỡng nan về luân lý kiểu như những trường hợp chúng ta đã quen trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, với một ngoại lệ nổi bật nhưng khó xảy ra là chiến tranh trên bộ ở Bán đảo Triều Tiên.  Khu vực Tây Thái Bình Dương sẽ đưa các vấn đề quân sự trở lại phạm trù hạn hẹp của các chuyên gia quốc phòng.  Sở dĩ như vậy không chỉ vì chúng ta đang bàn tới một phạm trù hải quân, trong đó vắng mặt thường dân.  Mà cũng bởi vì bản chất của chính các nước ở Đông Á, mà, giống như Trung Quốc, có thể rất độc tài nhưng trong phần lớn các trường hợp lại không phải là tàn bạo hay quá độc ác.
Cuộc đấu tranh giành thế thượng phong ở khu vực Tây Thái Bình Dương sẽ không nhất thiết sẽ có đánh nhau; phần lớn những gì xảy ra sẽ diễn ra lặng lẽ và ở phía chân trời giữa biển cả mênh mông, với một nhịp độ chậm lừ đừ như băng trôi phù hợp với tiến trình thích nghi từ từ, đều đặn với sức mạnh kinh tế và quân sự ưu việt mà các nước đã trải qua trong lịch sử.   Chiến tranh không phải là tất yếu cho dù cạnh tranh là điều hẳn nhiên.  Và nếu Trung Quốc và Mỹ xử lý thành công cuộc chuyển giao sắp đến, Châu Á, và thế giới, sẽ là nơi an ninh và thịnh vượng hơn.  Còn gì có thể luân lý hơn thế?  Nên nhớ: chính chủ nghĩa hiện thực nhằm phục vụ lợi ích quốc gia – với mục tiêu là tránh chiến tranh – trong quá trình lịch sử đã cứu nhiều mạng người hơn sự can thiệp nhân quyền.
ĐÔNG Á LÀ MỘT KHU VỰC MÊNH MÔNG BAO LA trải dài gần như từ Bắc cực tới Nam cực – từ Quần đảo Kuril xuống phía nam tới New Zealand – và có đặc điểm là một chuỗi không liền lạc các bờ biển tách biệt và những quần đảo dàn trải.  Ngay cả khi tính đến chuyện khoa học kỹ thuật đã giảm đáng kể khoảng cách, bản thân biển cả vẫn là một rào cản cho việc xâm lấn, ít nhất là trong chừng mực mà đất liền không phải là rào cản.  Khác với đất liền, biển tạo ra những biên giới xác định rõ ràng, khiến nó có tiềm năng giảm xung đột.  Rồi còn phải kể đến tốc độ.  Ngay cả những tàu chiến nhanh nhất cũng đi tương đối chậm, chẳng hạn 35 hải lý, làm giảm xác suất tính toán sai và giúp cho các nhà ngoại giao có thêm nhiều giờ – thậm chí nhiều ngày – để xem lại các quyết định.  Hải quân và không quân không thể chiếm đóng lãnh thổ như cách của lục quân.  Chính vì các vùng biển xung quanh Đông Á – trung tâm của hoạt động sản xuất toàn cầu cũng như chi tiêu mua sắm quân sự ngày càng tăng – mà thế kỷ 21 có cơ may lớn hơn thế kỷ 20 để tránh những cuộc đại xung đột quân sự.
Dĩ nhiên Đông Á đã gặp nhiều cuộc đại xung đột quân sự trong thế kỷ 20 mà các vùng biển không ngăn chặn được: Chiến Tranh Nga-Nhật; gần nửa thế kỷ nội chiến ở Trung Quốc diễn ra với sự sụp đổ từ từ của nhà Thanh; nhiều cuộc chinh phạt của đế quốc Nhật mà tiếp theo đó là Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai ở Thái Bình Dương; Chiến Tranh Triều Tiên; các cuộc chiến tranh ở Cam Bốt và Lào; và hai cuộc chiến ở Việt Nam có dính líu đến người Pháp và người Mỹ.  Chuyện địa lý của Đông Á chủ yếu là biển chẳng có tác động gì tới những cuộc chiến tranh đó vốn dĩ cốt lõi là những cuộc xung đột nhằm thống nhất quốc gia hay giải phóng dân tộc.  Nhưng thời kỳ đó nhìn chung đã lùi vào quá khứ.  Các quân đội Đông Á, thay vì tập trung vào đất liền với các binh chủng lục quân kỹ thuật thấp, đang tập trung ra ngoài khơi với hải quân và không quân kỹ thuật cao.
