Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 17 tháng 6, 2012

Viết lại tên Bách Việt


Đây là tên của một bài viết của tác giả  Nguyễn Đại Việt đăng tại Nguyễn Thái Học Foundation   http://www.nguyenthaihocfoundation.org/lichsuVN/viet-lai-ten-Bach-Viet.htm 
Nhận thấy bài viết đề cập cùng chủ đề của blog Bách Việt và tập trung vào hai vấn đề lịch sử có nhiều khuất tất nhất và  dường như đang bị "quên lãng" bởi chính người Việt Nam, đó là a) nguồn gốc và mối quan hệ giữa dân tộc Việt Nam và Bách Việt nói chung (?); b) người Việt có chữ viết riêng hay không và tiếng Việt vay mượn tiếng Hán hay ngược lại (?), chủ blog tôi xin giới thiệu để cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho bạn đọc. Hy vọng tài liệu này  sẽ góp phần trả lời một số thắc mắc đồng thời  thúc đẩy hơn nữa công tác nghiên cứu lịch sử dân tộc ta theo hướng khách quan và tôn trọng  sự thật lịch sử dựa vào không chỉ sử sách cũ mà tất cả các nguồn dữ liệu mới trên cơ sở khoa học khảo cỗ và nhân chủng học hiện đại. Sự hiểu biết đúng đắn và đầy đủ về cội nguồn dân tộc sẽ giúp người Việt Nam thật sự thoát khỏi nỗi mặc cảm truyền kiếp và lấy lại tâm thế đáng có của mình.      
   
Viết lại tên Bách Việt
                                                                                   Tác giả: Nguyễn Đại Việt(*)
                                                              
Sau khi hợp lực đánh đổ nhà Tần năm 206 trước Công Nguyên (TCN), Lưu Bang bất thần xé bỏ hòa ước Hồng Câu xua quân bao vây Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ và diệt nước Sở năm 202 TCN. Cùng năm đó, ông lên ngôi hoàng đế sáng lập ra nhà Hán còn gọi là nhà Tiền Hán hay nhà Tây Hán. Về chữ viết, Hán triều tiếp tục chính sách của Tần Thủy Hoàng trong việc sửa đổi và tiêu chuẩn hóa một loại cổ ngữ thành một hệ thống chữ viết gọi là Hán ngữ.
Hình 1: Chữ "Việt" (bên trái) viết theo lối chữ Triện thời Tây Hán. Chữ "tẩu" (thứ hai từ trái sang phải) dùng để xác định ý nghĩa và chữ "người cầm qua" (bên phải) dùng xác định cách phát âm. Chữ cuối phát âm là "Việt" có hình tượng giống như một người cầm cái qua (戈). Trong Hán ngữ chữ "qua" (戈) có nghĩa là "cái mác" hoặc "chiến tranh".
Trong khoảng từ năm 109 đến năm 91 TCN, Tư Mã Thiên, một sử gia nổi tiếng đời Tây Hán, dùng Hán ngữ biên soạn bộ Sử Ký dài 130 tập, theo chú thích trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, ông là người đầu tiên viết hai chữ Bách Việt trong tập Ngô Khởi Truyện của bộ Sử Ký nổi tiếng đó. "Bách Việt" được dịch sang Hán ngữ hiện đại là 百 越.

Một bộ sử khác do Ban Bưu khởi xướng, bộ Hán Thư (漢書) gồm 100 tập, cũng được soạn thảo vào thời Tây Hán chép rằng:
“Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Hội Kế (Cối Kê), ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình.”

Bách Việt mà hai bộ Sử Ký và Hán Thư đề cập đến chính là chủ nhân của vùng đất rộng lớn, bao trùm toàn cõi Hoa Nam và miền Bắc Việt Nam ngày nay; ngoại trừ Lạc Việt (Việt Nam) các thị tộc Bách Việt khác đều bị Hán tộc tiêu diệt, đồng hóa và chiếm đoạt hết lãnh thổ.

Theo Hán ngữ hiện đại, tên các thị tộc của Bách Việt được viết là 於 越 (Ư Việt), 揚 越 (Dương Việt), 閩 越 (Mân Việt), 南 越 (Nam Việt), 東 越 (Đông Việt), 山 越 (Sơn Việt), 雒 越 (Lạc Việt), 甌 越 (Âu Việt), v.v…tất cả các tên đều gắn liền với chữ 越, gọi là "chữ Việt bộ Tẩu". "Tẩu" có nghĩa là "chạy" nhưng không hiểu vì sao sử gia Lê Văn Hưu thời nhà Trần khi biên soạn quyển Đại Việt Sử Ký (大越史記) năm 1272 và sử gia Ngô Sĩ Liên, triều vua Lê Thánh Tông, khi viết quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (大越史記全) năm 1479, vẫn sử dụng chữ "Việt bộ Tẩu" của nhà Tiền Hán.

Bài viết này gồm 2 phần. Phần chính giới thiệu chữ "Việt" nguyên thủy của người Việt cổ đồng thời chứng minh "chữ Việt bộ Tẩu" của nhà Tây Hán là một bản dịch sai của chữ "Việt" đó. Phần còn lại, phần phụ, trình bày một cái nhìn, một cảm nhận cá nhân về chữ "Việt" của một vị vua sống trong thế kỷ thứ 5 TCN.

CHỮ "VIỆT" CỦA BÁCH VIỆT

Tại sao chủng tộc Bách Việt lại tự nhận diện qua một cái tên không phản ảnh một chút sắc thái nào của mình? Nguyên do nào khiến tên của một chủng tộc từng làm chủ một lãnh thổ rộng lớn lại mang ý nghĩa bi quan như thế?

Ngày nay, khi tìm hiểu ý nghĩa chữ "Việt" giới nghiên cứu không tránh khỏi ngạc nhiên và băn khoăn bởi những câu hỏi tương tự trên đây. Mặc dù có những nổ lực bỏ ra nhằm khám phá những bí ẩn đàng sau chữ "Việt bộ Tẩu", nhưng đến nay tuyệt nhiên vẫn chưa có một giải thích thuyết phục nào được công nhận một cách rộng rãi. Sỡ dĩ có sự bế tắc đó là vì họ đã nghiên cứu một cái tên sai. Quả vậy, chữ 越 hay "Việt bộ tẩu" không phải là do người Việt cổ đặt ra, nó chỉ là một phiên bản được các sử gia và học giả của triều đình Tây Hán dùng Hán ngữ dịch từ chữ "Việt" nguyên thủy vốn đã xuất hiện trước đó ít nhất là 300 năm.

Từ văn tự cổ đến trống đồng và những cổ vật khai quật được đặc biệt là thanh gươm của vua Câu Tiễn, chúng ta sẽ tìm câu trả lời chính xác cho câu hỏi Việt là gì, nó sẽ giải tỏa nghi vấn kéo dài suốt hơn 2000 năm kể từ khi Tư Mã Thiên dùng Hán ngữ đặt bút viết chữ " Việt bộ Tẩu" (越) trong bộ Sử Ký của ông đến nay. Trong phần này các chữ "Việt" thuộc thời đại đồ đồng sẽ được trình bày và phân tích. Kế đó, thành phần cấu tạo của chúng sẽ được so sánh với thành phần cấu tạo của chữ "Việt bộ Tẩu" và chữ "Việt bộ Kim".

1. Chữ "Việt" nguyên thủy của người Việt cổ trong thời đại đồ đồng

Giáp Cốt văn là loại văn tự khắc chạm trên mai rùa hay xương động vật. Chữ trên mai rùa gọi là Giáp văn còn chữ trên xương những động vật khác gọi là Cốt văn. Chữ viết khắc chạm trên đồng và kim loại gọi là văn tự thời đồ đồng. Cả hai loại văn tự đều có từ đời nhà Thương và Giáp Cốt văn là loại văn tự cổ xưa nhất. Triều đại nhà Thương xuất hiện trong khoảng từ năm 1600 đến 1046 TCN, kinh đô đóng tại đất Ân thuộc tỉnh Hà Nam, Trung quốc ngày nay. Giặc Ân trong huyền sử Phù Đổng Thiên Vương của người Việt chính là nhà Thương này. Hiện nay có hơn 4.000 chữ thuộc văn tự thời đồ đồng được khai quật và trong đó một số chữ "Việt" được ghi nhận. Xin lưu ý là các văn tự đồ đồng và Giáp Cốt văn dùng trong tài liệu này đều được cung cấp từ chineseetomology.org, một website về cổ ngữ rất phong phú và hữu ích của ông Richard Sears.

