Đây là tên của một bài viết của tác giả  Nguyễn Đại Việt đăng tại Nguyễn Thái Học Foundation   http://www.nguyenthaihocfoundation.org/lichsuVN/viet-lai-ten-Bach-Viet.htm 
Nhận thấy bài viết đề cập cùng chủ đề của blog Bách Việt và tập trung vào hai vấn đề lịch sử có nhiều khuất tất nhất và  dường như đang bị "quên lãng" bởi chính người Việt Nam, đó là a) nguồn gốc và mối quan hệ giữa dân tộc Việt Nam và Bách Việt nói chung (?); b) người Việt có chữ viết riêng hay không và tiếng Việt vay mượn tiếng Hán hay ngược lại (?), chủ blog tôi xin giới thiệu để cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho bạn đọc. Hy vọng tài liệu này  sẽ góp phần trả lời một số thắc mắc đồng thời  thúc đẩy hơn nữa công tác nghiên cứu lịch sử dân tộc ta theo hướng khách quan và tôn trọng  sự thật lịch sử dựa vào không chỉ sử sách cũ mà tất cả các nguồn dữ liệu mới trên cơ sở khoa học khảo cỗ và nhân chủng học hiện đại. Sự hiểu biết đúng đắn và đầy đủ về cội nguồn dân tộc sẽ giúp người Việt Nam thật sự thoát khỏi nỗi mặc cảm truyền kiếp và lấy lại tâm thế đáng có của mình.       
   
            
Viết lại tên Bách Việt
                                                                                   Tác giả: Nguyễn Đại Việt(*) Sau khi hợp lực đánh 
              đổ nhà Tần năm 206 trước Công Nguyên (TCN), Lưu Bang bất thần xé 
              bỏ hòa ước Hồng Câu xua quân bao vây Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ và 
              diệt nước Sở năm 202 TCN. Cùng năm đó, ông lên ngôi hoàng đế sáng 
              lập ra nhà Hán còn gọi là nhà Tiền Hán hay nhà Tây Hán. Về chữ viết, 
              Hán triều tiếp tục chính sách của Tần Thủy Hoàng trong việc sửa 
              đổi và tiêu chuẩn hóa một loại cổ ngữ thành một hệ thống chữ viết 
              gọi là Hán ngữ.
Sau khi hợp lực đánh 
              đổ nhà Tần năm 206 trước Công Nguyên (TCN), Lưu Bang bất thần xé 
              bỏ hòa ước Hồng Câu xua quân bao vây Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ và 
              diệt nước Sở năm 202 TCN. Cùng năm đó, ông lên ngôi hoàng đế sáng 
              lập ra nhà Hán còn gọi là nhà Tiền Hán hay nhà Tây Hán. Về chữ viết, 
              Hán triều tiếp tục chính sách của Tần Thủy Hoàng trong việc sửa 
              đổi và tiêu chuẩn hóa một loại cổ ngữ thành một hệ thống chữ viết 
              gọi là Hán ngữ.
Hình 1: Chữ "Việt" 
              (bên trái) viết theo lối chữ Triện thời Tây Hán. Chữ "tẩu" 
              (thứ hai từ trái sang phải) dùng để xác định ý nghĩa và chữ "người 
              cầm qua" (bên phải) dùng xác định cách phát âm. Chữ cuối phát 
              âm là "Việt" có hình tượng giống như một người cầm cái 
              qua (戈). Trong Hán ngữ chữ "qua" (戈) có nghĩa là "cái 
              mác" hoặc "chiến tranh". 
Trong khoảng từ năm 109 
              đến năm 91 TCN, Tư Mã Thiên, một sử gia nổi tiếng đời Tây Hán, dùng 
              Hán ngữ biên soạn bộ Sử Ký dài 130 tập, theo chú thích trong Đại 
              Việt Sử Ký Toàn Thư, ông là người đầu tiên viết hai chữ Bách Việt 
              trong tập Ngô Khởi Truyện của bộ Sử Ký nổi tiếng đó. "Bách 
              Việt" được dịch sang Hán ngữ hiện đại là 百 越.
Một bộ sử khác do Ban 
              Bưu khởi xướng, bộ Hán Thư (漢書) gồm 100 tập, cũng được soạn thảo 
              vào thời Tây Hán chép rằng:
“Trong vòng bảy 
              hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Hội Kế (Cối Kê), ở đâu cũng có 
              Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình.” 
Bách Việt mà hai bộ Sử 
              Ký và Hán Thư đề cập đến chính là chủ nhân của vùng đất rộng lớn, 
              bao trùm toàn cõi Hoa Nam và miền Bắc Việt Nam ngày nay; ngoại trừ 
              Lạc Việt (Việt Nam) các thị tộc Bách Việt khác đều bị Hán tộc tiêu 
              diệt, đồng hóa và chiếm đoạt hết lãnh thổ.
Theo Hán ngữ hiện đại, 
              tên các thị tộc của Bách Việt được viết là 於 越 (Ư Việt), 揚 越 (Dương 
              Việt), 閩 越 (Mân Việt), 南 越 (Nam Việt), 東 越 (Đông Việt), 山 越 (Sơn 
              Việt), 雒 越 (Lạc Việt), 甌 越 (Âu Việt), v.v…tất cả các tên đều gắn 
              liền với chữ 越, gọi là "chữ Việt bộ Tẩu". "Tẩu" 
              có nghĩa là "chạy" nhưng không hiểu vì sao sử gia Lê Văn 
              Hưu thời nhà Trần khi biên soạn quyển Đại Việt Sử Ký (大越史記) năm 
              1272 và sử gia Ngô Sĩ Liên, triều vua Lê Thánh Tông, khi viết quyển 
              Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (大越史記全) năm 1479, vẫn sử dụng chữ "Việt 
              bộ Tẩu" của nhà Tiền Hán.
Bài viết này gồm 2 phần. 
              Phần chính giới thiệu chữ "Việt" nguyên thủy của người 
              Việt cổ đồng thời chứng minh "chữ Việt bộ Tẩu" của nhà 
              Tây Hán là một bản dịch sai của chữ "Việt" đó. Phần còn 
              lại, phần phụ, trình bày một cái nhìn, một cảm nhận cá nhân về chữ 
              "Việt" của một vị vua sống trong thế kỷ thứ 5 TCN.
 CHỮ "VIỆT" 
              CỦA BÁCH VIỆT
Tại sao chủng tộc Bách 
              Việt lại tự nhận diện qua một cái tên không phản ảnh một chút sắc 
              thái nào của mình? Nguyên do nào khiến tên của một chủng tộc từng 
              làm chủ một lãnh thổ rộng lớn lại mang ý nghĩa bi quan như thế? 
              
