* *
1. Lịch sử thành văn của nước Việt - nghĩa là những điều được ghi
lại trên giấy trắng mực đen - xuất hiện khá muộn, hàng ngàn năm sau công
nguyên. Hai lý do chủ yếu: chữ viết xuất hiện muộn và cả một thiên niên
kỷ mất độc lập được gọi là "thời kỳ Bắc thuộc" - một ngàn năm Bắc
thuộc. Lịch sử Việt Nam trong những năm tháng này còn là một phần lịch
sử Trung Hoa, điều dù muốn hay không cũng phải thừa nhận. Và dù muốn hay
không cũng phải thừa nhận, với Việt Nam một ngàn năm ấy là một ngàn năm
không bình yên, nói một cách khiêm tốn.
Liệu có cần thiết phải nhắc lại những chuyện " sát phu, hiếp phụ",
"bỏ xác cho hổ đói lên rừng bắt chim chả, chặt ngà voi; chịu để giao
long ăn thịt xuống biển mò ngọc trai, kiếm đồi mồi" cung phụng các quan
cai trị? Rồi một ngàn năm độc lập, những cuộc xâm lược từ phương Bắc đã
để lại những gì tưởng chỉ cần nhắc đến một câu của thi hào Nguyễn Trãi
thế kỷ thứ XV, "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn / Vùi con đỏ dưới
hầm tai họa", viết trong " Đại cáo bình Ngô".
Những cuộc xâm lược của Tống, Nguyên, Minh, Thanh trong kỷ nguyên độc
lập của Việt Nam đều hết sức khốc liệt, đâu có phải quan hệ giữa hai
nước trong thời kỳ này"trên tổng thể là hòa bình, hữu nghị". Tác giả của "Diễn biến quan hệ Việt - Trung trước năm 1949"chỉ
thừa nhận một cuộc xâm lược đến từ phía Bắc, đó là cuộc xâm lược của
nhà Nguyên trong thời kỳ này (và lịch sử chính thống của Trung Quốc cũng
chỉ thừa nhận như vậy) còn thì "phần nhiều những cuộc xung đột và
chiến tranh giữa hai nước là do giới phong kiến Việt Nam quấy nhiễu biên
giới Trung Quốc gây ra".
Cần phải nói rõ những điều này. Một, chỉ một lần duy nhất nhà nước
phong kiến Việt Nam có cuộc Bắc phạt và cũng chỉ với một mục đích duy
nhất là phá cuộc chuẩn bị xâm lược Việt Nam của nhà Tống. Đó là vào ngay
thời kỳ đầu sau Bắc thuộc, năm 1075, nhà Lý (Việt Nam) phát hiện nhà
Tống (Trung Quốc) lập các tiền đồn tích trữ binh lương ở Quảng Tây nhằm
chuẩn bị tiến đánh "Giao Châu" (nước Việt) nên đã xuất quân, đánh xong
lập tức rút ngay về phòng ngự mà vẫn không tránh khỏi cuộc tiến quân ồ
ạt sau đó của nhà Tống.
|
"Hoàn thành phân giới cắm mốc biên giới". Tác giả: Nhan Sáng/ Ảnh đoạt giải cuộc thi Khoảnh khắc vàng |
Hai, có lẽ chỉ dựa vào chính sử do các triều đại phong kiến Trung Quốc để lại mà các tác giả của "Những điều không thể không nói ra" không thừa nhận có các cuộc xâm lược Việt Nam của Tống, Minh, Thanh. Bởi vì "chính sử"
luôn tìm cách mô tả đấy là những cuộc hành binh khôi phục trật tự, lập
lại ngôi vương chính danh được các triều đình phong kiến Trung Quốc thừa
nhận (nhưng là những phế để, phế triều đã bị sóng triều lịch sử Việt
Nam gom về bến rác).
