Hiển thị các bài đăng có nhãn Hành chính công. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hành chính công. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

Chuyện bình thường của một xã hội không bình thường

Suốt tuần qua từng tóp công nhân xưng danh "công ty cấp nước" thay nhau đào bới vỉa hè cả tuyến phố Tô Hiêu, Quận Cầu Giấy, Hà Nội  nói là "để chuyển đồng hồ nước từ trong nhà ra ngoài". Nghe đơn giản vậy, nhưng thực ra đó là cả một mưu đồ tính toán của một nhóm lợi ích. Sao lúc khác không làm, lại nhè lúc sắp Tết ? Dân đã quen với đồng hồ nước đặt bên trong nhà và đồng hồ mới lắp còn tốt sao phải thay thế?   Đã thế vừa thông báo xong là thực hiện liền khiến dân không kịp chuẩn ai cũng sợ bị cắt nước mất ăn Tết! Dân đùa: "Lại dự án đến hẹn giải ngân đây mà!" Năm nào họ đào bới vỉa hè vào dịp cuối năm khi thì lắp lại gạch, khi thì lắp đặt các loại cáp điện, ống nước ....  

Nhưng , điều tồi tệ hơn thế đã diễn ra khi mọi người nhận ra rằng cùng với việc mắc lại đồng hồ nước,  người ta đã cắt bỏ luôn toàn bộ hệ thống ống cấp nước cũ vốn có đủ áp lực mạnh chảy lên các tầng cao giúp tuyến phố này thoát cảnh "tự cung tự cấp" với những đường ống chằng chịt cùng bể ngầm, bể treo và máy bơm, thật là sướng! Những tưởng đó là niềm tự hào dù nhỏ nhoi của phố Tô Hiệu. Nhưng niềm tự hào đó đã không tồn tại được bao lâu! Giờ thì  xin mời quý ông, quý bà hãy dùng một đường nước bình thường chỉ đủ chảy vào tầng I thôi nhé! Các công đoạn còn lại xin mời quý vị "tùy nghi di tản"! 
Bằng động tác "độc quyền" bất ngờ này, phía công ty cấp nước đã "hô biến" mấy trăm hộ dân trở lại với thời kỳ  "tự cung tự cấp" của thế kỷ 20 khiến nhà nhà chỉ còn cách khẩn trương  mua sắm thiết bị , vật tư để xây lại bể chứa , lắp lại máy bơm.... Tất cả diễn ra như thể trên thế gian này không hề có chuyện Nhà cung cấp nước có nghĩa vụ phải cung cấp nước lên tầng cao cho phố phường!  

Có người thắc mắc : Lẽ nào công ty cấp nước không nhân ra sự lãng phí (của cả người dân và Nhà nước) qua việc cắt bỏ một hệ thống cấp nước đang yên lành như vậy ?  Lẽ nào họ không biết rằng hệ thống cấp nước hợp lý sẽ góp phần giảm thiểu thất thoát nước, tiết kiệm điện năng và các loại chi phí không cần thiết và cũng để đảm bảo mỹ quan đô thị ? Nếu biết thì tại sao họ hành động như những "con kiến leo cành đa" và hát mãi "bài ca xây-phá -xây" như thế? Sự thể đơn giản là , để đối lấy một món tiền nhỏ nhoi làm "quà Tết", họ sẵn sàng cho xóa sổ một hệ thống cấp nước đang vận hành tốt và coi đó như một "sáng kiến cải tiến". Nhưng thực ra đó là hành động phá hoại với đầy đủ những tội danh của nó. Trớ trêu thay, tại đất nước này, những hành động phá hoại như vậy lại được coi là thành tích góp phần nâng cao tỷ lệ tăng trưởng cao!
 
Biện pháp khác thường nói trên của cơ quan cấp nước tại Thủ đô chắc chắn không phải là một việc làm tự phát nhỏ lẻ (?) Nó cho thấy một tình trạng chung  đã ăn sâu bám rể trong toàn bộ hệ thống công quyền, đặc biệt các tổ chức kinh tế độc quyền nhà nước. Đối với họ, đó là một mánh lới kinh doanh được coi là bình thường nhằm đưa lại  những khoản "thu nhập thêm" để "động viên cán bộ công nhân viên hăng hái hoàn thành nhiệm vụ" .... Và tất cả đều được che đậy dưới những cái tên gọi là "dự án"....  Nhưng cái mất lớn hơn là ở sự xuống cấp về tư cách và đạo đức của toàn bộ đội ngũ công chức, đế một ngày kia họ không biết mình đang làm việc cho ai và vì ai. Đó là lúc sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước lâm nguy khi lòng tin của nhân dân không còn nữa./.
 

Thứ Sáu, 11 tháng 1, 2013

Hơn cả lời từ chối

Mấy ngày qua dư luận nóng lên xung quanh sự kiện nữ Đạo diễn kiêm Diễn viên điện ảnh Nguyễn Thị Kim Chi từ chối giải thưởng của Hội điện ảnh Việt Nam. Từ chối giải thưởng không phải là chuyện lạ, nhưng điều đáng nói ở đây là lý do từ chối vì "không muốn trong nhà có chữ ký của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân".... Nghe thật bi, hùng, hài đúng không, thưa quý vị? 

Số là nghệ sĩ nổi tiếng Nguyễn Thị Kim Chi mới đây đã được Hội Điện ảnh Việt Nam gợi ý làm hồ sơ để đề nghị Thủ tướng khen thưởng. Nhưng không ngờ, bà đã gửi ngay một bức thư tới Hội xin từ chối phần thưởng đó với lý do thật ngắn gọn và rõ ràng:
“Tôi không muốn trong nhà tôi có chữ ký của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân. Với tôi, đó là một điều rất tổn thương vì cảm giác của mình bị xúc phạm".
Trong bức thư, bà Kim Chi cũng có nói: 
“…Được các đồng nghiệp có tâm, có tài khen ngợi mới thật là điều vinh dự".

Phần còn lại của bức thư và qua nội dung trả lời phỏng vấn sau đó bà Kim Chi đã giải thích rất rõ ràng, minh bạch về quan điểm và lý tưởng sống, chiến đấu, học tập và công tác của mình. Qua đó có thể thấy không một chút vấn vương, ích kỷ, vụ lợi nào trong quyết định từ chối giải thưởng của người nữ nghệ sĩ tài sắc mà đầy dũng khí này. Động cơ duy nhất của bà có lẽ là nói lên điều tâm nguyện của bản thân và đồng đội.

Lời từ chối như vậy mạnh hơn cả một lời tuyên bố. Có người đã ví nó như một tiếng sấm làm chấn động dư luận trong và ngoài nước trong những ngày qua. Điều đáng nói là sự kiện này xảy ra một cách ngẫu nhiên giữa lúc Ban Tuyên huấn Trung ương vừa kết thúc Hội nghị đánh giá công tác tuyên huấn còn nhiều "yếu kém" đồng thời quyết định tăng cường với hàng loạt biện pháp, trong đó có việc thành lập đội "Cộng tác viên xã hội" gần 1000 thành viên tham gia phản bác "các thế lực phản động" trên mạng internet!