Ngày nay, khi tìm hiểu 
              ý nghĩa chữ "Việt" giới nghiên cứu không tránh khỏi ngạc 
              nhiên và băn khoăn bởi những câu hỏi tương tự trên đây. Mặc dù có 
              những nổ lực bỏ ra nhằm khám phá những bí ẩn đàng sau chữ "Việt 
              bộ Tẩu", nhưng đến nay tuyệt nhiên vẫn chưa có một giải thích 
              thuyết phục nào được công nhận một cách rộng rãi. Sỡ dĩ có sự bế 
              tắc đó là vì họ đã nghiên cứu một cái tên sai. Quả vậy, chữ 越 hay 
              "Việt bộ tẩu" không phải là do người Việt cổ đặt ra, nó 
              chỉ là một phiên bản được các sử gia và học giả của triều đình Tây 
              Hán dùng Hán ngữ dịch từ chữ "Việt" nguyên thủy vốn đã 
              xuất hiện trước đó ít nhất là 300 năm.
Từ văn tự cổ đến trống 
              đồng và những cổ vật khai quật được đặc biệt là thanh gươm của vua 
              Câu Tiễn, chúng ta sẽ tìm câu trả lời chính xác cho câu hỏi Việt 
              là gì, nó sẽ giải tỏa nghi vấn kéo dài suốt hơn 2000 năm kể từ khi 
              Tư Mã Thiên dùng Hán ngữ đặt bút viết chữ " Việt bộ Tẩu" 
              (越) trong bộ Sử Ký của ông đến nay. Trong phần này các chữ "Việt" 
              thuộc thời đại đồ đồng sẽ được trình bày và phân tích. Kế đó, thành 
              phần cấu tạo của chúng sẽ được so sánh với thành phần cấu tạo của 
              chữ "Việt bộ Tẩu" và chữ "Việt bộ Kim".
1. Chữ "Việt" nguyên 
              thủy của người Việt cổ trong thời đại đồ đồng
Giáp Cốt văn là loại văn tự khắc chạm 
              trên mai rùa hay xương động vật. Chữ trên mai rùa gọi là Giáp văn 
              còn chữ trên xương những động vật khác gọi là Cốt văn. Chữ viết 
              khắc chạm trên đồng và kim loại gọi là văn tự thời đồ đồng. Cả hai 
              loại văn tự đều có từ đời nhà Thương và Giáp Cốt văn là loại văn 
              tự cổ xưa nhất. Triều đại nhà Thương xuất hiện trong khoảng từ năm 
              1600 đến 1046 TCN, kinh đô đóng tại đất Ân thuộc tỉnh Hà Nam, Trung 
              quốc ngày nay. Giặc Ân trong huyền sử Phù Đổng Thiên Vương của người 
              Việt chính là nhà Thương này. Hiện nay có hơn 4.000 chữ thuộc văn 
              tự thời đồ đồng được khai quật và trong đó một số chữ "Việt" 
              được ghi nhận. Xin lưu ý là các văn tự đồ đồng và Giáp Cốt văn dùng 
              trong tài liệu này đều được cung cấp từ chineseetomology.org, một 
              website về cổ ngữ rất phong phú và hữu ích của ông Richard Sears.
Sau đây là 5 chữ "Việt" 
              viết bằng loại "chữ chim", có nơi gọi là "chữ sâu 
              bọ và chim", một loại cổ ngữ rất phổ biến và thông dụng ở các 
              nước Sở, Việt, và Chu. 
a) Chữ "Việt" mang 
              ký hiệu B01747  