Sự thực như thế nào? Lấy ví dụ cuộc tiến quân dưới danh nghĩa "phù
Trần, diệt Hồ" của nhà Minh đầu thế kỷ XV. "Phù Trần diệt Hồ" ở chỗ nào
khi diệt xong cha con Hồ Quý Ly rồi liền bắt các kỳ hào, bô lão ký vào
một tờ biểu dâng lên rằng: "Nay họ Trần không còn ai nữa, vả đất An Nam vốn là Giao Châu ngày trước, xin được đặt lại quận huyện như cũ" (theo "Minh sử").
Nhưng có một thực tế là con cháu nhà Trần vẫn nổi lên ầm ầm chống lại
quân Minh, lập nên một triều đại được lịch sử gọi là "kỷ Hậu Trần" thì
người Minh lại gọi là "giặc" và phái binh đàn áp! Một thời kỳ "Bắc thuộc
mới" kéo dài 20 năm với chính sách đồng hóa quyết liệt (tất cả sử sách
nước Nam đều bị thu hết về Kim Lăng), với sưu cao thuế nặng, bắt phu
khai mỏ vàng mỏ bạc rồi "chim chả, ngà voi" tận thu tận diệt khiến dân
tình vô cùng khổ sở. Phải một cuộc kháng chiến gian khổ máu xương dằng
dặc 10 năm của Lê Lợi - Nguyễn Trãi cuối cùng mới đưa được "cuộc phù
Trần" về bên kia biên giới.
Làm sao có thể nói trong kỷ nguyên độc lập của Việt Nam ở thiên niên kỷ thứ hai, "giới thống trị Trung Quốc bấy giờ hoàn toàn không chủ động can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam"
được? Và ngay trong thời kỳ được coi là giao kết hòa hiếu giữa hai nước
trong quan hệ "tông phiên" thì các triều đình phong kiến Việt Nam vẫn
luôn bị sách nhiễu, áp lực.
Chỉ riêng việc đòi hỏi cung phụng, cống nạp - nhất là những sản vật
quý hiếm - cũng trở thành gánh nặng tài chính cho nước Việt, gánh nặng
khổ ải cho thứ dân, không thể nói là "không đáng kể", "tổng giá trị (của các đồ cống nạp) luôn thấp hơn đồ "hồi tặng" (từ phía triều đình Trung Quốc)" được.
Năm 1950, khi đích thân tiếp và tiễn đoàn cố vấn quân sự của nước
Trung Hoa nhân dân sang giúp Việt Nam kháng Pháp, Chủ tịch Mao Trạch
Đông căn dặn: "Các đồng chí phải nói với nhân dân Việt Nam rằng tổ
tiên chúng ta đã có lỗi với Việt Nam, chúng ta xin tạ tội và nguyện một
lòng một dạ ra sức giúp Việt Nam đánh bại thực dân Pháp" (trích Hồi ký xuất bản bằng tiếng Hán của các Cố vấn Trương Quang Hoa, Vũ Hóa Thẩm, Đặng Kim Ba).
Thủ tướng Chu Ân Lai trong lần đầu tiên sang thăm Việt Nam năm 1955,
việc đầu tiên mà ông làm là đến thắp hương Đền thờ Hai Bà Trưng, những
nữ tướng Việt Nam kiệt xuất trong thế kỷ thứ nhất cầm quân nổi dậy chống
quân xâm lược nhà Hán và đã anh dũng hy sinh. Thiết nghĩ không cần phải
dẫn thêm những ý kiến phát biểu của các nhà lãnh đạo khác như Diệp Kiếm
Anh, Vi Quốc Thanh... xung quanh vấn đề này.
Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định, mối quan hệ tổng thể giữa hai
nước láng giềng Việt Nam và Trung Quốc suốt mấy ngàn năm lịch sử không
phải là một bức tranh tối màu, nhất là quan hệ dân gian. Trong sự phát
triển và trưởng thành của mình, người Việt, nước Việt đã tiếp thu và học
tập được nhiều từ nền văn hóa - văn minh Trung Hoa. Đấy cũng là một
trong nguyên nhân dẫn đến sự gần gụi, hiểu biết giữa nhân dân hai nước.