Nghệ sĩ Kim Chi (bên trái) vừa là chiến sĩ vừa là nghệ sĩ
Thật khó hiểu tại sao Cơ quan tuyên huấn của Đảng lại tỏ ra xơ cứng đến như vây? Sau nhiều phát ngôn nhịu ngộ, sai sự thật của một số cán bộ tuyên huấn và trước làn sóng phản ứng của công luận thì sự từ chối giải thưởng của nữ nghệ sĩ Kim Chi làmột lời cảnh báo về tình trạng yếu kém và sai lầm của quá trình công tác tuyên truyền của Đảng và Nhà nước trong bối cảnh tình hình những năm gần đây. Lời cảnh báo đó phát ra bởi chính một trong những thành viên xuất sắc nhất của đội quân tuyên truyền của Đảng, chứ không phải kẻ địch hoặc ai xa lạ. Phải chăng đã đến lúc để các nhà lãnh đạo đất nước giật mình soi lại bản thân trong gương đồng thời rà soát lại toàn bộ khâu công tác tuyên huấn của Đảng? Lâu nay giới lãnh đạo và cán bộ tuyên huấn bao giờ cũng tự cho mình quyền phán xét đúng, sai và quyết đinh nhân dân cần nghe gì, nói gì. Lãnh đạo cũng ban phát những món quà tinh thần cho cấp dưới. Nhưng  giờ đây họ được nghe một lời nói thật từ cấp đưới. Và đó không phải một lời dẽ nghe như vẫn mong đợi. Đó là điểm mới của tình hình; nó cho thấy, đã đến lúc cần thay đổi một cách cơ bản về phương pháp công tác tuyên huấn, đó là phải lắng nghe quần chúng trước khi đưa ra lời huấn thị đối với họ. Người lãnh đạo cấp càng cao thì càng phải gương mẫu trong mọi hành động và lời nói. Một việc làm đúng đắn có giá trị gấp trăm lần những lời nói suông. Nói một đàng làm một nẻo sẽ làm mất lòng tin của dân chúng không bao giờ lấy lại được. Trong mấy năm gần đây công luận đã chứng kiến nhiều phát ngôn "bất hủ" của một số vị lãnh đạo và cán bộ tuyên giáo các cấp. Những tấm "bia miệng" vẫn còn trơ trơ đó cho thấy chất lượng công tác tuyên huấn bắt nguồn từ cấp cao và ở  đường lối chính sách. Một khi nôi dung đường lối chính sách chưa ổn thì càng tuyên truyền bao nhiêu sẽ càng bộc lộ yếu điểm và càng mất lòng tin từ phía người nghe bấy nhiêu. Hiện tượng nghệ sĩ Kim Chi từ chối phần thưởng là một giọt nước tràn ly của lòng kiên nhẫn mà nhân dân đang chịu đựng.

Không thể phủ nhận vai trò quan trọng của công tác tuyên huấn. Song tuyên truyền gì thì cũng phải tôn trọng sự thật, và phải theo phương châm "do dân vì dân", chứ không thể vì những thế lực vô hình để chống lại nhân dân, đi ngược lại lợi ích của dân tộc. Nhân đây xin nêu lên hiện tượng gần đây thấy xuất hiện khá nhiều nick mới trên Facebook và mạng internet nói chung với những hành tung và lời bình khiến ta nhớ lại thời "Hồng vệ binh" bên Trung Quốc. Phải chăng họ là những "Cộng tác viên xã hội" đang thực thi sứ mệnh đã được giao phó? Liệu họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ hay sẽ chỉ làm rối thêm tình hình và lại một lần nữa chuốc lấy hậu quả theo kiểu "lợi bất cập hại"?
     

Thứ Năm, 3 tháng 1, 2013

Tình người trên đất miến (*)

(*) Đây là bài viết của tác gitên Dương Đình Giao và là nạn nhân "người thật việc thật" gửi đến Blog Bách Việt; sau khi kiểm chứng thông tin, xin đăng lên để bạn đọc tiện tham khảo. Với hai tiểu mục "Thoát nạn xứ người","Gặp hạn xứ mình" bài viết đã nói lên nghịch cảnh của bn thân tác giả và gia đình mình vừa thoát khỏi một tai nạn máy bay ngày 25-12-2012 tại Miến Điện. Câu chuyện càng chua chát khi so sánh cung cách làm việc của quan chức Việt Nam với nước bạn láng giềng Myanma mới đây còn bị thế giới coi là độc tài, lạc hậu. Hy vọng đây là một bài học sinh động về tình trạng quan liêu, tc tách của ngành hành chính công nói chung và của các Cơ quan đại diện ở nước ngoài nói riêng của Việt Nam. Xin cảm ơn  tác givà bạn đọc quan tâm (Bách Việt). 

Thoát nạn ở xứ người

Chiếc máy bay vẫn bốc cháy nhiều giờ liền sau vụ tai nạn.Thêm chú thích
Ngày thứ 2 của hành trình, hôm 25-12-2012, máy bay của hãng hàng không Air Bagan đưa chúng tôi từ Yangon đi Heho, nơi có hồ Inle nổi tiếng. Theo lịch trình, chuyến bay sẽ đến Heho lúc 9 giờ sau khi dừng lại ở sân bay Mandalay để đón và trả khách trong khoảng 30 phút.

Khi máy bay hạ độ cao chuẩn bị xuống sân bay Heho, tôi nhìn đồng hồ, lúc ấy là 8 giờ 55 phút. Một lát sau, tôi cảm thấy một cú tiếp đất mạnh hơn bình thường khi máy bay hạ cánh. Ngay sau đó là những rung lắc liên tục trong vòng khoảng 10 giây. Đang bất ngờ vì không hiểu chuyện gì đã xảy ra, tôi nghe một tiếng kêu ở phía sau. Biết là đã có chuyện, tôi nhắc mọi người bình tĩnh và đứng lên bật nắp khoang hành lý để lấy ba lô của mình. Nhưng nắp vừa bật, tôi bị đẩy ngã nhào về phía trước. Đứng lên, quay lại nhìn phía sau, tôi thấy các thành viên trong gia đình mình đã rời khỏi ghế và ra được lối đi. Bước lên mấy bước, tôi chợt ngửi thấy mùi khói. Một ý nghĩ thoáng qua: “Chỉ cần một tiếng nổ là tất cả sẽ chấm hết!”

Xuống khỏi thang máy bay, tôi mới thấy máy bay đã không hạ cánh trên đường băng bê tông mà đang nằm trên một cánh đồng, phía đuôi máy bay đang bốc cháy, khói nghi ngút. May mắn bất ngờ, tất cả chúng tôi (6 người trong gia đình và hai mẹ con bà thông gia người Úc) đều an toàn. Tôi vội giục mọi người nhanh chóng chạy ra xa.
Trên chuyến bay có 65 người, kể cả phi hành đoàn, trong đó ngoài 5 người Việt Nam trong gia đình tôi, còn lại đều là khách du lịch từ các nước Mỹ, Pháp, Hà Lan, Hàn Quốc, …
Nơi máy bay hạ cánh khẩn cấp cách sân bay khoảng 3 km và cách đường ô tô khoảng 200 m. Khi ra tới nơi, mấy xe cứu hỏa đã có mặt đang tìm cách tiếp cận với đám cháy. Nhưng vì không có lối vào, phải nối dài vòi rồng nên việc cứu chữa không thật kết quả. Trên đường, chúng tôi đã thấy nhiều biển tên khách của các công ty du lịch, khách sạn mà khách du lịch trên chuyến bay đã đặt chỗ. Họ nhanh chóng tiếp cận với khách của mình. Sự có mặt của họ dù là những người chưa quen biết cũng khiến chúng tôi yên tâm hơn, vì đã có người sẵn sàng hỗ trợ khi khó khăn nơi đất khách quê người. Nhiều xe máy, ô tô đã dừng lại chứng kiến đám cháy trong đó có cả nhiều người dân Myanmar đang làm việc trên cánh đồng. Lúc này dù đã hơn 9 giờ, nhưng mặt trời chưa kịp xua tan sương mù. Trời khá lạnh. Thật cảm động, khi thấy những người nông dân lam lũ, cởi những chiếc khăn choàng khoác lên vai, trùm lên đầu những đứa trẻ, bỏ những đôi dép mình đang đi cho những phụ nữ phương Tây xa lạ đang chịu cảnh rét mướt.
Trên đường thoát hiểm, nhiều túi, xắc, mũ, ba lô,… bị rơi được mọi người tập hợp bên lề đường, để người thất lạc đến nhận. Rất nhiều người dân Myanmar có mặt, nhưng không hề thấy ai để ý đến.
Một lát sau, hai xe khách loại lớn đưa tất cả về sân bay Heho. Khi xe dừng lại bên ngôi chùa gần sân bay, tôi nghĩ người dân Myanmar sùng đạo Phật đã đưa chúng tôi đến đây để tạ ơn Trời Phật giúp thoát nạn. Nhưng không phải! Air Bagan đã nhanh chóng liên hệ với chính quyền sở tại mượn ngôi chùa làm nơi để chúng tôi tạm nghỉ, tránh cái lạnh giá ngoài trời.

