Thứ Bảy, 6 tháng 8, 2011

Nói đại tướng Võ Nguyên Giáp treo chữ "nhẫn" là bịa đặt (*)

(*)Đây là tiêu đề của bài viết mới đăng trên Sài gòn tiếp thị.vn. mà chủ blog muốn đưa lại  vì nhận thấy bài viết có độ tin cậy nhất định, lại bàn về một chủ đề mà nhiều người Việt Nam đang quan tâm - đó là quan niệm thế nào cho đúng đắn về sự  kiên nhẫn, khôn khéo và mền dẽo trong qúa trình đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và  độc lập dân tộc.
    

 "Chuyện nói đại tướng treo chữ “nhẫn” là hoàn toàn bịa đặt. Đại tướng không hề treo chữ đó" - đại tá Nguyễn Huyên - người trợ lý đã gắn bó với đại tướng Võ Nguyên Giáp gần 40 năm, nói.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp - vị tướng huyền thoại của nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế sắp tròn 100 tuổi và bước sang tuổi 101, phóng viên Vietnam+ đã được gặp đại tá Nguyễn Huyên - người trợ lý đã gắn bó với đại tướng gần 40 năm để hỏi ông một số câu hỏi còn gợi băn khoăn pha chút tò mò với những người kính yêu đại tướng.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một vị tướng lỗi lạc, vậy thì cách cư xử của đại tướng có "quân sự" và rất nguyên tắc không, thưa ông?
Đại tá Nguyễn Huyên: Anh (đại tướng Võ Nguyên Giáp - PV) nghiêm túc trong công việc nhưng không cứng nhắc đâu. Anh Văn (tên thân mật của đại tướng Võ Nguyên Giáp) còn hay đùa dí dỏm nữa. Ví dụ như khi đang tập trung làm việc tôi có việc cần xin anh nghỉ 10 phút thì anh bảo: “Cho cậu nghỉ hẳn 11 phút luôn!”
Trong trường hợp gặp những ý kiến khác ý của mình thì Đại tướng có chấp nhận và chấp nhận thế nào, thưa ông?
Anh luôn thích trung thực, thẳng thắn. Anh hay dặn: “Cái gì thấy đúng thì cứ giữ ý kiến.” Đại tướng luôn lắng nghe ý kiến của mọi người, dù ý kiến đó có thể ông chưa đồng tình. Chính vì thế khi anh đến các địa phương, các ngành ở đâu có có vấn đề gì người ta cũng muốn nói với anh. Có lẽ nhờ vậy mà anh có điều kiện để phân tích tình hình một cách khách quan, toàn diện, hiểu được thực chất và tìm ra giải pháp thuận lòng người.
Xin được mạo muội hỏi ông một chuyện? Có lần phỏng vấn một cán bộ quân đội, tôi được biết chuyện đồn về đại tướng có treo chữ "nhẫn" ở chỗ làm việc là không đúng. Vậy mong ông nói rõ về việc này?
Đại tá Nguyễn Huyên: Chuyện nói đại tướng treo chữ “nhẫn” là hoàn toàn bịa đặt. Đại tướng không hề treo chữ đó. Một lần, có người yêu kính đại tướng muốn tặng anh chữ "nhẫn" thư pháp lồng trong khung kính. Trước khi tặng, anh ấy có đến hỏi tôi, tôi nói chữ “nhẫn” có hai cách hiểu.
Thứ nhất có nghĩa là kiên nhẫn, nhẫn nại nhưng cũng có nghĩa thứ hai là nhẫn nhục. Đại tướng chưa bao giờ là người chịu nhẫn nhục theo cách hiểu thứ hai. Vì vậy tặng là không nên vì có thể làm cho người ta hiểu sai lệch hoặc có kẻ xuyên tạc.

Tôi còn được biết bài thơ “Chữ Nhẫn” đã đăng lên báo nói là của đại tướng. Nhưng đại tướng không hề có bài thơ ấy và tờ báo đó đã phải đính chính. Trong bài thơ có câu “Có khi nhẫn để tiến thân” thì đại tướng của chúng ta không bao giờ như vậy.

Đại tướng là người luôn làm chủ tình hình, luôn chủ động, không bao giờ bị động, biết làm việc gì, nêu ý kiến gì, lúc nào cho đạt hiệu quả. Anh cũng là người giữ ý kiến của mình mà không gây mất đoàn kết, lại có phương pháp đấu tranh phù hợp để cuối cùng thực hiện được ý kiến đúng đắn đó và được mọi người đồng tình.
Suốt bao nhiêu năm ở bên đại tướng, ông có cảm nghĩ gì về chính mình?
Một câu hỏi có tính tổng kết quá! Được làm việc với đại tướng, bản thân tôi khi mới về làm việc giúp đại tướng chỉ là một thiếu tá, một cán bộ nghiên cứu ở cơ quan cấp dưới. Trình độ của tôi ban đầu còn hạn chế nhưng sau này và đến giờ đã mở rộng được hiểu biết, về lý luận cũng như về thực tiễn. Tôi thấy trình độ của mình được nâng lên nhiều và học được anh Văn nhiều lắm: Học được về phẩm chất đạo đức, về kiến thức và về phương pháp làm việc, về cách cư xử ở đời.

Điều sâu sắc mà anh Văn nhiều lần kể với anh em là thời kỳ đầu cách mạng, một đêm nằm ngủ với Bác Hồ trên giường làm bằng cành cây khiến người rất đau tại hang Pắc Bó, đang trao đổi công việc, bỗng dưng Bác dừng lại và nói một câu: "Chú Văn ạ! làm cách mạng là phải "dĩ công vi thượng" - nghĩa là phải lấy việc công làm trên hết, cũng có nghĩa là luôn đặt lợi ích chung lên trên hết, không cá nhân chủ nghĩa. Điều này rất có nghĩa với chúng ta hiện nay.

Là một cán bộ quân đội, tôi thấy mình thật hạnh phúc là đã có một thời gian khá dài được làm việc, gắn bó với anh Văn - một vị tướng kiệt xuất, nhân nghĩa, tài ba, luôn hết lòng vì nước vì dân.
Trân trọng cảm ơn đại tá! Chúc ông luôn mạnh khỏe!
Theo Vietnam+

--------------
*****

Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2011

Nhân chuyện "chè bẩn"


Dạo này đọc báo, xem TV...thấy toàn chuyện làm ăn dối trá, lại cũng thấy có sự giống nhau giữa lối làm ăn gian trá của người Việt và người tàu. Chẳng lẽ ảnh hưởng của "1.000 năm bắc thuộc" sâu sắc đến vậy?  

Ai cũng biết lâu nay ở Việt Nam luôn rộ lên những đợt mua vét từ phía thương lái TQ đối với các "hàng độc" xuất xứ từ  Việt Nam. Cách đây không lâu đó là móng và sừng trâu; thậm chí cả con đỉa dưới ruộng nước; rồi nhãn, vãi,...hiện tại là khoai lang, chè (trà) được sơ chế thành "chè bẩn". Mỗi lần như thế dân ta chẳng cần biết lợi hại lâu dài thế nào, và cũng quên luôn bài học của quá khứ, cứ thế nhào dzô làm mọi điều có thể, kể cả những thủ đoạn bẩn thiểu (theo đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của nó) chỉ vì một chút trước mắt. Đó là dân gian. Còn những kẻ có chức quyền thì làm ăn to hơn nhiều bằng cách đem cho thuê dài hạn (thực chất là bán rẻ) cả đất rừng, hầm mỏ, đồng ruộng... ! Nghĩ mà vừa buồn vừa cười...Và nhục nữa!      

