Hiển thị các bài đăng có nhãn Cội nguồn dân tộc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Cội nguồn dân tộc. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 26 tháng 3, 2012

Có không "ngôn ngữ Hán-Việt" (Sino-Vietnamese language)?

Chữ Việt cổ (cột giữa) bên cạnh các chữ cổ khác
Mới đây blog Trương Thái Du có đưa lên một bài viết với đầu đề “Trả lời một câu hỏi nhỏ… The term “Sino Vietnamese Language” 汉越)” (Xem tại đây: http://truongthaidu.wordpress.com/2012/03/16/tr%e1%ba%a3-l%e1%bb%9di-m%e1%bb%99t-cau-h%e1%bb%8fi-nh%e1%bb%8f/)

Bản thân tôi không chuyên sâu về lịch sử ngôn ngữ, nhưng dẫu sao cũng đã qua một khóa sau đại học về ngôn ngữ tại Anh quốc và có hơn 10 năm làm giáo viên Anh văn  nên cũng có chút ít “cảm nhận” điều gì đó không ổn nếu gọi là "ngôn ngữ Hán-Việt" hay "tiếng Hán-Việt". Lại thấy tác giả bài viết cũng tỏ ra thận trọng muốn tham khảo ý kiến nên tôi đã đóng góp ngay một comment ngắn gọn rằng "không có ngôn ngữ Hán-Việt” với dụng ý nhắc tác giả xem lại vấn đề. Nhưng sau đó vẫn thấy bài viết  lưu truyền rộng rãi trên mạng. nên tôi thấy cần nêu lại vấn đề này một cách “có đầu có đuôi” để mọi người cùng suy ngẫm. Đây không phải một "việc nhỏ" như tác giả nói; nó liên quan đến nguồn cội và tương lai của tiếng Việt.

Để viết bài này, tôi đã lục tìm lại các nguồn tài liệu khác nhau, kể cả Wikipedia-một cơ sở dữ liệu mở cho phép đăng tải mọi ý kiến không chính thức- nhưng chưa thấy một tài liệu nào đủ sức thuyết phục về cái gọi là “ngôn ngữ Hán –Việt”, trừ một vài trường hợp có lẽ do người viết hiểu sai khái niệm “từ, ngữ “thành “ngôn ngữ” hoặc gán ghép các từ đó với nhau một cách vô thức mà ra. Cũng có thể do tôi chưa tìm kiếm hết được mọi nguồn tài liệu. Song có thể nói có rất ít cơ sở để khẳng định tính chính danh của thuật ngữ  “ngôn ngữ Hán-Việt” hay “tiếng Hán-Việt”. Nói cách khác nếu có ai đó sử dụng thuật ngữ này thì đó chỉ  là những trường hợp cá biệt. Hơn nữa về mặt tâm lý chính trị-xã hội, thì việc sử dụng rộng rãi tên gọi “ngôn ngữ Hán-Việt” là không có lợi cho Việt Nam, nó gợi lên rằng người Việt không có ngôn ngữ riêng - điều này hoàn toàn không đúng nếu xét về lịch sử hơn 4000 năm, trong đó có 1000 năm bị Bắc thuộc xen vào giữa. Không có lý gì 2000 năm trước Bắc thuộc dân tộc Việt Nam không có tiếng nói và chữ viết riêng của mình?. Tôi tin đây là một “góc khuất” của lịch sử cần được tiếp tục tìm kiếm và giải mã.

Về mặt lý thuyết cũng không có cơ sở để đặt tên là “ngôn ngữ Hán –Việt” . Bởi lẽ, đã nói đến ngôn ngữ là phải nói đến chủ thể đích thực của nó. Chủ thể đó là một cộng đồng dân tộc cùng sử dụng chung ngôn ngữ đó, không lẫn lộn với ngôn ngữ khác; nó tồn tại và phát triển trong một quá trình lịch sử đủ dài để khẳng định mình. Trong trường hợp cụ thể của Việt Nam, ta thấy  không hề có khái niệm cộng đồng (hoặc dân tộc) Hán-Việt; chỉ có cộng đồng người Hoa sống bên cạnh cộng đồng người Việt; có khái niệm người Việt gốc Hoa, nhưng ai có ngôn ngữ riêng của người ấy. Chỉ có khái niệm  "từ ngữ Hán-Việt" mà thôi, tức là những từ ngữ có nguồn gốc từ sự kết hợp giữa tiếng Hán và tiếng Việt trong quá trình Bắc thuộc và giao lưu giữa hai dân tộc; dù mật độ pha tạp có đến bao nhiêu phần trăm đi nữa, nhưng nó chỉ sử dụng trong cộng đồng người Việt, người Trung Quốc bình thường không thể hiểu được, thì nó phải gọi là "tiếng Việt", không thể gọi là "tiếng Hán-Việt". Điều tương tự vẫn xảy ra đối với nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới. Ví dụ, tiếng Nùng có rất nhiều từ ngữ Việt trong đó, nhưng không  gọi là “tiếng Việt-Nùng”; tiếng Đan Mạch giống tiếng Đức đến mức hai bên có thể hiểu nhau  nhưng không gọi là "tiếng Đức-Đan",v.v... Trường hợp tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung ... được nhiều nước khác nhau sử dụng như một ngôn ngữ quốc gia, khi cần phân biệt người ta goi tên ghép như tiếng Anh Mỹ, tiếng Anh Úc, tiếng Anh Ấn Độ v.v... là chuyện hoàn toàn khác.
Ngoài ra cũng cần thấy rằng lâu nay vẫn tồn tại dai dẳng hai quan điểm khác nhau về cách đánh giá nguồn gốc tiếng Việt và tiếng Trung. Tuy nhiên cả hai quan điểm đều thống nhất rằng tiếng Việt và tiếng Hán đã song tồn hàng ngàn năm trước thời kỳ Bắc thuộc. Trong khi một quan điểm mặc nhận rằng tiếng Việt vay mượn rất nhiều từ tiếng Hán, quan điểm kia lại cho rằng tiếng Trung  là kết quả của việc tiếng Hán vay mượn (đánh cắp) từ tiếng Việt cổ (của người Bách Việt) trong suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm trước và sau công nguyên khi người Hán chinh phục hoàn toàn người Bách Việt ở bờ Nam sông Dương Tử . Giả thuyết này chứng minh bằng cách chỉ ra nhiều từ ngữ tiếng Việt cổ trong tiếng Hán và hiện tượng danh từ đi trước tính từ cùng nhiều chứng cứ khác, xem ra cũng rất có sức thuyết phục.

Tóm lại, theo tôi, chỉ có khái niệm “từ ngữ Hán-Việt” chứ hòan toàn không có cơ sở nào để gọi “ngôn ngữ Hán- Việt” hoặc “tiếng Hán-Viêt”. Là người Việt Nam chúng ta cần nhận thức rõ điều này để cùng nhau bảo vệ giá trị ngôn ngữ và văn hóa của dân tộc đồng thời chú ý giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt-điều mà Cụ  Hồ Chí Minh đã từng rất chú ý làm gương . Không hiểu sao bây giờ  không ai làm việc này, lại còn có xu hướng lạm dụng bừa bãi việc ghép từ ngữ Hán vào tiếng Việt (?)

Có thể các "bạn" Trung Quốc thích thuật ngữ "ngôn ngữ Hán-Viêt", "tiếng Hán-Việt" , nhưng người Việt Nam thì không, thậm chí phải bác bỏ nó mới phải. Không chỉ về ngôn ngữ , mà có nhiều vấn đề liên quan đến cội nguồn dân tộc Việt cũng rất được cần xem lại. Ví dụ, đáng lẽ phải truy tìm lại tiếng Việt cổ (bị mất sau 1000 năm bắc thuộc) thì giai cấp phong kiến Việt Nam đã ra sức truyền bá chữ Nho, giờ lại định truyền bá về "tiếng Hán-Việt" thì thật là đáng buồn!. Hình như người Việt Nam ngày nay quên mất rằng nguồn gốc các vua Hùng thực sự đã xuất phát từ Hồ Động Đình thuộc tĩnh Hồ Nam của lãnh thổ Trung Quốc bây giờ ; và Hai Bà Trưng khởi binh phục quốc cũng ngay bên trong lãnh thổ miền nam Trung  Quốc (?). Trong nhiều trường hợp người Việt ta cứ vô tư trích dịch sử sách của Trung Quốc để làm sử của Việt Nam, rốt cuộc mưa dầm thấm lâu rồi thấy “mình từ người Hán mà ra cả” thì thật là sai lầm!

Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2012

Tôi tự hào mình là người Việt Nam vì cái gì?

Lời giới thiệu của chủ blog: Dưới đây là một "hot entry" mới xuất hiện trên mạng. (Theo thiển nghĩ của chủ blog tôi) nó không phải là một án văn tuyệt cú, cũng không phải một bài bình luận chính trị sâu xa..., thậm chí chỉ là một bài viết ngẫu hứng không theo thứ tự cú pháp nào. Nhưng nó cho thấy một cách tự hào dân tộc hồn  nhiên chân thực, đôi khi ngây thơ một chút, thiếu thông tin một chút ...Và do đó nó chứa đựng những thông điệp rất đáng để suy ngẫm.  
Tác giả và nguồn gốc xuất xứ được nêu rõ qua nội dung entry với mọi bút tích đều giữ nguyên không chỉnh sửa;  trừ một vài hình ảnh minh họa của chủ blog. Mời quý vị tham khảo, và tốt hơn nếu cho biết commment của quý vị.  



             Tôi tự hào mình là người Việt Nam vì cái gì?


1) Tôi tự hào vì nước tôi trải dài từ Bắc chí Nam, không đâu là không có thắng cảnh, không đâu không có di tích văn hóa.

2) Tôi tự hào vì trường tôi mang tên Lý Tự Trọng, Châu Văn Liêm, Kim Đồng, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Du, Lê Lợi...

3) Tôi tự hào vì mỗi tên đất, tên đường ở xứ tôi đều viết bằng tên người chứ không phải đánh số.

4) Tôi tự hào vì quê tôi có hai mùa mưa nắng. Mùa mưa thì ngập lụt mùa nắng thì hạn hán nhưng chưa có ai ở nước tôi chết đói.

5) Tôi tự hào vì nước tôi có núi, có sông, có rừng, có biển chứ không phải chỉ toàn cát như Iran và Ai Cập.

6) Tôi tự hào vì nước tôi có 54 dân tộc trên 85 triệu dân thay vì 56 dân tộc trên 1600 triệu dân.

7) Tôi tự hào vì người Sài Gòn nói: “trời hôm nay nóng quá” chứ không phải là “It’s hot” như người Anh.

8) Tôi tự hào vì tôi có thể bằng ngôn ngữ mẹ đẻ nói chuyện cho cả anh bạn ở Hà Nội và ở An Giang đều hiểu.

9) Tôi tự hào vì nước tôi có 4000 năm văn hiến chứ không phải 400 năm.

10) Tôi tự hào vì thủ đô Hà Nội là Thăng Long 1000 năm chứ không phải Washington 220 năm.

11) Tôi tự hào vì Văn Miếu là đại học đầu tiên ở Đông Nam Á.

12) Tôi tự hào vì lúc nhỏ mẹ đã ru:

Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ Nhu
Chín trăng em đợi ngàn thu em chờ

13) Tôi tự hào vì bia Tiến sỹ.

14) Tôi tự hào vì chữ Nôm, chữ Quốc ngữ chứ không phải chữ Tàu.

15) Tôi tự hào vì 1000 năm Bắc thuộc, vì hôm nay vẫn là công dân Việt Nam chứ không phải người tỉnh Việt Nam của Trung Quốc.

16) Tôi tự hào vì nước tôi là quốc gia đầu tiên trong số các thuộc đại giành được độc lập thực sự.

17) Tôi tự hào vì Nguyễn Trãi đã viết:

Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

18) Tôi tự hào vì Michael Jackson đổi màu da và vì Lê Chiêu Thống đã nói: “Da có thể lột được nhưng áo không thể đổi. Đầu có thể chém được nhưng tóc không thể cắt.”

19) Tôi tự hào vì cái xấu xí mà Hoàng Cầm viết:

Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng

20) Tôi tự hào vì sự tích Trầu Cau, sự tích bánh chưng bánh dày...

21) Tôi tự hào vì Sơn Tinh thắng Thủy Tinh, vì ông Hạng đánh thần gió, vì Đam San đi bắt nữ thần Mặt Trời.

22) Tôi tự hào vì cô Tấm là nhân vật cổ tích duy nhất có tên. Tất cả họ đều vô danh.

23) Tôi tự hào vì Sơn Nam viết Lịch sử khẩn hoang miền Nam chứ không phải lịch sử tàn sát người da đỏ.