Sau đây là 5 chữ "Việt" viết bằng loại "chữ chim", có nơi gọi là "chữ sâu bọ và chim", một loại cổ ngữ rất phổ biến và thông dụng ở các nước Sở, Việt, và Chu.

a) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01747


Hình 2: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng

Nhận xét chữ mang ký hiệu B01747:

- Người đeo lông chim trên đầu và thắt lưng. Từ đây về sau sẽ gọi là "Người Chim".

- Người Chim đứng với hai chân dang rộng, tay cầm một cây gậy dựng đứng trên mặt đất và trên thân gậy có 2 cái móc nhỏ.

- Chữ này chỉ có một thành phần là chính nó.

- Niên đại: không rõ.

b) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01748


Hình 3: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng

Nhận xét chữ mang ký hiệu B01748:

- Thành phần bên phải là Người Chim.

- Tay Người Chim cầm một vật giống như cái qua (mác).

- Người Chim trong tư thế của một vũ điệu.

- Thành phần bên trái là ký tự gồm một hình tròn nằm trên chữ mang hình tượng có đầu tròn to với một cái đuôi.

- Niên đại: không rõ.

c) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01750


Hình 4: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng

Nhận xét chữ mang ký hiệu B01750:

- Thành phần bên phải là Người Chim.

- Thành phần bên trái gồm một hình tròn nằm trên ký tự có hình tượng giống thân rắn với 2 sừng.

- Niên đại: không rõ.

d) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01751


Hình 5: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng

Nhận xét chữ mang ký hiệu B01751:

- Thành phần bên phải là Người Chim trong tư thế nhảy múa.

- Người Chim không cầm qua hoặc binh khí.

- Thành phần bên trái là một hình tròn nằm trên một cái đầu có đuôi cong.

- Niên đại: không rõ.

e) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01749


Hình 6: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng

Nhận xét chữ mang ký hiệu B01749:

- Thành phần bên phải là Người Chim.

- Tay phải của của Người Chim cầm một vật có hình dạng của một cái qua.

- Thành phần bên trái gồm một hình tròn có chấm bên trong và nằm ngay trên ký tự có hình tượng uốn lượn như thân rắn với một cái đầu to, miệng (hoặc 2 sừng) và mắt.

- Niên đại: 496 - 465 TCN. Đây là chữ "Việt" được khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn nước Việt (khác với Việt Nam).

Kết luận: Khảo sát các chữ "Việt" trên đây chúng ta rút ra được 2 điểm quan trọng,

- Thứ nhất, chữ "Việt" nguyên thủy của người Việt cổ có niên đại trong khoảng từ 496 đến 465 TCN, nghĩa là chúng xuất hiện trước chữ "Việt bộ Tẩu" của nhà Tiền Hán ít nhất 3 thế kỷ.

- Thứ hai, yếu tố chủ đạo của các chữ "Việt" là "Người Chim". "Qua" hay binh khí là yếu tố phụ.

2. Chữ "Nước" (Quốc gia) trong thời đại đồ đồng

Theo định nghĩa của chữ 邑 (ấp), một trong các ý nghĩa của nó là "nước" hay "quốc gia". Ví dụ như "nước Chu" (邾: Chu quốc) hay "nước Hàn" (邗: Hàn quốc) thời Xuân Thu và Chiến Quốc.




Hình 7: Chữ "ấp" trong thời đại đồ đồng. Chữ này có nghĩa là "nước", "quốc gia", "kinh đô, "thành thị" hoặc là vùng đất được vua ban cho.




Hình 8: "Chu quốc" nghĩa là "nước Chu" theo cách viết trong thời đại đồ đồng (trái) và thời chữ Triện (phải).


Trong chữ "Chu quốc" nghĩa là "nước Chu" (hình 8), chữ "nước" được đặt sau chữ "Chu", khác với cách viết của người Việt là chữ "nước" được đặt trước như trong các chữ "Việt" của thời kỳ đồ đồng và cách viết hiện nay của người Việt Nam. Tương tự, chữ "nước" được dùng trong chữ "Hàn quốc" (nước Hàn) trong hình 9.


Hình 9: "Hàn quốc" nghĩa là "nước Hàn" theo cách viết trong thời đại đồ đồng (trái) và theo lối chữ Triện (phải).


Hiện nay có tất cả 31 chữ "邑" (ấp) thuộc thời kỳ đồ đồng (hình 7) được ghi nhận.

3. Chữ "Tẩu" trong thời đại đồ đồng

Chữ 走 (Tẩu) là thành phần bên trái của chữ 越, chữ "Việt bộ Tẩu", viết theo Hán ngữ hiện đại.



Hình 10: Chữ "Tẩu" (Hán ngữ hiện đại: 走) trong thời kỳ đồ đồng.

So sánh chữ "nước" (hình 7) với chữ "tẩu" của thời kỳ đồ đồng (hình 10) thì hai chữ này hoàn toàn khác nhau từ hình thức đến nội dung. Hơn nữa "nước" là một danh từ còn "tẩu" là một động từ. Hiện có 17 chữ "Tẩu" thuộc thời đại đồ đồng được ghi nhận (hình 10).

4. Chữ "Kim" thời đại đồ đồng

Trong hình 11 và phía trên là một số cách viết chữ "Kim" trong thời đại đồ đồng. Ở dưới và bên phải là chữ "Gươm", chữ cuối trong 8 chữ được khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Thành phần bên trái của chữ "Gươm" chính là chữ "Kim".




Hình 11: Các cách viết chữ "Kim" trong thời đại đồ đồng (trên). Chữ "Kim" là phần trái của chữ "Gươm" (hình dưới, bên phải) và chữ "Nước" là phần trái của chữ "Việt" (hình dưới, bên trái) trên thanh gươm của vua Câu Tiễn.


Cũng trong hình 11, ở dưới và bên trái, chữ "Việt" là chữ đầu tiên trong 8 chữ cổ trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Phần bên trái của chữ "Việt" không thể là chữ "Kim" vì không bao giờ có 2 chữ "Kim" khác nhau được khắc trên cùng một thanh gươm, nhất là thanh gươm của một ông vua. Hơn nữa về hình thức thì 2 chữ 邑 (Ấp, hinh 7) và 金 (Kim, hình 11) hoàn toàn khác nhau. Hiện nay có tất cả 82 chữ "Kim" thuộc thời đại đồ đồng được ghi nhận.

Kết luận: Thành phần bên trái của chữ "Việt" nguyên thủy chính là chữ "邑" (ấp) và được viết bằng "văn tự chim", một loại chữ cổ có trước Hán ngữ và rất thông dụng ở các nước Sở, Việt, và Chu.

5. Chữ "Người Chim" trong chữ "Việt" nguyên thủy và chữ "người cầm qua" (戉) trong "chữ Việt bộ Tẩu" của nhà Tây Hán

Chữ "Việt bộ Tẩu" của triều đình nhà Tây Hán viết theo Hán ngữ hiện đại gồm 2 thành phần. Phần bên trái là chữ "Tẩu" dùng để xác định ý nghĩa của toàn chữ và phần bên phải là chữ "Việt" dùng để phát âm (hinh 12).



Hình 12: "Việt bộ tẩu" viết theo Hán ngữ hiện đại.

Chữ bên phải của chữ "Việt bộ Tẩu" mang hình tượng một người cầm qua, chữ này có gốc từ chữ 戈 của Hán ngữ và có nghĩa là "Qua", 'Mác" hay "Chiến tranh". Chữ 戉 (người cầm qua) trong chữ "Việt bộ Tẩu" không phải là thành phần cấu tạo của chữ "Việt" nguyên thủy.


Hình 13: Một cách dịch chữ "Người Chim" của người Việt cổ sang Hán ngữ hiện đại. Lưu ý là Hán ngữ không có chữ này.


Thật vậy, từ chữ "Việt" trong thời kỳ đồ đồng đến hàng trăm trống đồng được khai quật ở Việt Nam và vùng Hoa Nam, tất cả đều thể hiện một quan niệm đồng nhất của người Việt cổ khi dùng các yếu tố chủ đạo để tự nhận diện và yếu tố đó chính là "Người Chim" tay cầm qua hay binh khí (hình 13).