Hình 2: Một chữ "Việt" 
              trong thời đại đồ đồng
Nhận xét chữ mang ký hiệu B01747:
- Người đeo lông chim trên đầu và 
              thắt lưng. Từ đây về sau sẽ gọi là "Người Chim".
- Người Chim đứng với hai chân dang 
              rộng, tay cầm một cây gậy dựng đứng trên mặt 
              đất và trên thân gậy có 2 cái móc nhỏ.
- Chữ này chỉ có một thành phần là 
              chính nó.
- Niên đại: không rõ.
b) Chữ "Việt" mang 
              ký hiệu B01748  

Hình 3: Một chữ "Việt" 
              trong thời đại đồ đồng
Nhận xét chữ mang ký hiệu B01748:
- Thành phần bên phải là Người Chim.
- Tay Người Chim cầm một vật giống 
              như cái qua (mác).
- Người Chim trong tư thế của một 
              vũ điệu.
- Thành phần bên trái là ký tự gồm 
              một hình tròn nằm trên chữ mang hình tượng có đầu tròn to với một 
              cái đuôi. 
- Niên đại: không rõ.
c) Chữ "Việt" mang 
              ký hiệu B01750  
 
 
            
Hình 4: Một chữ "Việt" 
              trong thời đại đồ đồng
Nhận xét chữ mang ký hiệu B01750:
- Thành phần bên phải là Người Chim.
- Thành phần bên trái gồm một hình 
              tròn nằm trên ký tự có hình tượng giống thân rắn với 2 sừng.
- Niên đại: không rõ.
d) Chữ "Việt" mang 
              ký hiệu B01751  
 
 
            
Hình 5: Một chữ "Việt" 
              trong thời đại đồ đồng
Nhận xét chữ mang ký hiệu B01751:
- Thành phần bên phải là Người Chim 
              trong tư thế nhảy múa. 
- Người Chim không cầm qua hoặc binh 
              khí.
- Thành phần bên trái là một hình 
              tròn nằm trên một cái đầu có đuôi cong.
- Niên đại: không rõ.
e) Chữ "Việt" mang 
              ký hiệu B01749  

Hình 6: Một chữ "Việt" 
              trong thời đại đồ đồng
Nhận xét chữ mang ký hiệu B01749:
- Thành phần bên phải là Người Chim.
- Tay phải của của Người Chim cầm 
              một vật có hình dạng của một cái qua.
- Thành phần bên trái gồm một hình 
              tròn có chấm bên trong và nằm ngay trên ký tự có hình tượng uốn 
              lượn như thân rắn với một cái đầu to, miệng (hoặc 2 sừng) và mắt.
- Niên đại: 496 - 465 TCN. Đây là 
              chữ "Việt" được khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn 
              nước Việt (khác với Việt Nam).
Kết luận: 
              Khảo sát các chữ "Việt" trên đây chúng ta rút ra được 
              2 điểm quan trọng,
- Thứ nhất, chữ "Việt" nguyên 
              thủy của người Việt cổ có niên đại trong khoảng từ 496 đến 465 TCN, 
              nghĩa là chúng xuất hiện trước chữ "Việt bộ Tẩu" của nhà 
              Tiền Hán ít nhất 3 thế kỷ.
- Thứ hai, yếu tố chủ đạo 
              của các chữ "Việt" là "Người Chim". "Qua" 
              hay binh khí là yếu tố phụ.
2. Chữ "Nước" (Quốc 
              gia) trong thời đại đồ đồng
Theo định nghĩa của chữ 邑 (ấp), một 
              trong các ý nghĩa của nó là "nước" hay "quốc gia". 
              Ví dụ như "nước Chu" (邾: Chu quốc) hay "nước Hàn" 
              (邗: Hàn quốc) thời Xuân Thu và Chiến Quốc. 

Hình 7: Chữ "ấp" trong 
              thời đại đồ đồng. Chữ này có nghĩa là "nước", "quốc 
              gia", "kinh đô, "thành thị" hoặc là vùng đất 
              được vua ban cho.

Hình 8: "Chu quốc" nghĩa 
              là "nước Chu" theo cách viết trong thời đại đồ đồng (trái) 
              và thời chữ Triện (phải). 
Trong chữ "Chu quốc" nghĩa 
              là "nước Chu" (hình 8), chữ "nước" được đặt 
              sau chữ "Chu", khác với cách viết của người Việt là chữ 
              "nước" được đặt trước như trong các chữ "Việt" 
              của thời kỳ đồ đồng và cách viết hiện nay của người Việt Nam. Tương 
              tự, chữ "nước" được dùng trong chữ "Hàn quốc" 
              (nước Hàn) trong hình 9.

Hình 9: "Hàn quốc" nghĩa 
              là "nước Hàn" theo cách viết trong thời đại đồ đồng (trái) 
              và theo lối chữ Triện (phải). 
Hiện nay có tất cả 31 chữ "邑" (ấp) thuộc 
              thời kỳ đồ đồng (hình 7) được ghi nhận. 
3. Chữ "Tẩu" trong 
              thời đại đồ đồng
 Chữ 走 (Tẩu) là thành phần bên trái 
              của chữ 越, chữ "Việt bộ Tẩu", viết theo Hán ngữ hiện đại.

