Thứ Bảy, 23 tháng 4, 2011

Lời khuyên của con ếch

 Ở nước ta trong những năm gần đây có một sự thật chưa được thừa nhận,  đó là tâm trạng bất bình, bất an, bất tín, bất phục,... . Nói vậy có quá không? Không quá, nhưng hơi chậm. Chậm là vì hậu quả của nó đang lấp ló đâu đó như sóng thần trong khi  nhiều người vẫn làm như không nghe, không biết, không thấy…Nhưng tôi tin rằng những ai đã trải qua  trọn thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng  lại đất nước  đều không thể thản nhiên nhìn những thành quả của họ bị sóng thần cuốn trôi.       

Xin miễn kể lể dài dòng, bởi lẽ  ai cũng nghe, cũng thấy, cũng biết cả rồi; nếu nói ra lại bảo “biết rồi, khổ lắm nói mãi!” Mà có nói,  chắc cũng không thể nào hay và trúng bằng các vị tiền bối “khai quốc công thần” hay các “cựu chiến binh” và “cựu lãnh đạo”. Tôi xin chỉ nói với vai trò của một con ếch ngồi đáy giếng với bản năng dự báo thời tiết mà thôi. Và  sẽ chỉ nói càng ngắn gọn càng tốt… để còn kịp chuẩn bị đối phó với sóng thần !

Sai lầm đường lối là việc không thể tránh khỏi và có thể tha thứ được trong những hoàn cảnh nhất định, đó là trong thời kỳ đầu sau giải phóng miền Nam năm 1975 mặc dù với những sai lầm đó đã để lại cho đất nước và nhân dân ta những hậu quả không bao giờ khắc phục được. Nhưng tình trạng sai lầm kéo dài, lặp đi lặp lại  do "lỗi hệ thống" lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Dưới đây xin điểm qua một số biểu hiện có tính "đại diện" cho những sai lầm như thế ở nước ta trong mấy chục năm gần đây.

 Đó là sự di chuyển ồ ạt của dòng người từ nông thôn đổ vào các đô thị mà nhiều người ngộ nhận là một hệ quả của  quá trình công nghiệp hóa đất nước!. Nhưng không, đó là hậu quả của một sai lầm nghiêm trọng trong chính sách kinh tế dài hạn mà cùng vói nó là hàng loạt những hậu quả nhãn tiền: ngành nông nghiệp truyền thống bị lãng quên trong khi các đô thị nhanh chóng bị "nông thôn hóa"; nạn thất nghiệp và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng khó cứu vãn, v.v.... Để chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng, Nhà nước đã chủ trương "tranh thủ " viện trợ nước ngoài như một ưu tiên quốc sách trong khi các nguồn nội lực không được coi trọng hoặc sử dụng không hợp lý: Thay vì đầu tư để phát triển các cơ sở sản xuất, người ta chỉ chú trọng một vài ngành khai khoáng như dầu thô và một vài loại quặng "ăn liền" như than đá, bauxit,  đặc biệt đầu tư qúa mức cần thiết cho lĩnh vưc bất động sản . Những chủ trương sai lầm này này đã lập tức bị các nhóm lợi ích tham lam ra sức lợi dụng khiến cho nguồn khoáng sản và đất dai mau chóng bị khánh kiệt. Thay vì khẩn trương tiến hành tư nhân hóa và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng thị trường, thì người ta lại duy trì và củng cố những tập đoàn "anh cả đỏ"- một việc làm không chỉ trái với với quy luật kinh tế mà còn trái với bản thân  phương châm đổi mới của Đảng đã đề ra. Hậu quả là những tập đoàn nhà nước to xác biến thành những cỗ máy tiêu "tiền chùa" với cả vốn lẫn lời chui vào túi cá nhân bọn tham nhũng. Thế nên chỉ sau vài đợt kiểm toán đầu tiên đã phát hiện vụ bê bối Vinashin khiến dư luận khẳng định rằng "sờ đâu cũng thấy tham nhũng", và lòng tin của nhân dân đã thực sự hoàn toàn bị "đánh cắp" từ sau  vụ bê bối này. Công cuộc cải cách hành chính thì sao? Hãy nhìn biên chế của các cơ quan  công quyền ngày một  phình to trong khi chúng dường như chỉ có thể làm cái công việc “bắt cóc bỏ đĩa” mà không xong. "Công nghiệp hóa" ư?  Vẫn chỉ là một thuật ngữ trống rỗng khi mà toàn bộ nền kinh tế đất nước vẫn phải sống dựa vào hàng nhập khẩu từ cái đinh vít cho đến chiếc máy bay. Tất thảy khiến ta nhận ra rằng đất nước hiện nay không phải trong “giai đoạn quá độ tiến lên CNXH" mà    tình trạng tạm thời, tạm bợ với vô số những chiếc bong bóng sắp vỡ tung. Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, là tình trạng bất cập  liên quan đến chủ trương chính sách đối ngoại và an ninh quốc phòng vốn thường được coi là "phạm húy" nếu đem ra bàn luận. Sự bức xúc của dư luận đã đến mức bùng phát khi phía Trung Quốc liên tục trấn cướp tàu cá của dân chài miền Trung nhưng các phương tiện thông tin đại chúng chính thức vẫn gọi là "nước lạ", tàu lạ".
      
Điều cần biết là trong bối cảnh đất nước hiện nay người dân suy nghĩ gì? Chẳng khó khăn lắm để biết nếu ta  làm một chuyến vi hành ngược xuôi Nam Bắc và bắt chuyện với mọi người sẽ thấy không dưới 90% là những lời ca thán. Đừng nghĩ rằng khi người tham gia giao thông cáu bẳn,  gây sự...chỉ đơn giản vì bị va chạm; đó chính là biểu hiện của  trạng thái tư tưởng bất ổn bên trong đầu họ.   Sự bất bình cũng diễn ra gay gắt ngay ở giai tầng cao hơn của đất nước, đó là giới quan chức và  học giả, trí thức. Chỉ cần qua kênh Quốc hội (dù còn nhiều khiếm khuyết) và qua kênh   thông tin đại chúng chính thức cũng dễ dàng nhận thấy cuộc đấu tranh giằng co đang hồi khó phân thắng bại. Gần đây có chuyện "vừa buồn, vừa cười"  khi dư luận kháo nhau: ”Ai là lực lượng phản động?”, “ai là thế lực thù địch?” và "ai đang diễn biến hòa bình?" Thiết nghĩ không còn biểu hiện bất bình nào sâu sắc hơn thế!  
    
Thực tế buộc ta phải suy diễn: Phải chăng đang có một sự rạn nứt của niềm tin vốn là cơ sở để  hun đúc nên  khối đoàn kết dân tộc- cội nguồn của sức mạnh để “đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác” trong suốt chặng đường đấu tranh giải phóng dân tộc vừa qua? Niềm tin ấy, khối đoàn kết ấy đang mất đi nhanh chóng, và những thành công cũng ngày một hiếm hoi, thậm chí đã và đang thay thế bằng những thất bại.  

Đó là sự thật dù phũ phàng. Nhưng mỗi người ở cương vị khác nhau, xuất phát từ lợi ích khác nhau hoặc hoàn cảnh khác nhau, nhìn nhận sự thật đó một cách khác nhau. Nếu như những sai lầm trước đây đã buộc  nhiều người Việt Nam dù không muốn đã phải bỏ đất nước ra đi, thì những sai lầm ngày nay lại buộc nhiều người Việt Nam dù không muốn cũng phải lên tiếng .  Khác biệt là một phạm trù quy luật, nhưng khác biệt theo cái cung cách mà ta đang thấy  trong thời gian gần đây là hoàn toàn không bình thường. Nó không chỉ là sự bất đồng quan điểm thông thường mà là sự bất bình, sự phẫn nộ.  Nó báo hiệu một nguy cơ bất ổn xã hội và, xa hơn, là sự tồn vong của quốc gia mà những ai có chút lòng trắc ẩn chắc chắn đều cảm thấy lo lắng. Nếu quan sát kỹ lưỡng hơn ta sẽ nhận thấy tình hình nói trên phảng phất bóng dáng của tình hình ở  những chu kỳ trước đây trong lịch sử dân tộc, không xa lắm là thời Hậu Lê (1780-1789) và gần nhất là thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Nhân loại đã đúc kết về tầm quan trọng của sự gắn kết (đoàn kết) giữa những con người cùng chí hướng, coi đó như nhân tố chính yếu của thành công hay thất bại bất luận khi làm việc gì. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những câu đúc kết rất thiết thực đối với nước ta là: “Dễ mọi bề không dân cũng chịu, khó mọi bề dân liệu cũng xong” và ”Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công” v.v…

Lịch sử đất nước ta là minh chứng hùng hồn về quy luật mật thiết giữa nhân tố đoàn kết và sự tồn vong. Nhưng lịch sử nước ta vẫn còn đó một sự thật chua xót: Hễ khi nào có ngoại xâm thì toàn dân đồng lòng cùng vua quan chống giặc. Nhưng khi thái bình rồi thì vua quan lại trở nên hư đốn, gian tham khiến lòng dân oán hận, vận nước suy vong. Biết vậy mà không mấy triều đại từ cổ chí kim không mắc phải.

Ứng nghiệm hiện tượng lịch sử nói trên vào hoàn cảnh ngày nay ta thấy gì? Nếu kể cả thời kỳ “tiền khởi nghĩa 1945” thì chính thể hiện nay của đất nước đã trải qua gần 70 năm tương đương với một vòng đời người. Trong đó chỉ 1/2 thời kỳ đầu có khối đoàn kết dân tộc thực sự do nhu cầu đánh thắng các kẻ thù xâm lược.  Tuy nhiên, tình hình đã thay đổi trong quãng thời gian sau khi đất nước đã yên bình. Nhiều người không che dấu nỗi băn khoăn: Liệu lịch sử sẽ lặp lại cái chu kỳ  muôn thuở? Và người ta bắt đầu  nghĩ về nguy cơ giặc ngoại xâm. Nhưng chẳng lẽ lại phải đợi giặc ngoại xâm “giúp” ta đoàn kết lại?  Phải chăng đó là một nghịch lý hay là một lời nguyền của lịch sử?  