Hình 14: "Người Chim" trên trống đồng Ngọc Lũ. Nguồn: Wikipedia.


Cho đến nay số lượng chữ "Việt" thuộc thời đại đồ đồng khai quật được tuy không nhiều nhưng quan trọng là tất cả đều thể hiện tính nhất quán cả về nội dung lẫn hinh thức. Vì vậy, có thể tiên đoán rằng đối với bất kỳ chữ "Việt" nào có trước thời Tiền Hán và được viết theo "văn tự chim" thì xác xuất để nó mang cùng nội dung và hình thức với 5 chữ "Việt" trình bày trên đây rất cao.



Hình 15: Một ví dụ của chữ "Việt" được dịch sang Hán ngữ hiện đại từ chữ "Việt" nguyên thủy. Bên trái là chữ ấp (邑: nước), bên phải là chữ "Người Chim" tay cầm qua và phát âm là "Việt". Toàn chữ viết và đọc là "nước Việt". Trong Hán tự không có chữ này. Hán ngữ hiện đại dùng chữ 國 (quốc, nước, quốc gia) thay thế cho chữ 邑 (ấp, nước, quốc gia).


Kết luận: Chữ "Việt" nguyên thủy của người Việt cổ có niên đại từ 496 - 465 TCN, viết bằng "văn tự chim", xuất hiện trước chữ "Việt bộ Tẩu" bằng Hán ngữ của nhà Tây Hán ít nhất 300 năm. Chữ "Việt" của Bách Việt được cấu tạo bởi hai thành phần duy nhất là chữ "Nước" (邑: ấp, quốc gia) ở bên trái và chữ "Người Chim" tay cầm qua ở bên phải. "Người Chim" là yếu tố chủ đạo, phát âm là "Việt", "qua" hay binh khí là yếu tố phụ (hình 15).


oOo


Từ các chứng cớ lịch sử vững chắc đã được công bố bao gồm văn tự của thời đại đồ đồng, hoa văn trên trống đồng, và cổ ngữ trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, những phân tích trên đây chứng minh rằng dù được viết bằng Hán ngữ thời Tây Hán hoặc hiện đại thì nội dung và hinh thức của chữ 越, chữ Việt bộ tẩu và 2 thành phần của nó 走 và 戉, hoàn toàn không phải là chữ "Việt" của Bách Việt, nó chỉ là một phiên bản được dịch từ chữ "Việt" nguyên thủy vốn đã có trước khi nhà Tây Hán thành lập 3 thế kỷ. Hán sử không trung thực khi ghi chép về Việt tộc, đó là sự thật, và điều đáng tiếc là Tư Mã Thiên, dù với bất kỳ lý do nào, đã xem nhẹ kiến thức và uy tín của tác giả bộ Sử Ký nổi tiếng khi dịch sai tên một chủng tộc. Ông đã bị chính trị ảnh hưởng, hay nói một cách chính xác hơn, đó là một nhầm lẫn được suy tính chu đáo của triều đình nhà Tây Hán trong chính sách tiêu diệt và đồng hóa các thị tộc Bách Việt.

PHỤ LỤC: MỘT CÁCH DỊCH CHỮ "VIỆT" SANG HÁN NGỮ

Chúng ta bắt đầu phần này bằng một câu chuyện về nước Oa (Wa), một quốc gia nằm trong vùng biển phía đông của Hoa lục. " Oa" viết theo Hán ngữ là 倭, là tên do người Hán đặt cho dân tộc này và được họ dùng trong nhiều thế kỷ để tự nhận diện và khi giao tiếp với các triều đình Trung Hoa.

Mãi đến thế kỷ thứ 8, sau khi khám phá ra thâm ý phía sau tên Oa, học giả và trí thức người Oa lập tức dùng một tên khác để thay thế. Chữ Oa (倭) mang ý nghĩa châm biếm và xúc phạm như "phục tùng" hay "thằng lùn", còn tên mới 和 có nghĩa là "hài hòa, hòa bình, và quân bình. "Đại Hòa" (大 和) từng là tên của nước Oa sau thế kỷ thứ 8. Ngày nay người Oa dùng một tên khác mà người Việt thường ưu ái gọi họ là "con cháu Thái Dương Thần Nữ". Đó là đất nước và dân tộc Nhật Bản (日本).

Trong phần chính chữ "Việt" được phân tích theo phương pháp khoa học và căn cứ trên những chứng cớ cụ thể đã được công nhận. Trong phần này ý nghĩa của chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn được suy diễn đơn thuần dựa theo phong tục tập quán của người Việt và vì vậy cách dịch chữ "Việt" ở đây có thể không hoàn toàn khách quan.

1. Chính sử: Thanh gươm của vua Câu Tiễn

Câu Tiễn là một người Việt cổ, làm vua nước Việt từ năm 496 đến 465 TCN. Vương quốc của ông lúc bấy giờ bao gồm Thượng Hải, Chiết Giang và Giang Tô ngày nay và kinh đô đặt tại Hội Kế (Cối Kê) trong tỉnh Chiết Giang. Tỉnh Chiết Giang là nơi có con sông Tiền Đường, giòng sông nơi Thúy Kiều gieo mình tự vẫn nhưng được sư Giác Duyên cứu sống trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn Du.



Hình 16: Thanh gươm của vua Câu Tiễn được khai quật năm 1965 hiện được trưng bày tại viện bảo tàng Hồ Bắc, Trung quốc. Nguồn: uncleicko.

Khoảng năm 333 TCN, dưới thời của vua Vô Cương là cháu đời thứ 6 của vua Câu Tiễn, nước Việt bị nước Sở thôn tính và thị tộc U Việt mất nước từ đây.

Tuy vậy, câu chuyện của vị vua người Việt cổ chưa chấm dứt ở đó. Vào năm 1965 người ta khai quật được thanh gươm của ông ở tỉnh Hồ Bắc, Trung quốc và hiện được trưng bày tại viện bảo tàng của tỉnh này (hình 16).

2. Chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn: một cái nhìn khác

Cảm nhận đầu tiên là sự khác thường của chữ "nước" ( 邑) trong chữ Việt trên thanh gươm so với chữ "nước" ( 邑) của các chữ "Việt" khác trong thời đại đồ đồng. Chính sự khác thường đó là nguồn cảm hứng cho phần này, ngoài "Người Chim", trong chữ "Việt" còn có thêm 2 yếu tố khác.

Hình 17: Tám chữ cổ khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Tám chữ này được viết theo lối điểu ngữ (còn gọi là trùng ngữ). Theo thứ tự chúng được dịch là "Việt Vương Câu Tiễn Tự Tác Dụng Gươm" có nghĩa là "Thanh gươm của Vua Câu Tiễn nước Việt tự làm để dùng". Hán tự không có chữ "Gươm". Nhà nghiên cứu Đỗ Thành có phân tích về chữ "Gươm" và "Kiếm" trong bài "Chữ Kiếm trong thanh Gươm của Việt Vương Câu Tiễn". Nguồn: Wikipedia.

Trong hình 18, theo nhận xét thiên về mặt phong tục tập quán và huyền sử hơn là phương diện khoa học và ngữ văn thì chữ "Việt" trên thanh gươm gồm 3 thành phần thay vì 2 như đã trình bày. Ba thành phần đó là các chữ "Mặt Trời", "Rồng", và "Người Chim".

Hình 18: Chữ "Việt" (bên trái) trên thanh gươm của vua Câu Tiễn và 3 thành phần cấu tạo của nó.

Trong các phần kế tiếp, các chữ "Mặt Trời" và "Rồng" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn sẽ được so sánh với cách viết các chữ "Mặt Trời" và "Rồng" trong thời kỳ Giáp Cốt Văn và thời đại đồ đồng. Kế tiếp, hoa văn khắc trên trống đồng sẽ được dùng để thiết lập mối tương quan với các chữ "Mặt Trời", "Rồng", và "Nguời Chim" trong chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Cuối cùng, huyền sử "Rồng Tiên" phát xuất từ đời sống thực tế hằng ngày của người Việt cổ được dùng để góp phần nêu lên sắc thái chung mà người Việt cổ dùng để tự nhận diện và phân biệt họ với các chủng tộc khác.