Hình 10: Chữ "Tẩu" (Hán 
              ngữ hiện đại: 走) trong thời kỳ đồ đồng.
So sánh chữ "nước" (hình 
              7) với chữ "tẩu" của thời kỳ đồ đồng (hình 10) thì hai 
              chữ này hoàn toàn khác nhau từ hình thức đến nội dung. Hơn nữa "nước" 
              là một danh từ còn "tẩu" là một động từ. Hiện có 17 chữ 
              "Tẩu" thuộc thời đại đồ đồng được ghi nhận (hình 10).
4. Chữ "Kim" thời 
              đại đồ đồng
Trong hình 11 và phía trên là một 
              số cách viết chữ "Kim" trong thời đại đồ đồng. Ở dưới 
              và bên phải là chữ "Gươm", chữ cuối trong 8 chữ được khắc 
              trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Thành phần bên trái của chữ "Gươm" 
              chính là chữ "Kim".

Hình 11: Các cách viết chữ "Kim" 
              trong thời đại đồ đồng (trên). Chữ "Kim" là phần trái 
              của chữ "Gươm" (hình dưới, bên phải) và chữ "Nước" 
              là phần trái của chữ "Việt" (hình dưới, bên trái) trên 
              thanh gươm của vua Câu Tiễn. 
Cũng trong hình 11, ở dưới và bên 
              trái, chữ "Việt" là chữ đầu tiên trong 8 chữ cổ trên thanh 
              gươm của vua Câu Tiễn. Phần bên trái của chữ "Việt" không 
              thể là chữ "Kim" vì không bao giờ có 2 chữ "Kim" 
              khác nhau được khắc trên cùng một thanh gươm, nhất là thanh gươm 
              của một ông vua. Hơn nữa về hình thức thì 2 chữ 邑 (Ấp, hinh 7) và 
              金 (Kim, hình 11) hoàn toàn khác nhau. Hiện nay có tất cả 82 chữ 
              "Kim" thuộc thời đại đồ đồng được ghi nhận. 
Kết luận: Thành 
              phần bên trái của chữ "Việt" nguyên thủy chính là chữ 
              "邑" (ấp) và được viết bằng "văn tự chim", một 
              loại chữ cổ có trước Hán ngữ và rất thông dụng ở các nước Sở, Việt, 
              và Chu.  
5. Chữ "Người Chim" 
              trong chữ "Việt" nguyên thủy và chữ "người cầm qua" 
              (戉) trong "chữ Việt bộ Tẩu" của nhà Tây Hán
Chữ "Việt bộ Tẩu" của triều 
              đình nhà Tây Hán viết theo Hán ngữ hiện đại gồm 2 thành phần. Phần 
              bên trái là chữ "Tẩu" dùng để xác định ý nghĩa của toàn 
              chữ và phần bên phải là chữ "Việt" dùng để phát âm (hinh 
              12).

Hình 12: "Việt bộ tẩu" 
              viết theo Hán ngữ hiện đại.
Chữ bên phải của chữ "Việt bộ 
              Tẩu" mang hình tượng một người cầm qua, chữ này có gốc từ chữ 
              戈 của Hán ngữ và có nghĩa là "Qua", 'Mác" hay "Chiến 
              tranh". Chữ 戉 (người cầm qua) trong chữ "Việt bộ Tẩu" 
              không phải là thành phần cấu tạo của chữ "Việt" nguyên 
              thủy. 

Hình 13: Một cách dịch chữ "Người 
              Chim" của người Việt cổ sang Hán ngữ hiện đại. Lưu ý là Hán 
              ngữ không có chữ này.
Thật vậy, từ chữ "Việt" 
              trong thời kỳ đồ đồng đến hàng trăm trống đồng được khai quật ở 
              Việt Nam và vùng Hoa Nam, tất cả đều thể hiện một quan niệm đồng 
              nhất của người Việt cổ khi dùng các yếu tố chủ đạo để tự nhận diện 
              và yếu tố đó chính là "Người Chim" tay cầm qua hay binh 
              khí (hình 13).

Hình 14: "Người Chim" trên trống đồng 
              Ngọc Lũ. Nguồn: Wikipedia.
Cho đến nay số lượng chữ "Việt" 
              thuộc thời đại đồ đồng khai quật được tuy không nhiều nhưng quan 
              trọng là tất cả đều thể hiện tính nhất quán cả về nội dung lẫn hinh 
              thức. Vì vậy, có thể tiên đoán rằng đối với bất kỳ chữ "Việt" 
              nào có trước thời Tiền Hán và được viết theo "văn tự chim" 
              thì xác xuất để nó mang cùng nội dung và hình thức với 5 chữ "Việt" 
              trình bày trên đây rất cao.