Đấy cũng là thực tế hiển nhiên không thể phủ định. Không thể có chuyện
giới nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lịch sử Việt Nam trong trăn trở tìm
về nguồn cội lại bỏ qua những giá trị xác định để thay bằng những lập
luận"khoác lác", "hư cấu"? Càng không thể tưởng tượng ra rằng nó có mục đích "đưa vào nội dung giáo dục quốc dân" để làm băng hoại quan hệ hữu nghị giữa hai nước, hai dân tộc.
2. Nửa sau của thế kỷ trước (thế kỷ XX), Việt Nam đã phải liên tục
chiến đấu chống lại hai cuộc chiến tranh không cân sức: Kháng Pháp và
kháng Mỹ. Cùng với nhân dân toàn thế giới, Trung Quốc đã có sự ủng hộ và
giúp đỡ to lớn, có hiệu quả về cả vật chất lẫn tinh thần cho cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam. Vào thời kỳ cao điểm, khi Mỹ trực tiếp đổ
quân vào tham chiến - có lúc lên đến hơn nửa triệu - nhiều chính phủ và
tổ chức nhân dân trên thế giới đã tuyên bố sẵn sàng gửi quân chí nguyện
đến giúp đỡ Việt Nam, nếu được phía Việt Nam chấp nhận.
Với tinh thần tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính và cũng xét
tới các hệ lụy, Chính phủ Việt Nam không chủ trương nhận quân tình
nguyện chiến đấu, đặc biệt là bộ binh, và đã bày tỏ sự cảm ơn chân thành
của mình đến thiện chí năm châu. Những quân nhân nước ngoài có mặt ở
phía Bắc Việt Nam lúc ấy bao gồm một số lượng hạn chế các cố vấn và
chuyên gia quân sự Liên Xô trong các binh chủng kỹ thuật (tên lửa phòng
không, không quân ...), một vài biên đội không quân của CHDCND Triều
Tiên mà lãnh đạo nước này mong muốn được đưa sang để thực tập chiến đấu.
Chính phủ Trung Quốc cũng đã nhiều lần bày tỏ thiện chí sẵn sàng gửi
quân tình nguyện đến Việt Nam trong các tuyên bố công khai cũng như
trong những lần gặp gỡ trực tiếp lãnh đạo Việt Nam. Kết quả là đã dẫn
tới các ký kết giữa hai nước về việc đưa bộ đội hậu cần (công binh) của
Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc vào giúp việc khắc phục giao thông
bị phá hoại bởi cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ở Miền Bắc.
Trung Quốc cũng đề nghị đưa vào cả bộ đội pháo cao xạ để bảo vệ lực
lượng công binh tác nghiệp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến lực
lượng này. Người yêu cầu các nhà lãnh đạo Quân đội Việt Nam không đưa
bộ đội Trung Quốc đến những vùng quá khó khăn ác liệt vì bạn chưa quen.
Thời kỳ đó, không quân Mỹ chia chiến trường Bắc Việt Nam thành ba
vùng tác chiến: Vùng đánh phá tự do suốt ngày đêm từ Thanh Hóa trở vào
vĩ tuyến 17, là vùng ác liệt nhất. Vùng thứ hai, vùng đánh phá có trọng
điểm bao gồm Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và các vị trí chiến lược phía
nam đường số 5. Vùng thứ ba, đánh phá có chọn lọc, là các tuyến giao
thông phía bắc đường số 5.