Xuống xe, chúng tôi lại thấy những người dân bình thường đang mang đệm, chăn của gia đình mình trải trên nền chùa bằng gạch men. Khi mọi người đã vào hết trong chùa, các nhân viên y tế đã có mặt. Họ thăm khám, đo huyết áp, băng bó cho những người bị thương nhẹ. (những người bị thương nặng đã ngay lập tức được đưa về Yangoon, có hai khách người Mỹ bị bỏng nặng đã được đưa sang Bangkok bằng trực thăng). Nước uống, bánh trái đã được mang đến.
Lúc 10 giờ, tức là sau khi sự cố xảy ra 1 giờ, ông chủ tịch huyện sở tại cũng đã đến thăm hỏi những người gặp nạn. Lúc này cảnh kẻ nằm người ngồi trong chùa vô cùng lộn xộn. Việc kiểm đếm những hành khách có mặt thật khó khăn. Những người có trách nhiệm có lẽ vì tôn trọng đã không yêu cầu chúng tôi ngồi cho ngay hàng thẳng lối. Họ cứ đếm đi đếm lại, người đếm bằng tiếng Myanmar, người đếm bằng tiếng Anh. Có lúc thấy ba bốn người cùng đếm. Sau tôi mới hiểu, họ cần nhanh chóng xác định số người có mặt ở đây để có thể phát hiện số người mất tích nếu có.
Phải đến khi có danh sách hành khách từ sân bay Yangoon và Mandalay gửi tới, việc kiểm đếm mới chấm dứt. Lúc này công việc đơn giản hơn. Những người có mặt được đánh dấu vào danh sách. Nhưng việc này cũng được thực hiện tới ba bốn lần bởi những người khác nhau, chứng tỏ họ rất thận trọng.
Đến 11 giờ, chúng tôi được đưa tới phòng khách của sân bay. Ở đây có bia, nước ngọt và những thức ăn nhẹ. Họ thông báo cho chúng tôi biết, ai muốn trở về Yangoon sẽ được bố trí một chuyến bay riêng, còn những ai muốn ở lại sẽ được đưa tới một resort bên hồ Inle chờ đợi giải quyết hậu quả. Gia đình chúng tôi quyết định ở lại và được đưa tới resort bằng hai xe con. Ở đây, chúng tôi đã được đón tiếp chu đáo, hai hoặc ba người được bố trí ở trong một biệt thự.


Xe cứu hỏa đến rất nhanh
Sau khi tạm nghỉ ngơi, đến 3 giờ, chúng tôi được báo đi ăn cơm. Ai cũng nghĩ chắc sẽ được một bát mì hoặc cái gì đại loại như thế, nhưng thật bất ngờ, tất cả được mời một bữa tiệc buýp-phê thịnh soạn, trên bàn ăn còn có cả hoa và thắp nến. Người quản lý giải thích “vì hôm nay là Noel!” Sau khi ăn xong, mỗi người chúng tôi được phát quần áo và một số tiền (tiền Myanmar và đôla) đủ để mua sắm lại những hành lý đã mất và tiếp tục hành trình nếu muốn. Ai cũng bất ngờ trước sự khẩn trương của Air Bagan.
Bảy giờ tối, mọi người lại được mời ăn cơm. Lại tiệc buýp-phê, hoa và nến, có thêm rượu champagne, rượu vang. Ông chủ tịch Tập đoàn HTOO (mà Air Bagan là một trong nhiều công ty con) đã từ Yangoon vượt gần một nghìn cây số tới thăm hỏi những người gặp nạn. Sáng hôm sau, chúng tôi lại được nhận thêm một số quần áo và tiền (chắc do lệnh của ông Chủ tịch tập đoàn).
Air Bagan đã vô cùng chu đáo và có trách nhiệm giải quyết hậu quả của vụ tai nạn. Trong suốt thời gian ở lại (5 ngày), ở Heho hay khi đã trở về Yangoon, tất cả hành khách trên chuyến bay đều được ăn ở tại những nơi tương đương khách sạn 5 sao, được hưởng các dịch vụ như giặt là, điện thoại quốc tế, … hoàn toàn miễn phí. Tôi vốn mơ ước một cuộc sống bình dị, rất sợ tất cả những gì là hào nhoáng, bóng bảy, nay trong hoàn cảnh không một xu dính túi, trên người chỉ độc một bộ quần áo (hành lý và xách tay đều đã cháy cùng máy bay, ngay cái máy ảnh đeo trên cổ cũng chỉ còn sợi dây đeo, kính cận thị cũng rơi mất), lại được ăn ở như thế này thật cũng là một bất ngờ thú vị. Chúng tôi không phải bước chân ra khỏi khách sạn, mọi công việc cần thiết đều do nhân viên của họ giải quyết. Ngay việc làm giấy thông hành để sử dụng khi còn trên đất Myanmar cũng được thực hiện ngay tại nơi ở. Theo họ, chỉ hai việc chúng tôi phải có mặt: đi kiểm tra sức khỏe và làm lại hộ chiếu. Nhưng với hai việc này, họ đều cho xe đưa đón và cử nhân viên đi theo hỗ trợ khi cần thiết. Họ đã hợp đồng với bệnh viện tốt nhất Yangoon để Giám đốc bệnh viện có mặt bất cứ lúc nào chỉ đạo việc thăm khám và chữa trị khi có khách do họ đưa đến.
Những nhân viên đi theo cũng ngồi đó chờ đợi và đưa khách về tận nơi ở sau khi việc thăm khám kết thúc. Vợ tôi và bà thông gia người Úc sau khi gặp chấn động mạnh bị đau lưng. Hai bà đã được thăm khám suốt hơn 3 giờ, mỗi người được làm đủ các loại xét nghiệm, chụp 4 tấm phim cỡ 50 x 50. Khi thấy không có vấn đề gì trầm trọng, họ đã cho mỗi người một cái đai bó lưng và thuốc giảm đau các loại. Bà xã nhà tôi đã nhận xét: Cả đời gần 70 tuổi, chưa bao giờ được thăm khám kỹ càng như thế!
Sau khi về Yangoon, Air Bagan đã tập hợp mọi người để thông báo về việc giải quyết bảo hiểm cho hành khách đi trên chuyến bay. Cuộc họp này cũng được thông báo cho các sứ quán có công dân trên chiếc máy bay gặp nạn. Sứ quán các nước đều có mặt đầy đủ để sẵn sàng can thiệp nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân nước mình, trừ sứ quán Úc (vì đang đóng cửa nghỉ Noel và Tết dương lịch) và sứ quán Việt Nam (không rõ lý do). Nhưng sứ quán các nước cũng không có nhiều việc phải làm, vì Air Bagan đã giải quyết vụ việc với đầy đủ tinh thần trách nhiệm. Địa chỉ và số tài khoản của hành khách được ghi lại để nhận kết quả sau khi một công ty bảo hiểm của Anh tiến hành bồi thường.
Không chỉ những người có trách nhiệm, suốt 5 ngày, dù ở đâu, chúng tôi cũng đón nhận được sự ân cần chu đáo của mọi nhân viên Air Bagan và nhân viên tại các khách sạn, resort dù tuổi đời còn rất trẻ. Họ dìu những người bị đau khi lên xuống các bậc thềm, đưa chúng tôi đến tận nơi, mở cửa, bật đèn rồi giơ tay mời vào khi hỏi đến nơi nào đó. Thấy trên tay ai có mấy túi nilon, vỏ hoa quả, họ đều nhanh chóng giơ tay đón lấy mặc dù thùng rác ở ngay trước mặt. Những cử chỉ ấy tôi hiểu không chỉ vì phương châm coi “khách hàng là Thượng đế”. Qua ánh mắt, nụ cười của họ, chúng tôi cảm nhận được sự đồng cảm, sẻ chia của những con người giàu lòng trắc ẩn.
Khi vào một làng dệt lụa thủ công trên hồ Inle, khi được biết chúng tôi là những người vừa gặp nạn, chủ cửa hàng lập tức hạ giá 30% cho toàn bộ sản phẩm mà chúng tôi mua. Số tiền thực ra không nhiều nhưng cử chỉ ấy của họ cũng khiến chúng tôi phải xúc động.
Sau 5 ngày, mọi thủ tục đã xong. Air Bagan lại cho xe đưa gia đình tôi ra sân bay. Ở đây, nhân viên của họ làm tất cả mọi thủ tục cho chuyến bay và chỉ ra về sau khi chúng tôi tạm biệt để vào phòng cách ly.
Từ Myanmar trở về, tôi cứ bâng khuâng và ân hận, vì sao một đất nước chẳng cách xa chúng ta là mấy, một xứ sở có những người dân giàu lòng nhân hậu, vị tha như thế mà tôi chưa hiểu biết được bao nhiêu?
Trong cuộc đời chưa bao giờ gặp một tai họa lớn và lại thoát hiểm “ngoạn mục” như vậy, chúng tôi biết ơn Ông Bà, Cha Mẹ đã ăn ở hiền lành, tu nhân tích đức dù trong biết bao vất vả thiếu thốn để con cháu bây giờ được hưởng phúc. Tôi xin cám ơn những người dân Myanmar đã giang vòng tay che chở khi gia đình tôi gặp nạn. Tôi cám ơn Air Bagan, đã cư xử đàng hoàng, đầy trách nhiệm trước sự cố chắc chắn họ không hề mong muốn. Và tôi thầm nghĩ, chuyến đi hôm nay của chúng tôi dang dở, nhưng nhất định sẽ có chuyến đi khác. Một đất nước với những con người như thế xứng đáng để chúng ta khám phá.