Nghĩ kĩ thì cũng có căn nguyên của nó. Để nói về chuyện này, trước hết cứ phải khẳng định lại rằng dân tộc Việt Nam có rất nhiều ưu điểm . Nhưng cụ thể ra, trong đó, phần ưu điểm thường thấy trong chiến tranh; phần yếu điểm thường thấy trong thời bình. Nếu ai đó không muốn gọi là yếu điểm thì có thể gọi là “tác dụng phụ" (như đối với thuốc Tây vậy). Tất thảy bắt nguồn từ điều kiện đặc thù về địa lý, lịch sử, truyền thống và nhân văn của dân tộc này. Thiết nghĩ không cần nói nhiều vì đã có rất nhiều lời đàm tiếu dân gian xung quanh những yếu điểm như vậy rồi. Ở đây chỉ xin nêu ra một điểm có liên quan đến cách làm ăn vừa nói trên đây. Đó là tính “theo đuôi mù quáng và thiển cận” (tức là thấy người ta làm gì thì làm theo để mong cái lợi trước mắt, chứ không tự mình khởi sự hoặc làm khác với số đông, qua đó thường tạo nên lối hành xử theo kiểu "phong trào"). Đây là nguyên nhân của câu chuyện dở cười dở khóc về quá trình chuyển đổi sản xuất giữa các cây/con như mía-đường, cao su, café, hồ tiêu, lúa, tôm, cua, cá, ốc biêu, chim cút, gà vịt, sắt thép, xi măng, cảng biển … ! 

Lần này đến lượt cafe và chè - hai thứ đặc sản truyền thống mà ta đang rất hy vọng sẽ sớm trở thành "thương hiệu quốc gia" trên thị trường quốc tế. Giờ thì hy vọng đó đang bị đe dọa khi các quán cafe đã bắt đầu vắng khách trước thông tin về cafê pha bột ngô hoặc bất cứ thứ gì có thể...Mới đây lại có tin (và hình ảnh cụ thể rõ ràng) về "công nghệ" sản xuất chè bẩn theo quy trình cực kỳ giản đơn, tùy tiện và rất bẩn. Nghe nói người từ bên kia biên giới phía Bắc sang dạy cách làm rồi lại thu mua đem về bên í ..., còn làm gì thì không biết! Chỉ biết là dân ta đua nhau giữ lá chè lại để tự làm trong khi các nhà máy không có nguyên liệu để duy trì sản xuất. Đã xuất hiện nguy cơ phá sản cả một ngành chè và cả uy tín quốc tế đang mới được nhen nhóm của nó.

                                               Sản xuất chè bẩn tại một gia đình người dân

Không chỉ vậy. Còn nhớ cứ mỗi lần rộ lên những vụ việc như vậy thì lại có lối suy luận trong dân và giới chức rằng đó là "âm mưu thâm độc" của nước ngoài (TQ) . Nói vậy, nhưng chẳng thấy ai, kể cả các nhà chức trách , có biện pháp gì để kịp thời ngăn chặn. Cứ thế vụ việc thường kéo dài cho đến khi ngành nghề nào đó đó hay địa phương nào đó bị "sập tiệm" phải kêu cứu ...thì đã quá muộn.

Trên đây chỉ là một trong vô số những biểu hiện của những “tác dụng phụ” mà dường như luôn đeo bám dân tộc ta. Lý do thì chẳng ai, kể cả "ông nhà nước", có thể trả lời một cách rõ ràng, minh bạch, mà chỉ ầm ừ cho qua chuyện, lần não cũng không quên nhắc nhỡ "bà con đừng hám lợi..."!. Phải chăng đây cũng là một cách thể hiện tinh thần "do dân, vì dân"?  

         Cũng không khác mấy với tình hình biển Đông đang dậy sóng, trên biên giới phía Bắc người ta cũng nói "thương trường là chiến trường" nhưng chưa hề thấy phát súng nào nổ khi cần nổ. Vì sao vậy? Chẳng lẽ sau bao phen bị lừa phỉnh, cả dân tộc này vẫn chưa thực sự tĩnh ngộ và sẵn sàng muốn thoát khỏi vòng cương tỏa của Vương triều phương Bắc?   

*****

Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2011

Cảnh giác với Trung Quốc, dân chủ với dân (*)

(*) Nguyên văn bài viết của ông Nguyễn Trọng Vĩnh-cựu tướng lĩnh và từng có hơn 10 năm làm  Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại  Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa . 
Với từng ấy cương vị và thời gian công tác, tác giả không những có đầy đủ điều kiện để hiểu đúng và sâu sắc về Trung Quốc mà còn qua đó hun đúc lòng yêu nước và sự  trung thành với lý tưởng của Đảng,  nên tôi tin chắc rằng những điều ông nói ra không phải vì động cơ cá nhân hay vì sai lầm. Gần đây trước tình hình mới của đất nước ta ông lại tự nguyện dấn thân vào hoạt động thực tiễn của phong trào yêu nước bất chấp tuổi cao sức yếu . Một lão thành cách mạng như vậy thật dáng kính nể.  Trên tinh thần đó Blogger tôi xin đăng lại nguyên văn bài viết của ông dưới đây để có thêm bạn đọc.  

1. Những lời nói của Đới Bỉnh Quốc và những điều nhất trí giữa hai Thứ trưởng Việt Nam và Trung Quốc bao hàm những gì?
“Những tranh chấp biển, đảo do đàm phán song phương giải quyết không có sự can thiệp của nước thứ ba”. Song phương thì Trung Quốc có thể cậy mạnh đe dọa hoặc dỗ dành mua chuộc, thế giới không bao giờ biết được sự thật, không bao giờ giải quyết được gì vì Trung Quốc luôn kiên trì chỉ một câu “Chủ quyền đối với Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường sa) không thể tranh cãi”. “Không có gì phải đàm phán về Tây Sa (Hoàng Sa)”.
Đàm phán tập thể thì Trung Quốc thất lý. Nước thứ ba không can thiệp thì một mình Trung Quốc cậy mạnh mặc sức hoành hành ngang ngược, uy hiếp nước yếu.

Trước nay Trung Quốc đã làm rất nhiều việc sai trái, đến gây hấn, cắt cáp tàu Bình Minh 2, rồi phá hoạt động của tàu Viking II, thế mà Đới Bỉnh Quốc xoen xoét nêu: “Hòa bình ổn định là lợi ích của hai nước”. Lời nói chưa ráo mép thì 6 ngày sau tàu cá Trung Quốc dàn hàng ngang, có tàu ngư chính đứng phía sau cấm tàu cá của ngư dân ta ra hoạt động tại ngư trường vốn hành nghề lâu đời gần Hoàng Sa, đuổi ngư dân ta chạy không còn làm ăn gì được.
Câu nói đó còn hàm ý rằng Trung Quốc làm gì thì làm, nói gì thì nói, lãnh đạo Việt Nam nên im lặng để giữ “hòa bình ổn định”! Nguy hiểm hơn nữa, ông Đới còn nhấn mạnh “hai bên cần hướng dẫn dư luận ngăn ngừa những bài bình và những hành động làm tổn hại tình hữu nghị hai nước”.
Ngăn ngừa những bài bình hàm ý là yêu cầu ta bịt miệng báo chí, không được đả động đến Trung Quốc; ngăn ngừa những hành động, hàm ý yêu cầu Việt Nam cấm trấn áp biểu tình chống Trung Quốc.