Chấp hành chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bộ đội Trung Quốc đã được
bố trí tác nghiệp trong vùng từ phía bắc đường số 5 đến biên giới Việt -
Trung. Các lực lượng chí nguyện Quân Giải phòng Trung Quốc đã chiến
đấu, phục vụ chiến đấu dũng cảm, quên mình vì nghĩa lớn, đồng cam cộng
khổ với nhân dân Việt Nam, không chỉ góp phần khắc phục đường sá bị phá
hoại, giúp Việt Nam làm mới nhiều con đường, nhiều công trình mà còn
tham gia chiến đấu, trực tiếp bắn rơi hơn 100 máy bay Mỹ. Tổng cộng đã
có hơn 310.000 lượt bộ đội Trung Quốc có mặt trên chiến trường miền Bắc
Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1968 (nói chung, 6 tháng thay quân một lần)
trong đó hơn 1000 chiến sĩ hy sinh (hơn 4000, bao gồm cả các chiến sĩ
bị thương).
Theo đề nghị của phía Trung Quốc, các liệt sĩ Trung Quốc đã được chôn
cất tại trên 40 nghĩa trang ở Việt Nam và hiện nay vẫn được chính quyền
và nhân dân các địa phương coi sóc, tu tạo.
3. Phía Trung Quốc từng xuất bản một cuốn sách công bố 7 lần xuất
quân ra nước ngoài của Quân Giải phóng Nhân dân từ sau ngày thành lập
nước CHND Trung Hoa, trong đó quá nửa là xuất quân sang Việt Nam. Điều
đau lòng là, hầu hết những lần xuất quân đến Việt Nam ấy đều được mô tả
là để "đánh trả", "trừng phạt" cái quốc gia mà Trung Quốc từng
coi là anh em (đến bây giờ có lẽ vẫn là "anh em" vì lãnh đạo hai bên nói
chung vẫn ôm hôn nhau theo kiểu "các nước anh em" thường làm).
Chúng tôi sẽ không đề cập đến ở đây bản chất các cuộc "đánh trả" và "trừng phạt" ấy - xin trở lại một dịp khác, nếu cần thiết - mà chỉ xin trao đổi những gì liên quan được nêu ra từ các bài viết trong "Những điều không thể không nói ra".
Thứ nhất, phải khẳng định rằng, trừ cuộc "tiến quân" trong giai đoạn
1965 -1968 nhằm chi viện nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ mà tôi vừa đề cập, tất cả các cuộc tiến quân khác (1974: đánh chiếm
Hoàng Sa - Trung Quốc gọi là Tây Sa; 1979: Chiến tranh biên giới Việt -
Trung; 1983 - 1984: đánh chiếm các điểm cao chiến lược ở tỉnh Hà Giang -
Trung Quốc gọi là Lão Sơn (và xung quanh); 1988: đánh chiếm một số đảo ở
Trường Sa - Trung Quốc gọi là Nam Sa) đều do Trung Quốc âm thầm khởi
binh rồi bất ngờ đánh úp, nhằm lúc đối phương chưa sẵn sàng chuẩn bị.
Tất cả đều giống nhau, không ngoại lệ. Làm gì có cái gọi là "sự xâm lăng, khiêu khích từ phía Việt Nam"?
Mưu kế chiến tranh từ thời Tôn Tử đã chẳng lạ gì phương sách mà sau này
L.Hart và nhiều tác gia quân sự đông tây phải ngả mũ, "Nguyên cớ ư ? Ở
ta!"
Thêm nữa, sau năm 1975, mặc dù giành được nguyện vọng ngàn đời là độc
lập dân tộc, thống nhất non sông, Việt Nam hoàn toàn bị kiệt quệ bởi ba
mươi năm chiến tranh (nền kinh tế Việt Nam bị tụt đến đáy trong thập
niên 75 - 85 là một minh chứng). Lo ăn, lo mặc cho dân mình còn chưa
xong lẽ nào Việt Nam còn muốn mang sức kiệt đi đánh nước người? Mà đó
lại là quốc gia hùng mạnh Trung Quốc và còn hơn thế nữa, một đất nước đã
có sự ủng hộ to lớn cho Việt Nam trong kháng chiến! Ơn vừa mới đó mà đã
quên được ư? Trọng ơn là truyền thống của dân tộc này, không ai có thể
bới ra được chứng cứ ngược lại!