3. Chữ "Mặt Trời" trong Giáp Cốt Văn và trong chữ"Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn

Theo Giáp Cốt Văn (hình 19) và cổ ngữ trong thời đại đồ đồng (hình 20), chữ "Mặt Trời" được viết như là một hình tròn hoặc là một hình có 4 cạnh với một cái chấm hay một gạch ngang nằm bên trong. Hình thức hay cách viết của chữ "Mặt Trời" trong các thời kỳ đó thì duy nhất, nghĩa là:

a. Không có bất kỳ chữ nào mang ý nghĩa khác được viết với hình thức đó.

b. Bất kỳ chữ nào được viết với hình thức như vậy đều có nghĩa là "Mặt Trời".

Vì vậy, một thành phần của chữ "Việt", chữ thứ hai tính từ trái sang phải trong hình 18, được xem là chữ "Mặt Trời".



Hình 19: Chữ "Mặt Trời" trong thời đại Giáp Cốt Văn.




Hình 20: Chữ "Mặt Trời" trong thời đại đồ đồng.


4. Chữ "Rồng" trong Giáp Cốt Văn và trong chừ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn

Trong Giáp Cốt Văn (hình 21), chữ "Rồng" là một hình thù cong như thân rắn với một cái đầu to có 2 sừng và đôi khi trên đầu đội vương miện.

     

Hình 21: Bên phải là một số cách viết chữ "Rồng" trong thời kỳ Giáp Cốt văn. Bên trái là một thành phần cấu tạo nên chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, nó giống chữ "Rồng" của Giáp Cốt văn, có thân uốn lượn như mình rắn với một cái đầu to có mắt và 2 sừng.


5. Chữ "Rồng" trong thời đại đồ đồng và trong chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn

Hình 22 trình bày là các chữ "Rồng" trong thời kỳ đồ đồng. Trong giai đoạn này chữ "rồng" được viết sắc sảo hơn với đầu to, miệng và răng, có hai sừng và đội vương miện.


       
Hình 22: Bên phải là các cách viết chữ "Rồng" trong thời đại đồ đồng. Bên trái là một thành phần cấu tạo nên chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, nó giống chữ "Rồng" của thời đại đồ đồng, có thân uốn lượn như mình rắn với một cái đầu to có mắt và 2 sừng.

So với chữ "Rồng" của các thời kỳ Giáp Cốt văn và đồ đồng thì một trong các thành phần cấu tạo nên chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, chữ thứ 3 tính từ trái sang phải trong hình 18 được cho là chữ "Rồng".

6. Trống đồng: Chính sử của Bách Việt

Khi toàn bộ Bách Việt ở vùng Hoa Nam bị tiêu diệt và đồng hóa, sử sách của họ cũng cùng chung số phận. Tuy Lạc Việt (Việt Nam) tránh được nạn diệt vong và mất nước nhưng sử sách cũng bị Hán tộc thiêu hủy. Quyển quốc sử cổ xưa nhất của Lạc Việt còn lưu lại là quyển Đại Việt Sử Ký (大越史記) của sử gia Lê Văn Hưu thời nhà Trần, quyển này cũng chỉ mới được biên soạn vào năm1272.

May thay, để bổ sung phần nào vào thiếu sót đó là hàng trăm trống đồng cùng những di tích và cổ vật của người Việt cổ được khai quật ở Việt Nam và vùng Hoa Nam trong các thế kỷ qua. Sau đây là sự thật đã được xác lập:

- Hán tộc không có trống đồng.

- Trống đồng do chính người Việt cổ thiết kế và chế tạo.

- Minh văn trên trống đồng phản ảnh sắc thái chủ đạo trong đời sống thực tế của người Việt cổ.

Vì vậy trống đồng là một quyển chính sử của chủng tộc Bách Việt.

7. "Mặt Trời" trong chính sử trống đồng

Về yếu tố "Mặt Trời" thì hiển nhiên không cần lời giải thích dài dòng vì tất cả những trống đồng khai quật được đều có chạm trổ mặt trời ở chính giữa tang trống. Do đó "Mặt Trời" đương nhiên là một yếu tố chủ đạo trong đời sống của người Việt cổ.



Hình 23: Một ví dụ của chữ "Việt" nguyên thủy được dịch ra Hán ngữ hiện đại. Nó gồm chữ "Nhật" (Hán ngữ: 日 nghĩa là mặt trời - phần bên trái và nằm ở trên), chữ "Long" (Hán ngữ: 龍 nghĩa là "rồng" - phần bên trái, ở dưới), và bên phải là chữ "người đeo lông chim trên đầu và thắt lưng, tay cầm cái qua" , lưu ý là Hán ngữ không có chữ này.


8. "Rồng" từ đời sống thực tế đến huyền sử

Huyền sử “Con rồng cháu tiên” là câu chuyện thần thoại không có thật nhưng nó phát xuất từ sự việc có thật trong đời sống hằng ngày của người Việt cổ. Chính sử Việt và Trung Hoa ghi nhận rằng dân Bách Việt có tục xâm mình, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép như sau:

Vua nói: "Người man ở núi khác với các loài thủy tộc; các thủy tộc ấy ưa cùng loài mà ghét khác loài, cho nên mới bị chúng làm hại. Rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái ở mình. Từ đấy thuồng luồng trông thấy không cắn hại nữa.

Từ nhận định trên người Việt cổ đã nghĩ ra phương pháp xâm mình để tự bảo vệ khi di chuyển và mưu sinh trên sông hồ. Xâm mình là để thuồng luồng hay giao long "tưởng" họ cùng đồng loại nên sẽ không bị chúng gia hại.

Thoạt tiên mục đích xâm mình đơn thuần chỉ là một biện pháp tự vệ đơn giản, nhưng dần dà, khái niệm tự nhận mình cùng đồng loại hay cho mình là con cháu của rồng được hình thành một cách tự nhiên trong tâm thức của những thế hệ sau. Đồng loại với rồng không phải là câu chuyện thần thoại dựa trên một việc hoang đường, trái lại nó bắt nguồn từ ngay trong đời sống thực tế hằng ngày của người Việt cổ, nên "Rồng" được xem là một yếu tố chủ đạo trong đời sống của dân Bách Việt.

9. "Người Chim" trong chính sử trống đồng

Tùy theo niên đại và thị tộc khác nhau, các trống đồng được khai quật có kích thước, phẩm chất và những minh văn khác nhau, nhưng đặc biệt hầu hết các trống đồng đều có chạm trổ những Người Chim, tay cầm qua hay binh khí và ở trong tư thế nhảy múa. Tương tự như sự hình thành khái niệm “con Rồng”, khái niệm “cháu Tiên” được bắt nguồn từ phong tục hóa trang thành Người Chim, một trong những tập quán nổi bật nhất của của người Việt cổ.

oOo

Tóm lại nếu có ai hỏi Việt là gì thì câu trả lời nên là: Việt là "Mặt Trời", là "Rồng", là "Người Chim" (Tiên). Đó là 3 yếu tố chủ đạo để nhận diện chủng tộc Bách Việt. Khái niệm Rồng của Bách Việt phát xuất từ đời sống thực tế qua phong tục xâm mình, còn khái niệm Rồng của Hán tộc thì bắt nguồn từ đâu? Thắc mắc này được dùng để kết thúc phần phụ lục.

KẾT LUẬN

Tại sao nhà Tiền Hán không sửa đổi tên các nước Chu, Tề, Hàn, Triệu, v.v... mà họ lại đặc biệt làm điều này đối với Bách Việt? Chắc chắn sẽ có nhiều câu trả lời và chúng có thể không giống nhau. "Việt" là tên gọi chung của các chủ nhân vùng đất phía nam Trường Giang, dùng "Việt" thì có khã năng hiệu triệu và thống nhất toàn thể Việt tộc, tạo nên một sức mạnh có khã năng đối đầu và thách thức quyền lực của Hán triều trên toàn vùng Lĩnh Nam và Giao Chỉ. Chẳng hạn như sự trỗi dậy và hùng cường của các vương quốc Việt tộc như Sở, Ngô, và Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc, hoặc chính nhờ sự hậu thuẫn của Bách Việt nên Triệu Đà mới dám xưng Nam Việt Vũ Đế tạo được thanh thế ngang ngửa với nhà Tây Hán, hay sự đồng loạt hưởng ứng của các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đối với cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40, v.v... Nói chung nếu không tiêu diệt và đồng hóa được Bách Việt thì Hán tộc sẽ không bao giờ chiếm và bình định được vùng đất phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh. Bắt đầu chính sách ấy với việc cấm dùng chữ "Việt" nguyên thủy và thay bằng một tên khác, chữ "Việt bộ Tẩu", người Hán đã thành công lấy được toàn cõi Hoa Nam; nhưng chưa dừng lại ở đó, họ vẫn đang tiếp tục tràn xuống và mục tiêu lần này là Biển Đông Nam Á và căn cứ cuối cùng của Việt tộc.