2. Sao lại đàn áp những công dân yêu nước, biểu tình hòa bình phản đối Trung Quốc?
Thời Pháp còn cai trị nước ta, chúng tôi đã từng biểu tình nhiều lần, lúc thì đòi thành lập “Mặt trận dân chủ Đông Dương”, lúc thì đòi ngày làm 8 giờ, định ra mức lương tối thiểu, lúc thì đòi lập “Nghiệp đoàn”, “Hội Ái hữu”, lúc thì nghe tuyên truyền về lập “Mặt trận phản đế”.
Bọn cảnh sát, mật thám chỉ tìm cách bắt người diễn thuyết, chứ không bắt người biểu tình. Bấy giờ thường chúng chỉ tìm bắt đồng chí Đặng Xuân Khu (Trường Chinh), đồng chí Lương Khánh Thiện.
Bây giờ ở ta, công an bắt nhiều người biểu tình, thế là không bằng thời Pháp thuộc, bắt người biểu tình lại còn đánh đập dã man, làm nhục thì không khác thời Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu là mấy.
Nhìn tấm ảnh 4 người công an khiêng tay chân người bị bắt như khiêng lợn đưa lên xe buýt và tên Minh đạp nhiều cái lên mặt lên miệng người đó thì người hiền như bụt cũng phải phẫn nộ, cho là ác ôn, không còn tính người. Đương nhiên tôi cũng phẫn nộ, cũng nghĩ như thế. Sáu điều Bác Hồ dạy công an, trong đó có 2 điều: “Tự mình phải cần kiệm liêm chính” và “Đối với dân phải kính trọng, lễ phép” - bỏ hết rồi hay sao? Văn kiện, báo chí thường nêu Công an là bạn dân, báo Công An cũng nêu khẩu hiệu Công an là bạn dân, nay thực hiện ngược lại Công an là trị dân ư?
Những cuộc đàn áp biểu tình vừa qua, hẳn là đúng ý ông Đới Bỉnh Quốc.
3. Tự hào và đau lòng
Tôi là đảng viên Đảng Cộng sản do đồng chí Nguyễn Ái Quốc kính yêu sáng lập. Tôi rất tự hào, về Đảng của tôi đã lãnh đạo nhân dân lập nên nhiều kỳ tích, làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám giành lại quyền độc lập tự chủ, khiến hình ảnh Việt Nam lại xuất hiện trên bản đồ thế giới, kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, làm nên trận Điện Biên Phủ lừng lẫy 5 châu, chấn động địa cầu, buộc thực dân Pháp phải cuốn cờ về nước, đã đánh bại hơn nửa triệu quân trang bị hết sức hiện đại, kể cả B52 của siêu cường Mỹ mà từ hơn 200 năm lập quốc chưa hề biết thua ai. Đảng của tôi được các đảng anh em bè bạn ngưỡng mộ, các nước đang phát triển khâm phục, phương Tây cũng vì nể.
Tôi rất tự hào.
Giờ đây vẫn là Đảng của tôi lãnh đạo nhưng không có tự do, không được tự do tư tưởng, không được phát biểu quan điểm, ý tưởng khác với ý kiến chính thống, báo chí không dám thông tin đầy đủ, không dám nói thật, đi biểu tình yêu nước cũng ngại. Không có dân chủ, hoặc dân chủ hình thức, giả tạo, có vấn đề hàng trăm hàng ngàn người góp ý kiến cũng bỏ ngoài tai, kế hay, ý tốt không được tiếp thu, cấm nhiều hơn lắng nghe,… thậm chí để công an đàn áp trắng trợn dân biểu tình yêu nước, còn đánh đập, hành hạ tàn nhẫn và còn có nhiều việc làm khiếm nhã khác nữa khiến dân mất lòng tin, dư luận thế giới chê cười phê phán gay gắt Việt Nam.
Tôi rất đau lòng.
4. Dân là sức mạnh
Bác Hồ đã nói chí lý rằng “Dễ trăm lần không dân cũng chịu / Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Thực tế đã chứng minh, toàn dân nổi dậy mới có cách mạng tháng Tám, toàn dân kháng chiến mới thắng Pháp, thắng Mỹ.
Những việc làm quang minh chính đại, ích nước lợi dân, được dân ủng hộ chung tay góp sức thì dù có khó khăn cũng có thể vượt qua. Trái lại, những việc làm mờ ám, chỉ vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, tổn dân, hại nước, nhân dân phản đối thì trước sau gì cũng lộ ra, kết cục chẳng mấy tốt đẹp. Chính quyền thân dân, trọng dân, dân chủ với dân thì dân tin, dân gắn bó. Đối lập với dân, áp bức thì dân oán, quá đáng thì dân chống lại. “Con giun xéo lắm cũng quằn”, “Tức nước thì vỡ bờ”, “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Lẽ đời là thế.
N.T.V.
Nguồn: boxitvn.blogspot

--------------
*****

Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2011

Ai là ĐỊCH, ai là TA ?


Bức ảnh trên đây đã trở thành phổ biến trên mạng internet mấy tuần nay . Ngay cả những người thiếu thông tin nhất cũng nhận ra đó là một cú đạp chân vào mặt một người đang bị khống chế tứ chi...Những người có nhiều thông tin hơn thì biết nạn nhân là một người biểu tình  ở ngay giữa thủ đô  Hà Nội để bày tỏ sự  phản đối trước những hành động xâm lấn biển đảo Việt Nam của phía TQ trong thời gian gần đây . Cũng không khó gì để  biết thêm những chi tiết khắc, như người mặt thường phục đang đạp chân là đại úy Minh, CA Quận Hoàn Kiếm, v.v... Để nhận rõ hơn về cú đạp, bạn có thể xem đoạn video dưới đây:


Cả bức ảnh và đoạn video trên đây giờ đã nỗi  tiếng với cái tên "cú đạp vào lòng yêu nước"...Tiếc thay, điều trớ trêu là người tung ra cú đạp kia lại là một sĩ quan  "Công an Nhân dân"!... khiến dư luận  phân vân không biết  ai là ĐỊCH ai là TA nữa (?)  Nhưng lại càng đáng tiếc và đáng buồn hơn là rất nhiều người Việt Nam vẫn chưa biết gì hoặc vô cảm hoặc cố tình làm ngơ như không biết gì về sự kiện nói trên...!  Đất nước này sẽ đi về đâu khi cái ác lấn át cái thiện hoặc lẫn lộn với nhau?


*****

Thứ Tư, 20 tháng 7, 2011

Khi nói về "hệ tư tưởng" của người Việt Nam

Mới đây trong khi "lướt mạng" thấy có bài viết của tác giả Ngô Nhân Dụng trong đó cung cấp khá nhiều thông tin liên quan đến "sự thật lịch sử"- loại thông tin mà blogger tôi cũng đang truy tầm. Tác giả cũng đề cập đến chủ đề "hệ tư tưởng" của người Việt Nam với một cách nhìn khá thú vị. Vì vậy xin mạn phép  post lại nguyên văn bài viết lên blog cá nhân của mình để làm tài liệu và cũng để có thêm nhiều bạn đọc về chủ đề quan trọng này. 