24) Tôi tự hào vì Đoàn Giỏi đã viết Đất rừng Phương Nam: “Mênh mông rừng tràm, bạt ngàn dừa xanh... cho ta thêm yêu, dấu chân ngàn năm đi mở đất, cho ta thêm yêu bầy chim sáo, sổ lòng...”

25) Tôi tự hào vì Huỳnh Văn Nghệ đẽ viết:

Từ độ mang gươm đi mở cõi
Nghìn Năm thương nhớ đất Thăng Long

26) Tôi tự hào vì cây Kơ-nia đã nói: Hỏi cây uống nước đâu, uống nước từ miền Bắc...

27) Tôi tự hào vì Tế Hanh đã nói:

Tôi nay sống trong lòng miền Bắc
Sờ lên ngực nghe trái tim thầm nhắc
Hai tiếng thiêng liêng hai tiếng Miền Nam

28) Tôi tự hào vì người xưa đã viết: Việt điểu sào nam chi, chim Việt bay về phương Bắc, không phải cành cây phía Nam thì không đậu, không phải nguồn nước chảy về Nam thì không uống.

29) Tôi tự hào vì tôi không phải người miền Bắc, không phải người miền Nam mà là người Việt Nam.

30) Tôi tự hào vì Phạm Văn Đồng đã nói: “Không có miền Bắc đánh thắng miền Nam, trong trận chiến này, cả dân tộc chúng tôi đều thắng.”

31) Tôi tự hào vì Vovinam chỉ có một màu áo, vì dù chúng tôi không thể vào World cup nhưng không bao giờ có hai đội bóng Việt Nam.

32) Tôi tự hào vì Hồ Chí Minh đã nói:

Non sông Việt Nam là một
Dân tộc Việt Nam là một
Sông có thể cạn, núi có thể mòn
Song chân lý đó không bao giờ thay đổi.

33) Tôi tự hào vì Albert Einstein vẫn mang quốc tịch Đức sau 30 năm sống trên đất Mỹ và Nguyễn Thái Bình đã viết thư cho tổng thống Nickson để khẳng định, rằng: Thưa ngài tổng thống, tôi là người Việt Nam.

34) Tôi tự hào vì Trần Đại Nghĩa đã nói: “Một ngày ở Việt Nam bằng ba mươi năm tôi ở Pháp.”

35) Tôi tự hào vì Trần Bình Trọng cũng nói: “Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc.”

36) Tôi tự hào vì Nguyễn Văn Thạc đã nói: “Rồi mai đây sẽ còn người tiếp bước tôi viết lên những trang giấy trắng này.”

37) Tôi tự hào vì Quang Dũng hát: “Đất nước tôi, thong thả giọt đàn bầu... Từ lúc nằm nôi sáng chắn bão giông chiều ngăn nắng lửa... lao xao trưa hè một giọng ca dao... lao xao trưa hè một giọng ca dao...”

38) Tôi tự hào vì:

Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều và đất nước hóa nên thơ

39) Tôi tự hào vì Bà Trưng: “Là đàn bà đem một lũ quân ô hợp mà lấy được hai mươi thành dễ như trở bàn tay.”

40) Tôi tự hào vì Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sống Bạch Đằng, Lý Thường Kiệt đánh tan quân Tống trên sông Như Nguyệt.

41) Tôi tự hào vì nhà trần dùng mười vạn quân đánh tan 50 vạn quân Nguyên.

42) Tôi tự hào vì quân Nguyên đã đánh thắng hầu hết các quốc gia thời đó trừ Nhật Bản và Việt Nam.

43) Tôi tự hào vì Lê Lợi mười năm đánh quân Minh, Hoàng Hoa Thám Phan Đình Phùng thế cô trường kỳ đánh Pháp.

44) Tôi tự hào vì Nguyễn Trãi viết:
Việc nhân nghĩa cốt ở an dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

45) Tôi tự hào vì Lê Lai chết thay vua.

46) Tôi tự hào vì Huyền Trân hy sinh tình riêng để mở mang bờ cõi.

47) Tôi tự hào vì Tố Hữu viết:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà Lòng phơi phới dậy tương lai.

48) Tôi tự hào vì không một ai trong số những người đi kháng chiến có mặt trong các tấm hình mà tôi biết lại đang khóc. Tất cả họ đều cười rất tươi để đi vào chỗ chết.

49) Tôi tự hào vì thanh niên xứ tôi viết đơn bằng máu để xin ra chiến trường.

50) Tôi tự hào về những cô gái ngã ba Đồng Lộc, về câu hát của những bà cụ trong đêm gặp mặt ngày truyền thống Thanh niên xung phong: “Ơi những cô con gái đang ngày đêm mở đường... Hỡi em bao nhiêu tuổi mà sức em phi thường... Em đi san rừng em đi bạt núi, em như con suối nước chảy đá mòn...”

51) Tôi tự hào vì Mỹ không thể san phẳng Hà Nội như đã từng làm với Bình Nhưỡng trong 20 ngày đêm năm 1972.

52) Tôi tự hào vì câu mà bộ trưởng McNamara đã nói: “Hãy dừng ngay lại, tổng thống, nếu không B52 sẽ tuyệt chủng mất.”

53) Tôi tự hào vì Nguyễn Hữu Thọ đã mang một cái nhẫn gò từ xác máy bay Mỹ khi dự hội nghị đàm phán Pari 1972.

54) Tôi tự hào vì một chiếc xe đạp thồ có thể chở trên 100kg và đi trên 1.000km đường đất.

55) Tôi tự hào vì những gì mà Thế giới gọi là pháo đài bất khả xâm phạm và bất khả chiến bại thì đều bị Việt Nam đánh bại.

56) Tôi tự hào vì những tấm bia vô danh trên nghĩa trang quốc gia Trường Sơn.

57) Tôi tự hào vì Trọng Tấn hát: “Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ... các anh không về, chỉ mẹ lặng im...”

58) Tôi tự hào vì sau chiến tranh Việt Trung 1979, người Trung Quốc đã làm một bức tượng Mao Trạch Đông ngay gần biên giới chỉ tay về Hà Nội còn người Việt Nam thì dựng lên một tấm bảng: Không có gì quý hơn độc lập tự do.

59) Tôi tự hào vì Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy đã nói: “Thà làm dân một nước tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ.”

60) Tôi tự hào vì Mạc Đĩnh Chi đã viết câu:
Nhật hỏa vân yên, đán thượng điêu tàn ngọc thố
Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô
(Mặt trời là lửa mây là khói, ngày lên đốt rụi mặt trăng – Câu đối của vua Nguyên
Trăng là cây cung sao là đạn, hoàng hôn bắn rụng mặt trời – Vế đáp)

61) Tôi tự hào vì Lý Thượng Kiệt đã nói:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành địa phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc bây xâm phạm
Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời.

62) Tôi tự hào vì ngay sau khi đọc bài thơ ấy và nghe kể về ba lần đánh thắng quân Nguyên thì Kissinger đã thốt lên: “Ba lần ư? Thôi xin ngài. Với chúng tôi một lần là quá đủ rồi.”

63) Tôi tự hào vì Lê Lợi thắng quân Minh mà lại sai sứ cầu hòa, Quang Trung thắng quân Thanh mà lại sai Ngô Thì Nhậm viết thư tạ tội.

64) Tôi tự hào vì Trần Đăng Khoa đã viết:
Chúng em chẳng sợ Mỹ đâu
Vẫn vui vẫn hát vẫn là bé ngoan
Ao trường vẫn nở hoa sen
Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu

65) Tôi tự hào vì Ngô Đình Nhu đã nói: “Chúng ta sai lầm khi đánh giá thấp sức mạnh nhân dân.”

66) Tôi tự hào vì Nguyễn Trãi viết rằng:
Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo

67) Tôi tự hào vì Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định: “Tuy vậy, đối với nước Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày mồng 9 tháng 3, Việt minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ...”

68) Tôi tự hào vì đoàn quân tóc dài và nữ tướng duy nhất trên Thế giới.

69) Tôi tự hào vì chị Út Tịch nói: “Còn cái lai quần cũng đánh.”

70) Tôi tự hào vì Bà Triệu đã nói: “Tôi muốn đạp cơn sóng dữ, chém con cá kình ngoài bể đông.”

71) Tôi tự hào vì Tố Hữu viết:
Em là ai cô gái hay nàng tiên
Em có tuổi hay không có tuổi?
Tóc em đây hay là mây là suối
Mắt em nhìn hay chớp lửa đêm đông.

72) Tôi tự hào vì mẹ Tơm, mẹ Suốt, chị Sáu, chị Sứ, chị Hồ Thị Kỷ.

73) Tôi tự hào vì ba đảm đang, ba sắn sàng, thóc không thiếu một cân quân không thiếu một người, tất cả vì miền Nam ruột thịt.

74) Tôi tự hào vì “Hội chứng Việt Nam” của lính Mỹ.

75) Tôi tự hào vì Mỹ phải bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.

76) Tôi tự hào vì nước tôi là một trong 20 nước từng làm Ủy viên Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc.

77) Tôi tự hào vì nước tôi là chủ tịch luân phiên của ASEAN.

78) Tôi tự hào vì Việt Nam là thành viên thứ 150 của WTO trong khi Nga vẫn chưa được kết nạp.

79) Tôi tự hào vì Bill Clinton là nguyên thủ đầu tiên của phương Tây đến thăm Việt Nam.

80) Tôi tự hào vì Morrisson đã tự thiêu để phàn đối chiến tranh Việt Nam và Tố Hữu đã viết bài Emily con ơi.

81) Tôi tự hào vì du kích Venezuela đã đồng ý đổi con tin để lấy Nguyễn Văn Trỗi.

82) Tôi tự hào vì Phidel Castro đã nói: Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình.

83) Tôi tự hào vì Hải Thượng Lãn Ông đã tự thử độc dược để nghiên cứu bệnh.

84) Tôi tự hào vì chúng tôi đã nói câu: Tôi chỉ có một ham muốn tột bậc là làm sao cho dân giàu, nước mạnh. Dân ta ai cũng phải có cơm ăn áo mặc, ai cũng phải được học hành.

85) Tôi tự hào vì Bảo Quốc đã đứng lên chào và Hồng Sơn cũng làm tương tự khi đá thủng lưới Indonesia.

86) Tôi tự hào vì có người đã viết:

Dừng chân bên bờ suối
Nghe đâu tiếng quốc ca
Anh thương binh đang hát
Để át hết cơn đau
Đòn quân Việt Nam đi
Chung một lòng cứu quốc
Người ta phải cưa chân
Nhưng lại hết thuốc ngủ
Thế nên anh phải hát
Và máu vẫn phải rơi
Bác sỹ thì mím mỗi
Và anh thì vẫn hát
Đoàn quân Việt Nam đi...

87) Tôi tự hào vì Saddam Hussen đã dọa Mỹ: “Nếu các ông đánh nước tôi, các ông sẽ gặp một Việt Nam trên sa mạc.”

88) Tôi tự hào vì những đứa trẻ sinh ra bị dị tật do chất độc màu da cam, tự hào vì tóa án Mỹ đã phủ quyết những tội lỗi của họ.

89) Tôi tự hào mỗi sớm mai tôi có thể thức dậy và yên tâm là đầu mình còn trên cổ và tự do đi lại bất cứ nơi nào mà tôi thích giữa hai miền.

90) Tôi tự hào vì nước tôi không có đánh bom liều chết, không có xung đột sắc tộc, không có biểu tình phong tỏa sân bay Nội Bài.

91) Tôi tự hào vì đất nước tôi không có thủ tướng thuộc đảng Cam còn quốc hội thuộc đảng Vàng để mà tổ chức bầu cử nửa năm một lần.

92) Tôi tự hào vì thủ tướng Úc có thể chạy bộ một mình trên bờ hồ Hoàn Kiếm còn tổng thống Bush thì phải được bảo vệ nghiêm ngặt ở Washington.

93) Tôi tự hào vì nước tôi không sản xuất vũ khí hạt nhân, không sản xuất những thứ có thể giết người mà chỉ sản suất những thứ để phục vụ con người.

94) Tôi tự hào vì ở nước tôi phụ nữ mặc áo dài chứ không phải áo hai dây, tam tòng tứ đức chứ không phải ba chồng bốn đứa (con)

95) Tôi tự hào vì em gái tôi không mang thai trước khi nó kết hôn, em trai tôi không nghiện hút.

96) Tôi tự hào vì các em tôi có thể an toàn ở trường, vì không ai có thể xả súng hay kỳ thị chúng.