Nhiều người so sánh giữa Trung Quốc hiện nay và Đức trước lúc xảy ra Chiến Tranh Thế Giới Thứ Nhất, nhưng so sánh đó sai lầm:  Trong khi Đức chủ yếu là một quyền lực trên đất liền do địa lý của Châu Âu, Trung Quốc sẽ chủ yếu là một quyền lực trên biển do địa lý của Đông Á.
Đông Á có thể được chia thành hai khu vực tổng quát: Đông Bắc Á, nổi bật là Bán Đảo Triều Tiên, và Đông Nam Á, nổi bật là Biển Đông.  Đông Bắc Á xoay quanh vận mệnh của Bắc Hàn, một nhà nước chuyên chế, cô lập với những viễn cảnh mờ mịt trong một thế giới chịu sự chi phối của chủ nghĩa tư bản và thông tin liên lạc điện tử.  Nếu như Bắc Hàn bùng nổ từ bên trong, các lực lượng lục quân Trung Quốc, Mỹ, và Nam Hàn có thể gặp nhau ở phía bắc của bán đảo này với những can thiệp nhân đạo ở quy mô lớn khủng khiếp, ngay cả khi họ tạo ra những vùng ảnh hưởng cho chính mình.  Các vấn đề hải quân sẽ là thứ yếu.  Nhưng nếu cuối cùng hai nước Triều Tiên thống nhất, thì những vấn đề hải quân sẽ nhanh chóng được đưa lên hàng đầu, với Đại Hàn, Trung Quốc, và Nhật nằm trong thế cân bằng tế nhị, được tách biệt bởi Biển Nhật bản và các biển Hoàng Hải và Bột Hải.  Tuy nhiên vì Bắc Hàn vẫn tồn tại, giai đoạn Chiến Tranh Lạnh của lịch sử Đông Bắc Á vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt, và sức mạnh trên đất liền rất có thể vẫn chiếm lĩnh thời sự ở đó trước khi sức mạnh trên biển lên ngôi.
Ngược lại, Đông Nam Á đã bước sâu vào giai đoạn hậu Chiến Tranh Lạnh của lịch sử.  Việt Nam, chi phối bờ phía tây của Biển Đông, là một cỗ xe khổng lồ băng băng lao tới theo chiều hướng tư bản bất chấp hệ thống chính trị của họ, đang muốn thắt chặt quan hệ quân sự gần gũi hơn với Mỹ.   Trung Quốc, được Mao Trạch Đông củng cố thành một nhà nước mang tính triều đại sau nhiều thập niên hỗn loạn và được các chính sách tự do hóa của Đặng Tiểu Bình biến thành nền kinh tế năng động nhất thế giới, đang dùng hải quân của mình để lấn dần ra ngoài tới cái mà nước này gọi là “chuỗi đảo đầu tiên” trong khu vực Tây Thái Bình Dương.  Quốc gia Hồi giáo khổng lồ Indonesia, sau khi đã cam chịu và cuối cùng chấm dứt hàng thập niên ách cai trị quân phiệt, đang sẵn sàng trỗi dậy thành một Ấn Độ thứ hai: một nền dân chủ mạnh mẽ và ổn định với tiềm năng phô trương sức mạnh nhờ nền kinh tế lớn mạnh của mình.  Singapore và Malaysia cũng đang tiến nhanh về kinh tế, nhiệt thành theo đuổi mô hình “nhà nước đô thị kiêm nhà nước thương mại” và bằng nhiều sắc thái khác nhau pha trộn giữa dân chủ và chế độ độc tài.  Bức tranh tổng hợp thể hiện một cụm gồm những nước tuy vẫn còn trĩu nặng những vấn đề về tính chính đáng cúa thể chế trong nước và xây dựng đất nước nhưng đã sẵn sàng thúc đẩy những quyền lãnh thổ do tự họ cảm nhận vượt ra khỏi bờ biển của chính họ.  Lực đẩy tổng hợp ra biển khơi này nằm trong vùng tranh chấp dân số của địa cầu, vì chính Đông Nam Á, với 615 triệu người, là nơi 1,3 tỉ dân của Trung Quốc hội tụ với 1,5 tỉ người của tiểu lục địa Ấn Độ.  Nơi gặp nhau về mặt địa lý của những nước này và quân đội của họ là trên biển: Biển Đông.