Gặp “hạn” với xứ mình

Tôi có một người bạn, do có hoàn cảnh nhiều thuận lợi (chú bác cô dì, anh em con cháu ở nhiều nước trên thế giới) nên anh đã đi khắp nơi trên cả các châu lục Âu, Á, Mỹ, Phi, Úc (chỉ còn thiếu châu Nam Cực). Một hôm, ngồi uống bia, anh dứ dứ ngón tay, bảo tôi: “Ông mà đi ra nước ngoài thì liệu mà giữ lấy cái hộ chiếu. Ông nên nhớ rằng, ông mất tiền bạc, người ta có thể cho ông, nhờ các tổ chức nhân đạo giúp ông. Nhưng nếu mất hộ chiếu thì, … thì,… chỉ có mà bỏ mẹ!”
Tôi nghe “lời răn dạy” mà thoáng có chút ngờ vực.
Vì thế, trong vụ tai nạn máy bay ở Myanmar, khi phát hiện bị mất hộ chiếu (mà lại tận 3 quyển của ba người), tôi thật sự lo lắng.
Tòa Sứ quán VN tại Myanma
Biết chúng tôi là người Việt Nam, ông quản lý khách sạn nơi tôi đang ở cho tôi số điện thoại của một người mà theo ông là nhân viên sứ quán Việt Nam ở Yangoon. Nhưng chủ nhân của số điện thoại này nói đúng là mình làm việc ở sứ quán nhưng không làm công việc về lãnh sự. Ông đã cho chúng tôi số điện thoại của ông Trần Văn Hoằng, Bí thư thứ nhất, phụ trách công việc này. Liên hệ với ông Hoằng, chúng tôi được ông trả lời, khi nào về Yangoon thì đến sứ quán và “không có gì khó khăn cả, giấy tờ sẽ được cấp ngay thôi”. Nghe lời ông Hoằng mà chúng tôi nhẹ cả người. Anh bạn tôi đã quá bi quan khi nói đến chuyện mất hộ chiếu.
Buổi trưa về tới Yangoon, chúng tôi đã điện thoại cho ông Hoằng và được ông hẹn đến vào buổi chiều.
Chiều hôm đó, tất cả những người cần cấp lại hộ chiếu trong gia đình tôi đã có mặt tại sứ quán Việt Nam ở Myanmar. Cùng đi có một nhân viên của Air Bagan. Vừa bước vào cổng, chúng tôi đã thấy một tấm baner kín bức tường lớn: Nhiệt liệt chào mừng quý khách tới thăm sứ quán Việt Nam ở Myanmar. Thật là thân thiện và mến khách! Nhưng chúng tôi đã lầm, vì chúng tôi không phải đến thăm mà đến xin sự giúp đỡ.
Sứ quán Việt Nam thật khéo chọn người! Bà lễ tân người Myanmar thấy năm sáu người bước vào phòng khách nhưng vẫn mải mê với chiếc điện thoại. Nghe cách nói cười bả lả, chắc đây không phải là chuyện công vụ. Sau khoảng 10 phút, bà mới đặt điện thoại và đến lúc này, nhân viên của Air Bagan mới có thể nói mục đích chuyến viếng thăm của chúng tôi. Bà gọi điện thoại đi đâu đó, rồi bảo chúng tôi ngồi chờ. Chờ tới 30 phút, không thấy ai ra tiếp, chúng tôi lại điện thoại báo để ông Hoằng biết chúng tôi đã ngồi chờ ngoài văn phòng của sứ quán. Ông Hoằng lại bảo chờ. Lại 30 phút nữa, mới thấy ông Hoằng xuất hiện. Chắc để tiết kiệm thời gian vì “công việc bề bộn” của sứ quán, nhà ngoại giao bỏ qua việc thăm hỏi, an ủi, động viên những đồng bào của mình vừa thoát chết, đưa cho chúng tôi mỗi người 3 mẫu in sẵn tờ giấy khổ A4, yêu cầu chúng tôi khai báo, đồng thời đòi nộp 3 tấm ảnh. Việc này khiến chúng tôi bất ngờ, vì nhà chức trách Myanmar chỉ chuẩn bị cho chúng tôi mỗi người một tấm ảnh để làm việc này. Nhưng ông Hoằng không giải thích gì thêm và quay vào trong với những “công việc bận rộn” của mình.
Rất may, anh nhân viên của Air Bagan đi theo bảo chúng tôi cứ khai giấy tờ, còn anh ta cùng lái xe đi làm thêm ảnh giúp chúng tôi. Đến khi có thêm mỗi người hai tấm ảnh, vẫn chẳng thấy ai có mặt. Mặc dù chưa hết giờ làm việc nhưng nhân viên lễ tân người Myanmar cũng chẳng thấy đâu. Gần 5 giờ, ông Hoằng mới xuất hiện và hẹn chúng tôi 3 giờ chiều hôm sau gọi điện đến để biết kết quả. Khi chúng tôi thắc mắc sao không được kết quả ngay, ông Hoằng giải thích, còn phải chờ thẩm tra ở trong nước (chắc vì sợ “thế lực thù địch” luồn về trong nước để phá hoại công cuộc xây dựng CNXH?). Nếu xong thì mai có giấy, còn nếu không xong thì phải chờ đến tuần sau (vì ngày mai đã là thứ 6, thứ 7 và chủ nhật sứ quán không làm việc). Chúng tôi trở vể với bao thất vọng.
Đêm ấy, tôi không ngủ được. Sao có thể yên tâm chờ đợi đến tuần sau trong khi người thì chấn thương, người thì có bệnh mãn tính mà các loại biệt dược mang theo đã mất hết. Tôi buộc phải nhờ đến sự giúp đỡ của ông Nguyễn Vũ Tú, Đại sứ Việt Nam tại Philippin. Có lẽ do sự tác động này, đến 3giờ chiều, điện thoại đến sứ quán, chúng tôi được ông Hoằng trả lời: đã có giấy tờ và hẹn 4 giờ rưỡi đến lấy. Chúng tôi lại thở phào nhẹ nhõm.
Đúng hẹn, 4 giờ rưỡi, chúng tôi có mặt ở sứ quán. Lại được bảo ngồi đợi. Thời gian cứ trôi, nhưng không thấy ai ra tiếp. Đến 5 giờ kém 10 phút, một kết quả không mấy tốt đẹp đã hiện ra trước mắt: 5 giờ, ông Hoằng sẽ xuất hiện mang theo 3 giấy thông hành, nhưng chúng tôi không thể nhận vì nhân viên thu tiền lệ phí đã ra về vì hết giờ làm việc. Sự cố gắng giúp đỡ của ông Nguyễn Vũ Tú có thể không có tác dụng. Lúc này, tôi lại nhớ tới lời “đe dọa” của anh bạn và cảm thấy anh ấy chưa nói hết sự nguy hiểm khi mất hộ chiếu. Tôi cảm thấy việc mất hộ chiếu còn đẩy tôi vào tình cảnh “trên cả bỏ mẹ”.