Hình 15: Một ví dụ 
              của chữ "Việt" được dịch sang Hán ngữ hiện đại từ chữ 
              "Việt" nguyên thủy. Bên trái là chữ ấp (邑: nước), bên 
              phải là chữ "Người Chim" tay cầm qua và phát âm là "Việt". 
              Toàn chữ viết và đọc là "nước Việt". Trong Hán tự không 
              có chữ này. Hán ngữ hiện đại dùng chữ 國 (quốc, nước, quốc gia) thay 
              thế cho chữ 邑 (ấp, nước, quốc gia).
Kết luận: Chữ 
              "Việt" nguyên thủy của người Việt cổ có niên đại từ 496 
              - 465 TCN, viết bằng "văn tự chim", xuất hiện trước chữ 
              "Việt bộ Tẩu" bằng Hán ngữ của nhà Tây Hán ít nhất 300 
              năm. Chữ "Việt" của Bách Việt được cấu tạo bởi hai thành 
              phần duy nhất là chữ "Nước" (邑: ấp, quốc gia) ở bên trái 
              và chữ "Người Chim" tay cầm qua ở bên phải. "Người 
              Chim" là yếu tố chủ đạo, phát âm là "Việt", "qua" 
              hay binh khí là yếu tố phụ (hình 15).
oOo
Từ các chứng cớ lịch sử vững chắc 
              đã được công bố bao gồm văn tự của thời đại đồ đồng, hoa văn trên 
              trống đồng, và cổ ngữ trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, những phân 
              tích trên đây chứng minh rằng dù được viết bằng Hán ngữ thời Tây 
              Hán hoặc hiện đại thì nội dung và hinh thức của chữ 越, chữ Việt 
              bộ tẩu và 2 thành phần của nó 走 và 戉, hoàn toàn không phải là chữ 
              "Việt" của Bách Việt, nó chỉ là một phiên bản được dịch 
              từ chữ "Việt" nguyên thủy vốn đã có trước khi nhà Tây 
              Hán thành lập 3 thế kỷ. Hán sử không trung thực khi ghi chép về 
              Việt tộc, đó là sự thật, và điều đáng tiếc là Tư Mã Thiên, dù với 
              bất kỳ lý do nào, đã xem nhẹ kiến thức và uy tín của tác giả bộ 
              Sử Ký nổi tiếng khi dịch sai tên một chủng tộc. Ông đã bị chính 
              trị ảnh hưởng, hay nói một cách chính xác hơn, đó là một nhầm lẫn 
              được suy tính chu đáo của triều đình nhà Tây Hán trong chính sách 
              tiêu diệt và đồng hóa các thị tộc Bách Việt.
PHỤ LỤC: MỘT CÁCH DỊCH CHỮ 
              "VIỆT" SANG HÁN NGỮ 
Chúng ta bắt đầu phần này bằng một 
              câu chuyện về nước Oa (Wa), một quốc gia nằm trong vùng biển phía 
              đông của Hoa lục. " Oa" viết theo Hán ngữ là 倭, là tên 
              do người Hán đặt cho dân tộc này và được họ dùng trong nhiều thế 
              kỷ để tự nhận diện và khi giao tiếp với các triều đình Trung Hoa.
Mãi đến thế kỷ thứ 8, sau khi khám 
              phá ra thâm ý phía sau tên Oa, học giả và trí thức người Oa lập 
              tức dùng một tên khác để thay thế. Chữ Oa (倭) mang ý nghĩa châm 
              biếm và xúc phạm như "phục tùng" hay "thằng lùn", 
              còn tên mới 和 có nghĩa là "hài hòa, hòa bình, và quân bình. 
              "Đại Hòa" (大 和) từng là tên của nước Oa sau thế kỷ thứ 
              8. Ngày nay người Oa dùng một tên khác mà người Việt thường ưu ái 
              gọi họ là "con cháu Thái Dương Thần Nữ". Đó là đất nước 
              và dân tộc Nhật Bản (日本).
Trong phần chính chữ "Việt" 
              được phân tích theo phương pháp khoa học và căn cứ trên những chứng 
              cớ cụ thể đã được công nhận. Trong phần này ý nghĩa của chữ "Việt" 
              trên thanh gươm của vua Câu Tiễn được suy diễn đơn thuần dựa theo 
              phong tục tập quán của người Việt và vì vậy cách dịch chữ "Việt" 
              ở đây có thể không hoàn toàn khách quan.
1. Chính sử: Thanh gươm của 
              vua Câu Tiễn
Câu Tiễn là một người Việt cổ, làm 
              vua nước Việt từ năm 496 đến 465 TCN. Vương quốc của ông lúc bấy 
              giờ bao gồm Thượng Hải, Chiết Giang và Giang Tô ngày nay và kinh 
              đô đặt tại Hội Kế (Cối Kê) trong tỉnh Chiết Giang. Tỉnh Chiết Giang 
              là nơi có con sông Tiền Đường, giòng sông nơi Thúy Kiều gieo mình 
              tự vẫn nhưng được sư Giác Duyên cứu sống trong tác phẩm Kim Vân 
              Kiều của Nguyễn Du. 