Biển Đông nối các nước Đông Nam Á với khu vực Tây Thái Bình Dương, có chức năng như nút cổ chai của các tuyến đường biển toàn cầu.   Đây là trung tâm của vùng biển khu vực Âu-Á, bị chia cắt bởi các eo biển Malacca, Sunda, Lombok, và Makassar.  Hơn phân nửa trọng tải tàu thương mại hàng năm của thế giới đi qua những nút thắt chật hẹp này, và một phần ba của toàn bộ lưu lượng giao thông đường biển qua đây.  Lượng dầu hỏa được chuyên chở qua Eo biển Malacca từ Ấn Độ Dương, trên đường tới Đông Á qua Biển Đông, là gấp sáu lần lượng dầu đi qua Kênh Suez và gấp 17 lần lượng dầu chở qua Kênh Panama.  Khoảng hai phần ba nguồn cung cấp năng lượng của Nam Hàn, gần 60 phần trăm nguồn cung cấp năng lượng của Nhật và Đài Loan, và khoảng 80 phần trăm lượng dầu thô nhập khẩu của Trung Quốc đi qua Biển Đông.  Ngoài ra, Biển Đông đã chứng tỏ có trữ lượng dầu 7 tỉ thùng và ước tính 900 ngàn tỉ bộ khối khí đốt tự nhiên, một kho báu khổng lồ.
Không chỉ vị trí và trữ lượng năng lượng hứa hẹn khiến cho Biển Đông có tầm quan trọng địa chiến lược lớn lao, mà còn do những cuộc tranh chấp lãnh thổ tàn khốc từ lâu đã diễn ra xung quanh các vùng biển này.  Nhiều cuộc tranh chấp liên quan đến Quần đảo Trường Sa, một quần đảo ở phía đông nam của Biển Đông.  Việt Nam, Đài Loan, và Trung Quốc đều tuyên bố chủ quyền toàn bộ hoặc phần lớn Biển Đông, cũng như toàn bộ Quần đảo Trường Sa và Quần đảo Hoàng Sa.  Đặc biệt, Bắc Kinh khẳng định một đường lịch sử: Họ tuyên bố chủ quyền tới tận trung tâm của Biển Đông trong một đường vòng khổng lồ (thường được gọi là “đường lưỡi bò”) từ Đảo Hải Nam của Trung Quốc ở đầu cực bắc của Biển Đông kéo dài suốt 1.200 dặm xuống phía nam đến gần Singapore và Malaysia.
Kết quả là tất cả chín nước tiếp giáp với Biển Đông ít nhiều đều dàn trận chống lại Trung Quốc và do đó dựa vào Mỹ để được ủng hộ về ngoại giao và quân sự.  Những tuyên bố chủ quyền mâu thuẫn này có thể sẽ càng gay gắt hơn vì các nhu cầu năng lượng tăng dần của Châu Á – mức tiêu thụ năng lượng dự kiến đến năm 2030 sẽ tăng gấp đôi, trong đó Trung Quốc chiếm phân nửa mức gia tăng đó – khiến cho Biển Đông thành nhân tố càng trọng yếu hơn để bảo đảm cho sức mạnh kinh tế của khu vực.  Hiện Biển Đông đã ngày càng trở thành một trại vũ trang khi mà các nước giành chủ quyền tăng cường và hiện đại hóa hải quân của họ, ngay cả khi việc tranh giành các đảo và bãi đá ngầm trong những thập niên gần đây hầu như đã chấm dứt.  Tính đến nay Trung Quốc đã chiếm giữ 12 vị trí địa lý, Đài Loan một, Việt Nam 25, Philippines tám, và Malaysia năm.