97) Tôi tự hào vì Martin Luther King đã nói: “Tôi mơ về một ngày mà những đứa con của tôi có thể được xét đoán dựa trên phẩm hạnh và tính cách chứ không phải trên màu da.”

98) Tôi tự hào vì tôi xài đồng 1.000VND chứ không phải 1 tỷ Dollar Zimbabue.

99) Tôi tự hào vì Việt Nam là nước xuất khẩu gạo thứ hai trên Thế giới trong khi cách đây 30 năm phải nhập khẩu lương thực.

100) Tôi tự hào vì đoàn Việt Nam dẫn đầu trong các kỳ thi Robocon chứ không phải đoàn Nhật.

101) Tôi tự hào vì người phát hiện ra lỗ hổng của Google và Microsolf là công ty Bkis của Việt Nam.

102) Tôi tự hào vì Trường Sa Hoàng Sa vẫn có lính biên phòng của hải quân Việt Nam.

103) Tôi tự hào vì GDP của Việt Nam vẫn tăng trong năm 2009.

104) Tôi tự hào vì cầu Cần Thơ.

105) Tôi tự hào vì Ilia Erembua đã nói: “Tình yêu nước bắt đầu từ những vật thân quen nhất, như dòng suối đổ về sông, như sông đổ ra đại trường giang Vonga và đại trường giang Vonga trôi về biển cả.”

106) Tôi tự hào vì de Amicis đã viết trong Những tấm lòng cao cả: "Khi con du lịch ở xa về, một buổi sáng, đứng dựa bao lơn tàu con thấy ở chân trời một dãy núi xanh của xứ con hiện ra, bấy giờ con sẽ thấy trào lệ cảm ở lòng con dâng lên và miệng con vuột ra những tiếng kêu mừng rỡ."

107) Tôi tự hào vì Nguyễn Khoa Điềm viết:
Đất là nơi em tắm
Nước là nơi ta hò hẹn

108) Tôi tự hào vì dân nước tôi gọi nơi này là Tổ Quốc, là Quê Hương, là nơi chôn nhau cắt rốn, là hai khái niệm thật đơn thuần: Đất và Nước.

109) Tôi tự hào vì Giang Nam đã viết:

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người

110) Tôi tự hào vì ngôi nhà của tôi, con đường tôi đến trường, tự hào vì các bạn tôi, tự hào đơn giản vì nếu tôi không tự hào về nó thì tôi cũng không tự hào về mình.
Tôi không phải là người Việt 100%. Tôi mang một chút dòng máu Hoa, một chút dòng máu Ấn, một chút dòng máu Mỹ la tinh, và dĩ nhiên một chút dòng máu Việt.

Tôi có trong mình hai hộ chiếu, một của Hoa Kỳ, một của Việt Nam, vì tôi có hai quốc tịch.

Tôi có nhiều điều không thuộc về đất nước này như thế nào, thì tôi vẫn chưa bao giờ thôi tự hào rằng tôi là người Việt Nam.

Khi tôi sang nước ngoài, tôi dùng tên Võ Ánh Ban Mai, tên trong chứng minh thư của tôi, trong hộ chiếu Việt Nam của tôi, thay cho tên Sussan Sunrise Wong, tên trong hộ chiếu của nước Mỹ. Bởi vì khi đó, những bạn bè quốc tế đều phải nhìn tôi, phải "ồ" lên rằng: "Bạn là người Việt Nam à ? Tôi biết về đất nước bạn. Đất nước bạn có Vịnh Hạ Long thật đẹp, và tôi đã bỏ phiếu bầu cho Vịnh Hạ Long của bạn trở thành một trong bảy kỳ quan thiên nhiên thế giới." Bởi vì khi đó, một cô bạn Israel, trong kì cắm trại Hướng đạo thế giới, đã nói với tôi rằng: "Tôi ước gì đất nước tôi yên bình như đất nước các bạn."...

Việt Nam của tôi không giàu có, nhưng đã không còn là nước nghèo chỉ sau hơn 20 năm phát triển, trong khi Singapore có 100 năm và nước Mỹ 300 năm. Việt Nam chúng tôi yên bình, những người trẻ tuổi có thể yên ổn học hành mà không sợ bị đánh bom hay xả súng, khi đất nước này chỉ có được hoà bình 35 năm, mà người Mỹ thì không khi Mỹ chưa bao giờ hứng chịu bất kỳ cuộc chiến tranh quốc tế nào. Việt Nam của tôi nợ tiền của nhiều quốc gia, tổ chức thế giới, nhưng cũng là chủ nợ về máu xương của chính những quốc gia ấy. Việt Nam của tôi gòng mình hứng chịu chiến tranh, chưa thôi đau đớn vì những vết thương chiến tranh để lại, nhưng vẫn tiến lên phía trước. Việt Nam của tôi có những đứa con lai như tôi nhưng chưa bao giờ bị kì thị...

Bao nhiêu đó cũng đã đủ đế tôi vỗ ngực nói với bạn bè quốc tế rằng: "Tôi là người Việt Nam !"

--------------

Thứ Tư, 11 tháng 1, 2012

Trống Đồng - Di chỉ nguồn cội Việt


Mới đây xuất hiện một entry trên 5xublog.org về cội nguồn dân tộc Việt Nam khiến dư luận khá xôn xao (Mời xem nội dung đầy đủ tại địa chỉ: http://5xublog.org/) Blog Bách Việt tôi cảm thấy ít nhiều có chút "trách nhiệm" để tham gia thảo luận xung quanh chủ đề thú vị này.
Trước hết xin chân thành bày tỏ sự đồng cảm trước tấm lòng quan tâm đến cội nguồn dân tộc của blog5xu khi đã cất công tìm tòi, lục lọi… và đưa ra một vài "ý tưởng" khá thú vị. Dù sao việc này cũng còn hơn là "ngồi chơi xơi nước" như nhiều vị "thiền sư sử học" trong biên chế lâu nay chỉ quen tụng niệm bài bản đã có và bắt học sinh học thuộc lòng lấy điểm rồi khen/chê giỏi/dở...; ai thắc mắc hay nói trái ý thì cho trượt luôn!
Thứ đến xin có vài nhời bàn như sau:
Entry của 5xublog đã diễn giãi một vài đoạn trong một quyển Giao châu ngoại vực kí của kẻ thống trị phương Bắc để nói rằng lịch sử nguồn cội dân tộc Việt Nam chẳng có gì, kể cả mấy cái tên gọi là Lạc Việt, Hùng Vương,...đều là do người Hán gọi thế kia, rồi người Việt dịch nôm na thành ra thế này...!
Thiết nghĩ nếu cứ suy diễm kiểu blog 5xu thì không thể nào kể ra cho hết mọi sự suy diễn có thể có về nguồn cội người Việt. Nhưng có một điều không nên quên là, mọi sử sách liên quan đến dân tộc Viêt Nam ngày nay đều do kẻ thống trị phương Bắc viết ra hoặc sao chép lại, thậm chí bị xuyên tạc, bịa đặt cho mục đích thống trị,do đó càng về sau càng sai lệch với sự thật. Khoan hãy bàn về nguồn gốc nguyên thủy người Việt từ đâu mà ra, gọi là gì,...nhưng điều đã rõ, họ đã bị người phương Bắc dồn đẩy về phương Nam và đô hộ 1.000 năm liên tục, cộng lại không ít hơn  2.000. Giả sử người Việt đã có chữ viết, thì trong quá trình bị dồn đẩy và thống trị chắc chắn khó mà còn lại dấu vết gì trên con đường ly tán tha hương đó. Cái mà ta còn thấy được trên vùng đất mà kẻ thù đặt tên là "Giao chỉ" thực sự không phải là điểm xuất phát của dân tộc Việt; và người Việt Nam bằng da bằng thịt ngày nay chắc chắn không phải là người Giao chỉ. Cũng không thể có cái gì gọi là "thuần Việt" cả đâu! Lịch sử nhiều nên văn minh nhân loại đã từng bị lãng quên trong các thời kỳ ngắn hơn thế nhiều lần (như người Maya,người Sumer, người Da đỏ, người Chàm...). Cái còn lại chính xác nhất không phải là qua sử sách mà trong các di chỉ khảo cổ và gen di truyền mặc các di tích còn phụ thuộc vào điều kiện thiên nhiên, di truyền đôi khi cũng khó nhận biết rạch ròi.
Theo tôi thiện nghĩ, trong khi còn phải chờ đợi bổ sung của những kết quả nghiên cứu khảo cổ và di truyền, có một cơ sở không chối cãi được của nguồn cội Việt là Trống đồng. Nói cách khác ở đâu có trống đồng, ở đó có thể tìm thấy nguồn cội Việt. Được biết, trong khi VN, vì một số lý do khác nhau, chưa thực sự coi trọng thì thế giới lại có nhiều nghiên cứu dưa trên các di chỉ khảo cỗ Trống Đồng. Ngoài giá trị vật thể của bản thân chiếc trống, các hoa văn trên trống cũng cho thấy những chỉ dấu về nhân văn của người Việt, đặc biệt có biểu tượng Kinh Dịch mà đến nay người TQ đã chính thức thừa nhận không phải của mình. Dưới đây là một trích đoạn nói về Trống Đồng trên Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.

Bắt đầu trích dẫn
Nghiên cứu về nguồn gốc trống đồng
Tại phương Tây, đã có dấu vết rằng người ta đã biết về trống đồng từ năm 1682[6]. Nhưng mãi tới cuối thế kỷ 19 mới có học giả bàn về trống đồng như Hirth (1890), tác giả này cho rằng trống đồng là của Trung Quốc. Rồi De Grooth (1901) cho là của Việt Nam. Trong cuốn Alte Metalltrommeln aus Südost Asien (Trống kim loại cổ Đông Nam Á) năm 1902, Franz Heger, nhà khảo cổ học người Áo khẳng định rằng trống đồng xuất phát từ miền Bắc Việt Nam và trung tâm các cuộc tìm kiếm sau này về trống đồng phải là ở vùng này. Ông Heger phân chia 165 chiếc trống được biết đến lúc ấy thành 4 loại - phân loại Heger. Trước thập niên 1950, một số phân loại khác đã được đề xuất, nhưng không có cách nào được chấp nhận rộng rãi như phân loại của Heger[7].
Các nghiên cứu về trống đồng mãi đến cuối thế kỷ 19 mới được bắt đầu và được bắt đầu bởi người phương Tây. Trước thập niên 1950, hầu hết các nghiên cứu quan trọng đều được viết bởi các học giả phương Tây, đặc biệt nhất là Heger. Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập vào năm 1949 và Việt Nam bị chia cắt vào năm 1954, các học giả Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu chiếm lĩnh lĩnh vực nghiên cứu về trống đồng. Đến cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, đã có những cuộc tranh luận xung quanh việc phân loại trống, ý nghĩa các họa tiết trang trí, niên đại trống..., nhưng chủ đề tranh luận chính yếu là trống đồng xuất phát từ đâu: miền Bắc Việt Nam hay miền Nam Trung Quốc[8]. Các học giả Việt Nam ủng hộ phân loại của Heger và cho rằng trống đồng Đông Sơn (Heger loại I) là loại cổ nhất. Còn các học giả Trung Quốc ban đầu đa số phủ nhận phân loại của Heger, cho rằng kiểu trống tương ứng với Heger loại II mới là cổ nhất. Từ khi trống loại Vạn Gia Bá, loại trống gần giống loại Đông Sơn nhưng hoa văn đơn giản hơn, được tìm thấy ở Vân Nam, các học giả Trung Quốc lại quay về thống nhất với một cách phân loại theo thứ tự phân loại của Hegel nhưng bổ sung một loại xếp thứ tự cổ hơn Heger loại I, đó là loại trống Vạn Gia Bá. Theo cách phân loại của Việt Nam, trống Vạn Gia Bá (trống Thuong Nong tìm thấy ở Việt Nam thập niên 1980 thuộc loại này) được xếp vào loại con của thời kỳ cuối của loại trống Đông Sơn.
Các nhà nghiên cứu Việt Nam và Trung Quốc vẫn chưa đi được đến một kết thống nhất về một xuất xứ Việt Nam hay Trung Quốc của trống đồng - một truyền thống mà có thể đã được chia sẻ giữa tổ tiên của cả hai. Thực tế là tại thời điểm trống đồng được phát minh, không có một đường biên giới giữa Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc. Nhiều nhóm người sống trong vùng đất rộng lớn đó đã có quan hệ với nhau về sinh học hoặc văn hóa hoặc cả hai. Học giả phương Tây Charles Higham, người đứng ngoài cuộc tranh cãi, cho rằng các xu thế dân tộc chủ nghĩa của các nhà khảo cổ học Việt Nam và Trung Quốc đã che lấp tình huống mà khảo cổ học đã khai lộ. Ông đưa ra giả thuyết rằng trống đồng đã được tạo bởi các nghệ sĩ tài hoa của một nhóm các xã hội có tổ chức ngày càng phức tạp với địa bàn trải rộng qua biên giới Việt-Trung hiện đại, để trang bị cho các chiến binh và làm biểu tượng cho vị thế cao của những người lãnh đạo. Ông viết: "Việc tìm kiếm nguồn gốc tại một vùng này hay vùng khác đã bỏ qua điểm quan trọng. Các thay đổi đã được thực hiện suốt từ vùng mà ngày nay là miền Nam Trung Hoa tới đồng bằng sông Hồng bởi các nhóm người mà thời đó đã trao đổi hàng hóa, tư tưởng, và cùng chống lại sự bành trướng từ phía Bắc của một quốc gia hùng mạnh và hiếu chiến"[9]. Quan điểm này tương đồng với sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu Việt Nam, Trung Quốc, hay phương Tây rằng trống đồng là sản phẩm của người Lạc Việt - tộc người Việt cổ được cho là có địa bàn sinh sống trải từ miền Nam Trung Quốc tới miền Bắc Việt Nam.
Hết trích dẫn.(*)