Lịch sử Bách Việt chứng tỏ không kém phần phong phú khi được hé lộ qua kỹ thuật đúc gươm, trống đồng, cùng những di tích và cổ vật khác được khai quật trong vài thế kỷ qua, đáng tiếc là nền văn minh và văn hóa ấy đã liên tục bị tiêu diệt trong suốt hơn 1000 năm, lãnh thổ thì mất cả chỉ còn lại một dãi nhỏ hẹp. Bị gián đoạn hơn 10 thế kỷ khiến sử Việt thiếu hẳn phần đầu, có chăng thì cũng mù mờ, đầy bí ẩn; phần sau của lịch sử cũng chỉ mới bắt đầu khi người anh hùng xứ Đường Lâm, Tiền Ngô Vương Ngô Quyền, thành công bảo vệ thành trì cuối cùng của Bách Việt bằng một trận đánh đẫm máu trên sông Bạch Đằng năm 938.

Từ kỷ nguyên Internet đọc lại chính sử trên văn tự cổ, trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, trên trống đồng, và đời sống thực tế của người Việt cổ, hậu duệ của họ không những có trách nhiệm viết đúng lại tên Bách Việt để phản ảnh sự nhất quán của cổ nhân về tên chủng tộc, mà còn có bổn phận đào xới và minh bạch hóa lịch sử của chủng tộc vốn là chủ nhân của một lãnh thổ rộng lớn và trù phú. Vì vậy, viết lại tên Bách Việt là khởi đầu cho công cuộc làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử bị gián đoạn, đồng thời cũng là lời mở đầu cho một quyển sử mới với hy vọng trong đó có chép cuộc hành trình về lại vùng Lĩnh Nam của hậu duệ người Việt cổ.

Thung lũng Hoa vàng
Mồng Một Tết Nhâm Thìn tức ngày 23 tháng 1 năm 2012

(*)Tác giả Nguyễn Đại Việt là tiến sĩ trong ngành điện toán, chuyên nghiên cứu và phát triển Integrated Circuits và Microprocessor cho kỹ nghệ Semiconductor. Ông là thành viên trong Ban nghiên cứu Á Châu của Nguyễn Thái Học Foundation.




Thứ Hai, 26 tháng 3, 2012

Có không "ngôn ngữ Hán-Việt" (Sino-Vietnamese language)?

Chữ Việt cổ (cột giữa) bên cạnh các chữ cổ khác
Mới đây blog Trương Thái Du có đưa lên một bài viết với đầu đề “Trả lời một câu hỏi nhỏ… The term “Sino Vietnamese Language” 汉越)” (Xem tại đây: http://truongthaidu.wordpress.com/2012/03/16/tr%e1%ba%a3-l%e1%bb%9di-m%e1%bb%99t-cau-h%e1%bb%8fi-nh%e1%bb%8f/)

Bản thân tôi không chuyên sâu về lịch sử ngôn ngữ, nhưng dẫu sao cũng đã qua một khóa sau đại học về ngôn ngữ tại Anh quốc và có hơn 10 năm làm giáo viên Anh văn  nên cũng có chút ít “cảm nhận” điều gì đó không ổn nếu gọi là "ngôn ngữ Hán-Việt" hay "tiếng Hán-Việt". Lại thấy tác giả bài viết cũng tỏ ra thận trọng muốn tham khảo ý kiến nên tôi đã đóng góp ngay một comment ngắn gọn rằng "không có ngôn ngữ Hán-Việt” với dụng ý nhắc tác giả xem lại vấn đề. Nhưng sau đó vẫn thấy bài viết  lưu truyền rộng rãi trên mạng. nên tôi thấy cần nêu lại vấn đề này một cách “có đầu có đuôi” để mọi người cùng suy ngẫm. Đây không phải một "việc nhỏ" như tác giả nói; nó liên quan đến nguồn cội và tương lai của tiếng Việt.

Để viết bài này, tôi đã lục tìm lại các nguồn tài liệu khác nhau, kể cả Wikipedia-một cơ sở dữ liệu mở cho phép đăng tải mọi ý kiến không chính thức- nhưng chưa thấy một tài liệu nào đủ sức thuyết phục về cái gọi là “ngôn ngữ Hán –Việt”, trừ một vài trường hợp có lẽ do người viết hiểu sai khái niệm “từ, ngữ “thành “ngôn ngữ” hoặc gán ghép các từ đó với nhau một cách vô thức mà ra. Cũng có thể do tôi chưa tìm kiếm hết được mọi nguồn tài liệu. Song có thể nói có rất ít cơ sở để khẳng định tính chính danh của thuật ngữ  “ngôn ngữ Hán-Việt” hay “tiếng Hán-Việt”. Nói cách khác nếu có ai đó sử dụng thuật ngữ này thì đó chỉ  là những trường hợp cá biệt. Hơn nữa về mặt tâm lý chính trị-xã hội, thì việc sử dụng rộng rãi tên gọi “ngôn ngữ Hán-Việt” là không có lợi cho Việt Nam, nó gợi lên rằng người Việt không có ngôn ngữ riêng - điều này hoàn toàn không đúng nếu xét về lịch sử hơn 4000 năm, trong đó có 1000 năm bị Bắc thuộc xen vào giữa. Không có lý gì 2000 năm trước Bắc thuộc dân tộc Việt Nam không có tiếng nói và chữ viết riêng của mình?. Tôi tin đây là một “góc khuất” của lịch sử cần được tiếp tục tìm kiếm và giải mã.

Về mặt lý thuyết cũng không có cơ sở để đặt tên là “ngôn ngữ Hán –Việt” . Bởi lẽ, đã nói đến ngôn ngữ là phải nói đến chủ thể đích thực của nó. Chủ thể đó là một cộng đồng dân tộc cùng sử dụng chung ngôn ngữ đó, không lẫn lộn với ngôn ngữ khác; nó tồn tại và phát triển trong một quá trình lịch sử đủ dài để khẳng định mình. Trong trường hợp cụ thể của Việt Nam, ta thấy  không hề có khái niệm cộng đồng (hoặc dân tộc) Hán-Việt; chỉ có cộng đồng người Hoa sống bên cạnh cộng đồng người Việt; có khái niệm người Việt gốc Hoa, nhưng ai có ngôn ngữ riêng của người ấy. Chỉ có khái niệm  "từ ngữ Hán-Việt" mà thôi, tức là những từ ngữ có nguồn gốc từ sự kết hợp giữa tiếng Hán và tiếng Việt trong quá trình Bắc thuộc và giao lưu giữa hai dân tộc; dù mật độ pha tạp có đến bao nhiêu phần trăm đi nữa, nhưng nó chỉ sử dụng trong cộng đồng người Việt, người Trung Quốc bình thường không thể hiểu được, thì nó phải gọi là "tiếng Việt", không thể gọi là "tiếng Hán-Việt". Điều tương tự vẫn xảy ra đối với nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới. Ví dụ, tiếng Nùng có rất nhiều từ ngữ Việt trong đó, nhưng không  gọi là “tiếng Việt-Nùng”; tiếng Đan Mạch giống tiếng Đức đến mức hai bên có thể hiểu nhau  nhưng không gọi là "tiếng Đức-Đan",v.v... Trường hợp tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung ... được nhiều nước khác nhau sử dụng như một ngôn ngữ quốc gia, khi cần phân biệt người ta goi tên ghép như tiếng Anh Mỹ, tiếng Anh Úc, tiếng Anh Ấn Độ v.v... là chuyện hoàn toàn khác.
Ngoài ra cũng cần thấy rằng lâu nay vẫn tồn tại dai dẳng hai quan điểm khác nhau về cách đánh giá nguồn gốc tiếng Việt và tiếng Trung. Tuy nhiên cả hai quan điểm đều thống nhất rằng tiếng Việt và tiếng Hán đã song tồn hàng ngàn năm trước thời kỳ Bắc thuộc. Trong khi một quan điểm mặc nhận rằng tiếng Việt vay mượn rất nhiều từ tiếng Hán, quan điểm kia lại cho rằng tiếng Trung  là kết quả của việc tiếng Hán vay mượn (đánh cắp) từ tiếng Việt cổ (của người Bách Việt) trong suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm trước và sau công nguyên khi người Hán chinh phục hoàn toàn người Bách Việt ở bờ Nam sông Dương Tử . Giả thuyết này chứng minh bằng cách chỉ ra nhiều từ ngữ tiếng Việt cổ trong tiếng Hán và hiện tượng danh từ đi trước tính từ cùng nhiều chứng cứ khác, xem ra cũng rất có sức thuyết phục.