Chính địa lý của Trung Quốc định vị nước này theo hướng Biển Đông.  Trung Quốc nhìn về hướng nam tới một vùng biển được định hình, theo chiều kim đồng hồ, bởi Đài Loan, Philippines, đảo Borneo được phân tách giữa Malaysia và Indonesia (cũng như quốc gia bé tí Brunei), và bờ biển dài ngoằn ngèo của Việt Nam: tất cả đều là nước yếu, so với Trung Quốc.  Giống như Biển Caribbe, bị chia cắt bởi nhiều đảo quốc nhỏ và bao quanh bởi Mỹ có kích thước bằng cả lục địa, Biển Đông là một đấu trường hẳn nhiên để phô trương sức mạnh của Trung Quốc.
Thực vậy, vị trí của Trung Quốc ở đây về nhiều mặc giống như vị trí của Mỹ đối với khu vực Caribbe có kích thước tương tự trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.  Mỹ đã nhận ra sự hiện diện và các tuyên bố chủ quyền của các cường quốc Châu Âu trong vùng Caribbe, thế nhưng vẫn tìm cách thống lĩnh khu vực này.  Chính Chiến Tranh Tây Ban Nha – Mỹ 1898 và việc đào Kênh Panama từ năm 1904 đến 1914 đã đánh dấu việc Mỹ trở thành một cường quốc thế giới.  Hơn nữa, việc thống lĩnh khu vực đại Lưu vực Caribbe thực sự đã trao cho Mỹ quyền kiểm soát Tây Bán cầu, cho phép họ có ảnh hưởng đến cán cân quyền lực ở Đông Bán cầu.  Và ngày nay Trung Quốc thấy mình ở trong một tình thế tương tự ở Biển Đông, một tiền sảnh dẫn vào Ấn Độ Dương, nơi mà Trung Quốc cũng muốn có sự hiện diện hải quân để bảo vệ các nguồn cung năng lượng Trung Đông của mình.
Tuy nhiên có một điều sâu xa hơn và cảm tính hơn địa lý thúc đẩy Trung Quốc tiến tới vào Biển Đông và vươn ra Thái Bình Dương: đó là việc chính Trung Quốc bị các cường quốc phương Tây chia cắt một phần trong quá khứ tương đối gần đây, sau khi đã là một cường quốc vĩ đại và một nền văn minh thế giới trong mấy ngàn năm.
Trong thế kỷ 19, khi nhà Thanh trở thành con bệnh của Đông Á, Trung Quốc mất phần lớn lãnh thổ của mình về tay Anh, Pháp, Nhật, và Nga.  Trong thế kỷ 20 xảy ra những vụ tiếp quản đẫm máu của Nhật đối với Bán đảo Sơn Đông và Mãn Châu.  Đâu chỉ có những sự kiện này; Trung Quốc còn chịu bao nhục nhã ê chề do các thỏa thuận đặc quyền ngoại giao trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, qua đó các nước phương Tây giành giật quyền kiểm soát một số phần của các thành phố Trung Quốc – những cái gọi là “cảng hiệp ước”.   Đến năm 1938, như sử gia Jonathan D. Spence thuộc Đại học Yale thuật lại trong cuốn The Search for Modern China (Đi tìm Trung Quốc hiện đại), do những cuộc cướp bóc này cũng như Nội Chiến Trung Hoa, thậm chí có một nỗi sợ ngấm ngầm rằng “Trung Quốc sắp bị chia cắt, rằng nó sẽ không còn tồn tại như một quốc gia, và rằng bốn ngàn năm lịch sử được ghi nhận của nó sẽ đột ngột chấm dứt.”   Nỗi khát khao bành trướng của Trung Quốc là lời tuyên ngôn cho biết rằng họ không bao giờ có ý định để cho người nước ngoài lợi dụng họ lần nữa.