Con ếch ngồi đáy giếng cũng phải kêu lên rằng chẳng phải vì lời nguyền nào cả, mà chính là một nghịch lý do chính ta gây ra ("ta" ở đây là cả nhân dân và giai tầng lãnh đạo). Dân lúc nào cũng chỉ là dân; chỉ những người lãnh đạo mới nắm giữ vai trò quyết định đối với  sự tồn - vong của dân tộc. Vấn đề là liệu họ giờ đây có đủ sáng suốt và quyết tâm để vượt qua chính mình, tức là từ bỏ những lợi ích cá nhân cục bộ để vì nghĩa cử dân tộc lớn lao? Con ếch chỉ muốn kêu lên rằng, để làm được sứ mệnh thiêng liêng đối với vận mệnh dân tộc, trước hết  những người lãnh đạo hãy lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Và điều khẩn cấp là hãy cảnh giác đề phòng những con sóng thần đang rình rập.  Trước mắt, nếu chưa thể tự biến cải thì ít nhất họ hãy biết trở lại với chính mình của mấy mươi năm trước. Chỉ cần làm được thế thì đất nước và dân tộc này cũng may mắn lắm rồi ./. 




Thứ Sáu, 22 tháng 4, 2011

Trung Quốc toàn lực đả thông Trung Nam bán đảo hành lang chiến lược đối phó với tiền tuyến Nam Sa

Trên đây là đầu đề của một trong hàng trăm ngàn bài viết nhan nhãn trên các phương tiện thông tin đại chúng (cả cá nhân , tư nhân và nhà nước) ở Trung Quốc ngày nay. Chúng không xa lạ đối với nhiều "dân mạng", nhưng cách hiểu về chúng rất khác nhau,  cũng có nhiều người cho đó là "vớ vẫn" không đáng bận tâm. 

Tôi nghĩ, tin hay không tùy mỗi người, nhưng có thể khẳng định đó là một thủ đoạn tuyên truyền của phía Trung Quốc. Thật đáng quan ngại khi phía ta luôn chủ trương "nghiên túc" trong khi phía đối phương thì "phóng tay phát đông quần chúng" liên tục đưa ra các loại lập luận đầy giọng lưỡi khiêu khích, hiếu chiến, ngạo mạn....

Bản thân tôi tuy  tán đồng  với lời dẫn đề của dịch giả Trần Đông Đức, nhưng chỉ xin mạn phép đưa lại nguyên văn nội dung bài địch để người đọc được rộng đường tư duy một cách khách quan. Vấn đề là cần biết họ muốn gì? và ta cần làm gì?


Việt Nam hung hăng tại quần đảo Nam Sa, dẫn tới sự phẫn nộ to lớn cho quốc dân. Gần đây trên mạng không ngừng nghe lời kêu gọi đánh nhau với Việt Nam. Liên Minh Thu Phục Lãnh Thổ (LMTPLT) vì vậy mà đã viết vài bài liên quan tới Việt Nam và Nam Sa. LMTPLT càng lúc càng phát hiện, bất luận là đối với Việt Nam, khống chế Nam Hải hay là tiến nhập Ấn Độ Dương, Trung Nam bán đảo phải là một miếng đất chiến lược đặc biệt quan trọng đối với nước ta. Trước mắt, thiết lập được chiến lược hành lang Trung Nam bán đảo đối với Trung Quốc có ý nghĩa to lớn.
I. Vân Nam và bốn chiến lược hành lang với Trung Nam bán đảo
Trung Nam bán đảo, trong từ ngữ gọi tên có nghĩa là “bán đảo của phía Nam Trung Quốc”, nhưng trong tiếng Anh gọi Trung Nam bán đảo là Indochina (Ấn-Độ-Chi-Na 印度支那, trong chữ Hán, lời người dịch), ý nghĩa là bán đảo nằm giữa Ấn Độ và China (tức Trung Quốc). Trung Nam bán đảo về mặt địa lý có sự phân biệt về nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nghĩa hẹp nói đến ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Thật ra, bán đảo Indochina (Đông Dương) trong tiếng Anh bao gồm cả năm nước Campuchia, Lào, Miến Điện, Thái Lan, Việt Nam. Nếu như chiếu theo sự hoạch phân rộng lớn hơn về bản đồ chính trị, Trung Nam bán đảo còn bao luôn tỉnh Vân Nam của Trung Quốc. Chính vì nguyên nhân này, ngày nay trên các diễn đàn quốc tế về hợp tác khu vực lại xuất hiện một từ ngữ mới, tức là Khu Vực Nguồn Dưới Mê Kông. Khu vực nguồn dưới Mê Kông bao gồm Trung Quốc (Tỉnh Vân Nam), Lào, Miến, Thái, Việt

Bản đồ minh họa cái gọi "Trung Nam Bán đảo"

Chính là do nguồn sông này, lợi ích quốc gia của Trung Quốc và Trung Nam bán đảo gắn bó mật thiết bất khả phân. LMTPLT cho rằng, từ góc độ Trung Quốc mà nhìn, tiến vào Trung Nam bán đảo có bốn chiến lược thông đạo hay gọi là chiến lược hành lang, tức là:
Chiến lược 1: Trung Quốc Vân Nam — Miến Điện;
Chiến lược 2: Trung Quốc Vân Nam (hay là Quảng Tây) — Việt Nam;
Chiến lược 3: Trung Quốc Vân Nam — Miến Điện — Thái Lan (Nam tiến một bước tới bán đảo Mã Lai rồi tới Singapore);
Chiến lược 4: Trung Quốc Vân Nam — Lào — Campuchia — Vịnh Thái Lan è Nam Hải;
LMTPLT phân tích qua một chút về bốn chiến lược thông đạo này:
Thứ nhất: “Chiến lược lớn thông đường Trung Miến” là con đường tốt đẹp nhất để Trung Quốc tiến vào Ấn Độ Dương, đối với anh ninh quốc gia của Trung Quốc có ý nghĩa to lớn. LMTPLT trong bài “Miến Điện – Trung Quốc Tây Nam con đường tốt đẹp nhất để ra biển” và “Phá thế khốn cục của eo biển Malacca: Trung Quốc với ba chiến lược lớn để hướng ra Ấn Độ Dương đã tường tận giới thiệu, có hứng thú thì có thể tìm đọc.
Thứ hai: tình hình nếu như Việt Nam với nước ta có quan hệ tốt đẹp, không xâm hại lợi ích của Trung Quốc, thì việc thành lập hành lang Trung Việt khống chế Nam Hải đối với nước ta có ý nghĩa to lớn. Nhưng là do ở Việt Nam trước mắt đang xâm chiếm nhiều nhất các đảo ở Nam Sa, nước thù địch hưởng lợi nhiều nhất, từ góc độ thu phục Nam Sa mà nhìn, nói đến hành lang này không thể vô ý nghĩa được.
Thứ ba: hành lang thực sự là đang trong dự tính về con đường sắt quan trọng xuyên Á qua đường Đông Nam Á. Một khi thành hình thì đối với chính trị kinh tế và các phương diện khác của nước ta có ý nghĩa to lớn. Nhưng do liên quan đến nhiều nước, tạo thành một trò chơi đa phương, Ân Độ, Nhật Bản nhảy vào làm khó, Singapore thái độ tiêu cực, những quốc gia khác mỗi nước mỗi cách suy nghĩ. Ngoài ra vẫn còn gặp phải những nhân tố ảnh hưởng như thi công khó, thời gian dài, đầu tư nhiều, từ đó đến nay vẫn chưa đạt thành ý hướng thi công, trong đoản kỳ khả năng thực hiện không lớn, đối với việc kiểm soát Nam Hải vẫn chưa có ý nghĩa quá to lớn.
LMTPLT cho rằng, chỉ có chiến lược hành lang thứ tư tức là Trung-Lào-Campuchia đối với con đường Nam hạ của ta đặc biết có ý nghĩa to lớn trong việc tiến quân Nam Sa khống chế Nam Hải.
II. Ý nghĩa to lớn trong việc kiến lập hành lang Trung-Lào-Campuchia
LMTPLT trong rất nhiều bài viết đều đề xuất sách lược “chia để trị” đối với Đông Nam Á. Tức là lấy Nam Hải làm trục, lấy Trung Nam bán đảo làm trọng điểm, chia Đông Nam Á thành hai bộ phận “quốc gia bán đảo”“quốc gia quần đảo”, áp dụng tuần tự trước gần sau xa và từng bước trước dễ sau khó, từng bước biến Đông Nam Á tạo thành sân sau chiến lược của nước ta, vì lợi ích căn bản nước ta phục vụ.
Đề án này chỉ dùng tới tình hình xâm lược Việt Nam gia tăng, chuyện phải thu phục Nam Sa, mà nói tới ý nghĩa thành lập chiến lược hành lang Trung Lào Cam.
TPLTLM phán đoán về mặt cơ bản là: Việt Nam về mặt thực tế trong thời gian về lâu về dài sẽ là nước thù địch với Trung Quốc, vấn đề Nam Sa trong vòng ít nhất là 20 năm thật khó giải quyết xong xuôi. Cho dù Việt Nam trong tương lai chắc chắn sẽ quay lại lấy hệ thống và thế chế chính trị Trung Quốc làm trọng tâm, nhưng sẽ trong một giai đoạn so đo nào đó tuột ra ngoài hệ thống Trung Quốc, điều này tạo nên một hiện thực uy hiếp Trung Quốc, mục đích chủ yếu thành lập hành lang Trung-Lào-Cam là để đối phó Việt Nam!
Ý nghĩa chủ yếu của việc thành lập hành lang này là:
1-     Phối hợp Nam Sa, đả thông con đường lục địa Tây Nam Trung Quốc. Trung Quốc đang lúc ra sức phát triển lược lượng hải, không quân, nhưng ưu thế thực sự của Trung Quốc vẫn là lục quân. Đối với Trung Quốc, lục lộ hiển nhiên có ý nghĩa to lớn. Do người Trung Quốc trong lịch sử chưa từng mở đường thông đến Ấn Độ Dương, và cũng chưa chiếm hữu toàn bộ Trung Nam bán đảo, lãnh thổ nguồn gốc của tổ tiên lại bị Nga Sa hoàng và Nhật Bản chiếm đi, khiến cho hiện tại Đông Bộ Trung Quốc bị bịt đường bởi các chuỗi đảo, Nam Bộ bị khốn bởi eo biển Malacca! Đông Bắc Bộ thì có Đông Bắc chiến lược khốn cục (bị bịt đường ra biển)! Vào những năm 70 của thế kỷ trước, các hòn đảo Nam Sa bị các nước nhỏ Đông Nam Á xâm chiếm, trở thành một cục diện của hiện tại! Để đả thông con đường “Nam Hải Lục Lộ”, chúng ta hiển nhiên có thể thông qua thành lập hành lang Trung-Lào-Cam trực thông Nam Hải, từ lục địa ứng phó Nam Sa!
2-     Cô Lập Việt Nam, hình thành cái thế của ba mặt giáp kích. Việt Nam Nam Nam Bắc hẹp dài, chiến lược thọc sâu đọ nông, ở chiến lược trên mặt đất có thế xấu về thiên nhiên, ở thế nước nhỏ lực yếu lại mang ảo tưởng lấy ít địch nhiều, thật là không phải là phúc cho dân cho nước này. Do hai nước Lào, Campuchia trực tiếp biên giới với Việt Nam, Trung Quốc lại cùng Lào và Việt Nam tiếp giáp biên giới, Trung Quốc một khi đã ổn định hành lang chiến lược Trung-Lào-Cam, sẽ từ hướng Bắc, hướng Tây và hướng Đông từ Nam Hải đối với Việt Nam hình thành thế của ba mặt giáp kích! khiến Việt Nam như bị thột vào lưng, như xương mắc họng, tạo nên sức kìm giữ cực đại, ít nhất là làm mất khả năng toàn lực đầu tư vào việc xâm chiếm các đảo Nam Sa của ta.
3-     Cơ hội chiến thắng, vì tương lai của phương án nối liền eo đất Kra (trên bán đảo Mã Lai thuộc về Thái Lan và Miến Điện). Tương lai một khi eo đất Kra được khai tạc thành công, địa vị chiến lược các nước như Campichia sẽ tuỳ thời tăng lên. Trung Quốc nếu như ra tay trước tại nơi này thành lập được “căn cứ địa” bền vững, tức không những chỉ lấy thế ngang mặt Việt Nam, mà còn có khả năng thuận lợi tiến vào kênh đào Kra chiếm thế thượng phong! Đây là một chiến lược thông đạo trong tương lai của nước ta dựa vào con kênh đào Kra (từ Vịnh Thái Lan xuyên qua Ấn Độ Dương), ý nghĩa hiển nhiên không cùng một dạng.
4-     Đáng mặt nước lớn, kiến lập căn cứ chiến lược bền vững. Việt Nam một khi đối với nước ta triệt để đối đầu, đặc biệt là sau khi nước ta dùng vũ lực thu phục lãnh thổ Nam Sa, không loại trừ khả năng đánh trả nước ta, có khả năng dẫn vào các nước ngoài khu vực như Mỹ, Ấn Độ thậm chí là Nhật Bản. Nếu như những quốc gia trên trú quân ở Vịnh Cam Ranh, đối đầu với thế cục Nam Hải, các đảo Nam Sa cùng các tuyến hàng hải tạo thành sứ uy hiếp to lớn. Nhưng nếu như nước ta tại Lào, Cam đứng vững, lấy chiến lược thông đạo hỗ trợ, tức thì có đủ lực giao chiến với Việt Nam và nước đồn trú nào đó trong tương lai, làm cho những uy hiếp trở khó khăn đối với nước ta, bảo vệ sự cân bằng chiến lược.
(Còn tiếp 1 kỳ)