5 giờ kém 5, tôi quyết định phải hành động gấp nếu không muốn nằm chờ thêm mấy ngày nữa. Tôi kín đáo lên tầng 2 của văn phòng sứ quán tìm đến phòng làm việc của đại sứ Chu Công Phùng cầu cứu. Rất may, cửa phòng làm việc mở, ông Phùng đang ngồi viết, tôi “liều mạng” bước vào tự giới thiệu. Ông Phùng vồn vã đứng dậy bắt tay và mời tôi ngồi. Tôi vội cám ơn hết lòng vì sự giúp đỡ của ông Phùng. Sau khi biết tôi đang ở khách sạn do sự sắp xếp của Air Bagan, ông Phùng bảo tôi:“Chúc mừng bác và gia đình đã may mắn thoát khỏi hiểm nghèo. Thế bác đã nhận được đầy đủ giấy tờ rồi chứ?” Ông Phùng vô cùng ngạc nhiên khi tôi nói cho đến nay tôi chưa nhìn thấy những giấy tờ này như thế nào. Ông Phùng vội đưa tôi sang phòng làm việc bên cạnh của ông Trần Văn Hoằng – Bí thư thứ nhất phụ trách công tác lãnh sự.
Cửa mở, tôi thấy ông Hoằng tay đang di chuột máy vi tính, trên mặt bàn có mấy tấm phôi giấy thông hành. Sau khi nghe ông Phùng hỏi: “Giấy tờ của bác Giao đã làm xong rồi chứ?” Ông Hoằng vội rời máy vi tính và trả lời: “Xong bây giờ đây”! Lúc này là đúng 5 giờ. Lúc đó ông Hoằng mới viết tên, dán ảnh vào những tờ giấy thông hành chuẩn bị cấp cho chúng tôi. Ông Phùng vội xin lỗi vì đang dở việc gấp và nói tôi ngồi chờ. Khoảng 15 phút sau ông Phùng quay lại, gọi người pha nước và hỏi thăm về hoàn cảnh xảy ra tai nạn, về việc được bảo hiểm đền bù. Tôi cám ơn và trả lời ông Phùng: “Hôm qua, khi họp bàn về vấn đề bảo hiểm, Air Bagan đã mời sứ quán các nước có công dân trên máy bay gặp nạn đến dự. Các sứ quán đều đã cử người đến để sẵn sàng bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho công dân nước họ nhưng sứ quán Việt Nam không có mặt.” Tôi cũng không quên nói để ông Phùng yên tâm, mặc dù thế chúng tôi đã được “ăn theo” công dân của các nước “Tư bản giãy chết” nên vấn đề bảo hiểm không có gì khó khăn.
Khi ông Hoằng viết xong mấy giấy thông hành liền bảo tôi sang nộp lệ phí. Ông Phùng chính là người đã dẫn tôi đến nơi làm việc của bộ phận hành chính (có lẽ ông Phùng đã yêu cầu họ ở lại dù thời gian làm việc đã hết từ lâu). Nhân đây, một lần nữa, gia đình chúng tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến ông Chu Công Phùng – Đại sứ Việt Nam ở Myanmar. Tôi nộp lệ phí và nhận giấy thông hành. Nhân viên của Air Bagan vẫn chờ tôi ở tầng dưới. Lúc ấy đã là 6 giờ 30 phút.
Nhờ ba giấy thông hành này chúng tôi mới có thể trở về nước vào ngày Chủ nhật 30/12/2012.
Để các bạn hiểu thêm niềm sung sướng của một người dân trong một đất nước có độc lập tự do mà chúng ta vẫn đang tự hào, tôi xin kể hai câu chuyện xảy ra trong chuyến đi này:
- Câu chuyện thứ nhất: Bà thông gia người Úc của tôi cùng với cô con gái cũng bị mất hộ chiếu. Bà không may mắn như tôi vì sứ quán Úc đang đóng cửa nghỉ lễ. Nhưng chỉ một cuộc điện thoại vào đường dây nóng của Bộ Ngoại giao Úc, bà đã kéo được người phụ trách lãnh sự trở về nhiệm sở và nhận được hộ chiếu sau 2 giờ đồng hồ (Hộ chiếu chứ không phải giấy thông hành).
- Câu chuyện thứ hai: Từ khi đi cùng chúng tôi tới sứ quán Việt Nam để nhận giấy thông hành, nhân viên của Air Bagan đã qua điện thoại giữ liên lạc với cơ quan xuất nhập cảnh của Myanmar và yêu cầu họ ở lại sau giờ làm việc chờ giấy thông hành của chúng tôi đóng dấu xác nhận đã nhập cảnh (có như vậy khi ra sân bay chúng tôi mới có thể làm thủ tục xuất cảnh). Sau khi nhận được giấy thông hành lúc 6 giờ 30 phút nhân viên của Air Bagan đã đến cơ quan XNC làm thủ tục (chúng tôi ngồi chờ trên ô tô, không cần có mặt). Nhưng rất tiếc người nhân viên này quên không mang theo ảnh của chúng tôi. Anh ta trở về báo với chúng tôi 9 giờ sáng hôm sau cần có mặt tại khách sạn để cơ quan XNC Myanmar cho người đến chụp ảnh và họ sẽ trả lại giấy tờ sau khi hoàn tất.
Vì sao ông Hoằng đã hành xử như vậy với chúng tôi – những người đồng bào của ông đang gặp hoạn nạn ở nơi đất khách quê người? Điều ấy chỉ có Trời biết, Đất biết và ông Hoằng biết.
Dương Đình Giao
1200 đường Láng, Hà Nội.
ĐT 0983 240446.


Thứ Năm, 20 tháng 12, 2012

Khi công tác quản lý phố phường như quản lý làng xã

Suốt đêm qua và cả ngày hôm nay mất điện. Không nét, không TV, di động hết pin không sạc được, đọc xong mấy tờ báo giấy đành ra phố. Vừa bước ra cửa gặp ngay một công trường với hàng chục công nhân  đang tháo nắp cống, thiết bị dụng cụ để bừa bộn chắn hết một đoạn phố . Hình như họ đang lắp đặt đường giây cáp điện. Lại điện! Đúng là điên nặng điện ! Nhưng tội nghiệp cho họ, ban ngày phố quá đông không thi công được họ phải làm đêm. Nhiều đêm trước họ đã làm như vậy. Trong đêm thanh tịnh tiếng máy ầm ì nhức óc, chốc chốc lại ầm lên một tiếng như thời  bom B 52 oanh tạc thủ đô khiến nhiều người tỉnh giấc. Cũng tội nghiệp cho các cụ già khi đã tỉnh giấc thì khó mà ngủ lại được, đành mở mắt  chờ sáng .