CŨNG NHƯ ĐẤT CỦA NƯỚC ĐỨC tạo thành tiền tuyến quân sự của Chiến Tranh Lạnh, vùng nước của Biển Đông có thể tạo thành tiền tuyến quân sự của những thập niên sắp tới.  Khi hải quân của Trung Quốc trở nên mạnh hơn và khi tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông mâu thuẫn với tuyên bố chủ quyền của những nước ven biển khác, những nước khác này sẽ buộc phải tăng cường năng lực hải quân của họ.  Họ cũng sẽ giữ thế cân bằng với Trung Quốc bằng cách ngày càng dựa vào Hải quân Mỹ với sức mạnh có lẽ đã đạt tới đỉnh cao xét về tương đối, ngay cả khi Mỹ phải chuyển hướng khá nhiều nguồn lực sang Trung Đông.  Tính đa cực toàn cầu đã là một đặc điểm của ngoại giao và kinh tế học, nhưng Biển Đông có thể cho ta thấy tính đa cực thực sự nghĩa là gì về mặt quân sự.
Không có gì viễn vông về trận tuyến mới này, dù cho nó không có những cuộc đấu tranh luân lý.  Trong các cuộc xung đột hải quân, trừ phi có nã pháo lên bờ, không có nạn nhân, cũng không có kẻ thù triết lý để đối đầu.  Có thể sẽ không xảy ra chuyện gì cỡ như thanh trừng sắc tộc trong vũ đài xung đột trung tâm này.  Tuy vẫn còn những người đối lập chịu đau khổ, Trung Quốc chưa tới mức để được xem là mục tiêu bị phẫn nộ về luân lý.  Chế độ Trung Quốc thể hiện chủ nghĩa độc tài chuyên chế chỉ ở mức độ thấp, với một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và chẳng có là bao ý thức hệ cai trị để bàn tới.  Hơn nữa, Trung Quốc có thể trở thành một xã hội mở, chứ không khép kín trong tương lai.  Thay vì chủ nghĩa phát xít hay chủ nghĩa quân phiệt, Trung Quốc, cùng với những nước khác ở Đông Á, ngày càng được đặc trưng bởi tính bền bỉ của chủ nghĩa dân tộc kiểu cũ: đương nhiên là một quan niệm, nhưng không phải là một quan niệm còn hấp dẫn đối với giới trí thức kể giữa thế kỷ 19.  Và ngay cả khi Trung Quốc trở nên dân chủ hơn, chủ nghĩa dân tộc của họ có thể chỉ càng tăng mạnh hơn, như có thể thấy rõ nếu chỉ cần điểm sơ qua các quan điểm của những công dân mạng tương đối được tự do của họ.
Ta thường nghĩ tới chủ nghĩa dân tộc như một cảm nghĩ phản động, một di tích của thế kỷ 19.  Nhưng chính chủ nghĩa dân tộc truyền thống là động lực chính thúc đẩy chính trị ở Châu Á, sẽ còn tiếp tục như thế.  Chủ nghĩa dân tộc đó đang không ngại ngùng dẫn tới sự tăng cường quân sự trong khu vực – đặc biệt là hải quân và không quân – để bảo vệ chủ quyền và tuyên bố chủ quyền đối với những tài nguyên thiên nhiên bị tranh chấp.  Hoàn toàn không có sức hấp dẫn triết lý ở đây.  Chỉ là lô gíc lạnh lùng của cán cân quyền lực.  Nếu như chủ nghĩa hiện thực không ủy mị, được liên kết với chủ nghĩa dân tộc, có một ngôi nhà địa lý, đó chính là Biển Đông.
Vì thế, bất cứ vở kịch luân lý nào thực sự diễn ra ở Đông Á cũng sẽ dưới dạng chính trị quyền lực khắt khe theo kiểu khiến nhiều tri thức và nhà báo bàng quan.  Như Thucydides thuật lại rất đáng nhớ chuyện người Athens cổ đại chinh phục đảo Melos, “Kẻ mạnh làm chuyện họ có thể làm, và kẻ yếu chịu đựng những gì họ phải chịu đựng.”  Trong phiên bản của thế kỷ 21, với Trung Quốc trong vai trò của Athens như một quyền lực trên biển ưu việt trong khu vực, kẻ yếu vẫn sẽ quy phục – nhưng chỉ vậy thôi.  Đây sẽ là chiến lược không công bố của Trung Quốc, và những nước nhỏ ở Đông Nam Á rất có thể đi cùng với Mỹ để tránh số phận như người Melos.  Nhưng sẽ không có cảnh tan xương nát thịt.