Tôi chỉ xin có một lời bình như sau: 
Nếu nói "ý thức hệ" hay "hệ tư tưởng" trong phạm trù quan hệ Việt-Trung thì ngoài những gì thấy được trong thời kỳ sau CM tháng Tám 1945 đến nay ta không thể bỏ qua những tàn dư của cả thời kỳ "1.000 năm Bắc thuộc". Hay đúng ra những sai lầm của thời kỳ này cũng chỉ là do hậu quả của 1.000 năm Bắc thuộc.  Đó là  những giáo tín và thói mê tín dị đoan mà kẻ thù Phương bắc đã dày công gieo rắc trong tiềm thức người Việt trong suốt quá trình hàng ngàn năm xâm lấn và thống trị của chúng.  Hiểu như vậy sẽ công bằng hơn đối với những người cách mạng chân chính của cả hai dân tộc Viêt Nam và Trung Quốc, đồng thời để nhận diện rõ hơn rằng chủ nghĩa bành trướng Đại Hán là thủ phạm; và người Việt Nam muốn chống lại nó một cách thật sự thành công thì trước hết phải biết loại bỏ những tàn dư của mọi tín ngưỡng và giáo lý cùng với những hậu quả đã ăn sâu bám rể trong tiềm thức của mình. 

Xin đơn cử một vài ví dụ tưởng chừng "vô hại" nhưng rất tai hại: Đó là  nhiều người Việt ngày nay vẫn tin đến mức thần bí rằng người tàu có khả năng "yiểm bùa"chỗ này chỗ kia trên đất nước chúng ta, khiến dân tộc VN không thể ngóc đầu lên được (!?). Thậm chí mỗi khi có điều gì khác thường thì dân ta có xu hướng lại cho đó là do "tàu gây ra"... (!?)  Mặc khác, tuy rất thù hận đối phương nhưng người Việt từ quan chức đến thường dân ai đều ít nhiều có tâmlý "tâm phục" và "quy phục". Chẳng hạn trước vấn nạn "hàng tàu" mọi người vẫn cứ  vô tư sử dụng hàng nhập lậu các loại từ TQ , mà không có lấy một đợt vận động hẵn hoi nhằm tẩy chay , nhất là trước tình trạng khủng hoảng kinh tế và nhập siêu kéo dài như gần đây. Tinh thần thì tiêu cực, thiếu tự tin; đa số cho rằng  nếu xảy ra chiến tranh thì "ta thua tàu là cái chắc!"Lạ thay, khi nói điều này, người nói như thể tự coi mình là "vô can" vậy!  Không ít kẻ tuy nắm trong tay quyền lực nhưng bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi kẻ thù nên  thường núp dưới chiêu bài gọi là"khôn khéo", "mềm dẽo" để tránh trớ không làm đầy đủ chức năng của mình trong khi những người không có quyền hành gì thì chỉ có cách đứng ngoài chỉ trích, phê phán trong tuyệt vọng.  

Nhận thấy những sự thật trớ trêu như trên, thỉnh thỏang lại có ý kiến kêu gọi "thoát Hán" để nói lên nỗi bức bách bế tắc của dân tộc. Nhưng thực ra và đúng ra  trước hết là phải tự giải thoát chính mình thì đúng hơn. Phải chăng chung quy đều bắt nguồn từ một thói xấu phổ biến của người Việt,  đó là chỉ tỏ ra rộng lượng đối với người đã quá cố và thích ngợi ca những chiến công trong quá khứ (đôi khi chỉ là ngụy tạo) để lấp liếm sự yếu kém của hiện tại hay cái mà mình không có (?). Có người đúc kết rằng người Việt hay luyến tiếc về quá khứ, ảo vọng về tương lai, nhưng coi thường hiện tại. Có lẽ vì thế, người Việt tin rằng "sống gửi thác về"...và có lễ lạc ma chay thuộc loại "sang trọng" nhất thế giới ?

Ngày nay nhiều người đổ hết tội lỗi cho ý thức hệ CS và XHCN..., nhưng thực ra suy cho cùng tất cả đều bắt nguồn từ hậu quả của những thói hư tật xấu đã hình thành từ thời kỳ 1.000 năm Bắc thuộc! Thiết nghĩ, để thực sự ĐÁNH BẠI HẴN HOI kẻ thù Phương Bắc, người Việt Nam trước hết phải gột bỏ  cho được mọi tàn dư tư tưởng mê tín dị đoan cùng với tâm lý bị khuất phục và nỗi sợ hãi luôn ám ảnh trước kẻ thù truyền kiếp này. Không làm được điều đó, có lẽ dân tộc này sẽ chỉ mãi là đứa trẻ yếu gầy trước một big boy quen trò bắt nạt.  

Cuối cùng blogger tôi cũng muốn đưa một lại bức ảnh chụp cuộc hội đàm gần đây nhất giữa  hai vị bộ trưởng QP VN và TQ diễn ra ngay sau vụ tàu hải giám TQ cắt cáp tàu Bình Minh 2 của Việt Nam đang hoạt động sâu bên trong vùng đặc quyền kinh tế của mình . Những người theo dõi sát tin tức chắc sẽ nhận ra cái trò hề "đánh - đàm và đàm-đánh" mà phía Trung Quốc hay sử dụng để lừa phỉnh, lung lạc, thâm chí đe dọa phía Việt Nam. Ai cũng biết sau lần đàm phán  nói trên, tàu Trung Quốc lại tiếp tục cắt cáp của tàu Vikking đồng thời vẫn bắt tàu, cướp cá của dân chài Việt Nam như thường lệ.  Chỉ tiếc rằng phía Việt Nam dường như vẫn chưa nhận rõ âm mưu của đối phương. Hay đó cũng là do hậu quả một lá bùa đã yiểm nào đó, nếu không nói là một nỗi sợ hãi truyền kiếp?     


                                   
                                                 Phải độc lập về tư tưởng
                                                                Tác giả: Ngô Nhân Dụng