Từ ngày có tuyến phố mới được đặt tên Tô Hiệu này, tuy chỉ gần mười năm nhưng đã mấy chục lần người dân chứng kiến cảnh đào bới, khi thì giữa lòng đường , khi thì bên lề đường, khi thì trên vỉ hè, hết bên trái sang bên phải ...Ừ thì phải có lý do gì đó người ta mới đào bới!. Nhưng thực sự không thể hiểu tại sao người ta đào lên lấp lại quá nhiều lần lãng phí công của như vậy ? Người bảo vì đó là lề lối làm việc không khoa học, kẻ bảo đơn giản là vì dốt, người khác quả quyết rằng đó là một trong những cách để rút "tiền chùa"! Có dự án là có tiền mà! 

Góc phố Tô Hiệu và Làng Quốc tế Thăng Long
Định  bụng thoát ra khỏi đoạn đường ồn ào bụi bậm để đến công viên Nghĩa Đô cho thoáng... Nhưng không phải dễ ! Hai  bên vỉa hè chặt cứng xe máy. Các hàng quán cố tình dùng xe máy và chậu kiểng để chắn người qua lại phần vĩa hè trước cửa hàng của họ. Phần đường tiếp giáp vỉa hè thì ô tô đỗ san sát. Vậy nên người đi bộ không có cách nào khác phải bước xuống lòng đường, đúng hơn là đi giữa đường, nhưng không được "thênh thang ta bước" như thời  Tố Hữu đâu nhé, trái lại, luôn  nơm nớp lo sợ bị xe tông vào người từ bốn phía . Phải mất quãng 45 phút để thoát khỏi đoạn đường không đầy 300 mét. Ra đến công viên giờ này cũng đông nghịt người. Không khí cũng rất nặng mùi nước hồ bị ô nhiễm quyện với mùi của mấy quán nhậu sát rào công viên tỏa ra . Thôi thì, dù sao cũng còn một nơi mà ở đó người ta có thể đi bộ không sợ bị xe cộ tông vào. đó chính là công viên !     

Không muốn nghĩ ngợi cho đỡ mệt óc. Nhưng rồi cũng phải nghĩ: Phải chăng khu phố mới hình thành này của Thủ đô Hà Nội mở rộng chính là một hình mẫu phát triển kiểu Việt Nam? Ai bảo kinh tế Việt Nam đang chết thì hãy đến phố Tô Hiệu, Quận Cầu Giấy, Hà Nội sẽ thấy nó không bao giờ chết, thậm chí còn rất sinh động nữa kia!  Này nhé, phố phường rất đông đúc tấp nập, nhà dân hai bên phố và các ngõ, ngách đều biến thành cửa hàng; quán nhậu, cà fê đèn sáng, đèn mờ... Chúng mọc ra nhanh hơn cả nấm rừng sau cơn mưa. Dân lao động tứ xứ đổ về đây đông vô kể. Họ làm đủ thứ nghề,  từ nhân viên bán hàng, tiếp thị, hàng rong đến đánh giầy, thu mua đồng nát, v.v...Mọi góc phố, lề đường đến ngõ, ngách đều có thể biến thành nơi hành nghề gì đó, chợ cóc mọc lên tại bất cứ nơi nào có thể .... Tất nhiên cũng có những chú bảo vệ mặc đồng phục đứng ngồi la liệt trước các hàng quán dưới bóng đèn xanh đỏ nấp nháy đủ kiểu thật vui mắt. Đây đó thấp thoáng bóng các cô váy ngắn chân dài mắt xanh mỏ đỏ lượn phố trông như Hà Nôi thời Tây hay Sài Gòn thời Mĩ vậy!

4 căn biêt thự đang được xây chen lán vỉa hè tại rìa Làng Quốc tế Thăng Long
 Điều đáng nói là mật độ dân số tại khu vực này quá cao so với cơ sở hạ tầng, giao thông, dịch vụ và môi trường sống, đặc biệt thiếu trầm trọng các cơ sở công cộng như phòng họp, thư viện, nhà trẻ, sân chơi , v.v... Nhưng không hiểu vì lý do gì, chính quyền vẫn cho phép các dự án xây chen nhà ở tại một vài lô đất kẹt hiếm hoi còn sót lại trong khu vực? Trong số này có 4 căn biệt thự sắp hoàn thành bên mép Làng Quốc tế Thăng Long (ảnh trên) và đang định xây một dãy nhà 5 tầng liền kề chạy dài khoảng 400mét giữa Làng này và Phố Tô Hiệu. Nhân dân kháo nhau rằng dãy nhà này nếu được tiến hành sẽ như một bức tường "kỳ quan" của ngành xây dựng Hà Nội. Điều khó hiểu là, trong lúc thị trường bất động sản Hà Nội ế ẩm không có người mua, nhưng vẫn có một công ty tên là INDECO rất sốt sắng phối hợp cùng các cơ quan Phường, Quận trong một dự án nhà ở theo phương thức "xã hội hóa". Liệu nhà đó để bán cho ai và ai là người có lợi mà họ bất chấp lợi ich lâu dài của cộng đồng?. Qua các cuộc tiếp dân cho thấy kể cả một số vị quan chức cũng quan niệm rằng  hễ chỗ nào còn đất trống đều nên xây nhà ở hoặc giao cho các công ty kinh doanh để thu tiền phục vụ các công trình  "xã hội hóa" vốn là phương thức mơ hồ khó kiếm soát. Có vị còn viện dẫn tình trạng nhà cửa chen chúc tại các làng cũ trong Quận để nói rằng dân ở khu phố mới này còn sướng chán!. Thì ra họ vẫn mang quan niệm quản lý làng xã vào quản lý đô thị. Với đà này, e rằng chẳng mấy chốc khu phố mới xung quanh Phố Tô Hiệu và Làng Quốc tế Thăng Long  sẽ biến thành một ngôi làng thực thụ giữa Thủ đô ngàn năm văn hiến./.    


Thứ Ba, 4 tháng 12, 2012

Lòng tin chạm đáy chưa?

Gần đây người ta nói nhiều đến sự "chạm đáy" của thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán v.v...Có nhiều người phân vân không biết lòng tin của nhân dân vào tương lai đất nước đang ở mức độ nào, đã chạm đáy chưa? Xin mạn phép lạm bàn đôi lời về câu hỏi này như sau.

Đáy và đỉnh là khái niệm dùng để so sánh tuyệt đối về mức độ, trình độ...  Cái gì có đáy thì cũng có đỉnh và ngược lại. Với phạm trù lòng tin mà nói về đỉnh và đáy thì hơi khó hình dung, nhưng không phải là không thể . Còn nhớ nhà thơ kiêm chính trị gia Tố Hữu -nguyên Ủy viên TW Đảng, Phó thủ tướng Chính phủ cách đây 1/2 thế kỷ đã từng đưa ra một đánh gía độc đáo như sau: 
"Chào 61! Đỉnh cao muôn trượng
Ta đứng đây, mắt nhìn bốn hướng
Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau
Trông Bắc trông Nam, trông cả địa cầu!" (1)

Có thể hiểu, qua đoạn thơ trên ông Tố Hữu muốn đánh giá về vị thế của đất nước trong so sánh các thời kỳ lịch sử và thế giới. Ông chọn năm1961 là đỉnh cao...là hoàn toàn có ý của ông. Đó là thời kỳ đạt nhiều thành tích trong công cuộc xây dựng kinh tế ở miền Bắc hòa bình  (chưa bị chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mĩ) trong khi tình hình cách mạng ở miền Nam đang tiến triển rất thuận lợi (vùng giải phóng mở rộng đẩy đối phương vào thế phòng ngự bị động...). Có thể có những ý kiến khác nhau, nhưng bài thơ đó đã từng được cả nước nhiệt liệt tán thưởng. Thực tế cũng cho thấy vào thời đó nhân dân hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam. Và chính  lòng tin đó đã làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975 hoàn thành sứ mệnh "thu gian sơn về một mối". Có thể nói đó cũng là thời kỳ đỉnh cao nhất của niềm tin mà nhân dân Việt Nam từng có vào tương lai của đất nước và dân tộc. Lòng tin đó như được tiếp sức bởi nhận định của  Tổng Bí thư Lê Duẩn rằng từ nay đất nước đã sạch bóng quân thù, và sẽ không kẻ thù nào dám đánh Việt Nam nữa! (2)