Biển Đông báo trước một hình thức xung đột khác với những cuộc xung đột mà chúng ta xưa nay đã quen.  Kể từ đầu thế kỷ 20, chúng ta đã đau lòng trước một mặt là những cuộc chiến trên bộ to lớn theo quy ước, và một mặt khác là những cuộc chiến bẩn thỉu, nhỏ không theo quy ước.  Bởi vì cả hai loại chiến tranh đều gây ra thương vong lớn cho thường dân, chiến tranh xưa nay là đề tài cho giới hoạt động nhân đạo cũng như giới tướng lĩnh.  Nhưng trong tương lai chúng ta có thể chứng kiến một hình thức xung đột tinh khiết hơn, chỉ giới hạn trong lĩnh vực hải quân.  Đây là một kịch bản tích cực.  Không thể loại trừ hoàn toàn xung đột ra khỏi thế gian.  Trong tác phẩm Discourses on Livy (Bàn về Livy) của Machiavelli, có một chủ đề cho rằng xung đột, nếu được kiểm soát đúng mức, có khả năng dẫn tới tiến bộ cho nhân loại hơn là tình trạng ổn định cứng nhắc.  Một vùng biển đông đúc tàu chiến không mâu thuẫn với một kỷ nguyên đầy hứa hẹn cho Châu Á.  Tình trạng bất an sinh ra tính năng động.
Nhưng liệu xung đột ở Biển Đông có thể được kiểm soát đúng mức hay không?  Lập luận của tôi cho tới đây giả định trước rằng sẽ không bùng nổ chiến tranh lớn trong khu vực này, mà thay vì thế, các nước sẽ hài lòng với việc giành giật ưu thế bằng các tàu chiến ngoài khơi xa, trong khi tranh nhau tuyên bố chủ quyền đối với các tài nguyên thiên nhiên và có lẽ thậm chí thỏa thuận một cách phân phối công bằng các tài nguyên này.  Nhưng nếu Trung Quốc, bất chấp mọi xu hướng rõ rệt, xâm lược Đài Loan thì sao?  Chuyện gì xảy ra nếu Trung Quốc và Việt Nam với lịch sử kình địch khốc liệt từ lâu nay lại đánh nhau như hồi năm 1979, nhưng lần này với vũ khí hiệu nghiệm hơn?  Vì không chỉ Trung Quốc mà cả các nước Đông Nam Á cũng mạnh tay xây dựng quân đội của mình.  Ngân sách quốc phòng của họ đã tăng khoảng một phần ba trong thập niên vừa qua, trong khi ngân sách quốc phòng của Châu Âu đã giảm.  Lượng nhập khẩu vũ khí vào Indonesia, Singapore, và Malaysia đã tăng lần lượt 84%, 146%, và 722% kể từ năm 2000.  Khoản chi tiêu này dành cho các hệ thống hải quân và không quân: tàu chiến trên mặt biển, tàu ngầm với các dàn tên lửa tối tân, và máy bay chiến đấu tầm xa.  Gần đây Việt Nam chi 2 tỉ đô-la mua sáu chiếc tàu ngầm hạng Kilo thượng hạng của Nga và 1 tỉ đô-la mua máy bay chiến đấu của Nga.  Malaysia vừa mới mở một căn cứ tàu ngầm trên đảo Borneo.  Trong khi Mỹ đang bị phân tâm bởi những cuộc chiến tranh trên bộ ở khu vực đại Trung Đông, quyền lực quân sự đã và đang lặng lẽ chuyển từ Châu Âu sang Châu Á.