Nói vậy để thâý rằng nếu chỉ "tầm ngôn, trích cú" từ sách sử của phương Bắc thì chưa đủ để kết luận về nguồn gốc người Việt! Hơn nữa nếu trình bày vấn đề một cách phiến diện rất dễ khiến cho bản thân ta mất lòng tin vào chính mình,thậm chí tự chế nhạo mình, thì thật là tai hại!. Dân tộc nào, kể cả người Hán, đều trãi qua thời kỳ mông muội, thô sơ lạc hậu...Chẳng qua nhờ có cơ hội nào đó mà vượt lên hoặc nhỡ cơ mà đi xuống hoặc lụi tàn. Nhưng vạn vật đều có chu kỳ tiến hóa của nó. Khi bàn về cội nguồn dân tộc, người ta không căn cứ vào kết quả mà căn cứ vào quá khứ dù quá khứ đó là huy hoàng rực rỡ hay không. Cái chính là để tìm ra "sợi giây" liên kết hiện tại với quá khứ để làm điểm tựa đi vào tương lai, nếu không sẽ như con diều đứt giây vây!./.

 (*) Nguồn:Wikipedia song ngữ Việt và Anh.


Thứ Năm, 29 tháng 12, 2011

Giới thiệu sách: Cổ Sử ‘Bách Việt Tiên Hiền Chí’

Hình minh họa
Bộ sử cổ "Bách Việt Tiên Hiền Chí - Lĩnh Nam Di Thư" là bộ sử liên quan đến Việt tộc, do sử gia Âu Ðại Nhậm viết xong vào năm Gia Tĩnh thứ 33 (1554), được sử quán nhà Minh và nhà Thanh coi là tài liệu lịch sử xác đáng dùng làm tài liệu để các sử gia Trung Hoa nghiên cứu và trích dẫn khi viết sử. Lần đầu tiên bộ sử này được dịch sang Việt ngữ bởi giáo sư Trần Lam Giang. Nội dung chính của quyển sách viết về 105 vị tiền nhân gốc Việt, trong đó có một số nhân vật đã trở thành nhân vật lịch sử, văn hóa vào bậc nhất mà người Tàu thường phô trương để hãnh diện. Những nhân vật tiêu biểu được sử gia Âu Ðại Nhậm ghi nhận, trước hết là vua Ðại Vũ mà sử quen gọi là vua Vũ trị thủy, vị vua sáng lập ra nhà Hạ. Vua Vũ là người Việt. Các khai quốc công thần nhà Hán như Hàn Tín, Mai Thừa, Anh Bố, Văn Ông, Tiêu Hà, Tào Tham cũng là người Việt. Thái Luân, người phát minh ra giấy viết ngày nay chúng ta xử dụng, người Tàu lấy làm hãnh diện là 1 trong tứ đại phát minh mà người Trung Hoa góp vào văn minh nhân loại. Theo Bách Việt Tiên Hiền Chí, Thái Luân là người Việt. Chưa hết, nhân vật Nhâm Diên (Tích Quang - Nhâm Diên) được sử Tàu dựng lên làm người cùng Tích Quang dậy dân ta cấy cày. Bách Việt Tiên Hiền Chí chỉ ra tiên hiền Việt tộc xuất chúng được Nhâm Diên bái làm thầy.

Sử gia Âu Ðại Nhậm viết: "Theo sách Nhất Lưỡng Hán Dư Ðịa Chí, Cối Kê bị chia thành hai phần: Ðan Dương và Dự Chương. Một phần thuộc cảnh giới Ngô, một phần thuộc cảnh giới Việt. Vốn xưa Cối Kê chỉ là đất của Việt, miêu duệ vua Hạ Vũ cai trị đất này. Từ sau biến cố lìa tan, đến định cư trên miền duyên hải Giang Nam, kẻ làm vương người làm quân trưởng, dòng dõi Bách Việt sinh sôi đông đảo, sống đời hạnh phúc, nức danh tươi tốt ở đây. Ðất nước của các quân trưởng, xa, đến tận Nam Hải, Quế Lâm. Từ Hán về sau, để tiện việc cất quân đánh chiếm, đã vẽ họa đồ phân chia Việt thành châu, thành quận lấy lệ mà thôi. Tên đất cũng là tự ý đặt, sai khác khá nhiều với tên đích thực. Nay muốn viết cho được đúng đắn, phải dùng sử sách của người bản xứ. Ðơn cử thí dụ, chẳng hạn như đất Lư Phượng, Hoài Dương, nhà Hán gọi bừa là quận Ðông Hải, quận Hoài Lâm. Tuy sách Hán Chí có vẽ bản đồ, phân định biên cương của Ngô-Thục; cũng vẫn chỉ là: vẽ cho có vẽ, không đúng sự thực..."

Tác giả Âu Ðại Nhậm đã vận dụng cách "lách" (viết lách mà !) tài tình để cuốn sách sử này được lưu truyền ngay trong lòng người TQ những kẽ luôn có dã tâm hủy diệt chứng liệu các dân tộc hình thành Trung Hoa. Dù thế, cuốn sách cũng trải qua 500 năm thăng trầm lưu lạc, trù dập. Cuối cùng, được xếp vào "Tứ Khố Toàn Thư", là bốn kho tàng trữ sách của triều Minh.

Như đã nói ở phần trên, nhà Hán đã chia cắt đất bị chiếm (của Việt tộc) ở phía Nam sông Dương Tử, đặt tên mới, xóa tất cả dấu vết cũ nên việc tìm hiểu tên người, tên đất cần phải tra cứu rất nhiều sách, nhất là các sách có bề dày lịch sử. Ngoài các bộ chính sử Trung Hoa, giáo sư Trầm Lam Giang còn tra cứu thêm nhiều sách trong Tứ Khố Toàn Thư, các bộ từ điển, tự điển uy tín Từ Hải, Khang Hy cho đến các bộ sách lưu hành rất giới hạn như Thủy Kinh Chú, Sơn Hải Kinh... để chú thích, dẫn giải toàn bộ Bách Việt Tiên Hiền Chí, Lĩnh Nam Di Thư.

Công trình dịch và chú thích của giáo sư Trần Lam Giang đã giúp Bách Việt Tiên Hiền Chí - Lĩnh Nam Di Thư thành chứng liệu lịch sử để người Việt Nam hiện nay và các thế hệ sau hãnh diện là người Việt. Từ trước đến nay, chúng ta thường có niềm tự hào là người Việt nhưng khi con cháu lớn lên chúng thường muốn có cái gì cụ thể để hãnh diện là người Việt Nam nhưng không tìm thấy và trở nên nghi ngờ . Bộ Bách Việt Tiên Hiền Chí - Lĩnh Nam Di Thư là chứng liệu lịch sử đáp ứng nhu cầu này. Sách được dịch sang Việt ngữ, chú thích công phu (nội dung chú thích dày hơn nội dung tác phẩm) và hơn thế nữa, đã in toàn bộ nguyên tác, bằng chữ Nho, để "nói có sách, mách có chứng".

Bách Việt Tiên Hiền Chí được viết từ hơn 500 về trước. Mãi đến ngày nay mới được dịch sang tiếng Việt. Công việc truy tầm nguyên bản, so sánh, đối chiếu cũng như dịch và chú thích cũng mất một khoảng thời gian khá dài, trên dưới mười năm. Ðó là chưa kể công việc lần theo các sử liệu có đề cập đến tác phẩm - là gợi ý tiên khởi - trong sử liệu Việt Nam trước đây. Đây không chỉ là công lao của dịch giả - giáo sư Trần Lam Giang mà còn là thành quả rất đấng được trân trọng của nhiều nhà nghiên cứu, những người quan tâm đến lịch sử, văn hóa dân tộc đang sống tại Hoa Kỳ vả trong Việt Nam .

Chủ blog biên soạn rút gọn nội dung trên đây và đưa tranh minh họa để bạn đọc tiện theo dõi . Bạn đọc có thể tìm đọc nguyên bản bài viết trên theo đường link dưới đây:http://www.vietlyso.com/forums/archive/index.php/t-6189.html















Thứ Hai, 26 tháng 12, 2011

Nên hiểu thế nào về vụ "cờ 6 sao"?


Dư luận trong nước và phần nào đã lan ra nước ngoài đang xôn xao về sự cố “cờ Trung Quốc 6 sao” được các em học sinh Việt Nam cầm vẫy chào trong lễ đón Phó Chủ tịch Tập Cận Bình thăm Việt Nam ngày 20/12/2011.
Thiết nghĩ dư luận hoàn toàn có lý để “bức xúc” trước một lỗi sai sót nghiêm trọng như vậy dù với bất cứ lý do gì, kể cả nếu thực sự có âm mưu chính trị của ai đó, nhất là khi không có sự giải thích kịp thời và rõ ràng từ phía các cơ quan chức năng Nhà nước.
Tuy nhiên, mặt khác mỗi người cũng nên tìm hiểu, suy ngẫm thấu đáo trước khi đưa ra ý kiến bình luận,suy diễn..., vì thông thường điều tai hại không chỉ ở sự sai sót mà còn ở cách suy diễn xung quanh nó. Và trách nhiệm của người gây ra sai sót không nghiêm trọng bằng trách nhiệm của người không biết cách xử lý đúng đắn đối với sự sai sót.
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế đã từng có nhiều trường hợp sai sót liên quan đến các lá cờ quốc gia, có thể do vô tình hoặc do tắc trách, cũng có thể do động cơ chính trị. Trong mọi trường hợp, việc xử lý đúng phương pháp từ phía nhà chức trách sẽ có tác dụng ngăn chặn, thậm chí loại bỏ những tác động xấu không đáng có. Đó phải là cách xử lý không chậm trễ, với thái độ cầu thị và biết nhận lỗi một cách công khai, minh bạch. Nếu làm ngược lại có thể gây ra những hậu quả tai hại hơn nhiều.
Rất tiếc trong trường hợp cụ thể của “vụ cờ TQ 6 sao” vừa qua , ta thấy các cơ quan hửu trách của Việt Nam đã xử lý không thỏa đáng; và đó là một nguyên nhân chính dẫn đến những suy luận phức tạp gây hậu quả xấu. Theo một thông báo khá chậm trễ và không rõ ràng của Người phát ngôn VN, đó là “lỗi kỷ thuật” (tức không phải âm mưu chính trị). Vậy thì vấn đề đáng ra rất đơn giản nếu nó được phát hiện sớm và giải thích công khai trước công chúng. Nhưng rất đáng tiếc và cũng khó hiểu tại sao Ban tổ chức đón tiếp đoàn (thường là một cơ chế liên ngành) đã không kịp thời nhận ra sai sót, và đến nay vẫn chưa chính thức nhận lỗi(?). Nếu chỉ có một thông báo ngắn ngủn trên website của Bộ Ngoại giao là hoàn toàn chưa đủ. Sự kiện sai sót này cần được chính thức xin lỗi trước công chúng qua các phương tiện thông tin đại chúng thì mới đúng.