Hình 16: Thanh gươm của vua Câu 
              Tiễn được khai quật năm 1965 hiện được trưng bày tại viện bảo tàng 
              Hồ Bắc, Trung quốc. Nguồn: uncleicko.
Khoảng năm 333 TCN, dưới thời của 
              vua Vô Cương là cháu đời thứ 6 của vua Câu Tiễn, nước Việt bị nước 
              Sở thôn tính và thị tộc U Việt mất nước từ đây. 
Tuy vậy, câu chuyện của vị vua người 
              Việt cổ chưa chấm dứt ở đó. Vào năm 1965 người ta khai quật được 
              thanh gươm của ông ở tỉnh Hồ Bắc, Trung quốc và hiện được trưng 
              bày tại viện bảo tàng của tỉnh này (hình 16). 
2. Chữ "Việt" trên 
              thanh gươm của vua Câu Tiễn: một cái nhìn khác
Cảm nhận đầu tiên là sự khác thường 
              của chữ "nước" ( 邑) trong chữ Việt trên thanh gươm so 
              với chữ "nước" ( 邑) của các chữ "Việt" khác 
              trong thời đại đồ đồng. Chính sự khác thường đó là nguồn cảm hứng 
              cho phần này, ngoài "Người Chim", trong chữ "Việt" 
              còn có thêm 2 yếu tố khác.

Hình 17: Tám chữ cổ khắc trên 
              thanh gươm của vua Câu Tiễn. Tám chữ này được viết theo lối điểu 
              ngữ (còn gọi là trùng ngữ). Theo thứ tự chúng được dịch là "Việt 
              Vương Câu Tiễn Tự Tác Dụng Gươm" có nghĩa là "Thanh gươm 
              của Vua Câu Tiễn nước Việt tự làm để dùng". Hán tự không có 
              chữ "Gươm". Nhà nghiên cứu Đỗ Thành có phân tích về chữ 
              "Gươm" và "Kiếm" trong bài "Chữ Kiếm trong 
              thanh Gươm của Việt Vương Câu Tiễn". Nguồn: Wikipedia.
Trong hình 18, theo nhận xét thiên 
              về mặt phong tục tập quán và huyền sử hơn là phương diện khoa học 
              và ngữ văn thì chữ "Việt" trên thanh gươm gồm 3 thành 
              phần thay vì 2 như đã trình bày. Ba thành phần đó là các chữ "Mặt 
              Trời", "Rồng", và "Người Chim".

Hình 18: Chữ "Việt" 
              (bên trái) trên thanh gươm của vua Câu Tiễn và 3 thành phần cấu 
              tạo của nó.
Trong các phần kế tiếp, các chữ "Mặt 
              Trời" và "Rồng" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn 
              sẽ được so sánh với cách viết các chữ "Mặt Trời" và "Rồng" 
              trong thời kỳ Giáp Cốt Văn và thời đại đồ đồng. Kế tiếp, hoa văn 
              khắc trên trống đồng sẽ được dùng để thiết lập mối tương quan với 
              các chữ "Mặt Trời", "Rồng", và "Nguời Chim" 
              trong chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Cuối 
              cùng, huyền sử "Rồng Tiên" phát xuất từ đời sống thực 
              tế hằng ngày của người Việt cổ được dùng để góp phần nêu lên sắc 
              thái chung mà người Việt cổ dùng để tự nhận diện và phân biệt họ 
              với các chủng tộc khác. 
3. Chữ "Mặt Trời" 
              trong Giáp Cốt Văn và trong chữ"Việt" trên thanh gươm 
              của vua Câu Tiễn
Theo Giáp Cốt Văn (hình 19) và cổ 
              ngữ trong thời đại đồ đồng (hình 20), chữ "Mặt Trời" được 
              viết như là một hình tròn hoặc là một hình có 4 cạnh với một cái 
              chấm hay một gạch ngang nằm bên trong. Hình thức hay cách viết của 
              chữ "Mặt Trời" trong các thời kỳ đó thì duy nhất, nghĩa 
              là:
a. Không có bất kỳ chữ nào mang ý 
              nghĩa khác được viết với hình thức đó.
b. Bất kỳ chữ nào được viết với hình 
              thức như vậy đều có nghĩa là "Mặt Trời".
Vì vậy, một thành 
              phần của chữ "Việt", chữ thứ hai tính từ trái sang phải 
              trong hình 18, được xem là chữ "Mặt Trời".

Hình 19: Chữ "Mặt Trời" 
              trong thời đại Giáp Cốt Văn. 

Hình 20: Chữ "Mặt Trời" 
              trong thời đại đồ đồng.
4. Chữ "Rồng" trong 
              Giáp Cốt Văn và trong chừ "Việt" trên thanh gươm của vua 
              Câu Tiễn
Trong Giáp Cốt Văn (hình 21), chữ 
              "Rồng" là một hình thù cong như thân rắn với một cái đầu 
              to có 2 sừng và đôi khi trên đầu đội vương miện. 

Hình 21: Bên phải là một số cách 
              viết chữ "Rồng" trong thời kỳ Giáp Cốt văn. Bên trái là 
              một thành phần cấu tạo nên chữ "Việt" trên thanh gươm 
              của vua Câu Tiễn, nó giống chữ "Rồng" của Giáp Cốt văn, 
              có thân uốn lượn như mình rắn với một cái đầu to có mắt và 2 sừng.
5. Chữ "Rồng" trong 
              thời đại đồ đồng và trong chữ "Việt" trên thanh gươm của 
              vua Câu Tiễn
Hình 22 trình bày là các chữ "Rồng" 
              trong thời kỳ đồ đồng. Trong giai đoạn này chữ "rồng" 
              được viết sắc sảo hơn với đầu to, miệng và răng, có hai sừng và 
              đội vương miện. 
 