Ông Ðới Bỉnh Quốc, ủy viên phụ trách về đối ngoại trong Thường Vụ Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Trung Quốc có lần viết rằng nước ông không bao giờ có chính sách xâm chiếm các nước khác.
 Ðọc xong ai cũng phải bật cười. Không riêng gì người Việt Nam mà người Tây Tạng, người Uyghur, người Cao Ly (Hàn Quốc), người Mông Cổ, Mãn Châu và Ðài Loan, nếu học sử đều biết đất nước họ đã từng bị người Hán tấn công, chiếm đóng, khai thác, bóc lột rất nhiều lần. Thời gian mà nhà Ðường chiếm nước ta, đặt tên là An Nam thì họ cũng gọi tên Hàn Quốc là An Ðông. Trong các nhóm người này, hiện giờ chỉ còn những dân tộc Việt và Hàn còn đứng riêng chưa bị nuốt vào trong bụng Trung Quốc.
Cái tên Trung Quốc được dùng từ thời nhà Chu, trong sách Mạnh Tử ông nhiều lần nói đến tên này; mà trong thời Chiến Quốc ông sống thì những vùng phía Nam Trường Giang (thường gọi là sông Dương Tử) vẫn chưa thuộc Trung Quốc. Cái tên này chỉ là một danh từ địa lý chứ không phải tên một quốc gia; cho tới khi Tôn Trung Sơn lập Trung Hoa Dân Quốc nó mới thông dụng. Trước đó, để gọi tên nước Trung Hoa người ta chỉ dùng tên của các triều đại, gọi là nước Hán, nước Ðường, nước Tống, vân vân. Ông Tôn Trung Sơn người Quảng Ðông, thời xưa không thuộc vùng đất gọi là Trung Quốc. Nhưng người Tây Tạng, người Mông Cổ ngày nay không ai muốn bị gọi là người Trung Quốc.
Người Uyghur không may mắn như vậy. Họ vốn là một dân tộc hùng cường và văn minh, thuộc giống Turk. Họ cũng dũng mãnh như người Mông Cổ, đã từng làm chủ soái các bộ lạc du mục khác ở phía Bắc nước Tầu. Ðời Ðường gọi họ là Hồi Hột nhưng bị họ phản đối, đổi thành Hồi Cốt, đời Nguyên gọi là Duy Ngô Nhĩ, cho tới bây giờ. Họ đã đặt ra chữ viết riêng trước các bộ lạc du mục khác. Khi Thành Cát Tư Hãn đặt ra những đạo luật đầu tiên cho cả đế quốc Mông Cổ, ông đã phải dùng chữ Uyghur để ghi chép. Ðời Nguyên Thế Tổ, ông nhờ các vị lạt ma thông thái đặt ra một lối viết riêng, thống nhất ngôn ngữ Mông Cổ. Nhưng ngày nay, người Uyghur chịu thân phận làm một giống dân thiểu số trong tỉnh Tân Cương, lâu lâu lại nổi lên chống chính sách đồng hóa của Cộng Sản Trung Quốc và bị đàn áp tàn nhẫn.
Hai dân tộc rất dũng mãnh ở Mãn Châu và Mông Cổ đã từng xâm chiếm và thống trị nước Tầu một cách tàn bạo, nhà Nguyên kéo dài cả trăm năm, nhà Thanh gần bốn trăm năm. Hai triều đại đó đã góp công mở mang ảnh hưởng của Trung Quốc, nhà Nguyên chiếm thêm Ðại Lý và suýt nữa thì chiếm cả Việt Nam; nhà Thanh thì chiếm lấy Tây Tạng, xóa bỏ bản hiệp ước mà vua nhà Ðường công nhận Tây Tạng độc lập vào thế kỷ thứ 8. Người Mông Cổ đã chinh phục một vùng rộng lớn, kéo dài từ Cao Ly, bán đảo Sơn Ðông, qua các nước Hồi Giáo ở Trung Á, cho tới sông Volga, Kiev (Ukraina bây giờ), tới tận Hungary, Ba Lan, về phía Nam tiến xuống tới Syria, trước khi diệt nhà Tống chiếm nước Tầu. Khi Kublai, thường gọi là Nguyên Thế Tổ, chuyển kinh đô của ông từ Karakurum về Bắc Kinh vì thế lực của ông ở cố đô không mạnh bằng người anh họ, ông ta đã mở đầu một quá trình tự đồng hóa, biến người Mông Cổ thành người Trung Quốc, mặc dù trong triều đình ông chỉ dùng các vị thượng thư gốc Mông Cổ, hoặc người Tây Tạng, Uyghur, Á Rập, Thổ, tuyệt nhiên không dùng người Trung Hoa. Người Mông Cổ còn may mắn giữ được một mảnh đất ngoài xa, đất đai khí hậu người Trung Hoa không chịu nổi, bây giờ mang tên nước Mông Cổ. Còn người Mãn Châu thì hoàn toàn bị đồng hóa.
Trung Quốc không phải là một dân tộc. Trên căn bản, đó là một đế quốc, bao gồm rất nhiều dân tộc. Mỗi lần uy quyền trung ương tan rã, các mảnh đất thuộc Trung Quốc hoặc bị các đế quốc khác chiếm, hoặc tự tuyên bố lập thành quốc gia riêng. Vì không có ý thức dân tộc, ít nhất cho tới thời Dân Quốc, người dân Trung Hoa có thể chịu sống dưới các chính quyền ngoại quốc, như những thời Nam Bắc Triều kéo dài nhiều thế kỷ mà miền Bắc do các giống dân từ phương Bắc kéo xuống cai trị, hoặc thuộc vào nước Liêu (từ Mãn Châu), nước Kim, đế quốc Mông Cổ, hoặc triều đình Mãn Thanh,vân vân.
Ngay bây giờ, nhiều người dân ở Quảng Ðông vẫn nuôi lòng hoài cổ, muốn nghiên cứu để xác nhận và phục hồi một nền văn hóa Nam Việt, nhất là sau khi người ta tìm ra ngôi mộ của vị vua nước Nam Việt thấy cái ấn tín viết Văn Ðế Hành Tỷ. Tức là ông vua, cháu nội Triệu Ðà, vẫn tự xưng mình là Ðế, mặc dù trong sử Tầu viết rằng ông đã chịu thần phục hoàng đế nhà Hán, chịu nhận chỉ phong Vương mà thôi. Trong ngôi mộ này, ngoài cái triện đó người ta không thấy chữ Hán, các hình trang trí cũng khác hẳn lối người Hán ở phương Bắc. Tới thế kỷ thứ 10, người Quảng Ðông vẫn lập ra một nước riêng, gọi là Nam Hán, đã từng nuôi mộng độc lập. Tỉnh Vân Nam cho tới thế kỷ thứ 12 vẫn là một quốc gia độc lập, trước gọi là Nam Chiếu, sau họ Ðoàn đổi tên là Ðại Lý; cho tới khi Kublai, một cháu nội của Thành Cát Tư Hãn sai quân Mông Cổ đánh chiếm và đặt quan cai trị. Chưa đầy một ngàn năm, bây giờ thì những người dân Quảng Ðông, Quảng Tây và Vân Nam tự nhận họ là người Trung Quốc mà không thắc mắc gì cả.
Chúng ta phải tự hỏi tại sao đế quốc Mông Cổ đã từng hùng mạnh và rộng lớn như vậy mà lại tàn tạ sau một trăm năm, còn đế quốc Trung Hoa tồn tại cho tới bây giờ? Nền tảng tồn tại của đế quốc đó chính là nền văn minh Trung Hoa. Cũng vậy, đế quốc Hồi Giáo thành hình từ thế kỷ thứ 7, mặc dù bây giờ đã tan rã nhưng vẫn còn để lại một nền văn minh Hồi Giáo kéo dài từ Bắc Phi sang tới Indonesia. Văn minh Hồi Giáo dựa trên một tín ngưỡng. Văn minh Trung Hoa dựa trên cách tổ chức xã hội, gồm một nền luân lý (Khổng Giáo) và một chế độ chính trị tập quyền do Tần Thủy Hoàng thiết lập. Từ đời Hán, tuy các triều đại vẫn bài xích Tần Thủy Hoàng nhưng trong thực tế họ vẫn sử dụng các thuật trị quốc của Pháp Gia (Nội Nho, Ngoại Pháp, hoặc nói ngược lại cũng được!) Ðế quốc Mông Cổ chấp nhận tất cả các tôn giáo. Ðạo luật của Thành Cát Tư Hãn lập ra cho một xã hội du mục, không đủ để duy trì trật tự trong đám dân định cư, phương tiện giao thông thô sơ không đủ để nối liền những vùng đất kéo dài từ Âu sang Á. Ðến đời các cháu nội của Thành Cát Tư Hãn thì đã có một người cải theo đạo Hồi và liên kết với đạo quân Ai Cập chống lại anh em mình, một người khác tự biến thành người Trung Hoa để sử dụng phương pháp cai trị của họ! Cuối cùng, một đế quốc hùng mạnh như Mông Cổ mà biến mất chỉ vì đã tự đồng hóa trước một nền văn minh vững chắc!
Sống hơn hai ngàn năm bên cạnh một nước lớn với lịch sử bành trướng dữ tợn như Trung Quốc, dân tộc Việt Nam (cũng như dân Cao Ly) vẫn còn tồn tại, đó là một hiện tượng lạ, đáng ngạc nhiên. Người Việt Nam có thể tự hào, họ là những người học trò của văn minh Trung Hoa, nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc mình. Trong đó, quan trọng nhất là những đặc tính phóng khoáng, trọng cá nhân và tôn trọng quyền bình đẳng của phụ nữ, những đặc tính văn hóa của các dân tộc phát xuất từ các đảo phía Nam. Người Việt Nam tồn tại cũng nhờ giữ được tiếng nói riêng, với văn phạm khác tiếng Tầu, và xã hội Việt Nam dựa trên làng xã khác với bên Tầu dựa trên các gia tộc.
Trong lịch sử, các vị vua Việt Nam thường chịu thần phục vua Tầu, nghĩa là tự nhận là phận dưới, không dám tranh giành ngôi vị (danh xưng hoàng đế) với các ông vua Tầu ở Biện Kinh hoặc Nam Kinh (đời Tống) hay Bắc Kinh (đời Nguyên). Nhưng ngoài những việc cống tiến giống như các nước nhỏ khác ở chung quanh nước Tầu, vua nước Nam vẫn không chịu khuất phục. Người Mông Cồ thường bắt vua các nước nhỏ trong đế quốc của họ phải tới triều bái hoàng đế nhà Nguyên, nhưng các vị vua nhà Trần đã từ chối. Có lúc Trần Nhân Tôn ngỏ ý muốn chấp nhận điều kiện đó để dân chúng khỏi bị họa binh đao, nhưng các vị tướng như Trần Hưng Ðạo đã phản đối, với câu nói nổi tiếng: Xin chém đầu tôi trước đã! Cuối cùng nhà Nguyên cũng phải thôi. Cùng thời gian đó, vua Miến Ðiện cũng từ chối không gửi con sang Bắc Kinh, và nước họ cũng bị xâm lăng ba lần đẫm máu, như nước ta.
Mặc dù ông Ðới Bỉnh Quốc ba hoa nói nước ông không nuôi tham vọng bá chủ bao giờ, hiện nay Trung Quốc đang chèn ép nước Việt Nam một cách có tính toán. Họ coi cả vùng Biển Ðông của nước ta là ao nhà của họ, cho tầu hải giám, ngư chính đi giám sát, tuần tiễu giống như cho cảnh sát đi tuần trên đường phố của nước Việt Nam!
Người Việt Nam chắc chắn không chịu cảnh làm nô lệ. Trung Quốc vin vào lá thư của ông Phạm Văn Ðồng gửi ông Chu Ân Lai năm 1958 để coi các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về họ, kể cả các vùng biển chung quanh! Ðối với bất cứ nước nhỏ nào ở bên cạnh Trung Quốc, chỉ đợi chính quyền nước đó theo đuổi những chính sách sai lầm là người Trung Quốc nhân dịp đè nén. Mối sai lầm lớn nhất là từ khi đảng Cộng Sản Việt Nam chấp nhận “tư tưởng Mao Trạch Ðông” làm đường lối chỉ đạo quốc gia, rồi sau đó thi hành các chính sách giống hệt như Cộng Sản Trung Quốc, từ chỉnh huấn đến cải cách ruộng đất, cho tới cả chế độ lao cải; rồi sau lại tính đem chủ nghĩa cộng sản với tư tưởng Mao Trạch Ðông bành trướng trong khắp vùng Ðông Nam Á. Trong các thứ nô lệ, không gì nguy hiểm bằng nô lệ tư tưởng. Nếu người cầm quyền ở nước ta còn tiếp tục bắt chước “mô hình Trung Quốc” trong việc phát triển quốc gia, thì tình trạng nô lệ về tư tưởng sẽ còn trầm trọng hơn nữa.
Muốn giữ nền độc lập, trước hết phải độc lập về tư tưởng. Trên thế giới hiện nay, mô thức phát triển có hiệu quả và mang lại hạnh phúc cao nhất cho người dân là lối tổ chức xã hội theo các quy tắc dân chủ tự do, về kinh tế cũng như chính trị. Ðối với người Việt Nam, đi theo con đường đó không những là tìm con đường phát triển hữu hiệu nhất mà còn là con đường duy nhất để bảo vệ độc lập dân tộc đối với nước láng giềng phía Bắc.