Thứ Năm, 21 tháng 4, 2011

Thái độ hiếu chiến trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc là cưỡi trên lưng hổ

Chủ blog tôi đã đọc khá nhiều bài viết về chủ đề Biển Đông nhưng thấy "tâm đắc" với bài viết dưới đây  (không phải vì "thiên vị" hoặc định kiến nào). Do đó xin mạn phép post lại bài viết lên blog của mình để vừa làm dữ liệu cá nhân vừa có thêm người đọc.
"Thông điệp" chính của bài viết là: Những gì TQ  đang thực thi tại Biển Đông là xuất phát từ một chính sách sai lầm của gới lãnh đạo hiện nay của nước này. Dĩ nhiên với một nước lớn dù "làm đúng"  hay "làm sai" đều nguy hiểm như nhau. Nhưng trong trường hợp Biển Đông, thông điệp này cho thấy TQ không hoàn toàn "mạnh" trong tương quan so sánh lực lượng khu vực. Những hệ lụy của chính sách sai lầm như vậy chắc chắn sẽ sớm muộn buộc TQ phải thay đổi (và có thể họ đang thay đổi....) 
Hy vọng đây là một góc nhìn khách quan và thực tế hơn về nhân tố TQ trong vấn đề tranh chấp Biển Đông.    
                                                                            (Tác giả: Daniel Blumenthal viết ngày 15-04-2010)
Vì sao chính sách đối ngoại của Trung Quốc hiếu chiến hơn trong ba năm qua? Vì sao Trung Quốc xóa bỏ chính sách ngoại giao láng giềng tốt đúng đắn ở châu Á cả thập kỷ? Thực tế vấn đề được hiểu khá rõ. Trong khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc tuyên bố Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” (một thuật ngữ trước đây chỉ dành cho Đài Loan và Tây Tạng), về bản chất để xác định vùng biển là lãnh thổ của Trung Quốc. Để nhấn mạnh quan điểm, Trung Quốc quấy nhiễu ngư dân Việt Nam (1) gần các đảo tranh chấp trên biển.  
Trong vùng Đông Bắc Á, Trung Quốc không thể lên án (2) đồng minh Bắc Hàn của mình (3) về việc Bình Nhưỡng cố tình giết hại các binh sĩ Nam Hàn và dân thường trong hai trường hợp riêng biệt hồi năm ngoái. Trung Quốc đã gây sự với Nhật Bản (4). Sau khi Tokyo đồng ý yêu cầu của Bắc Kinh phóng thích thuyền trưởng tàu đánh cá Trung Quốc đã bị bắt vì đâm vào tàu ​​Nhật Bản ở vùng biển tranh chấp, Trung Quốc đình chỉ quan hệ ngoại giao, yêu cầu một lời xin lỗi, và ngưng việc bán đất hiếm cho Tokyo.
Và cuối cùng là sự đối xử tệ bạc của Trung Quốc đối với Tổng thống Mỹ Obama trong chuyến thăm Trung Quốc của ông hồi tháng 11 năm 2009. Nếu từng có một tổng thống nhậm chức với một bàn tay chìa ra cho Bắc Kinh, thì đó là Obama. Ngoại trưởng của ông đã giảm nhẹ vấn đề Trung Quốc vi phạm nhân quyền (5). Obama đã trì hoãn cả cuộc họp với Đức Đạt Lai Lạt Ma (6) – một vấn đề chuẩn mực trong chính sách ngoại giao của Mỹ – và bán nửa phần còn lại trong gói vũ khí rất cần thiết mà Tổng thống Bush đã hứa bán cho Đài Loan.
Trong chuyến viếng thăm đầu tiên của Obama đến Trung Quốc, Bắc Kinh đã không giữ lời hứa về những thỏa thuận (7) cho phép các bài phát biểu của tổng thống phát trên truyền hình mà không bị kiểm duyệt, và để cho vị tổng thống mới trở về Washington mà không hoàn thành bất cứ điều gì trong chương trình nghị sự của mình (8), từ các cuộc đàm phán về biến đổi khí hậu cho đến vấn đề thao túng tiền tệ của Bắc Kinh.   
Những lời giải thích cho sự thô lỗ mang tính quốc tế của Trung Quốc là một kế hoạch ba phần về trò láu cá: sức mạnh quân sự lớn hơn kết hợp với lãnh đạo yếu kém và chủ nghĩa dân tộc bài ngoại mà lãnh đạo Trung Quốc đã tạo ra (tôi bỏ qua quan điểm của một số người ở Trung Quốc cho rằng Mỹ tương đối suy sụp, bởi đây có thể là suy nghĩ nhất thời).
Sức mạnh quân sự lớn hơn
Trung Quốc hiện có quân đội đủ khả năng bắt nạt các nước láng giềng của mình. Họ phô trương sức mạnh hàng hải trên biển Đông, nghĩa là với mục đích đe dọa các nước yếu hơn. Thật vậy, ngay khi dấu hiệu đầu tiên về sự phản kháng của người Việt Nam đối với các tuyên bố của Trung Quốc, báo chí Trung Quốc chính thức cảnh cáo (9) các nước Đông Nam Á không nên quá gần với Hoa Kỳ. Và bỏ ra một trang trong chiến lược của mình để đe dọa Đài Loan, Quân đội Trung Quốc đã chuyển một lượng tên lửa tầm ngắn gây chết người của mình (10) đặt vào đúng nơi để đưa Việt Nam trở về đúng vị trí. Cho rằng Trung Quốc tấn công Việt Nam hồi năm 1979 do bị chọc tức vì sự can đảm của Hà Nội, khi Trung Quốc giơ nắm đấm vào Hà Nội, tất cả các bên quan tâm.  
Chính sách mới của Trung Quốc khoe khoang thay vì che giấu khả năng quân sự lớn mạnh được họ phô bày khi Bộ trưởng Quốc phòng Gates đến thăm Trung Quốc đầu năm nay. Để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm của ông, Quân Giải phóng Nhân dân [Trung Quốc] rõ ràng đã chứng tỏ khả năng tên lửa đạn đạo chống tàu bè, dẫn đến việc chỉ huy Bộ Tư lệnh đặc trách Thái Bình Dương (PACOM), đô đốc Willard khẳng định rằng, tên lửa này đã đạt “khả năng hoạt động ban đầu” (11). Rõ ràng, các nhà lãnh đạo Trung Quốc xem chuyến thăm của ông Gates là thời điểm thích hợp để phô trương máy bay chiến đấu mới, J-20 của họ (12), một loại máy bay chắc chắn có khả năng tàng hình. Tóm lại, Trung Quốc mạnh hơn và đang sử dụng sức mạnh đó để theo đuổi lợi ích quốc gia của họ.   
Lãnh đạo yếu kém
Ông Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo chứng tỏ là những nhà lãnh đạo yếu kém, không có khả năng ra quyết định cứng rắn về cải cách kinh tế và không làm cho các Ủy viên Bộ chính trị làm theo chính sách của Đặng Tiểu Bình về “ẩn mình chờ thời” (tức là, cho phép Trung Quốc phát triển mạnh mẽ mà không khiêu khích, gây ra một liên minh đối kháng do lo ngại sức mạnh của Trung Quốc). Nhưng đó không chỉ là vấn đề lãnh đạo yếu kém, mà là hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Không ai còn sót lại ở Trung Quốc có chính nghĩa cách mạng như ông Đặng hoặc có chính nghĩa mà không cần ông ta (như ông ta đã làm với Giang Trạch Dân), và do đó nhà nước độc đảng hiện được điều khiển bởi sự đồng thuận – dường như không có ủy viên nào trong Bộ Chính trị có nhiều quyền hơn hoặc hợp pháp hơn người nào. Các quyết định có vẻ chao đảo từ những người hoàn toàn không dám chấp nhận rủi ro (ví dụ như Bắc Triều Tiên và cải cách kinh tế) đối với những người đã bị lèo lái bởi chủ nghĩa dân tộc gây phiền toái, điều khiển bởi “các cư dân mạng” và giới tinh hoa (ví dụ, các vấn đề về biển Đông và Nhật Bản được mô tả ở trên). Do hệ thống lãnh đạo yếu kém, Quân đội Trung Quốc có khuynh hướng ủng hộ chính sách đối ngoại diều hâu hơn, có tiếng nói mạnh mẽ trong việc ra quyết định như các đảng viên quan tâm đến cải cách kinh tế.  
Chủ nghĩa dân tộc 
Nhiều nhà quan sát Trung Quốc đã nhận diện chủ nghĩa dân tộc thường được biểu lộ bởi những người sử dụng internet và trí thức Trung Quốc, là một kênh điều khiển chính trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Nhiều người không nhận ra rằng, chính Trung Quốc đang tự cưỡi trên lưng hổ. Kể từ vụ thảm sát Thiên An Môn năm 1989, Đảng đã tham gia vào một chiến dịch “giáo dục lòng yêu nước” có quy mô lớn, nhấn mạnh uy thế văn minh Trung Quốc cũng như nỗi nhục trong tay các cường quốc như Nhật Bản và Hoa Kỳ.
Nói chuyện với các công dân Trung Quốc ở độ tuổi 20-30, bạn có thể nghe về kế hoạch của Mỹ – Nhật làm cho Trung Quốc suy yếu và chia cắt Đài Loan, Tây Tạng và Tân Cương của Trung Quốc, và về vị trí tự nhiên của Trung Quốc đứng đầu trong hệ thống quyền lực ở châu Á. Đây là những người Trung Quốc được học hành ở phương Tây, mà chính sách của Mỹ đã xem họ như những người có thể mang lại tự do cho nước Cộng hòa Nhân dân [Trung Hoa]. Nhiều người Trung Quốc trẻ tuổi chưa bao giờ nghe nói về cuộc thảm sát Thiên An Môn, xem tất cả chính sách của Mỹ là một nỗ lực nhằm ngăn chặn Trung Quốc (gồm cả cuộc chiến ở Afghanistan), tin rằng nền dân chủ Đài Loan là một ví dụ về sự hỗn loạn chính trị và bực bội với những người Tây Tạng (nhiều người trong số họ đã bị giết hoặc bị cầm tù trong một chiến dịch đàn áp kéo dài ba năm, không được báo cáo đầy đủ) không hiểu rõ giá trị việc Bắc Kinh thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Tây Tạng.  
Nếu nhiều người thuộc giới tinh hoa của Trung Quốc che giấu những quan điểm như thế về thế giới, một người có thể tưởng tượng “những kẻ thất bại” khi tin vào những năm bị bóp méo về tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc là gì. Và còn hàng chục triệu đàn ông dư thừa trong chính sách một con của Trung Quốc và ưu tiên chọn con trai thì sao? Họ sẽ là những người ở dưới đáy của tầng lớp kinh tế, xã hội Trung Quốc, không thể kết hôn và sẵn sàng cho cách hành xử bạo lực và tình trạng lộn xộn.
Sự thật là Trung Quốc phải đối mặt nhiều hơn với ý kiến ​​công chúng mà họ đã từng đối mặt, nhưng điều đó tạo ra không khí chủ nghĩa dân tộc phiền toái mà hiện nay hạn chế hoặc thậm chí điều khiển cả chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Điều này không có nghĩa muốn nói rằng, không có những người tự do ở Trung Quốc, những người muốn cải cách kinh tế hoặc những người muốn Trung Quốc hoàn toàn nắm lấy quyền tự do tại Trung quốc và ngoài quốc tế. Thực tế cũng có, nhưng những người muốn cải cách kinh tế thì cúi đầu xuống để kiếm tiền và những người muốn hoàn toàn tự do thì không làm được gì nhiều từ các xà lim trong tù.
Sự kết hợp giữa sức mạnh quân sự nhiều hơn, lãnh đạo yếu kém, và chủ nghĩa dân tộc phiền toái là những vấn đề mang tính hệ thống. Ba điều này có thể sẽ là một phần trong bối cảnh chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong một thời gian. Trung Quốc đã gieo những hạt giống cho mỗi kế hoạch hàng thập kỷ trước, bằng cách đầu tư vào khả năng quân sự gượng ép, trì hoãn cải cách chính trị, và bằng cách “giáo dục” người dân của họ qua cách tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Bây giờ cả thế giới đang gặt hái những gì mà Đặng Tiểu Bình đã gieo./.
Người dịch: Ngọc Thu
Ghi chú:


Thứ Tư, 20 tháng 4, 2011

Lời cảnh báo muộn mằn

Qúa trình hội nhâp quốc tế của nước ta đã trãi qua 20 năm rồi ...nhưng giới doanh nghiệp (tiêu biểu là các "anh cả đỏ" như VietnamAirlines, Vinashin ... vẫn thay nhau  bị "quả đắng" trong giao dịch quốc tế.
Theo VN express hôm nay   (Thứ sáu, 15/4/2011, 09:53 GMT+7) giờ đến lượt Vinalines ... 
Những lời cảnh báo muộn mằn phát ra từ nạn nhân nghe thật thảm thương!

Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) xác nhận bị giữ tàu do tranh chấp thương mại, phía Trung Quốc chỉ chịu thả tàu với khoản bồi thường 800.000 USD. Vinalines đã phát ra “cảnh báo” với các đơn vị trực thuộc cần lưu ý khi hoạt động ở vùng lãnh hải Trung Quốc.

Tàu Vinalines bị đối tác Trung Quốc giữ
Tàu Vinalines Global là tàu có trọng tải lớn nhất ở Việt Nam hiện nay. Ảnh: Vessel Tracker.
Tổng giám đốc Vinalines Nguyễn Cảnh Việt xác nhận tàu Vinalines Global này hiện bị giữ tại Trung Quốc do tranh chấp thương mại.
Vinalines Global là tàu hàng được Tổng công ty Hàng hải cho đối tác Ấn Độ thuê trọn gói theo hợp đồng định hạn. Theo Vinalines, đến cuối tháng 3, đối tác thuê tàu chưa trả tiền cước, do đó chi nhánh Vinalines TP HCM (đơn vị trực tiếp cho thuê tàu) đã ra thông báo giữ hàng lại trên tàu.
Tuy nhiên, toàn bộ hàng hóa trên tàu lại thuộc sở hữu của bên thứ 3, là chủ hàng Trung Quốc. Đối tác này đã trả tiền cước cho bên thuê lại tàu trước khi tàu cập cảng. Do đó, tòa án Trung Quốc cho rằng việc Vinalines giữ hàng là sai, phải bồi thường cho chủ hàng.
Mức phí được toàn án xác định là 800.000 USD và phía Trung Quốc sẽ giữ tàu trong thời gian chờ đợi Vinalines bồi thường. Trước đó, chủ hàng từng yêu cầu Vinalines bồi thường 1,8 triệu USD.
Thời hạn chót để thực hiện là ngày 15/4. Nếu Vinalines không bồi thường và chuyển tiền trong vòng 8 ngày thì toà án sẽ phát mại tàu.
Vinalines chưa cho biết tàu bị giữ từ hôm nào, chỉ thông báo tòa án Trung Quốc kết luận về vụ việc vào thứ 6 tuần trước, 8/4.
Vinalines Global là tàu hàng khô, có trọng tải lớn nhất Việt Nam (73.350 DWT) do chi nhánh Vinalines TP HCM quản lý và mới đưa vào khai thác từ năm 2008.
Liên quan đến tranh chấp thương mại này, Vinalines đã phát ra một “cảnh báo” với các đơn vị phụ thuộc của tổng công ty là cần lưu ý khi hoạt động ở vùng lãnh hải Trung Quốc, để tránh phải trả “học phí” quá đắt.
Ông Lê Đình Thanh, giám đốc chi nhánh Vinalines TP HCM cho biết Vinalines đang thương thuyết với chủ hàng Trung Quốc để giảm mức phí bồi thường.
Thu Hằng
 

Thứ Ba, 19 tháng 4, 2011

Blog để làm gì?

Không quá ồn ào…, nhưng mới đây cộng đồng mạng đã rất xôn xao trước sự kiện đóng cửa blog “Người thích làm toán”. Kể cũng lạ, như tôi đây đã mấy lần đóng/mở blog mà chẳng thấy ai nói gì (?) Hóa ra, thế giới ảo nhậy cảm và phức tạp hơn nhiều lần so với  thế giới thực!.
                                                   Ảnh minh họa: Mùa hoa cải