Mỹ hiện tại bảo đảm hiện trạng rối rắm ở Biển Đông, giữ cho sự xâm lấn của Trung Quốc bị hạn chế chủ yếu trên bản đồ của họ và đóng vai trò kìm hãm đối với giới ngoại giao và hải quân của Trung Quốc (mặc dù như vậy không phải để nói rằng Mỹ là trong sáng trong hành động của mình và Trung Quốc đương nhiên là kẻ ác).  Mỹ mang đến cho các nước thuộc khu vực Biển Đông sức mạnh thô, chứ không hẳn là giá trị dân chủ.  Chính cán cân quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc rốt cuộc sẽ giúp cho Việt Nam, Đài Loan, Philippines, Indonesia, Singapore, và Malaysia được tự do, có thể buộc hai đại cường quốc kình giữ nhau.  Và trong không gian tự do đó, chủ nghĩa khu vực có thể nổi lên để tự thân nó là một quyền lực, dưới dạng Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).  Tuy nhiên tự do đó không thể được xem là đương nhiên.  Bởi thế cân bằng tiếp tục căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc – bao trùm một loạt vấn đề từ thương mại tới cải cách tiền tệ, từ an ninh mạng tới do thám tình báo – có nguy cơ rốt cuộc sẽ chuyển hướng có lợi cho Trung Quốc ở Đông Á, chủ yếu là do vị trí địa lý trọng tâm của Trung Quốc đối với khu vực này.
BẢN TÓM TẮT TOÀN DIỆN NHẤT về bức tranh địa chính trị Châu Á mới không xuất phát từ Washington hay Bắc Kinh, mà từ Canberra.  Trong một bài viết dài 74 trang xuất bản năm ngoái có tựa đề “Power Shift: Australia’s Future Between Washington and Beijing” (Chuyển đổi Quyền lực: Tương lai của Úc giữa Washington và Bắc Kinh),  Hugh White, giáo sư nghiên cứu chiến lược ở Đại học Quốc gia Úc, đã mô tả đất nước của ông là quyền lực “hiện trạng” thuần túy – vốn thiết tha muốn tình hình ở Châu Á giữ y nguyên như hiện nay, với Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng để Úc có thể giao thương ngày càng nhiều hơn, trong khi Mỹ vẫn là “quyền lực mạnh nhất ở Châu Á”, để là “người bảo vệ cuối cùng” của Úc.  Nhưng như giáo sư White viết, vấn đề là ở chỗ cả hai điều này không thể tiếp tục như vậy.  Châu Á không thể tiếp tục thay đổi về kinh tế mà không thay đổi về chính trị và chiến lược; con khủng long kinh tế Trung Quốc đương nhiên sẽ không hài lòng với thế thượng phong quân sự của Mỹ ở Châu Á.
Trung Quốc muốn gì? GS White cho rằng người Trung Quốc có thể muốn ở Châu Á có một đế chế kiểu mới giống như kiểu mà Mỹ đã gầy dựng ở Tây Bán cầu sau khi Washington đã nắm chắc vị thế thống lĩnh đối với Lưu vực Caribbe (vì Bắc Kinh hy vọng họ sẽ có được vị thế đó đối với Biển Đông).  Theo lời của GS White, đế chế kiểu mới này đã có nghĩa là các nước láng giềng của Mỹ “ít nhiều cũng được tự do cai quản đất nước của họ”, ngay cả khi Washington nhất quyết đòi hỏi rằng những quan điểm của Mỹ phải “được cân nhắc thấu đáo” và được ưu tiên hơn quan điểm của các quyền lực bên ngoài.  Trở ngại của mô hình này chính là Nhật, mà có lẽ sẽ không chấp nhận bá quyền Trung Quốc, cho dù có mềm đến đâu chăng nữa.  Như vậy là chỉ còn lại mô hình Hòa hợp Châu Âu, trong đó Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật, Mỹ, và có lẽ một hoặc vài nước khác sẽ ngồi chung bàn quyền lực Châu Á với vai trò bình đẳng.  Nhưng liệu Mỹ có chấp nhận một vai trò khiêm tốn như vậy, vì xưa nay họ đã gắn sự thịnh vượng và ổn định của Châu Á với thế thượng phong của họ?  GS White cho rằng trong bối cảnh quyền lực Trung Quốc đang tăng lên, sự thống lĩnh của Mỹ có thể từ nay dẫn tới bất ổn cho Châu Á.