Thứ Sáu, 15 tháng 7, 2011

Sau Tuyên bố chung...dân chài Việt Nam lại bị bắt nạt

Chỉ vài tuần lễ sau Tuyên bố chung cấp thứ trưởng Việt-Trung được đưa ra với những lời cam kết này nọ...,  thì lại có tin dưới đây (Nguồn Báo Thanh niên này 14/7/2011).     Thử hỏi người Việt Nam bình thường nào lại có thể không "bức xúc"?

Tàu cá báo cáo bị hải quân nước ngoài bắt giữ, tịch thu hải sản

Chiều 14.7, ông Võ Mưa (83 tuổi, ở P.6, TP Tuy Hòa, Phú Yên) cho biết qua máy ICOM, anh Võ Văn Sỹ (27 tuổi, ở cùng P.6, thuyền trưởng tàu cá PY-90369TS) đã điện báo tin là tàu cá PY-90368TS do anh Võ Văn Tú (31 tuổi, con ông Mưa, làm thuyền trưởng) cùng với 8 ngư dân trên tàu bị hải quân nước ngoài bắt giữ vào lúc 15 giờ ngày 13.7, trong lúc đánh bắt ở ngư trường Trường Sa.
Hiện nay gia đình chưa có thông tin gì thêm về vụ việc trên. Ông Mưa đề nghị các cơ quan chức năng tạo điều kiện giúp đỡ để các ngư dân trên tàu cá PY-90368TS sớm trở về. Chiều cùng ngày, đại tá Nguyễn Văn Thắm - Chính ủy Bộ đội biên phòng tỉnh Phú Yên cho biết đang tiến hành xác minh nguồn tin báo của ngư dân về việc tàu cá PY-90368TS bị hải quân nước ngoài bắt giữ.
* UBND xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi) hôm qua cho biết tàu cá QNg-98868TS do ngư dân Nguyễn Thừa (38 tuổi, ở xã Phổ Quang) làm thuyền trưởng cùng 9 ngư dân khác đã bị tàu chiến của Trung Quốc mang số hiệu 44861 rượt đuổi, lấy hải sản và đánh đập trong khi đang hành nghề lưới cản tại vùng biển quần đảo Hoàng Sa vào hôm 5.7.
Theo thông tin ban đầu, sau một hồi rượt đuổi, tàu chiến Trung Quốc đã thả ca-nô gồm 10 người có trang bị súng, dùi cui xông lên tàu cá, đánh đập thuyền trưởng Thừa và lục soát khắp tàu lấy khoảng 1 tấn cá; sau đó đuổi không cho các ngư dân tiếp tục hành nghề tại vùng biển này nữa. Hiện tàu cá QNg-98868TS và các ngư dân vẫn chưa trở về địa phương.
Đức Huy - Hiển Cừ