Tuy nhiên, dường như theo quy luật, cái gì  lên đến đỉnh cũng sẽ có ngày đi xuống.  Chỉ ít lâu sau, đã nổ ra cuộc chiến tranh biên giới Tây-Nam  năm 1976, rồi chiến tranh biên giới phía Bắc năm1979 trong sự ngỡ ngàng của bản thân Việt Nam và của cả thế giới. Đó cũng là thời kỳ mà lòng tin của nhân dân vào tương lai của đất nước, cụ thể vào sự lãnh đạo của Đảng (lúc này đã đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam) đã bắt đầu có dấu hiệu đi xuống. Tuy ai ai cũng chấp hành sự phân công của Đảng và Chính phủ, vượt qua gian khổ khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ, nhưng trong thâm tâm đã bắt đầu nhận ra rằng  hai cuộc chiến tranh đó không phải tự chúng nổ ra hoặc hoàn toàn do kẻ thù cố tình gây ra, mà có một phần do sự chủ quan và sai lầm trong đối sách của giới lãnh đạo đất nước thời bấy giờ. Sai lầm không chỉ diễn ra trên mặt trận quân sự và đối ngoại mà cả trong đối nội. Một trong những biểu hiện mất lòng tin rõ rệt nhất là việc hàng triệu người đã liều mạng bỏ đất nước ra đi trong nhiều năm liền . Tại sao họ phải làm thế nếu không phải vì mất lòng tin vào chính quyền mới cũng như vào tương lai của đất nước?  Ai cũng biết, nếu "thời giờ là vàng ngọc" thì Việt Nam đã mất quá nhiều cho chiến tranh, đặc biệt hai cuộc chiến tranh với hai nước láng giềng để lại những hậu quả lâu dài về sau. Đồng thời hàng loạt những sai lầm nối tiếp nhau trong đường lối kinh tế-xã hội đã khiến đất nước phải trả những cái giá quá đắt với tình trạng kinh tế trì trệ kéo dài, lạm phát phi mã để lại nhiều hậu quả chính trị-xã hội đến ngày nay chưa giải quyết được. Một khi khi lòng tin đã mất thì những thành tích thu được qua quá trình đổi mới dù  to hay nhỏ, tạm thời hay lâu dài ...đều không đủ để vực lại, huống chi công cuộc đổi mới đó đã không đi đến nơi về đến chốn.    

Lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng nói riêng và vào tương lai đất nước nói chung, cũng theo đó mà tụt dốc. Có điều là nó không đi xuống theo đường thẳng đứng mà theo hình Sin nên đỡ gây sốc và cũng dễ ru ngủ với nhiều người. Giờ đây sau từng ấy năm tháng gập ghềnh, lúc nhanh lúc chậm, thật khó để đánh giá chính xác về mức độ và tốc độ phát triển của đất nước trong tương quan so sánh khu vực và toàn cầu. Nhưng riêng về sự giảm sút lòng tin của người dân thì đã quá rõ. Có thể nói đến nay không còn người Việt Nam nào kỳ vọng trở thành  "rồng", thành  "hổ" ..."đặng sánh vai cùng các nước  năm châu" (3). khoảng cách ngày càng rộng trong tương quan so sánh lực lượng với các nước láng giềng, đặc biệt với Trung Quốc khiến nhân dân thất vọng và lo ngại. Mặc khác, có thể nói chưa bao giờ có sự cách biệt về tình cảm, mức sống và lối sống giữa cán bộ lãnh đạo và dân thường như bây giờ. Không phải lãnh đạo không biết đâu là nguyên nhân tham nhũng, nhưng đối với họ chống tham nhũng khác nào tự chống mình. Không phải lãnh đạo không biết điều gì đang đe dọa sự tồn vong của chế độ, nhưng lợi ích của họ còn quan trong hơn chế độ. Không phải lãnh đạo không biết ai là bạn ai là thù, nhưng mối quan tâm hàng đầu của họ là ai có thể giúp họ tiếp tục cầm quyền. Không phải lãnh đạo không biết hiện tượng bất tín, bất phục trong nhân dân đang chuyển từ ý nghĩ sang hành động . Đó là tình trạng kỳ cương phép nước lỏng lẻo không chỉ thể hiện trên đường phố mà đã ảnh hưởng đến việc thực hiện các kế họach phát triển quốc gia. Đó là những cuộc biểu tình , khiếu kiện phản đối sự điều hành thiếu minh bạch của các cơ quan công quyền trong các lĩnh vực đất đai, đầu tư, xây dựng v.v...Đó là phong trào yêu nước tự phát ngày càng dâng cao trước hành động xâm lược bành trướng của Trung Quốc bất chấp sự ngăn chặn, cấm đoán của chính quyền. Lãnh đạo biết tất cả nhưng có lẽ do cái tâm của họ không trong sáng hoặc do "lực bất tòng tâm", hoặc do cả hai lý do cộng lại. Đó là những gì người ta có thể quan sát được qua đợt kiểm điểm chống tham nhũng vừa qua.

Trong bối cảnh nêu trên, việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mới đây gợi ra ý tưởng "nhóm lò" (4) có lẽ đã nói lên một cách đầy đủ về thực trạng mất lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và vào tương lai đất nước nói chung.  Để trả lời câu hỏi lòng tin chạm đáy chưa, có lẽ nên thay bằng câu hỏi  lòng tin đã tắt chưa thì rõ hơn. Câu trả lời ở đây là lòng tin đã và đang tắt! Vì tắt rồi nên người đứng đầu của Đảng  mới đặt vấn đề "nhóm lại" chứ! Hình ảnh một ông già lọ mọ nhóm lò khiến chúng ta thấy ái ngại, nhất là khi không còn mấy ai quan tâm đến ngọn lửa đó nữa trong khi không ít kẻ đang lăm le dập tắt đóm lửa trên tay ông./.            

Ghi chú
1. Trích thơ Tố Hữu 
2. Phỏng theo nộị dung nhân định  của Tổng BT Lê Duẩn thời kỳ sau giải phóng miền Nam
3.Trích lời Bác Hồ căn dặn các cháu thiếu nhi trong kháng chiến chống Pháp
4. Tổng BT Nguyễn Phú Trọng nói tại buôi tiếp xúc cử tri quận Ba Đình ngày 2/12/2012.

Thứ Năm, 8 tháng 11, 2012

Việt Nam thiếu lãnh đạo?

Ở Việt Nam gần đây có một quan niệm khá phbiến là đất nước đang thiếu lãnh đạo, hẫng hụt lãnh t(!). Và quan niệm này dường như được chia sẻ bởi cả dân chúng và chính quyền. Nếu đem so sánh với các thế hệ lãnh đạo trước như CChủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, CThủ tướng Phạm Văn Đồng, CTổng Bí thư Lê Dun v.v... thì những thế hệ lãnh đạo sau này không thể sánh kịp về  tài năng, đức đ, nhất là vuy tín trong nhân dân. Đặc biệt trong quảng 10 năm trở lại đây cùng với những thất bại trong các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội đã bộc lộ sự yếu kém của bộ máy công quyền đồng thời với tệ nạn tham nhũng lan tràn như một căn bệnh hết phương cứu chữa. Đó không chỉ là nguyên nhân làm mất uy tín cá nhân những người lãnh đạo mà là nguyên nhân làm mất lòng tin của dân chúng vào sự lãnh đạo của Đảng đến mức "đe dọa sự tồn vong của chế độ" như đã được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng, trong khi dân gian bàn tán một cách bi quan về "vận nước đang suy vong..." với những lời đồn đại nhuốm màu mê tín dị đoan.