Một khía cạnh khác cần bàn thêm là, phải chăng một số người, có lẽ vì quá nhiệt huyết yêu nước hoặc do định kiến nào đó(?) đã có cách suy diễn thiếu cơ sở rằng ngôi sao thứ 6 là Việt Nam, hoặc có ai đó muốn "bán" nước cho TQ, v.v... Thiết nghĩ, nếu thật sự có một "âm mưu" thì đó là của những kẻ điên cuồng! Vậy tại sao người yêu nước Việt Nam lại “tiếp tay” cho những kẻ đó?
Nhân đây xin nhắc lại rằng, cờ đỏ sao vàng của VN ra đời từ năm 1940 (khi còn là Mặt trận Việt Minh) trong khi cờ TQ ra đời năm 1949 khi họ giành được độc lập. Tức là cờ đỏ sao vàng  của VN ra đời trước cờ TQ !. Theo giải thích chính thức của TQ, 4 ngôi sao nhỏ là đại diện cho 4 giai cấp : công nhân, nông dân , tiểu tư sản và tư sản đoàn kết xung quanh Đảng CS (ngôi sao to). Đồng thời họ cũng có một cách giải thích rằng saolớnđại diện dân tộc Hán,  4 sao nhỏ đại diện các dân tộc: Mông, Hồi, Tạng, Mãn. Vậy nếu  để suy diễn, thì khả năng suy diễn ngôi sao thứ 6 đại diện cho dân tộc Việt (Bách Việt) bên trong nước TQ thì đúng hơn(?). Cách suy diễn này người  tàu không ưa vì nó chạm vào nỗi niềm sâu xa trong lịch sử hình thành nước Trung Hoa,  người Bách Việt đã tồn tại song song với người Hán từ lâu đời. Tuy nhiên trên thực tế các dân tộc Bách Việt vẫn tồn tại đến ngày nay dưới những tên gọi khác nhau ở miền Nam TQ ,kể cả khoảng 70 triệu người Choong (Tráng) tại Quảng Tây và Quảng Đông.

Tóm lại, trong "vụ cờ TQ 6 sao" lỗi của các cơ quan chức năng Nhà nước rất đáng phê phán về trình độ yếu kém và cung cách làm việc tắc trách; trước sai sót  không chịu công khai xin lỗi và giải bài trước công luận một cách đàng hoàng minh bạch.  Nhưng từ sai sót đó mà suy diễn rằng có âm mưu biến VN thành một dân tộc hay một tỉnh của TQ là không có sở. Xét trên một khía cạnh nào đó, cách suy luận như vậy là "lợi bất cập hại", nếu không nói là "tiếp tay cho giặc". Vậy có nên chăng?./.


Thứ Hai, 12 tháng 12, 2011

Chiến lược hòa bình của Việt Nam


Tác giả: Lê Mai
Một nền hòa bình phi nghĩa có hơn
một cuộc chiến tranh chính nghĩa?
Bêdinxki, Cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ Jimmy Carter, tác giả cuốn Bàn cờ lớn khá nổi tiếng, có hỏi Võ Nguyên Giáp trong một lần tình cờ gặp gỡ nhân ngày Lễ Độc lập ở Angiêri: Nếu được phép, xin được hỏi Đại tướng một câu, chiến lược của ngài là gì? Chiến lược của tôi là chiến lược hòa bình, nhưng là hòa bình trong độc lập, tự do! Võ Nguyên Giáp trả lời. Khi đó, Bêdinxki đã nói: Cảm ơn Đại tướng, chúc Đại tướng lòng dũng cảm. Lần khác, nhân cuộc hội thảo “Những cơ hội bị bỏ lỡ”, một tướng lĩnh Mỹ trong phái đoàn của Mc Namara hỏi ông Giáp, thời điểm nào trong cuộc chiến làm ngài lo sợ nhất? Trong tư duy quân sự của chúng tôi, không có từ “lo sợ”. Ông Giáp trả lời.

Một cách tự nhiên, tôi lại nhớ cuộc gặp của Hồ Chí Minh với Pôn Muýt, cố vấn chính trị của tướng Lơcle vào tháng 5.1947, trong một ngôi nhà duy nhất còn sót lại giữa thị xã Thái Nguyên.
Pôn Muýt:
- Để thực hiện cuộc ngừng bắn, Cao ủy Pháp ở Đông Dương xin nêu với Chủ tịch bốn điều kiện: Thứ nhất, quân đội VN phải nộp vũ khí cho Pháp. Thứ hai, quân đội Pháp được quyền tự do đi lại trên đất nước Việt Nam. Thứ ba, Chính phủ VN phải trả lại cho Pháp tất cả những người bị bắt. Thứ tư, Chính phủ VN phải trao trả cho Pháp tất cả những người nước ngoài đã chạy sang phía VN.
Hồ Chí Minh:
- Những điều kiện ông Bôlae đưa ra là đòi chúng tôi phải đầu hàng! Ông Pôn Muýt, bản thân ông có nghĩ rằng chúng tôi có thể đầu hàng không? Phải là một con người hèn mạt mới chấp nhận những điều kiện như vậy.
- Thưa Chủ tịch, như vậy là chiến tranh vẫn tiếp diễn?
- Chúng tôi muốn hòa bình, nhưng không phải là hòa bình với bất cứ giá nào! Mà phải là hòa bình trong độc lập, tự do.
- Thưa Chủ tịch, chúc Người lòng dũng cảm.
- Tất nhiên, bao giờ cũng như vậy.
Hai câu chuyện trong hai không gian và thời gian khác nhau nhưng là một sự trùng hợp: hòa bình trong độc lập, tự do và lòng dũng cảm. Tư tưởng hòa bình của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp – hai nhân vật chói sáng nhất trên bầu trời chính trị VN, cũng chính là tư tưởng hòa bình của dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước.
Nhìn vào chiều sâu của lịch sử dân tộc, có một câu hỏi, vậy cuộc chủ động tấn công vào quân Tống – ngay trên đất Tống, từ tháng 10.1075 đến tháng 3.1076 của Lý Thường Kiệt liệu có phải là chiến lược hòa bình của VN? Thưa rằng, phải. Xét đến cùng, chiến lược “tiên phát chế nhân” (đánh trước để chế ngự người) của Lý Thường Kiệt là chiến lược hòa bình. Vì sao? Ta biết, bị nhiều thất bại trên chiến trường Đại Việt, nhà Tống vẫn chưa chịu từ bỏ dã tâm thôn tính VN, âm mưu biến VN thành một quận huyện của TQ. Bấy giờ, triều đình Tống chính trị rối ren, trong nước chồng chất khó khăn, vua Tống bèn tìm lối thoát bằng cách xâm lược Đại Việt, hòng giành lấy một chiến thắng quân sự bên ngoài để củng cố uy thế trong nước. Đây là chiến thuật quen thuộc của TQ, nó từng được phát triển dưới một dạng khác ở thời Đặng trong cuộc xâm lược VN năm 1979.
Nhà Tống ráo riết xây dựng các căn cứ vững chắc, tập trung 10 vạn quân với hậu cần hùng hậu, biến Ung Châu thành một căn cứ xuất phát tiến đánh Đại Việt. Để giữ bí mật cho cuộc xâm lược, nhà Tống đóng cửa biên giới, cấm nhân dân qua lại buôn bán; đồng thời mua chuộc, lôi kéo một số tù trưởng VN để chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc, xúi vua Champa quấy rối từ phía Nam. Như vậy, ý đồ xâm lược Đại Việt của nhà Tống đã hết sức rõ ràng, kế hoạch xâm lược đã được chuẩn bị rất công phu. Trong tình hình đó, Đại Việt chọn phương án ngồi yên đợi giặc hay ra tay trước?
Chiến lược “tiên phát chế nhân” là một sự chủ động cao độ, sáng suốt của Lý Thường Kiệt và Đại Việt. Đòn đánh phủ đầu vào các căn cứ xuất phát tiến công sẽ làm tê liệt ý chí của kẻ xâm lược, phá tan sự chuẩn bị của chúng ngay từ trong trứng, kéo dài thời gian chuẩn bị cuộc kháng chiến của dân tộc. Cho nên, suy cho cùng, chiến lược ấy là chiến lược hòa bình của VN, vì nó nhanh chóng dẫn đến hòa bình và nền hòa bình đó sẽ còn được giữ vững.
Chiến lược hòa bình của ông cha ta càng được thể hiện một cách rực rỡ trong cuộc kháng chiến chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn. Khi 10 vạn quân Vương Thông bị quân ta vây hãm ở thành Đông Quan, nếu Lê Lợi và Nguyễn Trãi hạ lệnh tấn công, chắc chắn quân giặc sẽ bị tiêu diệt sạch không còn một mống. Nhưng tư tưởng hòa bình, chiến lược hòa bình của Lê Lợi và Nguyễn Trãi muốn “Dập tắt muôn đời chiến tranh – Mở nền thái bình muôn thuở” đã mở đường cho quân Minh rút về nước với Hội thề Đông Quan lịch sử, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến. Đó là một cách kết thúc chiến tranh độc đáo, sáng tạo, sáng ngời nhân nghĩa gắn liền với chiến lược hòa bình của ông cha ta.
Tư tưởng ấy, chiến lược ấy, nhân nghĩa ấy được thể hiện thật sâu sắc trong Bình Ngô Đại cáo:
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Gần đây hơn, ngày 19.12.1946, cuộc chiến tranh Pháp – Việt, tức là cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất bùng nổ. Nhiều nhà sử học thế giới đã nhận định rất đúng rằng, Chính phủ Hồ Chí Minh đã làm tất cả những gì có thể làm nhằm trách cuộc chiến ấy. Nhưng họ có vẻ băn khoăn, hình như phía VN lại là bên nổ súng trước? Thế thì chiến lược hòa bình của VN đã thể hiện như thế nào?
Trả lời câu hỏi này không khó. Hồ Chí Minh hiểu rất rõ tình thế ngặt nghèo, giờ phút bàng hoàng của người Pháp đã qua và nước VN non trẻ sẽ phải đối mặt với một cuộc tái xâm lược có sức mạnh ghê gớm. Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách cứu vãn nền hòa bình – ít nhất cũng trì hoãn thời điểm nổ ra chiến tranh, liên tiếp viết thư cho các nhân vật Pháp nổi tiếng, đồng thời yêu cầu bộ đội, tự vệ bình tĩnh, nín nhịn, không mắc vào âm mưu khiêu khích của chúng.
Người Pháp không tìm được cái cớ mong đợi, thế là ngày 16.12.1946, họ gửi tối hậu thư cho Chính phủ VN, tuyên bố “Quân Pháp sẽ tự mình đảm nhiệm trị an tại Hà Nội chậm nhất là vào sáng 20.12.1946”. Thật mỉa mai, Pháp tự cho mình cái quyền đó! Tất nhiên, Chính phủ VN bác bỏ tối hậu thư của Pháp và sự kiện tất yếu phải xảy ra: ngày 19.12.1946, cuộc chiến Việt – Pháp bùng nổ. Người VN không thể khoanh tay chờ chết. Trách nhiệm gây chiến là ở người Pháp. Chín năm sau đó, người Pháp phải chịu thất bại cay đắng và họ phải hối tiếc vì không hiểu chiến lược hòa bình của VN – rộng hơn, không hiểu văn hóa VN, con người VN.
Vậy chiến lược của VN trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông là chiến lược gì? Có thể trả lời, đó là chiến lược hòa bình, nhưng không phải là hòa bình với bất cứ giá nào, mà phải là hòa bình trong độc lập, tự do! Tư tưởng hòa bình, chiến lược hòa bình của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp luôn luôn soi sáng con đường đi của chúng ta.
L. M.