 

Nhân sĩ kiến nghị về bảo vệ và phát triển đất nước

Trong một cử chỉ mà cá nhân tôi cho là "hơi khác thường", Tuần Việt Nam số ra hôm nay (chính xác lúc 6 giờ sáng ngày 14/7/2011) đã cho đăng nội dung bản kiến nghị của 20 vị nhân sĩ tiêu biểu cho các tầng lớp và ngành nghề trong nước hiện nay gửi Quốc Hội và Bộ Chính trị hiến kế về bảo vệ và phát triển đất nước trong bối cảnh tình hình mới gần đây.  Dưới đây là nguyên văn bài báo (gồm cả lời bình của Tuần VN và nội dung Kiến nghị nói trên)* 

Một số nhân sĩ gửi kiến nghị bảo vệ và phát triển đất nước

Để vươn lên giành thời cơ, thoát hiểm họa, cả dân tộc ta, từ người lãnh đạo, cầm quyền đến người dân thường phải dấn thân cùng với cả nhân loại tiến bộ đấu tranh cho những giá trị đang là nền tảng cho một thế giới tiến bộ, đó là hòa bình, tự do dân chủ, quyền con người, bảo vệ môi trường, nhóm nhân sĩ kiến nghị.
Ngày 13/7/2011, 20 nhân sĩ, trí thức đã gửi bản kiến nghị đến Quốc hội và Bộ Chính trị về bảo vệ và phát triển đất nước trong tình hình hiện nay.
Bản kiến nghị gồm có 3 phần: phần 1 phân tích sâu về những sự kiện xảy ra gần đây trong quan hệ Việt - Trung, phần 2 nói về thực trạng còn nhiều bất cập trong nước và phần cuối cùng nêu 5 điểm kiến nghị với lãnh đạo Đảng và Quốc hội.
Trong danh sách ký tên đính kèm bản kiến nghị, có nhiều tên tuổi như ông Hồ Uy Liêm (Phó Chủ tịch thường trực Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam (VUSTA)), Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh ( nguyên Đại sứ VN tại Trung Quốc), nhà nghiên cứu Trần Việt Phương, Trần Đức Nguyên (nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng), GS Hoàng Tụy, GS Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Trung, Phạm Chi Lan, Chu Hảo (nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và công nghệ), nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, Linh mục Huỳnh Công Minh, ông Lê Hiếu Đằng, Gs Tương Lai, Luật sư Trần Quốc Thuận, chuyên gia kinh tế Vũ Thành Tự Anh, Thiền sư Lê Mạnh Thát, nhà văn Nguyên Ngọc, Ts Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Hữu Châu Phan, Nguyễn Đình An.
"Độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ đang bị uy hiếp"
Trước tình hình Biển Đông nóng lên, nhóm nhân sĩ cho rằng, "Độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta đang bị uy hiếp, xâm phạm nghiêm trọng".
"Từ khát vọng trở thành siêu cường, với vai trò là "công xưởng thế giới" và chủ nợ lớn nhất của thế giới, dưới chiêu bài "trỗi dậy hòa bình", Trung Quốc đang ra sức phát huy quyền lực dưới mọi hình thức, nhằm thâm nhập và lũng đoạn nhiều quốc gia trên khắp các châu lục...Thời gian gần đây, Trung Quốc đã có những bước leo thang nghiêm trọng trong việc thực hiện âm mưu độc chiếm Biển Đông với nhiều hành động bất chấp luật pháp quốc tế, ngang nhiên xâm phạm chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của các quốc gia giáp Biển Đông. Trung Quốc tự ý vạch ra cái gọi là "đường chữ U 9 đoạn", thường được gọi là "đường lưỡi bò", chiếm hơn 80% diện tích Biển Đông, nhiều lần tuyên bố trước thế giới toàn bộ vùng "lưỡi bò" này thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc và đã liên tục tiến hành nhiều hoạt động bất hợp pháp trên Biển Đông để khẳng định yêu sách trái luật quốc tế này.
Hiện nay Trung Quốc đang ráo riết tăng cường lực lượng hải quân, chuẩn bị giàn khoan lớn, tiến hành nhiều hoạt động quân sự hoặc phi quân sự ngày càng sâu vào vùng biển các quốc gia trong vùng này, gắn liền với những hoạt động chia rẽ các nước ASEAN trong quan hệ với Trung Quốc.
Trên vùng Biển Đông thuộc lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, năm 1974 Trung Quốc đã tấn công chiếm nốt các đảo ở Hoàng Sa, năm 1988 đánh chiếm thêm 7 đảo và bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa của ta; từ đó đến nay thường xuyên tiến hành các hoạt động uy hiếp và xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền của nước ta, như tự ý ra lệnh cấm đánh bắt cá trên Biển Đông, xua đuổi, bắt giữ, cướp tài sản của các tàu đánh cá trên vùng này, gây sức ép để ngăn chặn hoặc đòi hủy bỏ các hợp đồng mà các tập đoàn kinh doanh dầu khí của nước ngoài đang hợp tác với Việt Nam, liên tục cho các tàu  hải giám đi tuần tra như đi trên biển riêng của nước mình. Gần đây nhất, tàu Trung Quốc cắt cáp quang và thực hiện nhiều hành động phá hoại khác đối với tàu Bình Minh 02 và tàu Viking II của ta đang hoạt động trong vùng thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam; đó là những bước leo thang nghiêm trọng trong các chuỗi hoạt động uy hiếp, lấn chiếm vùng biển của nước ta.
Vị trí địa lý tự nhiên, vị thế địa chính trị và địa kinh tế trong bối cảnh quốc tế hiện nay khiến cho Việt Nam bị Trung Quốc coi là chướng ngại vật trên con đường tiến ra biển phía Nam để vươn lên thành siêu cường...", bản kiến nghị viết.