Sự thống lĩnh của Mỹ dựa trên quan niệm cho rằng bởi vì Trung Quốc độc tài chuyên chế trong nước, họ sẽ hành động “không chấp nhận được ở nước ngoài”.  Nhưng có thể không phải như vậy, GS White lập luận.  Theo cách Trung Quốc tự nhìn nhận về mình, họ là một cường quốc ôn hòa, không bá quyền, không can thiệp vào những triết lý quốc nội của những nước khác như cách của Mỹ với kiểu luân lý bao biện.  Vì Trung Quốc tự xem mình là Vương quốc Trung tâm, nền tảng cho sự thống lĩnh của Trung Quốc là vị thế trọng tâm vốn có của họ đối với lịch sử thế giới, chứ không phải bất kỳ kiểu chế độ nào mà họ muốn xuất khẩu.
Nói cách khác, Mỹ, chứ không phải Trung Quốc, có thể là vấn đề trong tương lai.  Chúng ta có thể thực tình quan tâm quá nhiều về bản chất nội tại của chế độ Trung Quốc và mong muốn hạn chế sức mạnh của Trung Quốc ở nước ngoài bởi vì chúng ta không thích  những chính sách quốc nội của họ.  Thay vì thế, mục tiêu của Mỹ ở Châu Á nên là giữ thế cân bằng, chứ không phải thống lĩnh.  Cũng chính vì quyền lực cứng vẫn là thiết yếu cho quan hệ quốc tế mà chúng ta phải chừa chỗ cho một Trung Quốc đang vươn lên.  Mỹ không cần phải tăng sức mạnh hải quân của mình ở Tây Thái Bình Dương, nhưng Mỹ không thể giảm đáng kể sức mạnh đó.
Việc giảm bớt một đội tiêm kích từ hàng không mẫu hạm Mỹ ở Tây Thái Bình Dương do cắt giảm ngân sách hay tái triển khai sang Trung Đông có thể gây nên những thảo luận căng thẳng trong khu vực về sự suy tàn của Mỹ, và từ đó dẫn tới nhu cầu cần phải làm lành và thỏa thuận bên lề với Bắc Kinh.  Tình thế tối ưu là sự hiện diện không quân và hải quân của Mỹ ít nhiều vẫn ở mức hiện nay, ngay cả khi Mỹ nỗ lực hết mức trong khả năng của mình để gượng gạo giữ những quan hệ thân tình và dễ tiên đoán với Trung Quốc.  Bằng cách đó Mỹ có thể dần dần điều chỉnh thích ứng với hải quân có khả năng tác chiến ngoài khơi xa (blue-water navy) của Trung Quốc.  Trong quan hệ quốc tế, đằng sau những câu hỏi về luân lý đạo đức luôn có những câu hỏi về sức mạnh.  Việc can thiệp nhân đạo ở vùng Balkan đã khả thi chỉ vì chế độ Serbia yếu, chứ không phải như chế độ Nga có những hành động tàn bạo ở quy mô tương tự ở Chechnya trong khi phương Tây chẳng làm gì cả.  Tại khu vực Tây Thái Bình Dương trong những thập niên sắp đến, luân lý có thể nghĩa là từ bỏ một số trong những lý tưởng chúng ta hằng ấp ủ để đổi lấy ổn định.  Còn cách nào khác nữa để chúng ta chừa chỗ cho một Trung Quốc bán độc tài chuyên chế khi quân đội của họ mở rộng?  Bản thân cán cân quyền lực, thậm chí hơn cả những giá trị dân chủ của phương Tây, thường là cách bảo vệ tự do tốt nhất.  Đó cũng sẽ là một bài học của Biển Đông trong thế kỷ 21 – một bài học mà những người lý tưởng không muốn nghe.
Robert D. Kaplan là nghiên cứu viên cao cấp ở Center for a New American Security, thông tín viên quốc gia cho tờ Atlantic, và là ủy viên Hội đồng Chính sách Quốc phòng  của Bộ Quốc phòng Mỹ.  Ông là tác giả của cuốn sách Monsoon: The Indian Ocean and the Future of American Power (Gió mùa: Ấn Độ Dương và Tương lai của Quyền lực Mỹ).
Dịch: PVLH, Blog lên đông xuống đoài,

--------------
*****

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này