--------------
*****

Chủ Nhật, 6 tháng 11, 2011

Một tư liệu về Bách Việt





Bình luận của ASIA FINEST.COM

1- "Hồi cụ Phan Bội Châu mới sang Tàu, một nhân sĩ Trung Quốc là Dương Giác Đôn, đưa cụ đến yết kiến một viên đại thần của triều đình Mãn Thanh, là Trang Uẩn Khoan. Vị đại thần, tiếp rất tử tế, và biếu Cụ một món tiền trợ cấp. Sau khi cụ ra về, Trang Uẩn Khoan bảo Dương Giác Đôn: “Người An Nam có bản tính nô lệ (nô lệ căn tính), dù có vài chí sĩ như ông này (chỉ cụ Phan) cũng chẳng làm nên trò trống gì.”
Năm 1912, Tôn Văn viếng thăm Nhật Bản, và được chính khách Nhật là Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Tsuyoshi) khoản đãi. Sau bữa tiệc, Khuyển Dưỡng Nghị bất thần hỏi Tôn văn: “Tôi được biết Tiên sinh có dịp qua Hà Nội, xin Tiên sinh cho biết tôn ý về dân tộc An Nam ?”
Bị hỏi một cách đột ngột, Tôn Văn chỉ kịp nhớ lại câu của Trang Uẩn Khoan, hối hả đáp: “
Người An Nam vốn nô lệ căn tính. Ngày xưa, họ bị người Hán chúng tôi đô hộ, ngày nay họ lại bị người Pháp cai trị. Dân tộc ấy quả không có tương lai.”
Được dịp, Khuyển Dưỡng Nghị liền nói: “Về điểm này tôi xin phép không đồng ý với Tiên sinh. Ngày nay họ thua Pháp vì không có khí giới tối tân, nhưng cứ xét lịch sử, thì trong số Bách Việt (sic), chỉ có họ là thoát khỏi, không bị Hán hóa. Tôi tin rằng một dân tộc biết tự bảo vệ một cách bền bỉ, như vậy thì thế nào sớm muộn cũng sẽ lầy lại được quyền tự chủ.”
Tôn Văn đỏ mặt, vì hiểu ý Khuyển Dưỡng Nghị muốn châm chọc, cho rằng Tôn Văn là người Quảng Đông, tổ tiên là người A Khách (Hakka), một sắc tộc trong Bách Việt, nhưng kém xa dân tộc Việt Nam, vì đã bị Hán hóa hoàn toàn. Sau bữa tiệc, Khuyển Dưỡng Nghị gọi giây nói mời mấy học sinh người Việt do ông bảo trợ đến để kể cho họ câu chuyện, tỏ ý hớn hở đã thắng Tôn Văn trong cuộc đối thoại.
Trong số mấy người được Khuyển Dưỡng Nghị mời đến có Cụ Sở Cưồng Lê Dư, hồi ấy theo Cụ Phan sang Nhật du học. Chính Cụ Sở Cuồng đã kể câu chuyện ấy cho chúng tôi nghe. Hồi ấy chúng tôi còn ít tuổi, nên hết sức bất mãn, cho rằng người Tàu láo xược, bị Việt Nam đánh bại mấy lần, chẳng còn manh giáp, mà còn nói hỗn. [1]
Tư liệu trên forum w
ww.asiafinest.com không lấy gì làm chăc chắn, tuy hai cụ Lê Dư và Hoàng Văn Chí đều là những bậc sĩ phu. Chính khách nhiều khi nhỡ lời là chuyện thường gặp.
2- Giáo sư Vương Hàn Lĩnh (Viện KHXH Trung Quốc) sang Việt Nam dự Hội thảo quốc tế về biến Đông lần 2 tại thành phố Hồ Chí Minh (11-12 tháng 12 năm 2010) đã phát biểu trước báo chí "
kể từ năm 1885 về trước Việt Nam là thuộc quốc của Trung Quốc" và đe dọa "...anh sẽ gặp rắc rối trong tương lai...Tôi nhắc lại nếu không chọn cách giải quyết như tôi vừa nêu, các anh sẽ phải hứng chịu các xung đột bằng vũ lực thậm chí chiến tranh" [2], sau phát biểu này hai nhà ngoại giao kỳ cựu của Việt Nam là các ông Dương Danh Dy, Trần Kinh Nghị đều có bài viết mà đoạn trích sau đây là của Trần Kinh Nghị:
3- "ta có thể nhận thấy trong suốt quá trình "Nam tiến" và "Đông tiến" của Hán tộc, các tộc người Bách Việt như Ngô Việt, Âu Việt, Dương Việt, Đông Việt, Nam Việt, Man Việt, Di Việt v.v.... đều không thoát khỏi bị thôn tính và đồng hóa...., để cuối cùng đều biến thành "người Hoa" hiện đại. Nhưng riêng Lạc Việt vẫn tồn tại, có thời kỳ bao gồm cả vùng đất Quảng Tây, Quảng Đông và Bắc Bộ ngày nay.
Theo dòng lịch sử, ta còn thấy một thực tế là đã từng có rất nhiều người gốc Bách Việt tham gia vào bộ máy đô hộ của phong kiến Trung Hoa trong các thời kỳ khác nhau nhưng đã chọn Lạc Việt (sau là Chân Lạp, Giao Chỉ...) làm "hậu cứ" để chống lại Vương triều trung ương (như Hồ Quý Ly, Lý Bôn, Lý Bí chẳng hạn); rất nhiều người trong số họ thực sự đã tái hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam.Cũng đã từng diễn ra những đợt rời bỏ quê hương của người Hoa gốc Bách Việt thuộc nhiều thế hệ trước đến định cư tại Việt Nam và các nước Đông Nam Á.
Sử cận đại Trung Quốc cũng cho thấy,
cho mãi đến những năm 1940 danh từ "dân tộc Việt" mới bị Tôn Trung Sơn chủ trương xóa bỏ trong bản đồ dân số Trung Quốc. Cho đến này nay để ý thấy ít nhiều vẫn còn những tình cảm kỳ thị giữa các cộng đồng gốc gác Bách Việt tại Trung Quốc với người 'từ phương Bắc'."[3]
Như vậy, các ý trong 1,2,3 là nhất quán, không đáng ngờ.
Ghi chú:
[1]
http://www.asiafinest.com/forum/lofiversion/index.php/t135203.html
[2] Lịch sử đâu phải uốn cong, uốn thẳng là được !, Dương Danh Dy, Tuần Việt Nam, 15-11-2010
[3] Lịch sử cần sự thật, Trần Kinh Nghị, Tuần Việt Nam,28-12-2010.





Thứ Hai, 29 tháng 8, 2011

Tài liệu của Bộ Ngoại giao Trung Quốc viện dẫn điều không phải là sự thật lịch sử!

Mới đây Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã cho xuất bản một loạt bài viết của một số tác giả với chủ đề "Việt Nam: Câu chuyện không thể không nói", trong đó trình bày về lịch sử quan hệ Trung-Việt từ cổ chí kim...(*) Có lẽ đây là một cử chỉ mới cho thấy phía Trung Quốc bắt đầu muốn công khai về một chủ đề lâu nay vẫn được coi là "nhậy cảm" (?). Tuy nhiên, nói đi thì phải nói lai, có rất nhiều điều không phải là sự thật lịch sử đã được tài liệu viện dẫn nhằm phục vụ những mục đích muôn thuở của chủ nghĩa bành trướng .
Ai cũng biết có rất nhiều điều khuất tất trong cổ sử liên quan đến cội nguồn dân tộc và quan hệ giữa hai quốc gia Trung Quốc và Việt Nam mà lý do chính là trong suốt 1.000 năm "Bắc thuộc", các triều đai phong kiến Trung Quốc đã "đốt sạch, phá sạch" mọi tài liệu lịch sử của Việt tộc. Sang thời kỳ "hậu Bắc thuộc" người Việt không có cách nào khác là phải dựa vào sử sách Trung Quốc để viết lại lịch sử của mình. Do đó không thể tránh khỏi những sai lệch, thậm chí còn "khoảng trống" chưa tìm thấy sự thật. Để giải mã những "góc khuất" lịch sử như nói trên sẽ còn là một con đường rất dài. Tuy nhiên, nhờ những tiến bộ trong ngành hoa học lịch sử của nhân loại, ngày nay những sự thật lịch sử đang dần hé lộ. Trên cơ sở đó, người viết bài này xin có một vài nhận xét sơ bộ về tài liệu của Bộ Ngoại giao Trung Quốc như sau.
Trong bài viết của tác giả Tôn Hồng Niên (**) có nói rằng "Từ thời cổ đại Trung Quốc đã có truyền thuyết Thần Nông, kể rằng phạm vi thiên hạ mà Thần Nông cai quản phía Nam đến Giao Chỉ, các đời vua Nghiêu, Thuấn, Vũ đều đã tuần thú đến Giao Chỉ”... Đây là một cách vận dụng truyền thuyết tùy tiện bất chấp sự thật lịch sử .
Ta hãy bắt đầu bằng tấm bản đồ của Wikipedia, trong đó mô tả cương vực thời Nhà Hạ của Trung Quốc (tương đương thời Kinh Dương Vương trong sử Việt Nam) chỉ bằng hạt đậu hay một giọt dầu mà thôi !



Cũng chính sách sử Trung Quóc cho thấy, phải mất hàng ngàn năm sau đó người Hán mới xâm lấn xuống phía nam...thì làm sao có chuyện Nghiêu, Thuấn, Vũ "tuần thú đến Giao Chỉ"? Chẳng lẽ giọt dầu kia  đã bổng dưng lan tỏa một cách hòa bình xuống khắp miền đất trồng lúa nước  phía Nam sông Dương Tử vào thời kỳ mà ở đó đã là "đất có chủ"  được chính sử Trung Quốc gọi là "của người Bách Việt ở Phương Nam"(tức là nhiều bộ tộc hoặc vương quốc Việt tộc đã định cư tại đây ít nhất là cùng thời với Hán tộc ở phía Bắc)?  Nếu có thể truy xét lại cái "truyền thuyết" trên đây ắt sẽ biết nó đã được "viết lại" từ thời nào và "tài" bóp méo sự thật lịch sử của chủ nghĩa đại Hán như thế nào. Có thể thời gian đã xóa mờ dấu tích  những vó ngựa của quân xâm lược,  nhưng những dấu ấn nhân văn vẫn còn đó bất chấp mọi thủ đoạn đồng hóa vô cùng nham hiểm và độc ác của kẻ thống trị suốt hàng ngàn năm trước và sau CN. Ông Niên "vận dụng" truyền thuyết của mình như thế, nhưng lại xuyên tạc về truyền thuyết của người Việt đồng thời cố tình tránh né không nói gì về "chủ thể gốc đích thực" của vùng đất phương Nam  cùng với nền văn minh lúa nước và những di chỉ khảo cổ như Trống Đồng, Riều đá, Việt ngữ... vốn đã được thế giới công nhận là của Bách Việt , trong đó có Lạc Việt và Âu Việt cũng tức là nước Văn Lang, rồi Nam Việt và Việt Nam ngày nay. Ngay cả truyền thuyết Thần Nông và môn phái Kinh Dịch cũng đang được giới sử gia quốc tế bàn cải  liệu có phải là  của  Hán tộc hay của Việt tộc (!?). Tài liệu này không đề cập gì về quá trình các triều đại phong kiến Trung Quốc đã  xâm lấn và dồn đẩy Việt tộc xuống phía Nam như thế nào.  Thiết nghĩ cũng nên  trích ra đây môt tấm bản   đồ khác trong đó mô tả cương vực của nước Nam Việt đến năm 111 trước Công nguyên bao gồm cả tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Đảo Hải Nam và Bắc Việt Nam ngày nay(***). Đó là cách nhìn lịch sử khách quan của giới sử gia quốc tế. Đây là một phần sự thật không chỉ cho thấy sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam mà còn là bằng một chứng hùng hồn bác bỏ cái gọi là "chủ quyền từ thời thượng cổ..."  đối với Biển Đông mà phía Trung Quốc đang ra sức ngụy tạo trước thế giới. Tài liệu nói trên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc  cũng phớt lờ những yếu tố và giá trị nhân văn của Việt tộc vốn đã song hành cùng Hán tộc trong thời kỳ tiền sử nhưng chẳng qua đã bị kẻ đô hộ tráo đổi hoặc tước đoạt trong quá trình thực hiện mưu đồ đồng hóa vô cùng thâm độc của chúng. Những giá trị nhân văn của Việt tộc đã thực sự ảnh hưởng và thấm đẩm trong  nền văn hóa Trung Hoa ngày nay và vẫn còn tiếp tục hiện diện  tại nhiều vùng phía Nam và Đông Nam Trung Quốc bất chấp những biện pháp đồng hóa của chính quyền trung ương. Đó là lý do đích thực của tình trạng giống nhau hay "tương đồng" mà ai cũng thấy giữa hai dân tộc. Sự trường tồn của dân tộc Việt Nam với bản sắc riêng của mình sau 1.000 năm Bắc thuộc là một minh chứng hùng hồn  (nếu biết rằng  đối với một số dân tộc khác trên thế giới chỉ bị ngoại bang đô hộ vài trăm năm  có thể đã trở thành "vong quốc").  Tuy nhiên bài viết của ông Niên đã không đánh giá đúng thực chất của sự giao thoa của hai nền văn minh Hán -Việt, lại còn chê người Việt Nam không có chữ viết.... nên phải sử dụng chữ viết và sách sử của Trung Quốc (!?); lại nhận vơ rằng dân tộc Hán (vốn chỉ có thảo nguyên) lại có thể đến để dạy người Việt trồng lúa nước (!?) v.v... và v.v... Thử hỏi, Người Việt Nam có thể làm gì hơn dưới ách đô hộ hà khắc với mưu đồ đồng hóa độc ác  suốt hàng ngàn năm của bọn thống trị Phương bắc, khi mà chỉ có kẻ đô hộ mới có quyền viết lại lịch sử? Nếu người Hán đã không may bị rợ Hung Nô đô hộ 1.000 năm thì đến nay còn có thể làm được gì? Hãy đừng lấy cái bất hạnh của người khác làm "cái hay", "cái tốt" cho bản thân mình. Đó có thể là cách hành xử mà người Trung Quốc cần phải học thêm!
Về thời kỳ từ sau cách mạng giải phóng dân tộc, rất tiếc tài liệu của Bộ Ngoại giao Trung Quốc  vẫn nhìn vấn đề theo quan điểm của thời "vương triều"... vẫn tiếp tục coi Việt Nam là "tông-phiên" và mong đợi sự quy phục, "triều cống"  từ nước láng giềng nhỏ yếu này (?) . Đó là quan điểm cực kỳ lỗi thời và không thể chấp nhận được ! Tài liệu không chỉ lòng vòng kể lễ về công lao "khai sáng" nước Việt trong thời kỳ 1.000 năm Bắc thuộc mà  còn đòi hỏi các thế hệ người Việt Nam ngày nay phải luôn hàm ơn đối với thời "cách mạng Trung Quốc" mặc dù cả hai bên thừa biết rằng mọi sự giúp đỡ hay viện trợ của Trung Quốc trong thời kỳ này trước hết đều xuất phát từ  lợi ích của bản thân Trung Quốc! Các nhà lãnh đạo Trung Quốc thừa biết đã ra sức kèm chế  cách mạng Việt Nam như thế nào trong các thời kỳ khác nhau , đặc biệt đã "bán đứng" lợi ích của nhân dân Việt Nam như thế nào trong quá trình đàm phán Trung - Mỹ năm 1972,  và bằng việc này, đã tạo điều kiện để họ đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 (lúc đó đang do chính quyền Sài Gòn kiểm soát), rồi chống phá Việt Nam ở hai ngã biên giới Tây Nam và phía Bắc những năm sau đó.... Nói cách khác ,  chính Trung Quốc là bên được hưởng lợi nhiều nhất từ sự hy sinh xương máu của người Việt Nam. 
Còn  nhiều câu chuyện "thâm cung bí sử" và ân oán  mà nhân dân cả hai nước Việt, Trung chắc đều biết nhưng thấy chưa tiện nói ra mà thôi!   Thiết nghĩ, đã không nói đến thì thôi, khi đã nói thì  phải nói cho đầy đủ và đúng sự thật. Mong rằng các nhà sử học chân chính và nhân dân hai nước và quốc tế hãy lên tiếng, coi đây là một việc làm thiết thực để góp phần giải quyết thấu đáo cuộc tranh chấp Biển Đông và  góp phần giữ gìn hòa bình khu vực và thế giới về lâu dài!