Và do đó phải thừa nhận là Việt Nam đã bị bất ngờ khi cuộc chiến
tranh tháng 2/1979 xảy ra. Có thể có xung đột cường độ thấp nhưng là cả
một cuộc chiến tranh với sự tiến quân ồ ạt của hàng chục sư đoàn đối
phương trên toàn tuyến biên giới là điều chưa được phía Việt Nam tiên
liệu.
Thứ hai, cần phải nói rõ một điều: Việt Nam chưa bao giờ tuyên bố
Trường Sa và Hoàng Sa (Nam Sa và Tây Sa) là của một quốc gia nào khác
ngoài Việt Nam. Và càng không có việc Việt Nam đã "hoàn toàn thay đổi lập trường"
về vấn đề này. Câu chuyện như sau: Năm 1958, sau khi Trung Quốc tuyên
bố chủ quyền về lãnh hải 12 hải lý, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi thư
cho Thủ tướng Chu Ân Lai bày tỏ sự ủng hộ tuyên bố ấy, chỉ đơn giản như
vậy. Sự ủng hộ đó là thiện chí nếu tính tới cuộc xung đột giữa nước
Trung Hoa nhân dân với Đài Loan trong vùng Kim Môn, Mã Tổ lúc bấy giờ.
Còn trong năm 1974, khi xảy ra sự việc Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa
(Tây Sa), chính các bên đang quản lý thực tế vùng biển này là Chính phủ
cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Cộng
hòa đã lên tiếng phản đối.
Thứ ba. Bắt đầu từ sự xâm lược của thực dân Pháp thế kỷ XIX lập nên
xứ Đông Dương thuộc Pháp rồi tiếp đến là cuộc chiến tranh do Mỹ gây ra
giữa thế kỷ XX mà mà vận mệnh của ba nước Đông Dương gắn chặt với nhau:
chung một kẻ thù, chung một mục đích giải phóng và độc lập dân tộc.
Trong cuộc đấu tranh chung, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ
to lớn của nhân dân Lào, nhân dân Campuchia anh em và Việt Nam cũng hết
lòng vì đất nước và nhân dân bạn. Làm theo lời dạy đầy ý nghĩa của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: "Giúp bạn là giúp mình", hàng chục vạn chiến sĩ Quân
tình nguyện Việt Nam đã không tiếc xương máu chiến đấu quên mình trên
đất nước Lào và đất nước Campuchia, không nhằm một mục đích tiểu bá, đại
bá hay Liên bang Đông Dương nào hết.
Một khi chiến tranh kết thúc, tình hình yên ổn trở lại và được nhân
dân bạn cho phép, tất cả các lực lượng này đã rút hết về nước, bao gồm
cả những liệt sĩ đã nằm xuống trên đất Lào, Campuchia cũng được quy tập
về đất mẹ Việt Nam (con số được quy tập đến nay đã là gần 50.000 liệt
sĩ). Việt Nam, Lào, Campuchia ngày nay lại cùng đoàn kết, giúp đỡ nhau
phát triển đất nước mình, với tư cách là những quốc gia độc lập, có chế
độ chính trị riêng biệt, điều mà cả thế giới đều thấy rõ.
Đáng ngạc nhiên là trong bài "Vấn đề biên giới trên bộ và trên biển giữa Việt Nam và các nước Đông Nam Á", tác giả gợi lại vấn đề không có thực là "lãnh thổ K.K.K" và "một phần đất đai Campuchia bị mất vào tay Việt Nam".