      
            
Hình 22: Bên 
              phải là các cách viết chữ "Rồng" trong thời đại đồ đồng. 
              Bên trái là một thành phần cấu tạo nên chữ "Việt" trên 
              thanh gươm của vua Câu Tiễn, nó giống chữ "Rồng" của thời 
              đại đồ đồng, có thân uốn lượn như mình rắn với một cái đầu to có 
              mắt và 2 sừng.
So với chữ "Rồng" của các 
              thời kỳ Giáp Cốt văn và đồ đồng thì một trong các thành phần cấu 
              tạo nên chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, chữ 
              thứ 3 tính từ trái sang phải trong hình 18 được cho là chữ "Rồng".
6. Trống đồng: Chính sử của 
              Bách Việt
Khi toàn bộ Bách Việt ở vùng Hoa Nam 
              bị tiêu diệt và đồng hóa, sử sách của họ cũng cùng chung số phận. 
              Tuy Lạc Việt (Việt Nam) tránh được nạn diệt vong và mất nước nhưng 
              sử sách cũng bị Hán tộc thiêu hủy. Quyển quốc sử cổ xưa nhất của 
              Lạc Việt còn lưu lại là quyển Đại Việt Sử Ký (大越史記) của sử gia Lê 
              Văn Hưu thời nhà Trần, quyển này cũng chỉ mới được biên soạn vào 
              năm1272. 
May thay, để bổ sung phần nào vào 
              thiếu sót đó là hàng trăm trống đồng cùng những di tích và cổ vật 
              của người Việt cổ được khai quật ở Việt Nam và vùng Hoa Nam trong 
              các thế kỷ qua. Sau đây là sự thật đã được xác lập:
- Hán tộc không có trống đồng. 
- Trống đồng do chính người Việt cổ thiết kế và chế tạo.
- Minh văn trên trống đồng phản ảnh sắc thái chủ đạo trong đời sống thực tế của người Việt cổ.
Vì vậy trống đồng là một quyển chính 
              sử của chủng tộc Bách Việt.
7. "Mặt Trời" trong 
              chính sử trống đồng
Về yếu tố "Mặt 
              Trời" thì hiển nhiên không cần lời giải thích dài dòng vì tất 
              cả những trống đồng khai quật được đều có chạm trổ mặt trời ở chính 
              giữa tang trống. Do đó "Mặt Trời" đương nhiên là một yếu 
              tố chủ đạo trong đời sống của người Việt cổ.