Chú thích:
 (*)Tham khảo tin của TTXVN đưa lại nguồn: Tạp chí “Tri thức thế giới” dưới quyền chủ quản của Bộ Ngoại giao Trung Quốc số 14 ra ngày 16/7/2011.
(**) Tôn Hồng Niên, Nghiên cứu viên thuộc Trung tâm nghiên cứu sử địa biên giới, Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc. 
(***)Quyển "Shadow of the Dragon:Vietnam‘s Continuing Struggle with China and the Implicationsfor U.S. Foreign Policy" của Henry J. Kenny, Washington: Brassey‘s, 2002.


Trần Kinh Nghị
                                            




Thứ Hai, 8 tháng 8, 2011

Lịch sử cần sự thật(*)


Hồi đầu năm 2010 đã rộ lên sự kiện một nữ nghiên cứu sinh người Việt tại Mỹ tên là Đào Ngọc Bích viết bài cho BBC nói rằng Việt Nam là từ Trung Quốc mà ra... (!) để rồi ngay sau đó bị đông đảo dư luận trong và ngoài nước phê phán rất dữ dội. Không chỉ vậy, chính cô cựu sinh viên Đại học Ngoại ngữ Hà Nội này, trong nỗ tự lực bào chữa cho mình, đã “đổ tại” quá trình đào tạo môn lịch sử khi cô còn ở Việt Nam đã khiến cô tin như vây (!?). Tiếp theo cuối năm đó, nhân dịp đến tham dự Hội thảo quốc tế về  Biển Đông lần thứ 2 tại Tp Hồ Chí Minh một vị giáo sư danh tiếng của Trung Quốc tên là Vương Hàn Lĩnh đã tuyên bố xanh rờn rằng “Kể từ năm 1885 về trước Việt Nam là thuộc quốc của Trung Quốc...”. Vị này còn tỏ ý vừa khuyên vừa dọa phía Việt Nam nếu không biết "hợp tác" với Trung Quốc thì chỉ có thua thiệt!  
Thực ra, không phải chỉ một mình cô Bích hay ông Lĩnh mà còn khá đông đảo người Việt Nam và  Trung Quốc đều chưa hiểu đúng về lịch sử của đất nước mình, đặc biệt là lịch sử liên quan đến mối quan hệ lâu đời của hai quốc gia dân tộc “núi liền núi, sông liền sông” này. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiểu biết lịch sử “lệch lạc” như vậy nhưng có một nguyên nhân sâu xa nằm ở những “góc khuất” trong sử sách  khi nói về nguồn cội dân tộc của mỗi nước. Vẫn biết, kẻ mạnh thường thắng kẻ yếu, và sự thôn tính lẫn nhau giữa các dân tộc, quốc gia vốn là một thực tế hiển nhiên trong lịch sử nhân loại, nhưng điều quan trong có tính nguyên tắc là, mọi sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng và giữ gìn một cách trung thực. Với tinh thần đó, người viết bài này xin được nêu lên một vài điều suy nghĩ lâu nay để mọi người cùng suy ngẫm nhằm tìm ra một lời giải.  
       
             Một là, về cội nguồn dân tộc, có thể nói không chỉ truyền thuyết mà cả sử sách (của cả Trung Quốc và Việt Nam) dù có nhiều điều chưa được làm sáng tỏ thậm chí bị xuyên tạc , bưng bít... cũng cho thấy rằng nước Việt Nam ngày nay là một thực thể thống nhất duy nhất còn lại của Bách Việt- một tên gọi chung cho nhiều tộc người Việt đã từng định cư hàng ngàn năm trước Công nguyên trên vùng lãnh thổ rộng lớn từ bờ Nam Sông Dương Tử xuống miền Bắc Việt Nam ngày nay, phía Tây giáp Tân Cương, phía Đông giáp biển Thái Bình Dương. Qua sử sách cho thấy người Hán vào thời sơ khai Nhà Hạ (khoảng 2.000 năm trước CN) chỉ là một vương quốc nhỏ tại vùng xung quanh Bắc Kinh ngày nay. Nhưng từ đó họ đã không ngừng mở mang bờ cõi, chủ yếu theo hướng “nam tiến” với thế mạnh của kỵ binh và đã phải mất hàng ngàn năm để xâm chiếm, chinh phục và đồng hóa hầu hết các bộ tộc hoặc vương quốc có tên tuổi của người Bách Việt (xem bản đồ minh họa dưới đây*).

Đó là một quá trình kéo dài với biết bao biến cố lịch sử phức tạp mà trong đó có nhiều sự kiện đã bị lãng quên hoặc bị xuyên tạc, thậm chí bị “tráo đổi” tùy theo mục đích của các triều đại phong kiến thống trị trong các thời kỳ khác nhau, đặc biệt là thời nhà Hán và nhà Đường. Tuy nhiên có một thực tại không thể bác bỏ là, Lạc Việt (tên nước Văn Lang) mặc dù bị các triều đại phong kiến Hán-Hoa  thay nhau thống trị trong suốt thời kỳ dài được sử ta gọi là “ 1.000 năm Bắc thuộc” nhưng vẫn tồn tại và phát triển với tư cách một quốc gia dân tộc độc lập như ngày nay. Trong suốt quá trình đó đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ của các tộc người Việt liên tục nỗ ra dù không thành công trọn vẹn cũng nói lên sự bất khuất kiên cường của dân tộc này.  Có thể nói, đó là quá trình lịch sử tang thương của Bách Việt nói chung, nhưng cũng là trang sử hào hùng đối với dân tộc Việt Nam nói riêng. Sự tồn tại và phát triển của Việt Nam không phải là trường hợp ngẫu nhiên mà là kết cục của cả quá trình đấu tranh sinh tồn của người Bách Việt nói chung mà các thế hệ sau này không bao giờ được phép lãng quên. Bởi lẽ, với không ít những dân tộc khác, chỉ cần vài trăm năm cũng đủ để "biến mất" trên bản đồ thế giới, thì sự tồn tại của dân tộc Việt sau 1.000 năm mất nước quả là rất đỗi phi thường rồi! Lại càng không thể đem ra so sánh những gì còn lại của ngày hôm nay giữa kẻ thống trị và người bị trị để kết luận rằng ai đã hơn ai! Chỉ có sự thật lịch sử chân chính không bị bóp méo mới có quyền quyết định sự so sánh này.  

Ở đây rõ ràng có vấn đề nỗi cộm là quan niệm thế nào về sự thật lịch sử và truyền thuyết.  Thử hỏi người Việt có thể làm gì trong 1.000 năm dưới ách đô hộ hà khắc của phương Bắc - kẻ duy nhất có quyền viết sử- nếu không sử dụng truyền thuyết?  Và truyền thuyết đều nói lên rằng nguồn gốc tổ tiên của Việt Nam bắt nguồn từ Hồ Động Đình (thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay) bắt đầu bằng Thời đại Hồng Bàng của Kinh Dương Vương (có sách ghi cụ thể năm 2879 TCN, tức cách nay gần 5.000 năm). Thuyết này trùng khớp với các câu chuyện cổ tích về Âu Cơ-Lạc Long Quân, các Vua Hùng, và cũng được thêu dệt bằng nhiều câu chuyện giả sử lưu truyền qua bao đời dân gian khác nữa. Đó là câu dân ca Việt cổ “Công cha như núi Thái Sơn (gần Hồ Động Đình), Nghĩa mẹ  như nước trong nguồn chảy ra…”; ngay cả bản thân truyền thuyết Thánh gióng đánh giặt Ân (tức nhà Thương) cho thấy bờ cõi nước Việt vào thời đó ắt phải ở sâu trên phía Bắc, chứ không thể là Vùng Bắc Ninh bây giờ (?). Nhưng câu chuyện truyền thuyết như vậy đều có giá trị lịch sử của chúng, và trên thực tế cũng đã một phần được kiểm chứng bằng một số kết quả nghiên cứu khảo cổ, nhân chủng và ngôn ngữ,  qua các di chỉ đồ đá,  Trống Đồng, nghề trồng lúa nước và  cả gen di tuyền v.v… Nếu kết hợp cả truyền thuyết với cổ sử đồng thời đối chiếu với các kết quả nghiên cứu của loài người , ta có thể nhận thấy trong suốt quá trình “nam tiến” và “đông tiến” của Hán tộc, các tộc người Bách Việt như Ngô Việt, Âu Việt, Dương Việt, Đông Việt, Nam Việt, Mân Việt, Di Việt v.v…. đều không thoát khỏi bị thôn tính và đồng hóa, để cuối cùng đều biến thành “người Hoa” hiện đại. Nhưng riêng một số tộc Bách Việt ở phía Nam, tiêu biểu là  Lạc Việt, Âu Việt  vẫn tồn tại, có thời kỳ bao gồm cả vùng đất Quảng Tây, Quảng Đông  của Trung Quốc xuống vùng Bắc Bộ của Việt nam ngày nay. Theo dòng lịch sử, ta còn thấy một thực tế là đã từng có rất nhiều người gốc Bách Việt tham gia vào bộ máy đô hộ của phong kiến Trung Hoa trong các thời kỳ khác nhau nhưng đã chọn Lạc Việt ( sau là Chân lạp, Giao Chỉ...) làm "hậu cứ" để chống lại Vương triều trung ương (như Hồ Quý Ly, Lý Bôn, Lý Bí chẳng hạn);  rất nhiều người trong số họ thực sự đã tái hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam và có khá nhiều người đã dựng nên các triều đại huy hoàng cho Đại Việt  như  Lý, Trần v.v...; trường hợp Triệu Đà  cùng đã được sử sách Việt nam từ trước thế kỷ thứ 18 coi là "vua Việt". Cũng đã từng diễn ra những đợt rời bỏ quê hương của người Hoa gốc Bách Việt thuộc nhiều thế hệ trước đến định cư tại Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Sử cận đại Trung Quốc cho thấy, mãi đến những năm 1940 danh từ “dân tộc Việt” mới bị Tôn Trung Sơn chủ trương xóa bỏ trong bản đồ dân số Trung Quốc. Cho đến này nay để ý thấy ít nhiều vẫn còn những tình cảm kỳ thị giữa các cộng đồng gốc gác Bách Việt tại Trung Quốc với người “từ phương Bắc”. Bản thân người viết bài này mới đây trong chuyến du lịch mấy tĩnh phía Nam Trung Quốc đã được dịp “kiểm nghiệm”điều này qua chuyện trò với một số người bản địa; dân bản địa vùng này bày tỏ bất bình trước các biện pháp hạn chế của chính phủ trung ương ngày càng  làm mai một ngôn ngữ bản địa (gọi là "Việt ngữ" lâu nay vẫn còn được  sử dụng tai các tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông và cả Hồng Kông, Macau). Còn nhớ hồi  đầu năm 2000 sau khi Trần Thủy Biển  lên làm thủ tướng Đài Loan đã nêu cao tinh thần  “người bản địa” Mân Việt để đấu tranh  bảo vệ sự tồn tại độc lập với Đại lục. Bản thân Tôn Trung Sơn cũng là gốc người Bách Việt.