Tóm lại, theo tôi, chỉ có khái niệm “từ ngữ Hán-Việt” chứ hòan toàn không có cơ sở nào để gọi “ngôn ngữ Hán- Việt” hoặc “tiếng Hán-Viêt”. Là người Việt Nam chúng ta cần nhận thức rõ điều này để cùng nhau bảo vệ giá trị ngôn ngữ và văn hóa của dân tộc đồng thời chú ý giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt-điều mà Cụ  Hồ Chí Minh đã từng rất chú ý làm gương . Không hiểu sao bây giờ  không ai làm việc này, lại còn có xu hướng lạm dụng bừa bãi việc ghép từ ngữ Hán vào tiếng Việt (?)

Có thể các "bạn" Trung Quốc thích thuật ngữ "ngôn ngữ Hán-Viêt", "tiếng Hán-Việt" , nhưng người Việt Nam thì không, thậm chí phải bác bỏ nó mới phải. Không chỉ về ngôn ngữ , mà có nhiều vấn đề liên quan đến cội nguồn dân tộc Việt cũng rất được cần xem lại. Ví dụ, đáng lẽ phải truy tìm lại tiếng Việt cổ (bị mất sau 1000 năm bắc thuộc) thì giai cấp phong kiến Việt Nam đã ra sức truyền bá chữ Nho, giờ lại định truyền bá về "tiếng Hán-Việt" thì thật là đáng buồn!. Hình như người Việt Nam ngày nay quên mất rằng nguồn gốc các vua Hùng thực sự đã xuất phát từ Hồ Động Đình thuộc tĩnh Hồ Nam của lãnh thổ Trung Quốc bây giờ ; và Hai Bà Trưng khởi binh phục quốc cũng ngay bên trong lãnh thổ miền nam Trung  Quốc (?). Trong nhiều trường hợp người Việt ta cứ vô tư trích dịch sử sách của Trung Quốc để làm sử của Việt Nam, rốt cuộc mưa dầm thấm lâu rồi thấy “mình từ người Hán mà ra cả” thì thật là sai lầm!

Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2012

Tôi tự hào mình là người Việt Nam vì cái gì?

Lời giới thiệu của chủ blog: Dưới đây là một "hot entry" mới xuất hiện trên mạng. (Theo thiển nghĩ của chủ blog tôi) nó không phải là một án văn tuyệt cú, cũng không phải một bài bình luận chính trị sâu xa..., thậm chí chỉ là một bài viết ngẫu hứng không theo thứ tự cú pháp nào. Nhưng nó cho thấy một cách tự hào dân tộc hồn  nhiên chân thực, đôi khi ngây thơ một chút, thiếu thông tin một chút ...Và do đó nó chứa đựng những thông điệp rất đáng để suy ngẫm.  
Tác giả và nguồn gốc xuất xứ được nêu rõ qua nội dung entry với mọi bút tích đều giữ nguyên không chỉnh sửa;  trừ một vài hình ảnh minh họa của chủ blog. Mời quý vị tham khảo, và tốt hơn nếu cho biết commment của quý vị.  



             Tôi tự hào mình là người Việt Nam vì cái gì?


1) Tôi tự hào vì nước tôi trải dài từ Bắc chí Nam, không đâu là không có thắng cảnh, không đâu không có di tích văn hóa.

2) Tôi tự hào vì trường tôi mang tên Lý Tự Trọng, Châu Văn Liêm, Kim Đồng, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Du, Lê Lợi...

3) Tôi tự hào vì mỗi tên đất, tên đường ở xứ tôi đều viết bằng tên người chứ không phải đánh số.

4) Tôi tự hào vì quê tôi có hai mùa mưa nắng. Mùa mưa thì ngập lụt mùa nắng thì hạn hán nhưng chưa có ai ở nước tôi chết đói.

5) Tôi tự hào vì nước tôi có núi, có sông, có rừng, có biển chứ không phải chỉ toàn cát như Iran và Ai Cập.

6) Tôi tự hào vì nước tôi có 54 dân tộc trên 85 triệu dân thay vì 56 dân tộc trên 1600 triệu dân.

7) Tôi tự hào vì người Sài Gòn nói: “trời hôm nay nóng quá” chứ không phải là “It’s hot” như người Anh.

8) Tôi tự hào vì tôi có thể bằng ngôn ngữ mẹ đẻ nói chuyện cho cả anh bạn ở Hà Nội và ở An Giang đều hiểu.

9) Tôi tự hào vì nước tôi có 4000 năm văn hiến chứ không phải 400 năm.

10) Tôi tự hào vì thủ đô Hà Nội là Thăng Long 1000 năm chứ không phải Washington 220 năm.

11) Tôi tự hào vì Văn Miếu là đại học đầu tiên ở Đông Nam Á.

12) Tôi tự hào vì lúc nhỏ mẹ đã ru:

Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ Nhu
Chín trăng em đợi ngàn thu em chờ

13) Tôi tự hào vì bia Tiến sỹ.

14) Tôi tự hào vì chữ Nôm, chữ Quốc ngữ chứ không phải chữ Tàu.

15) Tôi tự hào vì 1000 năm Bắc thuộc, vì hôm nay vẫn là công dân Việt Nam chứ không phải người tỉnh Việt Nam của Trung Quốc.

16) Tôi tự hào vì nước tôi là quốc gia đầu tiên trong số các thuộc đại giành được độc lập thực sự.

17) Tôi tự hào vì Nguyễn Trãi đã viết:

Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

18) Tôi tự hào vì Michael Jackson đổi màu da và vì Lê Chiêu Thống đã nói: “Da có thể lột được nhưng áo không thể đổi. Đầu có thể chém được nhưng tóc không thể cắt.”

19) Tôi tự hào vì cái xấu xí mà Hoàng Cầm viết:

Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng

20) Tôi tự hào vì sự tích Trầu Cau, sự tích bánh chưng bánh dày...

21) Tôi tự hào vì Sơn Tinh thắng Thủy Tinh, vì ông Hạng đánh thần gió, vì Đam San đi bắt nữ thần Mặt Trời.

22) Tôi tự hào vì cô Tấm là nhân vật cổ tích duy nhất có tên. Tất cả họ đều vô danh.

23) Tôi tự hào vì Sơn Nam viết Lịch sử khẩn hoang miền Nam chứ không phải lịch sử tàn sát người da đỏ.

24) Tôi tự hào vì Đoàn Giỏi đã viết Đất rừng Phương Nam: “Mênh mông rừng tràm, bạt ngàn dừa xanh... cho ta thêm yêu, dấu chân ngàn năm đi mở đất, cho ta thêm yêu bầy chim sáo, sổ lòng...”

25) Tôi tự hào vì Huỳnh Văn Nghệ đẽ viết:

Từ độ mang gươm đi mở cõi
Nghìn Năm thương nhớ đất Thăng Long

26) Tôi tự hào vì cây Kơ-nia đã nói: Hỏi cây uống nước đâu, uống nước từ miền Bắc...

27) Tôi tự hào vì Tế Hanh đã nói:

Tôi nay sống trong lòng miền Bắc
Sờ lên ngực nghe trái tim thầm nhắc
Hai tiếng thiêng liêng hai tiếng Miền Nam

28) Tôi tự hào vì người xưa đã viết: Việt điểu sào nam chi, chim Việt bay về phương Bắc, không phải cành cây phía Nam thì không đậu, không phải nguồn nước chảy về Nam thì không uống.