Thực ra, về số lượng lãnh đạo Việt Nam không hthiếu, trái lại còn thừa; nếu thiếu là thiếu lãnh đạo có năng lực, và thiếu vai trò lãnh tụ, thì đúng hơn.  Tình trạng mất uy tín của đội ngũ lãnh đạo đất nước là có thực. Nhưng đó là do bản thân giới lãnh đạo (kể cả những người tuổi đời còn tr) tthoái hóa, biến chất hoặc không còn thích ứng với tình hình nhiệm vụ mới. Số này là những cá nhân hoặc đại diện cho các nhóm lợi ích, chứ không đại diện cho toàn bộ nguồn nhân lực của dân tộc. Theo lẽ thường, một đất nước có 90 triệu dân (kể cả đang ở nước ngoài) không thể nào thiếu nhân tài.  Sở dĩ có tình trạng thiếu lãnh đạo, hụt hẫng lãnh tụ  là do cách thức tuyển chọn không bình thường, theo đó người ta khoanh vùng những nhân vật được coi là có tiềm năng lãnh đạo để bồi dưỡng và đề bạt thành lãnh đạo, thậm chí thành lãnh tụ của đất nước! Sẽ là thiếu công bằng nếu phủ nhận hoàn toàn phương cách chọn lựa và đào tạo cán bộ. Đúng là nó có thể phát huy tác dụng nhất định như một giải pháp tình thế trong giai đoạn đầu của chính quyền. Nhưng cách làm này không thể kéo dài mãi mãi, và càng không thể coi đó là cách duy nhất đúng nhằm phục vụ những lý do chính trị mơ hồ. Sẽ là sai lầm nghiêm trọng nếu bỏ qua quy luật phát triển và lựa chọn tự nhiên đối với năng lực con người. Cách làm này không khác nào "cắt gọt" con người cho vừa với một bộ quần áo may sẵn mà không tính đến tầm vóc con người và đất nước Việt Nam hiện đại hoặc giống như nhng chiếc phểu  lọc ngăn chặn mọi nhân tố mới. Hết đại hội này sang đại hội khác, hết nhiệm kỳ này sang nhiệm kỳ khác, Đảng và Nhà nước đều đánh giá "trình độ cán bộ còn yếu kém..., chưa đáp ứng nhu cầu"....để rồi cứ  loay hoai tìm kiếm "người hiền tài" trong sít ỏi những nhân vật đã từng năm lần bảy lượt được "nâng lên đặt xung". Rốt cuộc không chọn được người này thì phải chọn người kia khi tuổi tác của hđã quá cao nhưng trình đvẫn như cũ. Để bổ khuyết người ta đặt ra phương thức "luân chuyển cán bộ" như là một biện pháp đ rèn luyện đào tạo...,  nhưng thực chất chỉ là shoán đổi vị trí để che dấu sbất tài hay khuyết điểm của những người được chọn. Đó là chưa nói những hậu quảmà họ có thể gây ra khi chuyển sang làm những công việc không đúng với sở trường của họ. Quy chế "tập sự" cán bộ lãnh đạo các cấp không khác nào "bắt cóc bdĩa". Cách thức và quy trình lựa chọn, đào tạo như vậy là nguyên nhân "làm già hóa" đội ngũ cán bộ lãnh đạo của đất nước, trong khi tạo ra những kẻ hở cho những kẻ cơ hội với một nguyên tắc bất thành văn là cnhắm mắt phục tùng cấp trên thì sớm muộn cũng sđược đề bạt

Nói tóm lại, cách chọn lọc, đào tạo cán bnhư trên thường không đưa lại kết qutốt Người ta có thể uốn nắn một cái cây để thành "cây cảnh", nhưng không thể uốn nắn một con người để thành lãnh t. Ngoài một vài cái lợi trước mắt, cách tuyển dụng cán bộ này hạn chế, thậm chí làm thui chột nguồn nhân tài của đất nước. Trong suốt quá trình dài vừa qua, hầu hết các vị trí lãnh đạo tthấp lên cao của Đảng và Nhà nước vẫn được đào tạo, bồi dưỡng và bổ nhiệm theo cùng một cách thức nên khó mà có những người lãnh đạo tốt, lại càng khó có những lãnh tụ xuất chúng với đầy đbản lĩnh, tư cách và tầm nhìn mới m. Để lên được cấp cao nhất người lãnh đạo thường không còn là bản thân mình nữa, h đã phải thỏa hip hoặc bđồng hóa với tư tưởng và phong cách của thế hđi trước. đây có một điều nghịch lý là, dù mang danh nghĩa một nhà nước dân chủ XHCN với khẩu hiệu "do dân, vì dân", nhưng cách thức bổ nhiệm lãnh đạo không khác mấy so với thời phong kiến. Mọi quá trình chọn lọc và bổ nhiệm đều din ra trong hậu trường cho đến khi công bố thì dân mới được biết. Đặc biệt trong thời kỳ gần đây, khi nạn tham nhũng lộng trào khiến quyền lực gắn liền với đồng tiền, thì động cơ "làm quan" tái diễn rất mạnh mẽ với tình trạng con ông cháu cha "chen ngang" nắm các cương vị lãnh đạo trong bộ máy công quyền hoặc doanh nghiệp nhà nước. Trào lưu mua danh bán chức bằng nhiều thđoạn cũng đua n, chưa có bằng cấp thì mua bằng cấp đđược đề bạt, thậm chí đề bạt trước rồi "cho đi học" kiếm bằng cũng không sao! 
 
Nên chăng cần đặt lại vấn đề một cách khách quan phù hợp với  thực tiễn quốc tế và trào lưu của thời đại. Trước hết, nguồn lực con người, trong đó vai trò lãnh tụ và lãnh đạo của một quốc gia là bất biến đúng như câu nói bất hủ của tiền nhân Nguyễn Trãi: "Hào kiệt đời nào cũng có". Nhiều nước trên thế giới  không hề có chuyện lựa chọn, đào tạo  bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo như  ở Việt Nam, nhưng họ không bao giờ thiếu người làm tổng thống, thủ tướng; nhiều người trong số hđộ tuổi trẻ hẳn so với lãnh đạo Việt Nam  như các Tổng thống Clinton, Obama của Mỹ, Tony Blair của Anh hay nữ Thủ tướng Yingluck Shinawatra của Thái Lan hoặc ông phó Thủ tướng Đức gốc Việt n, v.v... Hầu hết những cuộc cách mạng vĩ đại nhất thế giới đều được lãnh đạo bởi những con người mà trước đó không được lựa chọn để đào tạo . Rất nhiều nhà lãnh đạo tài ba đều xuất thân từ một địa vị xã hội bình thường, có trường hợp tài năng được bộc lộ khi trẻ tuổi..., nhưng hkhông hề được chọn lựa đđào tạo, bồi dưỡng nhằm mục đích làm lãnh t Thực tế cũng cho thấy chính yếu tố  mới mẽ, trẻ trung được chọn lựa tự nhiên hoặc qua bầu cử trực tiếp của công chúng là bí quyết để làm nên những kỳ tích biến đổi xã hội. Ngược lại, những nhà lãnh đạo do sự lựa chọn của thế hệ trước thường bị hạn chế trong việc canh tân thay đổi, vì ho thường có cảm giác hàm ơn những người đã bồi dưỡng cất nhắc họ, tđó cảm thấy có nghĩa vphải tuân thủ và bảo vệ chế độ cũ, thậm chí lo scái mới. Đó là những kinh nghiệm mà Việt Nam không thể bỏ qua.                 


Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này