Thiết nghĩ, những sử liệu và sự kiện trên đây ít nhiều tự chúng đã nói lên những sự thật  khách quan xung quanh những “góc khuất” trong cổ sử và chính sử liên quan đến cội nguồn dân tộc và quan hệ giữa hai nước Việt-Trung. Khách quan mà nói nghiên cứu để tìm ra sựthật lịch sử mộtcvách khách quan sẽ là hướng đi tích cực nhất cho mục đích xây dựng mối quan hệ hữu nghị bình đẳng lâu dài giữa hai nước và cho lợi ích hợp tác hòa bình hữu nghị trong khu vực nói chung.
                 
Hai là, về nhân văn, tuy chỉ dựa vào các nguồn sử sách cổ để lại từ thời “1.000 năm Bắc thuộc”, ta cũng có thể thấy Việt Nam là kết tinh, là đại diện của Bách Việt. Về  góc độ văn hoá, kể cả phong tục tập quán, ngôn ngữ, Việt Nam và Trung Quốc  ngày nay có rất nhiều điểm tương đồng, đồng thời cũng có rất nhiều điểm khác biệt. Đặc điểm này  nếu được hiểu và vận dụng một cách đúng đắn sẽ có tác dụng tích cực cho việc phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị và bình đẳng giữa hai nước, chứ không có gì là không tốt như một số người có thể nghĩ. Tuy nhiên trên thực tế không được như vậy vì có quá nhiều sự thật đã bị xuyên tạc, có những giá trị đã bị “tráo đổi” trong suốt quá trình lịch sử hàng ngàn năm qua mà trong đó phần lợi bao giờ cũng nghiêng về phía kẻ mạnh. Xin đơn cử vài ví dụ: Thế giới lâu nay vẫn tin rằng Kinh Dịch là của người Trung Quốc. Nhưng thực ra gần đây các chứng cứ khảo cổ quốc tế đã cho thấy Trống Đồng không phải của người Hán mà là của các dân tộc phương Nam. Kết luận này cho phép các nhà nghiên cứu suy ra rằng những hình khắc biểu tượng Kinh Dịch trên trống cũng không phải của người Hán; và do đó chủ nhân của  Kinh Dịch chính là người Bách Việt, cụ thể hơn là của người Âu Việt và  Lạc Việt. Về ngôn ngữ, đã từ lâu người Việt Nam phải an phận đón nhận chữ Nho (tốt đẹp) của người Hán, mặc dù đã cố tạo dựng cho mình chữ Nôm như một nỗ lực độc lập (!) tuy không mấy thành công vì những lý do khác nhau. Nhưng có một số luận điểm khác cho rằng người Hán trong quá trình xâm lược đã sử dụng ngôn ngữ của người Bách Việt, cụ thể là của  Ngô Việt (tại vùng Việt Châu, tỉnh Chiết Giang và Phúc Kiến ngày nay) để cải tiến thành chữ Hán, rồi thành tiếng Trung hiện đại. Lập luận này dựa trên cơ sở nghiên cứu về ngữ nghĩa, âm thanh, ngữ pháp v.v… cho thấy một tỷ lệ rất cao các nhân tố ngôn ngữ Bách Việt trong tiếng Hán cỗ và tiếng Trung ngày nay. Đó là hiện tượng các danh từ nhưng có tính từ được xếp sau danh từ được thấy phổ biến trong Kinh Thi và ngay ở tên gọi các vị Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn vốn được coi là truyền thuyết  Trung Quốc ; từ “Việt” hiển thị với tầng số rất cao trong các tên địa danh ở miền Nam Trung Quốc; từ “giang” (sông) của tiếng Việt cổ được sử dụng cho hầu hết các con sông miền Nam Trung Quốc (trong khi ở miền Bắc gọi là “hà”); tuồng Kinh kịch ở phía Nam Trung Quốc ngày nay vẫn còn gọi là “Việt kich”; tiếng Quảng Đông được sử dụng ở Quảng Đông, Quảng Tây, Hồng Kông, Macau và nhiều cộng đồng người Hoa trên thế giới  gọi là Việt ngữ, v.v… Thuyết này đồng thời cũng đặt ra mối nghi vấn rằng di chỉ thẻ tre có khắc chữ Hán cổ là “giả mạo” vì vào thời đó người Hán chưa có mặt ở miền đất phía Nam nơi có cây tre đủ to để làm thẻ viết. Tương tự cũng có sự “nhập nhằng” về chủ thể của “con đường tơ lụa” vì đúng ra  người Bách Việt mới có thể là chủ thể của sản vật tơ lụa làm từ cây dâu tằm chỉ có ở vùng đất  phương Nam. Rất nhiều luận điểm và luận cứ tượng tự cũng đã được nhiều học giả Việt Nam và quốc tế nêu ra.
            Tóm lại, dù bị người Hán cố tình đồng hóa bằng rất nhiều thủ đoạn tinh vi và cường bạo như đốt sách, bắt từ bỏ, xóa bỏ  hoặc tráo đổi v.v…, nhưng các dấu tích Bách Việt  vẫn còn đó  cho đến ngày nay. Trong suốt quá trình đấu tranh sinh tồn khốc liệt bên thua trận ắt chịu nhiều mất mát, nhưng những gì là bản sắc riêng vẫn còn đó; và điều này có thể nhận thấy qua nhiều nét tương đồng giữa Việt Nam với các tỉnh phía Nam và Đông Nam Trung Quốc ngày nay cũng như với các nước Đông Nam Á.

Ba là, công tác nghiên cứu và giáo dục về lịch sử cần đi sâu hơn nữa về nguồn gốc dân tộc cùng các giá trị nhân văn trên tinh thần khách quan, dựa trên chứng cứ khoa học biện chứng lịch sử, khảo cổ, nhân chủng… (chứ không chỉ dựa vào sử sách củ để lại từ thời Bắc thuộc) . Thiết nghĩ, trong việc này  những kiến thức xác thực về Bách Việt sẽ giúp giải mã rất nhiều điều mà lâu nay chưa cảm thấy thỏa đáng hoặc chỉ là “ngộ nhận”. Công tác sử học cũng cần tập trung nghiên cứu và bổ cứu lại toàn diện, đặc biệt về lĩnh vực nguồn gốc dân tộc và nhân văn của người Việt nhằm làm sáng tỏ những kiến thức mang tính  truyền thuyết kết hợp với những chứng cứ lịch sử dựa trên cơ sở các kết quả nghiên cứu khảo cổ và gen di truyền v.v…Khi có đủ dữ liệu thì công khai  chỉnh sửa những mọi sự sai lệnh hoặc bị xuyên tạc hoặc bị giả mạo  trong sách sử củ dưới bất cứ hình thức nào, của bất cứ thời đại nào. Lý do là vì toàn bộ sách sử cổ của Việt Nam đều đã bị đốt và thủ tiêu trong các thời kỳ “10000 năm Bắc thuộc”; các sách sử hiện có, kể cả Đại Việt sử ký, đều là sử “chép lại” dựa chủ yếu vào các nguồn sử của các thời Hán, Đường và “hậu Hán Đường” nên không thể đảm bảo tính chính xác, trung thực và đầy đủ được; thật nguy hại nếu đã có những sự thật bị xuyên tạc, thậm chí đã bị tráo đổi trong đó.  Mặc khác, cũng cần thừa nhận những khiếm khuyết trong khâu giáo dục công dân về lịch sử trong thời gian qua ở nước ta với những hậu quả “nhãn tiền” như đã được nhiều lần cảnh báo trước công luận. Thật nguy hại nếu mọi công dân đều hiểu biết sơ sài, thậm chí hiểu sai lệch về lịch sử của đất nước mình. Ví dụ khi nói mình "con rồng cháu tiên" nhưng trong lòng phân vân không biết có đúng thật không vì thấy ở Trung Quốc người ta cũng nói như vậy; không biết tại sao người Việt có các họ giống như  người Trung Quốc, không biết chắc nên thiếu tự tin  rằng Trống Đồng là bảo bối của dân tộc Việt Nam; không dám đòi quyền chủ thể của Kinh Dịch, v.v…Tương tự, trong lĩnh vực ngôn ngữ , sao ta không đặt mạnh vấn đề nghiên cứu xem tiếng Việt có chữ viết cổ? Lẽ nào dân tộc ta chỉ có chữ Hán Nôm? Có lẽ vì không biết mình là ai, nên đến ngày nay vẫn lúng túng không biết nên bảo tồn cái gì, thay thế, xoá bỏ cái gì để thực hiện "trong sáng tiếng Việt"?. Thậm chí có người cứ “vô tư” nhận mình là "con cháu" của người Trung Quốc (trong khi phía bên kia không nghĩ như vậy). Cũng cần xem xét lại một số khái niệm và quan niệm như cho rằng văn hóa Việt “bị ảnh hưởng” của văn hóa Trung Quốc là không hoàn toàn chính xác (mà thực chất đó chỉ là một sự giao thoa và ảnh hưởng qua lại); cách hiểu về nguồn gốc đạo Phật, Đạo Khổng, về Chữ Nho và  Nho Giáo cũng có nhiều điều phải bàn thêm, v.v… Chỉ khi nào hiểu đúng về nguồn gốc dân tộc và tự tin với những giá trị nhân văn riêng biệt của mình, người Việt Nam ngày nay mới thực sự tìm lại chính mình và thoát khỏi nỗi mặc cảm truyền kiếp luôn thấy yếu kém và phụ thuộc các thế lực thần bí, thần quyền của "Vương triều Phương Bắc".
             
Thay cho lời kết     
              Những lập luận trên đây chỉ là ý kiến cá nhân của người viết để nhắc lại rằng dân tộc Việt Nam có cội nguồn lâu đời với những giá trị nhân văn không thua kém các dân tộc khác. Đó là một lịch sử cần được tôn trọng bằng các chứng cứ khoa học khách quan chứ không chỉ bằng truyền thuyết; ngay cả sử sách cũng phải được kiểm chứng lại bằng các kết quả nghiên cứu khoa học nghiêm túc. Theo hướng đó, bài viết chỉ nêu lên một thực trạng tình hình đồng thời gợi ra một số việc cần làm thêm (chứ không nhằm phê phán ai hoặc nước nào) với hy vọng góp phần đem lại sự hiểu biết đúng đắn hơn về lịch sử và cội nguồn dân tộc của Việt Nam cũng như các bên liên quan khác trong khu vực, coi đó là cơ sở để đảm bảo mối quan hệ hữu nghị, bình đẳng lâu dài giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng như giữa các nước khu vực với nhau./.

Tài liệu tham khảo
-Mục Bách Việt  trong Bách khoa toàn thư mở -Wikipedia, và rất  nhiều tài liệu khác nhau được liên kết trong tài liệu này.
-Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
-Sử Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê
-Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim
-Tạp chí Xưa và Nay
-Bộ sách giáo khoa môn sử học phổ thông của Nhà XB Giáo Dục Việt Nam.
-*Công trình nghiên cứu nguồn gốc chủng tộc dựa vào gen di truyền (DNA) của M. Liu thuộc Mackay Memorial hospital và được Viện Nghiên Cứu Sức Khoẻ quốc gia của Đài Loan tài trợ chứng minh là các giống dân miền Hoa Nam, Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương có liên hệ gen di truyền khác biệt với chủng tộc Hán ở miền bắc. 
-* Sử dụng lại bản đồ của Nhóm nghiên cứu về Bách việt trên mạng internet- Nguồn: nhatnguyen.yolasite.com  Chú ý: những tên nước trong bản đồ này chỉ mang tính chất tượng trưng; trên thực tế chúng được thay đổi hoặc biến mất trong các thời kỳ lịch sử khác nhau. 

(*) Bài này đã được đăng trên TuầnVietnam:  http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-12-27-lich-su-can-su-that

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này