Hình 23: Một 
              ví dụ của chữ "Việt" nguyên thủy được dịch ra Hán ngữ 
              hiện đại. Nó gồm chữ "Nhật" (Hán ngữ: 日 nghĩa là mặt trời 
              - phần bên trái và nằm ở trên), chữ "Long" (Hán ngữ: 龍 
              nghĩa là "rồng" - phần bên trái, ở dưới), và bên phải 
              là chữ "người đeo lông chim trên đầu và thắt lưng, tay cầm 
              cái qua" , lưu ý là Hán ngữ không có chữ này.
8. "Rồng" từ đời 
              sống thực tế đến huyền sử
Huyền sử “Con rồng cháu tiên” là câu 
              chuyện thần thoại không có thật nhưng nó phát xuất từ sự việc có 
              thật trong đời sống hằng ngày của người Việt cổ. Chính sử Việt và 
              Trung Hoa ghi nhận rằng dân Bách Việt có tục xâm mình, Đại Việt 
              Sử Ký Toàn Thư chép như sau:
Vua nói: "Người man ở núi khác với các loài thủy tộc; các thủy tộc ấy ưa cùng loài mà ghét khác loài, cho nên mới bị chúng làm hại. Rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái ở mình. Từ đấy thuồng luồng trông thấy không cắn hại nữa.
Từ nhận định trên người Việt cổ đã nghĩ ra phương pháp xâm mình để tự bảo vệ khi di chuyển và mưu sinh trên sông hồ. Xâm mình là để thuồng luồng hay giao long "tưởng" họ cùng đồng loại nên sẽ không bị chúng gia hại.
Thoạt tiên mục đích xâm mình đơn thuần 
              chỉ là một biện pháp tự vệ đơn giản, nhưng dần dà, khái niệm tự 
              nhận mình cùng đồng loại hay cho mình là con cháu của rồng được 
              hình thành một cách tự nhiên trong tâm thức của những thế hệ sau. 
              Đồng loại với rồng không phải là câu chuyện thần thoại dựa trên 
              một việc hoang đường, trái lại nó bắt nguồn từ ngay trong đời sống 
              thực tế hằng ngày của người Việt cổ, nên "Rồng" được xem 
              là một yếu tố chủ đạo trong đời sống của dân Bách Việt.
9. "Người Chim" 
              trong chính sử trống đồng
Tùy theo niên đại và thị tộc khác 
              nhau, các trống đồng được khai quật có kích thước, phẩm chất và 
              những minh văn khác nhau, nhưng đặc biệt hầu hết các trống đồng 
              đều có chạm trổ những Người Chim, tay cầm qua hay binh khí và ở 
              trong tư thế nhảy múa. Tương tự như sự hình thành khái niệm “con 
              Rồng”, khái niệm “cháu Tiên” được bắt nguồn từ phong tục hóa trang 
              thành Người Chim, một trong những tập quán nổi bật nhất của của 
              người Việt cổ. 
oOo
 Tóm lại nếu có ai hỏi Việt là gì 
              thì câu trả lời nên là: Việt là "Mặt Trời", là "Rồng", 
              là "Người Chim" (Tiên). Đó là 3 yếu tố chủ đạo để nhận 
              diện chủng tộc Bách Việt. Khái niệm Rồng của Bách Việt phát xuất 
              từ đời sống thực tế qua phong tục xâm mình, còn khái niệm Rồng của 
              Hán tộc thì bắt nguồn từ đâu? Thắc mắc này được dùng để kết thúc 
              phần phụ lục.
KẾT LUẬN
Tại sao nhà Tiền Hán không sửa đổi 
              tên các nước Chu, Tề, Hàn, Triệu, v.v... mà họ lại đặc biệt làm 
              điều này đối với Bách Việt? Chắc chắn sẽ có nhiều câu trả lời và 
              chúng có thể không giống nhau. "Việt" là tên gọi chung 
              của các chủ nhân vùng đất phía nam Trường Giang, dùng "Việt" 
              thì có khã năng hiệu triệu và thống nhất toàn thể Việt tộc, tạo 
              nên một sức mạnh có khã năng đối đầu và thách thức quyền lực của 
              Hán triều trên toàn vùng Lĩnh Nam và Giao Chỉ. Chẳng hạn như sự 
              trỗi dậy và hùng cường của các vương quốc Việt tộc như Sở, Ngô, 
              và Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc, hoặc chính nhờ sự hậu thuẫn của 
              Bách Việt nên Triệu Đà mới dám xưng Nam Việt Vũ Đế tạo được thanh 
              thế ngang ngửa với nhà Tây Hán, hay sự đồng loạt hưởng ứng của các 
              quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đối với cuộc khởi nghĩa 
              của Hai Bà Trưng năm 40, v.v... Nói chung nếu không tiêu diệt và 
              đồng hóa được Bách Việt thì Hán tộc sẽ không bao giờ chiếm và bình 
              định được vùng đất phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh. Bắt đầu chính sách 
              ấy với việc cấm dùng chữ "Việt" nguyên thủy và thay bằng 
              một tên khác, chữ "Việt bộ Tẩu", người Hán đã thành công 
              lấy được toàn cõi Hoa Nam; nhưng chưa dừng lại ở đó, họ vẫn đang 
              tiếp tục tràn xuống và mục tiêu lần này là Biển Đông Nam Á và căn 
              cứ cuối cùng của Việt tộc.
Lịch sử Bách Việt chứng tỏ không 
              kém phần phong phú khi được hé lộ qua kỹ thuật đúc gươm, trống đồng, 
              cùng những di tích và cổ vật khác được khai quật trong vài thế kỷ 
              qua, đáng tiếc là nền văn minh và văn hóa ấy đã liên tục bị tiêu 
              diệt trong suốt hơn 1000 năm, lãnh thổ thì mất cả chỉ còn lại một 
              dãi nhỏ hẹp. Bị gián đoạn hơn 10 thế kỷ khiến sử Việt thiếu hẳn 
              phần đầu, có chăng thì cũng mù mờ, đầy bí ẩn; phần sau của lịch 
              sử cũng chỉ mới bắt đầu khi người anh hùng xứ Đường Lâm, Tiền Ngô 
              Vương Ngô Quyền, thành công bảo vệ thành trì cuối cùng của Bách 
              Việt bằng một trận đánh đẫm máu trên sông Bạch Đằng năm 938. 
Từ kỷ nguyên Internet đọc lại chính 
              sử trên văn tự cổ, trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, trên trống 
              đồng, và đời sống thực tế của người Việt cổ, hậu duệ của họ không 
              những có trách nhiệm viết đúng lại tên Bách Việt để phản ảnh sự 
              nhất quán của cổ nhân về tên chủng tộc, mà còn có bổn phận đào xới 
              và minh bạch hóa lịch sử của chủng tộc vốn là chủ nhân của một lãnh 
              thổ rộng lớn và trù phú. Vì vậy, viết lại tên Bách Việt là khởi 
              đầu cho công cuộc làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử bị gián đoạn, đồng 
              thời cũng là lời mở đầu cho một quyển sử mới với hy vọng trong đó 
              có chép cuộc hành trình về lại vùng Lĩnh Nam của hậu duệ người Việt 
              cổ.
Thung lũng Hoa vàng
Mồng Một Tết Nhâm Thìn tức ngày 23 
              tháng 1 năm 2012
(*)Tác giả Nguyễn Đại Việt là tiến 
              sĩ trong ngành điện toán, chuyên nghiên cứu và phát triển Integrated 
              Circuits và Microprocessor cho kỹ nghệ Semiconductor. Ông là thành 
              viên trong Ban nghiên cứu Á Châu của Nguyễn Thái Học Foundation.
 
 