Còn nhớ trước thời  bùng nổ “công nghệ thông tin” các bác nhà văn, nhà báo kỳ cạch cả ngày mới được đôi trang . Viết là một chuyện. Còn phải tìm nhà xuất bản . Rồi chờ có khi hàng tuần, hàng tháng, hàng năm sau  mới được thấy “đứa con tinh thần” của mình đến với bạn đọc. Thời đó tác giả nào viết gì thì thiên hạ đều biết. Họ thuộc loại quý hiếm. Có lẽ vì thế mà  cũng rất dễ nỗi tiếng, và  cũng dễ “chết”!
Nhưng, giờ đây mọi thứ đều đảo lộn với cái gọi là “blog”. Cánh nhà văn, nhà báo chẳng may chưa bắt kịp,  có thể đứng trước nguy cơ bi đẩy ra ngoài gìòng chảy của văn chương và thời cuộc. Ngược lại có những kẻ “vô học” thì bổng chốc trở nên “nổi tiếng” (ít ra là trên cộng đồng mạng ảo)... miễn là họ biết “chơi internet”! Thôi thì “trăm hoa đua nở, trăm người đua thể hiện”…Và blog “mọc” lên còn hơn cả nấm!
Bên cạnh những blog chuyên về chính trị, thời cuộc hay văn thơ, nghệ thuật, hội họa v.v…còn  có những blog chỉ để  để up ảnh nude các loại; lại có những blog chỉ để hàng ngày “buôn dưa lê” v.v… Bên cạnh những blog nghiêm túc với trữ lượng nội dung "đồ sộ", có không ít những blog chỉ để làm sàn trình diễn của những kẻ phàm tục, chí phèo hễ hở mồm là chửi thề, chửi tục...Có lẽ đó là nơi để chửi mà không sợ bị đấm vỡ mõm! . Cũng không ít những blog mở ra chỉ một lần rồi bỏ đấy để trở thành những ngôi nhà hoang vô chủ.  Đa số blog đề nick thật cho mọi người biết, nhưng có không ít blog mạo danh, nặc danh, thậm chí giả danh khiến nhiều người bị oan….
Có thể nói, ngoài những mục đích nghiêm túc về văn chương, hội hoa hay  thời sự, chính trị..., nhìn chung  ít nhiều blogger nào cũng  có mục đích "xả stress". Tuy nhiên trên thực tế hậu quả  "mua stress" cũng rất nặng nề đầy bi hài .
Tóm lại, mục đích nào cũng có phần đạt được nhưng luôn đi kèm với  những "tác dung phụ" (side effects).Vì sao vậy? Trước hết vì bản thân mỗi blogger thường không tự chế ngự mình trong quá trình giao tiếp trên mạng ảo, nhiều khi vượt ra ngoài mục đích ban đầu của chính mình. Thứ đến là do sự tác động của các nội dung thông tin rất đa dạng, đa chiều, đa mục đích....từ các blogger khác. Đó cũng là lẽ thường tình, vì có thể nói, cho đến nay blog là một loại hình văn hoá mới và có sức lan toả nhanh nhất trong lịch sử nhân loại. Nó cho phép phản ánh một cách nhanh nhậy nhất, sâu rộng nhất và có lẽ cũng chân thật nhất  muôn mặt của xã hội đời thường, trong đó "cái tôi" được thoả sức vẫy vùng với cả  mặt hay, mặt tích cực lẫn mặt không hay... 
Nhưng do blog có những đặc tính riêng, đặc biệt là người viết không nhất thiết biết mặt nhau và có thể không bao giờ gặp mặt nhau, khiến người ta có thể nói thẳng, nói thật hoặc nói đối, nói khoác,  thậm chí nói tục hoặc chửi cho đã mồm...Có những blogger hễ online (mở mồm) là chửi… chửi như hát hay vậy(!), có thể vì do không biết viết hoặc nếu có viết thì e không lột tả đầy đủ và chính xác bằng chửi (?)
Xét về mặt chính trị-xã hội, có thể nói công nghệ  blog đã mở ra một thời đại mới cho việc thực thi quyền dân chủ, chính xác là quyền tự do ngôn luận. Thông qua phương tiện blog, mọi người ai cũng có thể nói lên quan điểm cá nhân trước mọi vấn đề, mọi lúc mọi nơi  ; tuy không hoàn toàn nhưng người ta cảm nhận đầy đủ hơn cái quyền được nói ra những gì mình muốn nói; và ít nhiều thấy mình được bình đẳng hơn chăng(?). Đó là mặt tốt chủ yếu của blog.
Nhưng cái gì cũng có ít nhất là hai mặt của nó. Phải chăng, với blog người viết dẽ tự cho phép mình trở nên “vô trách nhiệm” hơn trước cộng đồng nói chung? Ngoài ra tính chất “ảo” của blog vừa là chất men say để sáng tạo nhưng cũng đồng thời là mầm mống của tính cách ngông cuồng hoặc lối sống vị kỷ, thậm chí là mảnh đất mầu mỡ cho chủ nghĩa vô chính phủ (anarchism).
Có lẽ những ai đã từng “chơi blog” trong một thời gian đủ dài đều có thể chia sẻ ít nhiều với những suy nghĩ trên đây. Bản thân tôi đã đôi lần cảm thấy “lưỡng lự” không biết có nên tiếp tục duy trì blog  hay không. Nhưng rồi tôi  tự “điều tiết” bản thân rằng, tốt nhất là hãy sử dụng blog của mình như một kho lưu trữ dữ liệu (bài viết, hình ảnh, âm nhạc, sáng tác...của bản thân và của người khác) và coi nó như một "kênh" trao đổi thông tin chủ yếu với bạn bè, một phần nào đó với cộng đồng nói chung. Để giảm thiểu những "tác dụng phụ", tốt nhất  là không (hoặc hạn chế) ghé thăm những trang blog mà mình đã từng biết nhưng rốt cuộc vẫn cảm thấy khó đồng cảm. Đồng thời cũng không nên cố ý áp đặt tư tưởng, sở thích của cá nhân mình đối với người khác.
Nhân đây cũng xin lạm bàn một chút về truờng hợp đóng cửa blog “Người thích làm toán”-sự kiện đang làm xôn xao dư luận  kèm theo với những lời khen, chê rất kịch tính. Riêng tôi cho rằng nguyên nhân chính có lẽ do Gs Ngô Bảo Châu đã sử dụng bản năng lô-gíc toán học vốn rất nhậy bén của ông trong việc đi tới quyết định đóng blog nói trên. Đó là phép tính của những điều lợi và hại đối với cuộc sống và sự nghiệp lâu dài của ông trong một môi trường không gian và thời gian cụ thể vừa qua. Đó cũng là một cách bày tỏ thái độ dứt khoát trước tình trạng lạm dụng blog của một bộ phận cộng đồng mang.    

Chắc chắn còn quá sớm để tổng kết mọi vấn đề liên quan đến blog. Nhưng cũng đã hơi muộn nếu không bàn về lĩnh vực thông tin đặc biệt này. Do đó tôi chỉ muốn nêu lên một vài suy nghĩ tản mạn tức thời để chia sẻ cùng mọi người thôi./.


Thứ Ba, 12 tháng 4, 2011

Viết nhân ngày giỗ Tổ Hùng Vương


Những ngày này cả nước rộn ràng không khí Giỗ Tổ  Hùng Vương. Bên cạnh hàng loạt các lễ hội còn có nhiều hoạt động chính trị-xã hội , đặc biệt cuối tháng 3 vừa rồi đã hoàn tất bộ hồ sơ gửi UNESCO đề nghị công nhận tín ngưỡng thờ Hùng Vương là di sản thế giới.  Tuy nhiên, những gì tôi sắp nói dưới đây không phải là bàn về ý nghĩa hoặc cách thức tiến hành sự kiện này mà là một vài suy nghĩ về sự thật lịch sử liên quan đến Đền Hùng nói riêng  và cội nguồn dân tộc Việt Nam nói chung.

Có thể nói đã từ lâu, nhất là trong mấy chục năm lại đây  Đền Hùng đã đi sâu vào tiềm thức nhân dân ta như một biểu tượng thiêng liêng của nguồn cội tổ tiên.  Nó phản ánh nhu cầu tâm linh truyền thống thờ cúng tổ tiên  của Việt tộc, và không có gì phải bàn nếu không có những “góc khuất lịch sử” trong đó: Có thật không tại nơi đây Lạc Long Quân-Âu Cơ đã sinh ra  các Vua Hùng? Hay chỉ là nơi “thờ vọng” để tưởng nhớ tổ tiên  của 5.000 năm trước từ Hồ Động Đình lui về ?  

Do tò mò, tôi đã thử thăm dò ý kiến của một số người thuộc các thành phần và lứa tuổi khác nhau, hầu hết đều mặc nhận rằng  Đền Hùng là đất tổ của dân tộc. Tuy nhiên sau một hồi trao đổi thảo luận ai cũng cảm thấy “ngờ ngợ” về điều này. Nhưng rồi cái gì đã qua thì cho qua... Mọi người tự an ủi thế rồi không mấy băn khoăn, thắc mắc nữa.
Trước lòng tin của số đông, thú thật tôi đã nhiều lần e ngại không dám nêu lên cảm nghĩ  khác biệt . Nhưng rồi cũng phải nói ra, nhất là khi nhận thấy đang có một xu hướng "lãng quên" sự thật lịch sử vì nhiều lý do khác nhau. Không ít người thậm chí đang dẽ dãi tự cho phép mình từ bỏ quan điểm 5.000 năm lịch sử, thậm chí đùa cợt về truyền thuyết Âu Cơ-Lạc Long Quân và các Vua Hùng (!?).

Sự vô lý không chỉ thấy ở trường hợp Đền Hùng mà còn thấy  ở những di tích khác.  Đền Gióng thờ một vị anh hùng chống giặc Ân”, tức là Nhà Thương (1766-1122 TCN) một triều đại tiền sử của Trung Quốc lúc đó chỉ mới đủ mạnh để vượt qua bờ Nam sông Dương Tử thì làm sao  đủ sức để xuống tận vùng Bắc Ninh ngày nay(?) Nếu nói rằng nước Việt cổ chỉ ở lưu vực sông Hồng thì cớ sao Hai Bà Trưng đánh giặc bên Lưỡng Quảng? Rồi sau này Vua Quang Trung cũng nguyện đòi lại Lưỡng Quảng?  Tương tự cũng có những điều  phi lô-gíc liên quan đến vai trò của Triệu Đà, câu chuyện Thành Cổ Loa và chiếc Nõ Thần. Nếu Nam Việt không thuộc Việt Nam thì cớ sao Hưng Đạo Vương đã từng coi Triệu Đà là là "bậc tiền bối" của dân tộc?  Đó cũng là trường hợp của các vị vua chúa có “nguồn gốc Hoa” trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước của Việt Nam . Tất cả không chỉ truyền thuyết mà cả sử liệu và nhân chứng vật chứng vẫn còn đó. 