29) Tôi tự hào vì tôi không phải người miền Bắc, không phải người miền Nam mà là người Việt Nam.

30) Tôi tự hào vì Phạm Văn Đồng đã nói: “Không có miền Bắc đánh thắng miền Nam, trong trận chiến này, cả dân tộc chúng tôi đều thắng.”

31) Tôi tự hào vì Vovinam chỉ có một màu áo, vì dù chúng tôi không thể vào World cup nhưng không bao giờ có hai đội bóng Việt Nam.

32) Tôi tự hào vì Hồ Chí Minh đã nói:

Non sông Việt Nam là một
Dân tộc Việt Nam là một
Sông có thể cạn, núi có thể mòn
Song chân lý đó không bao giờ thay đổi.

33) Tôi tự hào vì Albert Einstein vẫn mang quốc tịch Đức sau 30 năm sống trên đất Mỹ và Nguyễn Thái Bình đã viết thư cho tổng thống Nickson để khẳng định, rằng: Thưa ngài tổng thống, tôi là người Việt Nam.

34) Tôi tự hào vì Trần Đại Nghĩa đã nói: “Một ngày ở Việt Nam bằng ba mươi năm tôi ở Pháp.”

35) Tôi tự hào vì Trần Bình Trọng cũng nói: “Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc.”

36) Tôi tự hào vì Nguyễn Văn Thạc đã nói: “Rồi mai đây sẽ còn người tiếp bước tôi viết lên những trang giấy trắng này.”

37) Tôi tự hào vì Quang Dũng hát: “Đất nước tôi, thong thả giọt đàn bầu... Từ lúc nằm nôi sáng chắn bão giông chiều ngăn nắng lửa... lao xao trưa hè một giọng ca dao... lao xao trưa hè một giọng ca dao...”

38) Tôi tự hào vì:

Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều và đất nước hóa nên thơ

39) Tôi tự hào vì Bà Trưng: “Là đàn bà đem một lũ quân ô hợp mà lấy được hai mươi thành dễ như trở bàn tay.”

40) Tôi tự hào vì Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sống Bạch Đằng, Lý Thường Kiệt đánh tan quân Tống trên sông Như Nguyệt.

41) Tôi tự hào vì nhà trần dùng mười vạn quân đánh tan 50 vạn quân Nguyên.

42) Tôi tự hào vì quân Nguyên đã đánh thắng hầu hết các quốc gia thời đó trừ Nhật Bản và Việt Nam.

43) Tôi tự hào vì Lê Lợi mười năm đánh quân Minh, Hoàng Hoa Thám Phan Đình Phùng thế cô trường kỳ đánh Pháp.

44) Tôi tự hào vì Nguyễn Trãi viết:
Việc nhân nghĩa cốt ở an dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

45) Tôi tự hào vì Lê Lai chết thay vua.

46) Tôi tự hào vì Huyền Trân hy sinh tình riêng để mở mang bờ cõi.

47) Tôi tự hào vì Tố Hữu viết:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà Lòng phơi phới dậy tương lai.

48) Tôi tự hào vì không một ai trong số những người đi kháng chiến có mặt trong các tấm hình mà tôi biết lại đang khóc. Tất cả họ đều cười rất tươi để đi vào chỗ chết.

49) Tôi tự hào vì thanh niên xứ tôi viết đơn bằng máu để xin ra chiến trường.

50) Tôi tự hào về những cô gái ngã ba Đồng Lộc, về câu hát của những bà cụ trong đêm gặp mặt ngày truyền thống Thanh niên xung phong: “Ơi những cô con gái đang ngày đêm mở đường... Hỡi em bao nhiêu tuổi mà sức em phi thường... Em đi san rừng em đi bạt núi, em như con suối nước chảy đá mòn...”

51) Tôi tự hào vì Mỹ không thể san phẳng Hà Nội như đã từng làm với Bình Nhưỡng trong 20 ngày đêm năm 1972.

52) Tôi tự hào vì câu mà bộ trưởng McNamara đã nói: “Hãy dừng ngay lại, tổng thống, nếu không B52 sẽ tuyệt chủng mất.”

53) Tôi tự hào vì Nguyễn Hữu Thọ đã mang một cái nhẫn gò từ xác máy bay Mỹ khi dự hội nghị đàm phán Pari 1972.

54) Tôi tự hào vì một chiếc xe đạp thồ có thể chở trên 100kg và đi trên 1.000km đường đất.

55) Tôi tự hào vì những gì mà Thế giới gọi là pháo đài bất khả xâm phạm và bất khả chiến bại thì đều bị Việt Nam đánh bại.

56) Tôi tự hào vì những tấm bia vô danh trên nghĩa trang quốc gia Trường Sơn.

57) Tôi tự hào vì Trọng Tấn hát: “Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ... các anh không về, chỉ mẹ lặng im...”

58) Tôi tự hào vì sau chiến tranh Việt Trung 1979, người Trung Quốc đã làm một bức tượng Mao Trạch Đông ngay gần biên giới chỉ tay về Hà Nội còn người Việt Nam thì dựng lên một tấm bảng: Không có gì quý hơn độc lập tự do.

59) Tôi tự hào vì Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy đã nói: “Thà làm dân một nước tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ.”

60) Tôi tự hào vì Mạc Đĩnh Chi đã viết câu:
Nhật hỏa vân yên, đán thượng điêu tàn ngọc thố
Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô
(Mặt trời là lửa mây là khói, ngày lên đốt rụi mặt trăng – Câu đối của vua Nguyên
Trăng là cây cung sao là đạn, hoàng hôn bắn rụng mặt trời – Vế đáp)

61) Tôi tự hào vì Lý Thượng Kiệt đã nói:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành địa phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc bây xâm phạm
Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời.

62) Tôi tự hào vì ngay sau khi đọc bài thơ ấy và nghe kể về ba lần đánh thắng quân Nguyên thì Kissinger đã thốt lên: “Ba lần ư? Thôi xin ngài. Với chúng tôi một lần là quá đủ rồi.”

63) Tôi tự hào vì Lê Lợi thắng quân Minh mà lại sai sứ cầu hòa, Quang Trung thắng quân Thanh mà lại sai Ngô Thì Nhậm viết thư tạ tội.

64) Tôi tự hào vì Trần Đăng Khoa đã viết:
Chúng em chẳng sợ Mỹ đâu
Vẫn vui vẫn hát vẫn là bé ngoan
Ao trường vẫn nở hoa sen
Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu

65) Tôi tự hào vì Ngô Đình Nhu đã nói: “Chúng ta sai lầm khi đánh giá thấp sức mạnh nhân dân.”

66) Tôi tự hào vì Nguyễn Trãi viết rằng:
Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo

67) Tôi tự hào vì Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định: “Tuy vậy, đối với nước Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày mồng 9 tháng 3, Việt minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ...”

68) Tôi tự hào vì đoàn quân tóc dài và nữ tướng duy nhất trên Thế giới.

69) Tôi tự hào vì chị Út Tịch nói: “Còn cái lai quần cũng đánh.”

70) Tôi tự hào vì Bà Triệu đã nói: “Tôi muốn đạp cơn sóng dữ, chém con cá kình ngoài bể đông.”

71) Tôi tự hào vì Tố Hữu viết:
Em là ai cô gái hay nàng tiên
Em có tuổi hay không có tuổi?
Tóc em đây hay là mây là suối
Mắt em nhìn hay chớp lửa đêm đông.

72) Tôi tự hào vì mẹ Tơm, mẹ Suốt, chị Sáu, chị Sứ, chị Hồ Thị Kỷ.

73) Tôi tự hào vì ba đảm đang, ba sắn sàng, thóc không thiếu một cân quân không thiếu một người, tất cả vì miền Nam ruột thịt.

74) Tôi tự hào vì “Hội chứng Việt Nam” của lính Mỹ.

75) Tôi tự hào vì Mỹ phải bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.

76) Tôi tự hào vì nước tôi là một trong 20 nước từng làm Ủy viên Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc.

77) Tôi tự hào vì nước tôi là chủ tịch luân phiên của ASEAN.

78) Tôi tự hào vì Việt Nam là thành viên thứ 150 của WTO trong khi Nga vẫn chưa được kết nạp.