Từ phân tích trên, nhóm nhân sĩ cho rằng "xem xét cục diện quan hệ hai nước, phải nhìn nhận thẳng thắn rằng Trung Quốc đã đi được những bước quan trọng trong việc thực hiện ý đồ chiến lược của họ".
Kiến nghị dẫn chứng: Nhập siêu của ta từ Trung Quốc mấy năm qua tăng rất nhanh (năm 2010 gấp 2,8 lần năm 2006) và từ năm 2009 xấp xỉ bằng kim ngạch xuất siêu của nước ta với toàn thế giới. Hiện nay, nước ta phải nhập khẩu từ Trung Quốc khoảng 80-90% nguyên vật liệu cho công nghiệp gia công của ta, một khối lượng khá lớn xăng dầu, điện, nguyên liệu và thiết bị cho những ngành kinh tế khác; khoảng 1/5 kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc là hàng tiêu dùng, chưa kể một khối lượng tương đương như thế vào nước ta theo đường nhập lậu. Đặc biệt nghiêm trọng là trong những năm gần đây, 90% các công trình kinh tế quan trọng như các nhà máy điện, luyện kim, hóa chất, khai thác bô-xít, khai thác ti-tan... được xây dựng theo kiểu chìa khóa trao tay (EPC) rơi vào tay các nhà thầu Trung Quốc với nhiều hệ quả khôn lường.
Trong khi đó Trung Quốc nhập khẩu từ nước ta chủ yếu dưới dạng vơ vét nguyên liệu, nông sản và khoáng sản, với nhiều hệ quả tàn phá môi trường. Ngoài ra còn nạn cho Trung Quốc thuê đất, thuê rừng ở vùng giáp biên giới, nạn tiền giả từ Trung Quốc tung vào. Sự yếu kém của nền kinh tế trong nước chính là mảnh đất màu mỡ cho sự xâm nhập, thậm chí có mặt chi phối, lũng đoạn về kinh tế của Trung Quốc. Chưa nói tới hệ quả khôn lường của việc Trung Quốc xây nhiều đập trên thượng nguồn hai con sông lớn chảy qua nước ta.
Cũng không thể xem thường sự xâm nhập của Trung Quốc vào các nước xung quanh ta. Nếu Trung Quốc thực hiện được mưu đồ độc chiếm Biển Đông, Việt Nam coi như bị bịt đường đi ra thế giới bên ngoài.
Trong khi đó tình hình đất nước lại có nhiều khó khăn và mối nguy lớn...
Theo các nhân sĩ trên, do "vị trí địa lý nước ta không thể chuyển dịch đi nơi khác, nên toàn bộ thực tế hiện nay buộc dân tộc ta phải tạo được bước ngoặt có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh của đất nước: Là nước láng giềng bên cạnh Trung Quốc đầy tham vọng đang trên đường trở thành siêu cường, Việt Nam phải bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, trở thành một đối tác được Trung Quốc tôn trọng, tạo ra một mối quan hệ song phương thật sự vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Mặt trận gìn giữ lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, biển đảo, vùng trời của nước ta trong Biển Đông đang rất nóng do các bước leo thang lấn chiếm ngày càng nghiêm trọng của Trung Quốc... Tuy nhiên, mặt trận nguy hiểm nhất đối với nước ta mà Trung Quốc muốn dồn quyền lực và ảnh hưởng để thực hiện, đó là: thâm nhập, lũng đoạn mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa của nước ta...
Sự xuất hiện một Trung Quốc đang cố trở thành siêu cường với nhiều mưu đồ và hành động trái luật pháp quốc tế, bất chấp đạo lý, gây nhiều tác động xáo trộn thế giới, tạo ra một cục diện mới đối với nước ta trong quan hệ quốc tế: Hầu hết mọi quốc gia trên thế giới, có lẽ ngoại trừ Trung Quốc, đều mong muốn có một Việt Nam độc lập tự chủ, giàu mạnh, phát triển, có khả năng góp phần xứng đáng vào gìn giữ hòa bình và ổn định trong khu vực, thúc đẩy những mối quan hệ hữu nghị, hợp tác vì sự bình yên và phồn vinh của tất các các nước hữu quan trong khu vực và trên thế giới"
Các nhân sĩ này cho rằng: "cục diện thế giới mới này là cơ hội lớn, mở ra cho đất nước ta khả năng chưa từng có trong công cuộc phát triển và bảo vệ Tổ quốc, qua đó giành được cho nước ta vị thế quốc tế xứng đáng trong thế giới văn minh ngày nay. Để vươn lên giành thời cơ, thoát hiểm họa, cả dân tộc ta, từ người lãnh đạo, cầm quyền đến người dân thường phải dấn thân cùng với cả nhân loại tiến bộ đấu tranh cho những giá trị đang là nền tảng cho một thế giới tiến bộ, đó là hòa bình, tự do dân chủ, quyền con người, bảo vệ môi trường
Kiến nghị 5 điểm
Từ những phân tích trên, các nhân sĩ "khẩn thiết  kiến nghị với Quốc hội và Bộ Chính trị"
1. Công bố trước toàn thể nhân dân ta và nhân dân toàn thế giới thực trạng quan hệ Việt - Trung; nêu rõ những căn cứ phù hợp với luật pháp quốc tế, có sức thuyết phục về chủ quyền của Việt Nam đối với biển đảo ở vùng Biển Đông để làm sáng tỏ chính nghĩa của nước ta; khẳng định thiện chí trước sau như một của nước ta xây dựng, gìn giữ quan hệ hữu nghị, hợp tác láng giềng tốt với Trung Quốc, nhưng quyết tâm bảo vệ độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia của mình ... Chúng ta luôn phân biệt những mưu đồ và hành động phi đạo lý và trái luật pháp quốc tế của một bộ phận giới lãnh đạo Trung quốc, khác với tình cảm và thái độ thân thiện của đông đảo nhân dân Trung quốc đối với nhân dân Việt Nam. Chúng ta sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước, đặc biệt coi trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước Đông Nam Á và các nước lớn, cùng với các nước có liên quan giải quyết hoà bình các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông.
2. Trình bày rõ với toàn dân thực trạng đất nước hiện nay, thức tỉnh mọi người về những nguy cơ đang đe dọa vận mệnh của Tổ quốc, dấy lên sự đồng lòng và quyết tâm của toàn dân đem hết sức mạnh vật chất, tinh thần, trí tuệ để bảo vệ và phát triển đất nước. Cải cách sâu sắc, toàn diện về giáo dục và kinh tế ngày càng trở thành yêu cầu cấp thiết, là kế sâu rễ bền gốc để nâng cao dân trí, dân tâm, dân sinh làm cơ sở cho quá trình tự cường dân tộc và nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.
3. Tìm mọi cách thực hiện đầy đủ các quyền tự do, dân chủ của nhân dân đã được Hiến pháp quy định, nhằm giải phóng và phát huy ý chí và năng lực của nhân dân cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tận dụng được cơ hội mới, đáp ứng được những đòi hỏi và thách thức mới của tình hình khu vực và thế giới hiện nay.
4. Kêu gọi toàn thể quốc dân đồng bào, mọi người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài, không phân biệt chính kiến, tôn giáo, dân tộc, địa vị xã hội, hãy cùng nhau thực hiện hòa hợp, hòa giải, đoàn kết dân tộc với lòng yêu nước, tinh thần vị tha và khoan dung. Tất cả hãy cùng nhau khép lại quá khứ, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, để từ nay tất cả mọi người đều một lòng một dạ cùng nắm tay nhau đứng chung trên một trận tuyến vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng nhau dốc lòng đem hết trí tuệ, nghị lực sáng tạo và nhiệt tình yêu nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta.
5. Lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam với tính cách là đảng cầm quyền duy nhất và cũng là người chịu trách nhiệm toàn diện về tình hình đất nước hiện nay, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, giương cao ngọn cờ dân tộc và dân chủ đẩy mạnh cuộc cải cách chính trị, giải phóng mọi tiềm năng của nhân dân cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy lùi mọi tệ nạn tham nhũng và tha hóa, đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng yếu kém và lệ thuộc hiện nay, chuyển sang thời kỳ phát triển bền vững, đưa dân tộc ta đồng hành với cả nhân loại tiến bộ vì hòa bình, tự do dân chủ, quyền con người, bảo vệ môi trường.

Ghi chú: * Bạn đọc cũng có thể đọc toàn văn kiến nghị cùng với bản scan bản gốc của nó và kèm theo lời mời ký tên tham gia Kiến nghị (nếu bạn mong muốn)  được đăng tải trên trang BoxitVN tại đường link dưới đây:
http://boxitvn.blogspot.com/2011/07/toan-van-kien-nghi-ve-bao-ve-va-phat.html

--------------

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này