Thực tế nữa là Đền Hùng và các di tích lịch sử trên đất nước Việt Nam ngày nay  đều chỉ có khá muộn sau thời kỳ Bắc thuộc. Dân tộc bao giờ cũng  ra đời trước quốc gia, và quốc gia của người Việt cổ xưa (thời các Vua Hùng) và nước Việt Nam sau này đã bị gián đoạn bởi 1.000 năm Bắc thuộc - một thời gian đủ dài để  nhiều quốc gia dân tộc có thể “biến mất”!. Vậy nên những sự thật lịch sử bị mai một, thậm chí bị xuyên tạc, tráo đổi trong quá trình thống trị của ngoại bang là điều hoàn toàn có thể; chỉ có truyền thuyết được truyền miệng mới có thể trường tồn. Và trên thế giới lịch sử của nhiều dân tộc khác cũng đều căn cứ vào truyền thuyết mà không nhất thiết phải chứng minh bằng chứng cứ có thật. Cái may của Việt Nam là dân tộc vẫn còn thì việc tìm lại cội nguồn là hoàn toàn có thể. Về để tìm đúng nguồn cội, ngoài những dấu vết dưới chân mình còn phải tìm từ những dấu vết đãđi qua. Vấn đề không phải là thiếu cơ sở sử liệu và khảo cổ mà là thiếu ý chí  để nhìn nhận sự thật lịch sử một cách khách quan.  
  
Thiết nghĩ, “tìm lại chính mình” không chỉ là nguyện vọng tâm linh mà còn là nghĩa vụ của toàn dân tộc, là nguồn động lực để dân tộc tiếp tục trường tồn và phát triển sánh vai với các dân tộc khác. Để làm được điều này trước hết không thể không giải mã những “góc khuất lịch sử” nhằm  khẳng định 2 khái niệm cơ bản dưới đây:        
Một là, khẳng định lại 5000 năm lịch sử từ thuở Hồng Bàng với cội nguồn từ núi Thái Sơn, Hồ Động Đình (nay thuộc Hồ Nam , TQ). Nói “khẳng định lại” là vì đang  có trào lưu lập luận rằng dân tộc ta chỉ có hơn 2000 năm lịch sử với cội nguồn là Châu thổ sông Hồng…Nếu lập luận này là đúng thì thử hỏi  họ đã “quẳng” ½ thời gian tiền sử của họ Hùng đi đâu mất rồi? Hay chẳng lẽ ông cha ta đã bịa ra truyền thuyết Âu Cơ lạc Long quân?…Đây là một luận điểm không thể dẽ dãi bỏ qua hoặc thỏa hiệp.
Hai là, không nên chối bỏ thực thể dân tộc Viêt Nam (tiêu biểu là người Kinh) là kết quả của sự  pha chủng (hợp chủng)  giữa Hán tộc và Việt tộc (đa phần là LạcViệt,  Âu Việt)  trong quá trình "Nam tiến" của người Hán. Sau đó  trong quá trình mở mang bờ cõi xuống phía Nam của chính mình, người Việt  cũng "hợp chủng"  thêm cả với các sắc tộc bản địa như người Chàm, Khmer,... Nói cách khác nguồn gốc người Việt cũng tương tự người Hoa, chỉ khác ở chỗ người Hoa ở lại và bị người Hán đồng hóa thành nước Trung Hoa hiện đại, trong khi người Viêt lui dần về phía  Nam để bảo toàn bản sắc (chủ yếu là văn hóa) và hình thành nước Việt Nam ngày nay.

Thực ra cho đến nay đã có khá đầy đủ cơ sở lý luận và sử liệu cùng một số phát hiện mới nhất về khảo cổ, sinh học và gien di truyền để đi tới khẳng định hai nội dung nói trên. Điều này cũng phù hợp với tinh thần của các truyền thuyết. Làm được như vậy  là phản ánh thực tế lịch sử khách quan một cách có lợi cho dân tộc ta  mà không xâm hại lợi ích của dân tộc khác. Cũng cần hiểu rằng nhắc lại sự thật lịch sử về cội nguồn dân tộc và cương vực lãnh thổ hoàn toàn không có nghĩa là “để đòi lại” hay “phải trả lại”, mà chỉ là để hiểu biết đúng đắn về quá khứ, trên cơ sở đó phát huy đầy đủ các mối quan hệ tương đồng, tương tác giữa các quốc gia láng giềng nhằm cùng tồn tại và phát triển một cách hài hòa và bền vững.  Vậy tại sao không làm?  
                                                                               
                                                                                                 Hà Nội, mồng mười tháng ba Tân mão

Trần Kinh Nghị




Thứ Tư, 6 tháng 4, 2011

Hay quá! nhưng…. vẫn buồn!

Đang lúc buồn buồn …thì vớ được một entry trên nguyenuandien blogspot, trong đó trích đăng bài viết của tác giả Tống Văn Công. Thoạt thấy bài hơi dài nên định bụng đọc lướt cho nhanh…Nhưng càng đọc thấy càng phải đọc chậm lại vì bài viết như đang nói thay tâm trạng của mình. Đến cuối bài lại thấy lời bình của chủ blog nguyenuandien sao mà “trùng phùng” quá!

Có điều là, đọc xong vẫn thấy buồn...: Hình như đa phần những bài có tính chính luận hoặc phê phán (của ta) đều phải liên hệ, so sánh với người ngoài hay nước ngoài..., như thể nếu không thì sẽ không đủ sức thuyết phục (cả đối với bạn đọc lẫn những “người kiểm duyệt”). Vì sao vậy?      

Xin phép hai tác giả được trích đăng lại entry nói trên để có thêm nhiều người cùng đọc.  

 VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN

                                                                                  Tống Văn Công

Đọc Góc ảnh chiếu từ nước Nhật của nhạc sĩ Tuấn Khanh, dù đau lòng tôi cũng đồng tình với ông: " Đôi khi giữa những hoang tàn đó của nước Nhật, người ta bừng sáng hy vọng – và đôi khi sống giữa những điều được gọi tên là bình yên của đất nước mình, một người Việt Nam vẫn có thể cảm nhận được những ảnh chiếu sắc cạnh của sự hoang tàn". Đã có nhiều bài viết cho rằng nếu tai họa như nước Nhật xảy ra ở nước ta thì có thể hình dung nhiều điều xấu xa sẽ xảy ra bởi sự băng hoại đạo đức của người Việt. Mới đây, có ý kiến chỉ đạo báo chí: "Khi đề cao tinh thần vượt khó của nhân dân Nhật Bản không nên cường điệu, vô hình chung (trung) hạ thấp tinh thần của người Việt Nam". Cường điệu là điều không nên, tuy nhiên có cần phải lo lắng "vô hình trung hạ thấp tinh thần của người Việt Nam" ? Lổ Tấn chọn đơn thuốc AQ đắng nghét đã có hiệu quả chữa trị tinh thần bạc nhược của người Tàu. Sau này, nhà văn hóa Bá Dương tiếp tục mổ xẻ "Người Trung Quốc xấu xí" cũng được đồng bào ông cho là cần thiết.
Nhân chuyện này, tôi muốn chúng ta cùng nhớ rằng dân tộc ta vốn không phải xấu xa như hôm nay mà đã từng có những thời kỳ rất tốt đẹp . Hằng ngàn năm trước, ông cha ta có tư tưởng nhân văn vượt thời đại: "Thương người như thể thương thân". So với "Điều gì mình không muốn thì đừng gây ra cho người" của Khổng Tử quả là cao hơn. Con cái biết sánh: "Công cha như núi Thái sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Cha mẹ mong muốn "Con hơn cha là nhà có phúc" chứ không đòi hỏi "Phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu". "Thuận vợ đồng chồng tát bể Đông cũng cạn" chứ không phải "phu xướng phụ tùy "… Đối với hàng xóm thì "Tối lửa tắt đèn có nhau". Đối với đồng bào thì "Người trong một nước phải thương nhau cùng" v.v.
Những ai đã từng trải qua thời kháng chiến chống thực dân Pháp đều biết: Ở các vùng giải phóng, đêm nhà nhà không cài cửa. Nhân dân giành nhau đón mời bộ đội về nhà mình để chăm sóc nuôi dưỡng. Đơn vị tôi có anh Nguyễn Hoàng Minh là người Bắc, được các bà các mẹ bảo: "Tao thương nó hơn tụi bay. Nó xa cha xa mẹ vô đây". Trong lần nói chuyện với cán bộ miền Bắc sắp đi B (vào Nam),Tổng bí thư Lê Duẩn kể, thời chống Pháp, ông ở nhà dân và họ đều biết ông là Bí thư Trung ương cục. Mỗi lần ông đi công tác về gặp bữa cơm, ông bà chủ nhà hỏi: "Thằng Ba, mầy ăn cơm ở đâu chưa? Chưa, thì vô bếp lấy chén đũa ra ăn luôn nghe!".
Khi tập kết ra Bắc, đơn vị tôi đóng quân ở nhiều vùng.Tôi nhận ra là đồng bào mình ở miền Bắc cũng sống đầy tình nghĩa như trong Nam, dù vật chất có thiếu thốn hơn. Thời Mỹ ném bom phá hoại, nhân dân các vùng khu IV dám đem ván phảng nhà mình lót hố bom cho xe bộ đội kịp chuyến vào Nam. Các vùng bị B52 dội bom ác liệt như Khâm Thiên, Gia Lâm…, hoàn toàn không có hiện tượng hôi của. Xăng dầu, quân dụng rải dọc theo ven đường không cần canh giữ, cũng không bị trộm cắp…
Câu thành ngữ "Ra ngõ gặp anh hùng" mô tả chính xác con người Việt Nam trong suốt 30 chiến tranh. Toàn dân tin những người lãnh đạo đang dồng cam cộng khồ với mình vì "Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do". Do vậy mà được thế giới nhìn vào,ca ngợi "Việt Nam là lương tâm của nhân loại"!
Tại sao người Nhật thảm bại trong chiến tranh, đã có thể vươn dậy làm nên sự "thần kỳ Nhật Bản". Còn ta thì ngược lại từ "ra ngõ gặp anh hùng" đến tình trạng "Đến chỗ nào cũng thấy ăn cắp"! Có lẽ xem xét hiện tượng trái ngược này sẽ giúp chúng ta thu được nhiều điều bổ ích ?
Có người cho rằng, vì người Nhật tiếp tục những bài học từ thời Thiên Hoàng. Nói như vậy thì xa xôi quá! Tôi nghĩ, chỗ khác nhau giữa ta và họ là cách rút ra bài học sau chiến tranh, từ đó mà tìm đúng con đường đi tới.
Người Nhật bại trận đã nhanh chóng nhận ra nguyên nhân thất bại của mình là đi ngược lại xu thế thời đại: Chủ nghĩa Sôvanh (Ph. Nicolas Chauvin), chủ nghĩa thực dân với mọi hình thức đã bị lịch sử phủ định .Người Nhật cũng nhanh chóng nhận ra, Mỹ là một quốc gia dân chủ, đề cao nhân quyền, họ tham gia lực lượng Đồng minh chỉ nhằm chống phe trục, chứ không có mưu toan chiếm Nhật làm thuộc địa. Từ nhận thức đó, dù vừa bị Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử đầu tiên, người Nhật không coi họ là kẻ thù mà tự nguyện giao kết là đồng minh chiến lược trong công cuộc phục hưng đất nước. Nhờ quan hệ này, người Nhật suốt thời gian dài không phải bỏ nhiều chi phí cho quốc phòng, tập trung mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, xã hội, trở thành tấm gương tốt đẹp nhiều mặt:
1 – Từ bỏ độc tài quân phiệt, xóa hệ thống chính trị phát xít, tôn trọng dân chủ, nhân quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập. Nhật Bản là nước quân chủ lập hiến, trong đó Thủ tướng nắm quyền cao nhất về quản lý quốc gia và chịu sự giám sát của Quốc hội hai viện, cùng Tòa án Hiến pháp nhằm ngăn chặn những quyết định vi hiến của Chính phủ. Thế giới coi Nhật là một nước có nền dân chủ đầy đủ, ưu việt vào bậc nhất.
2 – Chuyển đổi nền kinh tế phục vụ chiến tranh thành nền kinh tế dân sinh, nâng cao sức cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu. Từ hoang tàn người Nhật xây dựng nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Gần đây Trung Quốc tuyên bố đã chiếm vị tri nền kinh tế lớn thứ 2, nhưng mức thu nhập bình quân của người Trung Quốc còn thấp quá xa so với Nhật. Trong khi đó Nhật không có tình trạng cách biệt giàu nghèo khủng khiếp như Trung Quốc!
3 – Xây dựng nền văn hóa tiên tiến và bảo tồn bản sắc tốt đẹp của truyền thống Nhật Bản; một nền giáo dục hàng đầu thế giới về đào tạo những con người phát triển toàn diện. Nền văn hóa và giáo dục đó sản sinh 2 nhà văn đoạt giải Nobel văn học là Yasunari Kawabata, Kenzaburo Oe và nhiều văn tài khác như Kôbô Abê , Haruki Murakami. Trà đạo, hát ka-ra-o-kê, thơ Hai-ku, ẩm thực Nhật được thế giới hâm mộ.
Đặc biệt những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn cho nhân dân Việt Nam mà chúng ta chưa thực hiện được đã có thể nhìn thấy ở Nhật Bản như : "Chính quyền từ xã tới trung ương phải do nhân dân lập ra"; "Nếu Chính phủ làm hại dân thì nhân dân có quyền đuổi Chính phủ", "Cán bộ, đảng viên là người lãnh đạo và là đày tớ của nhân dân"… Mấy năm qua, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều vị Thủ tướng Nhật chỉ vì chưa thực hiện được một lời hứa náo đó đã phải từ chức, chứ chưa cần người dân đưa đơn kiện. Trong vụ động đất hiện nay, chúng ta thấy ông Thủ tướng Can vô cùng tất bật vẫn bị người dân Nhật phê phán đã chậm có mặt ở nơi bị tàn phá nặng nhất .
Tai họa vừa qua, phẩm chất con người Nhật Bản được nhân loại thán phục chính là kết quả của nền chính trị, kinh tế, văn hóa và giáo dục ưu việt của họ.
Hàng chục năm qua, Việt Nam chúng ta đã nhận được sự giúp đỡ hào hiệp của Nhật Bản.Hiện nay hàng vạn sinh viên và người xuất khẩu lao động Việt Nam đang học tập và lao động ở Nhật. Nhiều nhà lãnh đạo nước ta trân trọng đề cao mối quan hệ đối tác chiến lược Nhật – Việt. Chẳng lẽ chúng ta không biết trân trọng tìm học con đường đưa tới dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh theo kiểu Nhật? Tựu trung gồm 3 điểm vừa kể ở trên.
Chúng ta ra khỏi chiến tranh với tư thế người anh hùng chiến thắng siêu cường số 1 thế giới! Nguồn sức mạnh để chiến thắng, được chúng ta nhận định là từ "3 dòng thác cách mang" thế giới. " Chủ nghĩa Mác – Lênin bách chiến bách thắng muôn năm !" được chúng ta trương cao khắp đất nước như là một tuyên ngôn, là tổng kết chiến tranh và là ngọn cờ sẽ dẫn đường đi tới. Từ nhận định đó đưa tới đổi tên Đảng, đổi quốc hiệu, thực hiện chuyên chính vô sản, vạch ra đường lối tiến nhanh tiến mạnh ,tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó, trên bình diện quốc tế, chủ nghĩa xã hội đang lâm vào khủng hoảng, đã có nhiều dấu hiệu rạn vỡ. Rạn vỡ dễ thấy nhất là sự chống đối nhau điên cuồng, kể cả bằng vũ lực của hai nước lớn nhất là Liên Xô và Trung Quốc, cho thấy điều gọi là chủ nghĩa quốc tế vô sản không hề tồn tại! Mãi đến khi đã bị Trung Quốc phản bội tấn công, chúng ta vẫn kiên trì nhận định Mỹ là kẻ thù lâu dài, nguy hiểm, còn Trung Quốc chỉ là kẻ thù trực tiếp, bởi đang có một nhóm cầm quyền mang tư tưởng bá quyền bành trướng. Do nhận định như vậy, ngay sau khi Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, Tổng bí thư Nguyễn văn Linh vội vàng sang cầu hòa với Trung Quốc trong thế yếu, ca ngợi "16 chữ vàng", trong thực tế đau buồn là đang bị chiếm đất, chiếm đảo, đưa tới nghịch cảnh mãi tận hôm nay! Để Trung Quốc có cớ xâm lược là không khôn khéo, tuy nhiên thỏa hiệp vô nguyên tắc và không biết tìm cách để chọn nhiều đồng minh chiến lược, đối trọng với họ giữ vững an ninh cũng là không biết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Khác hẳn chúng ta, người Mỹ nhanh chóng nhận ra thất bại của họ trong cuộc chiến là đã không hiểu được sức mạnh từ chủ nghĩa yêu nước của người Việt (Hồi ký của nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Macnamara). Họ muốn sớm lập quan hệ với chúng ta, nhưng trớ trêu thay chúng ta không vượt qua nổi mối thù! Chúng ta không hiểu đúng sức mạnh quyết định chiến thắng của mình chính là được khơi dậy từ lời kêu gọi chính xác của Hồ Chí Minh:"Không có gì quý hơn Độc lập Tự do"! Hiện tượng hàng triệu quân chế độ Sài Gòn dễ dàng tan rã, chắc chắn không phải vì họ hèn kém bởi họ cũng là con Lạc, cháu Hồng, chắc rằng họ rã ngũ vì không thấy mình đối địch với cộng sản, mà đối địch với Độc lập Tự do! Ông Lê Duẩn cho rằng phải "giương cao 2 ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội" , trong tình thế bấy giờ là đúng, bởi vì cần phải có vũ khí của Liên Xô,Trung quốc. Tuy nhiên, "ngọn cờ xã hội chủ nghĩa" mặt khác đã làm cho sự quyết đấu vì ý thức hệ giữa Tự do và Cộng sản của Pháp, Mỹ càng thêm quyết liệt. Nói như vậy, không hề có ý giảm nhẹ trách nhiệm của Pháp và Mỹ. Cho đến khi đã bị sa lầy trong cuộc tái chiếm thuộc địa, phải tìm giải pháp Bảo Đại, thế mà người Pháp vẫn làm cho "con ngựa cũ" của mình phải lồng lộn: "Hơn nữa, nếu chính phủ Pháp đoạn giao với "Bác Hồ" chính là bởi lý do sự đòi hỏi về độc lập và thống nhất của họ nhiều hơn lý do họ là cộng sản quốc tế" (Bảo Đại – Con Rồng Việt Nam, trang 334). Từ thời ấy, Mỹ đã gánh cho Pháp hơn 80% chiến phí. Chính thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã đẩy Cụ Hồ phải tìm chỗ dựa Trung quốc, Liên Xô .
Nếu tỉnh trí, nhìn đúng thế mạnh chiến thắng vừa qua của mình, chúng ta sẽ trở lại với Cụ Hồ khi trích Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp làm Tuyên ngôn độc lập Việt Nam, .mà vấn đề cốt lõi là Dân chủ và Nhân quyền. Nếu sớm nhận thức như vậy chúng ta ắt sẽ chủ đông thực hiện đường lối Đổi mới khi chưa bị tình thế thúc ép. Và như vậy sẽ là không có cải tạo xã hội chủ nghĩa công, nông, thương nghiệp; cũng không cần cải tạo cán binh Sài Gòn; sẽ không có nạn thuyền nhân. Toàn thế giới sẽ tiếp tục đứng bên Việt Nam như 30 năm qua. Trung Quốc không dễ lôi kéo Mỹ để gây cho chúng ta hai cuộc chiến thảm khốc. Với thế và lực mới ấy, chúng ta sẽ phát triển nhanh chóng, có thể chưa theo kịp Nhật Bản, nhưng chắc chắn không thể kém Hàn quốc, bởi họ còn bị trì kéó bởi một Bắc Triều Tiên. Tiếc thay!
Dù sao chúng ta cũng còn may mắn hơn Bắc Triều Tiên, Cu Ba, vì đã có những nhà lãnh đạo dám xé rào, Đổi mới, dù đã đến lúc bế tắc. Cuộc Đổi mới đã đem lại sức sống cho nền kinh tế Việt Nam mà thành tựu của nó đã được ca ngợi quá nhiều, thiết tưởng không cần phải nhắc lại. Riêng đối với Đảng Cộng sản thì cuộc Đổi mới đã đem lại thế mạnh nào và đào sâu thế yếu nào? Và nó đã tác động ra sao đối với phẩm chất con người Việt Nam? Đó là những vấn đề cực kỳ rộng lớn mà chúng tôi không có tham vọng giải đáp được, chỉ mong xới lên để các nhà lý luận của Đảng Cộng sản và các bậc thức giả trong ngoài nước cùng bàn.
Tôi nhớ, đầu những năm 90 ông Nguyễn Cao Kỳ trả lời câu hỏi: Vì sao vốn là người kiên quyết chống Cộng, ông lại kêu gọi hòa hợp dân tộc, về nước hợp tác với chính quyền cộng sản phát triển đất nước? Ông Kỳ đáp: Tôi nghĩ rằng ở Việt Nam không còn cộng sản. Bởi tôi hiểu công sản chủ trương chỉ còn một giai cấp và không chấp nhận kinh tế thị trường .Nay họ công nhận kinh tế nhiều thành phần giai cấp, phát triển thị trường tự do. Họ giống như những thày tu đã ngả mặn rồi mà vẫn cứ đòi gọi mình là thày tu. Ý kiến nôm na của ông Kỳ hoàn toàn phù hợp với lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin . Những nhà lý luận Mác xít của Việt Nam cứ khất lần khất lữa suốt 25 năm vẫn không thể tìm ra định nghĩa mới cho chủ nghĩa xã hội ngoài câu Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, 5 năm sau được bổ sung thêm từ Dân chủ đứng sau từ Công bằng, rồi phải mất 5 năm nữa từ Dân chủ mới được chuyển lên đứng trước Công bằng! Ôi, nguyện vọng dân chủ đã được Hồ Chí Minh khơi dậy, nhân dân ta đã tốn bao xương máu để giành lấy vậy mà sao thực hiện nó vất vả đến như vậy!
Những người mác xit đều biết lý thuyết về sự phù hợp giữa kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng. Trong lời tưạ Tuyên ngôn đảng cộng sản in bằng tiếng Đức ngày 28-6-1883, Ăng-ghen viết: "Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội – cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra – cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy ". Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam hiểu rõ lời dạy đó, nên đã nhiều lần nhắc lại rằng phải Đổi mới toàn diện từ kinh tế đến chính trị, văn hóa, xã hội. Văn kiện Đại hội 11 cũng nhắc "Đổi mới trong lĩnh vực chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế". Tuynhiên cho tới nay hệ thống chính trị hầu như không có thay đổi gì đáng kể so với 25 năm trước. Cuộc bầu cử Quốc hội đang xúc tiến từ cung cách đến nội dung chỉ đạo cũng na ná như xưa. Về tỉ lệ đảng viên trong Quốc hội, ông Võ văn Kiệt cho rằng chỉ nên hơn 50%, khóa 12 là 92%, khóa này được nêu ra là từ 85 đến 90% . Ông Võ văn Kiệt cũng đề nghị "Về cơ bản đã làm đại biểu Quốc hội thì thôi không làm quan chức hành chính nữa". Nhưng khóa này quan chức hành chính ứng cử vẫn đông!
Do cơ cấu xã hội không phù hợp sản xuất kinh tế như Ăng-ghen nêu ra mà đã xảy ra những điều tréo ngoe giữa thực tế cuộc sống với lý thuyết từ các nghị quyết. Có thể nêu ra hàng chục dẫn chứng, nhưng chỉ xin nêu hai điều đang trở thành hiểm họa cho Dân tộc và cho cả Đảng cộng sản :
1 – Trong khi chúng ta dành những lời thân thiết nhất cho các quốc gia Đảng cộng sản lãnh đạo, cho cánh tả, coi sức mạnh thời đại ta cần phải kết hợp là ở đó thì thực tế là chúng ta phải dựa vào sự giúp đỡ lớn nhất ở các nước tư bản tiên tiến như Nhật, Hàn Quốc… những đồng minh chiến lược của Mỹ. Trớ trêu hơn là Trung Quốc, người đồng chí có chung16 chữ vàng, chung mục tiêu 4 tốt, chung quan điểm trong nhiều sự kiện lớn của thế giới (như Bắc Phi, Libi…) và chính sách đối nội (như dân chủ, nhân quyền; bên kia thì có Lưu Hiểu Ba, bên này là Cù Huy Hà Vũ). Dù chúng ta đã cố sức chiều theo họ rất nhiều vấn đề khó chiều như: Họ đóng cửa các công trình khai thác bôxít ở nước họ, để sang khai thác bôxit trên "mái nhà" của nước ta và cả Đông Dương. Mới hôm qua, họ xả nước bẩn làm ô nhiễm Sông Hồng, nhưng chính quyền Vân Nam thẳng thừng từ chối đề nghị khẩn thiết của Lào Cai cùng phối hợp nhau để kiểm tra!
Càng trớ trêu thay, hầu như tháng nào người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng phải lắp đi lắp lại một lời tuyên bố giống nhau: "Trung Quốc cần chấm dứt ngay sự vi phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam"!
2 – Hệ thống chính tri của chúng ta luôn luôn được đề cao về sứ mệnh cao cả là đang lãnh đạo toàn dân tộc theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài người, nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó suốt 20 năm nay, những người điều hành hệ thống chính trị này luôn luôn bị các cơ quan chuyên môn của quốc tế xếp vào "tốp 10" đại tham nhũng. Tham nhũng Việt Nam đứng trên hơn 150 quốc gia tư bản, bộ máy điều hành của họ chắc chắn không có đảng viên cộng sản nào! Năm 2006, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh nhận định "Tham nhũng là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ"..Đầu năm 2011, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cho rằng chống tham nhũng là "mong mỏi rất chính đáng và tha thiết của những người dân. Nhưng cho đến hôm nay tôi tự thấy nhiệm vụ đó tôi làm chưa xong " (Báo xuân Sài Gòn tiếp thị).
Ngày nay người dân nhìn đâu cũng thấy những người đảng viên cán bộ lúc nào cũng nói về giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng, về học tập và làm theo đạo đức Bác Hồ, về quyết tâm đi lên chủ nghĩa xã hội, trong khi đó họ chẳng những có mức sống cao hơn hẳn người dân mà có quá nhiều người nhà cao cửa rộng, con cái làm chủ những công ty tư nhân có vốn nhiều triệu đô la. Hơn 3.000 cuộc đình công của công nhân không qua sự chỉ đạo của Công đoàn, hiện tương nông dân khiếu kiện vượt cấp vùng nào cũng có, đã nói lên tâm trạng xã hội không yên ổn!
Từ ngàn xưa, người dân vẫn nhìn vào người cầm quyền để noi theo gương trong cuộc sống. Cổ đại có gương Nghiêu, Thuấn thuần dưỡng cả nước trở thành lương dân. Quá nhiều người dân hư hỏng người lãnh đạo phải soi lại mình.
Chúng ta kêu gọi toàn Đảng thống nhất nói theo Nghị quyết, làm theo Nghị quyết và các cơ quan truyền thông phải tuyên truyền đúng định hướng, để tạo ra sự đồng thuận trong toàn dân. Hãy nhớ lại, Cụ Hồ đâu có nhiều lời, chỉ cần một câu thôi, đã khiến cả nước đứng dậy đi theo dù con đường vô cùng gian khổ.
Hai năm qua có quá nhiều điều dù Đảng có Nghị quyết, báo chí tuyên truyền theo định hướng, nhưng không dễ tạo ra được đồng thuận, Ví dụ:
Chủ trương hợp tác với Trung Quốc khai thác bôxít, đã có hàng ngàn chữ ký kiến nghị dừng lại, có những chữ ký của các vị đáng kính như Đại tướng Võ Nguyên Giáp; nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình; người anh hùng có nụ cười công phá chế độ Sài Gòn Võ thị Thắng; những nhà khoa học hàng đầu đất nước như Nguyễn văn Hiệu; Chu Hảo; Đặng Hùng Võ; Nguyễn Quang A…
Mới hôm qua đây là vụ án Cù Huy Hà Vũ. Dù anh ấy có văn phong không quen tai như lâu nay (như ông bà mình nói, trực [trung] ngôn nghịch nhĩ) , nhưng tất cả nội dung đều nằm trong quyền công dân mà ngày xưa, Bác Hồ từng khuyến khích và Hiến pháp hiện hành không cấm. Do vậy, mặc dù muốn làm cho vụ án trở thành bé nhỏ ,không quan trọng (các bản tin VTV tối 4 tháng 4 năm 2011 đều không xếp vào các tin quan trọng; phiên tòa gói gọn không hết một ngày). Nhưng tầm quan trọng của nó vẫn cứ lộ rõ, bởi: nhiều tướng lĩnh cách mạng, văn nghệ sĩ, bình luận viên báo chí trong và ngoài nước cho rằng Hà Vũ nói những điều nhiều người nghĩ như thế mà không nói; Giáo dân thắp nến cầu nguyện trước ngày tòa xử; và các ngả đường quanh tòa án có quá nhiều cảnh sát bảo vệ.
Nước Nhật không thể có những vụ án tương tự. Chúng ta có nên học tập Nhật Bản? Nên lắm chứ ! Tuy nhiên trước hết nên học tập Hồ Chí Minh, không chỉ học và làm theo đạo đức mà trước hết hãy học và thực hiện tư tưởng Tự do, Dân chủ của Người!
Ngày 5 tháng 4 năm 2011