79) Tôi tự hào vì Bill Clinton là nguyên thủ đầu tiên của phương Tây đến thăm Việt Nam.

80) Tôi tự hào vì Morrisson đã tự thiêu để phàn đối chiến tranh Việt Nam và Tố Hữu đã viết bài Emily con ơi.

81) Tôi tự hào vì du kích Venezuela đã đồng ý đổi con tin để lấy Nguyễn Văn Trỗi.

82) Tôi tự hào vì Phidel Castro đã nói: Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình.

83) Tôi tự hào vì Hải Thượng Lãn Ông đã tự thử độc dược để nghiên cứu bệnh.

84) Tôi tự hào vì chúng tôi đã nói câu: Tôi chỉ có một ham muốn tột bậc là làm sao cho dân giàu, nước mạnh. Dân ta ai cũng phải có cơm ăn áo mặc, ai cũng phải được học hành.

85) Tôi tự hào vì Bảo Quốc đã đứng lên chào và Hồng Sơn cũng làm tương tự khi đá thủng lưới Indonesia.

86) Tôi tự hào vì có người đã viết:

Dừng chân bên bờ suối
Nghe đâu tiếng quốc ca
Anh thương binh đang hát
Để át hết cơn đau
Đòn quân Việt Nam đi
Chung một lòng cứu quốc
Người ta phải cưa chân
Nhưng lại hết thuốc ngủ
Thế nên anh phải hát
Và máu vẫn phải rơi
Bác sỹ thì mím mỗi
Và anh thì vẫn hát
Đoàn quân Việt Nam đi...

87) Tôi tự hào vì Saddam Hussen đã dọa Mỹ: “Nếu các ông đánh nước tôi, các ông sẽ gặp một Việt Nam trên sa mạc.”

88) Tôi tự hào vì những đứa trẻ sinh ra bị dị tật do chất độc màu da cam, tự hào vì tóa án Mỹ đã phủ quyết những tội lỗi của họ.

89) Tôi tự hào mỗi sớm mai tôi có thể thức dậy và yên tâm là đầu mình còn trên cổ và tự do đi lại bất cứ nơi nào mà tôi thích giữa hai miền.

90) Tôi tự hào vì nước tôi không có đánh bom liều chết, không có xung đột sắc tộc, không có biểu tình phong tỏa sân bay Nội Bài.

91) Tôi tự hào vì đất nước tôi không có thủ tướng thuộc đảng Cam còn quốc hội thuộc đảng Vàng để mà tổ chức bầu cử nửa năm một lần.

92) Tôi tự hào vì thủ tướng Úc có thể chạy bộ một mình trên bờ hồ Hoàn Kiếm còn tổng thống Bush thì phải được bảo vệ nghiêm ngặt ở Washington.

93) Tôi tự hào vì nước tôi không sản xuất vũ khí hạt nhân, không sản xuất những thứ có thể giết người mà chỉ sản suất những thứ để phục vụ con người.

94) Tôi tự hào vì ở nước tôi phụ nữ mặc áo dài chứ không phải áo hai dây, tam tòng tứ đức chứ không phải ba chồng bốn đứa (con)

95) Tôi tự hào vì em gái tôi không mang thai trước khi nó kết hôn, em trai tôi không nghiện hút.

96) Tôi tự hào vì các em tôi có thể an toàn ở trường, vì không ai có thể xả súng hay kỳ thị chúng.

97) Tôi tự hào vì Martin Luther King đã nói: “Tôi mơ về một ngày mà những đứa con của tôi có thể được xét đoán dựa trên phẩm hạnh và tính cách chứ không phải trên màu da.”

98) Tôi tự hào vì tôi xài đồng 1.000VND chứ không phải 1 tỷ Dollar Zimbabue.

99) Tôi tự hào vì Việt Nam là nước xuất khẩu gạo thứ hai trên Thế giới trong khi cách đây 30 năm phải nhập khẩu lương thực.

100) Tôi tự hào vì đoàn Việt Nam dẫn đầu trong các kỳ thi Robocon chứ không phải đoàn Nhật.

101) Tôi tự hào vì người phát hiện ra lỗ hổng của Google và Microsolf là công ty Bkis của Việt Nam.

102) Tôi tự hào vì Trường Sa Hoàng Sa vẫn có lính biên phòng của hải quân Việt Nam.

103) Tôi tự hào vì GDP của Việt Nam vẫn tăng trong năm 2009.

104) Tôi tự hào vì cầu Cần Thơ.

105) Tôi tự hào vì Ilia Erembua đã nói: “Tình yêu nước bắt đầu từ những vật thân quen nhất, như dòng suối đổ về sông, như sông đổ ra đại trường giang Vonga và đại trường giang Vonga trôi về biển cả.”

106) Tôi tự hào vì de Amicis đã viết trong Những tấm lòng cao cả: "Khi con du lịch ở xa về, một buổi sáng, đứng dựa bao lơn tàu con thấy ở chân trời một dãy núi xanh của xứ con hiện ra, bấy giờ con sẽ thấy trào lệ cảm ở lòng con dâng lên và miệng con vuột ra những tiếng kêu mừng rỡ."

107) Tôi tự hào vì Nguyễn Khoa Điềm viết:
Đất là nơi em tắm
Nước là nơi ta hò hẹn

108) Tôi tự hào vì dân nước tôi gọi nơi này là Tổ Quốc, là Quê Hương, là nơi chôn nhau cắt rốn, là hai khái niệm thật đơn thuần: Đất và Nước.

109) Tôi tự hào vì Giang Nam đã viết:

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người

110) Tôi tự hào vì ngôi nhà của tôi, con đường tôi đến trường, tự hào vì các bạn tôi, tự hào đơn giản vì nếu tôi không tự hào về nó thì tôi cũng không tự hào về mình.
Tôi không phải là người Việt 100%. Tôi mang một chút dòng máu Hoa, một chút dòng máu Ấn, một chút dòng máu Mỹ la tinh, và dĩ nhiên một chút dòng máu Việt.

Tôi có trong mình hai hộ chiếu, một của Hoa Kỳ, một của Việt Nam, vì tôi có hai quốc tịch.

Tôi có nhiều điều không thuộc về đất nước này như thế nào, thì tôi vẫn chưa bao giờ thôi tự hào rằng tôi là người Việt Nam.

Khi tôi sang nước ngoài, tôi dùng tên Võ Ánh Ban Mai, tên trong chứng minh thư của tôi, trong hộ chiếu Việt Nam của tôi, thay cho tên Sussan Sunrise Wong, tên trong hộ chiếu của nước Mỹ. Bởi vì khi đó, những bạn bè quốc tế đều phải nhìn tôi, phải "ồ" lên rằng: "Bạn là người Việt Nam à ? Tôi biết về đất nước bạn. Đất nước bạn có Vịnh Hạ Long thật đẹp, và tôi đã bỏ phiếu bầu cho Vịnh Hạ Long của bạn trở thành một trong bảy kỳ quan thiên nhiên thế giới." Bởi vì khi đó, một cô bạn Israel, trong kì cắm trại Hướng đạo thế giới, đã nói với tôi rằng: "Tôi ước gì đất nước tôi yên bình như đất nước các bạn."...

Việt Nam của tôi không giàu có, nhưng đã không còn là nước nghèo chỉ sau hơn 20 năm phát triển, trong khi Singapore có 100 năm và nước Mỹ 300 năm. Việt Nam chúng tôi yên bình, những người trẻ tuổi có thể yên ổn học hành mà không sợ bị đánh bom hay xả súng, khi đất nước này chỉ có được hoà bình 35 năm, mà người Mỹ thì không khi Mỹ chưa bao giờ hứng chịu bất kỳ cuộc chiến tranh quốc tế nào. Việt Nam của tôi nợ tiền của nhiều quốc gia, tổ chức thế giới, nhưng cũng là chủ nợ về máu xương của chính những quốc gia ấy. Việt Nam của tôi gòng mình hứng chịu chiến tranh, chưa thôi đau đớn vì những vết thương chiến tranh để lại, nhưng vẫn tiến lên phía trước. Việt Nam của tôi có những đứa con lai như tôi nhưng chưa bao giờ bị kì thị...

Bao nhiêu đó cũng đã đủ đế tôi vỗ ngực nói với bạn bè quốc tế rằng: "Tôi là người Việt Nam !"

--------------

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này