Với mục đích gì vậy? Tác giả có biết rằng trong tháng 8 năm 2012 vừa
qua chính đại diện của nước CHND Trung Hoa tại Liên Hợp quốc đã bỏ phiếu
bác bỏ yêu cầu được có tiếng nói tại tổ chức quốc tế này của cái gọi là
"phong trào K.K.K"? Sự trung thực cộng sản - nếu có thể gọi như vậy -
là ở chỗ nào?
Thứ tư. Có những sự thực ít người biết đến, nhưng chẳng lẽ những người chủ trì một tạp chí có tên tuổi trong ngành như "Thế giới tri thức" lại ở trong trường hợp như vậy? Tôi muốn đề cập câu chuyện về điểm cao khống chế 1509 mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn. Trong bài "Quan hệ Việt - Trung từ năm 1949 đến nay",
tác giả đã mô tả những trận đánh đẫm máu, ác liệt để giành khu vực này
vào năm 1984 như là cuộc chiến đấu vinh quang chống lại sự xâm lược của
quân đội Việt Nam.
Hơn nữa, chúng tôi còn được biết, nơi đây nay đang trở thành một điểm
du lịch của phía Trung Quốc với những trưng bày và thuyết minh bất chấp
chân lý, bất chấp mọi sự nhẫn nhịn, trên thực tế phá hoại quan hệ
Việt-Trung mà các bạn bày tỏ muốn vun đắp. Liệu có cần phải đánh thức
"sự thật lịch sử"?
Cuối cùng, về câu chuyện hoang đường "Việt Nam bắt nạt Trung Quốc", "Việt Nam luôn áp dụng phương châm đối đầu trực diện với Trung Quốc, một bước không lùi",
để thay lời kết luận, tôi xin kể hai chuyện nhỏ : Tháng 1/1979, khi
quân đội Việt Nam mở chiến dịch phản công đánh trả cuộc xâm lấn toàn
diện của chế độ Pôn Pốt với một tốc độ tiến quân mà các hãng thông tin
trên thế giới mô tả là nhanh như điện sẹt, các mũi tiến công và vu hồi
đã sẵn sàng khép chặt biên giới Campuchia - Thái Lan trong "tích tắc",
thì lập tức nhận được lệnh buông lỏng, nhờ đó mà bộ sậu lãnh đạo Khơme
đỏ chạy thoát. Nhưng mục đích đã đạt được: Không để một ai trong số hàng
ngàn chuyên gia cố vấn quân sự và dân sự "người nước ngoài" bị kẹt lại
hoặc bị bắt giữ.
Câu chuyện thứ hai là tháng 2 năm ấy (1979), bị bất ngờ bởi cuộc tấn
công của Quân đội Trung Quốc, các lực lượng phòng ngự Việt Nam tạm thời
bị đẩy lui khỏi tuyến biên giới. Nhưng ngay sau cuộc phòng ngự, bộ đội
Việt Nam đã tổ chức phản công và một chiến dịch - chiến lược tiến công
quy mô với lực lượng mạnh cả xung lực lẫn hỏa lực nhằm vào đối phương
đang tập trung ở một thành phố biên giới đã được triển khai. Mọi sự đã
sẵn sàng và đây chắc chắn là một đòn giáng trả mạnh mẽ, gây thương vong
nặng nề. Chỉ ít giờ trước thời điểm nổ súng, chiến dịch được hủy bỏ khi
phía Trung Quốc tuyên bố bắt đầu cuộc triệt thoái.
Thẳng thắn và mà nhìn nhận, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc bản chất là
một mối quan hệ tích cực và cần phải như vậy. Xin được đề cập đến vào
một dịp khác. Bài viết này của tôi không có mục đích tranh luận, ngay cả
về phương diện học thuật. Nó đơn giản chỉ là "những điều không thể không nói ra", không thể không làm rõ vậy thôi.
Chú thích: Những chữ để nghiêng trong bài này là trích từ "Những
điều không thể không nói ra" hoặc từ các cuốn sách xuất bản ở Trung Quốc
(TG).