Lời bình của Nguyễn Xuân Diện:
Bài viết này hay quá! Lời văn giản dị, cách nhìn điềm đạm, thấu đáo, chân thành. Một nhà cách mạng lão thành viết cho mọi người với lời lẽ ôn tồn, nhủ bảo, không lên gân mà ý và lời đi thẳng vào tim óc người đọc, đi vào từng mao mạch những ai mang dòng máu Lạc - Hồng. Tống tiên sinh tuổi đã cao mà không "lão giả an chi", lòng vẫn sắt son, chí vẫn trinh bền, tâm vẫn cầu thị, trí vẫn mẫn tiệp, lời vẫn thiết tha.
Phàm là người Việt Nam, bất kể trẻ già, sang hèn, trong ngoài, thân phận thế nào, cứ là người đọc được Tiếng Việt thì nên đọc bài này. Ai đã đọc bài này, nếu gặp những người không biết chữ thì nên gia tâm đọc cho họ nghe bài này, để cùng nhau chia sẻ với Tống tiên sinh.
Các nhà lãnh đạo càng nên đọc bài này, để trau giồi thêm cho mình, - nghe nói là người Cộng sản phải trau mình đến tận lúc tàn hơi (như Bác Hồ mong muốn) - để từ đó, trên cương vị công tác của mình gắng từ việc nhỏ đến việc to, gắng từ việc dễ đến việc khó, vượt qua bản thân mình, góp phần đưa nước mình tiến lên cõi "xuân đài thọ vực". Kính vậy thay! Mong vậy thay!

*Ghi chú: Chư vị coppy hình đôi chim ra màn hình máy tính. Đôi chim này sẽ bay lượn bên nhau và mớm mồi cho nhau, hình một trái tim hồng xuất hiện - biểu tượng của tình yêu nồng nàn, trao gửi.

--------------
*****

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này