Hiển thị các bài đăng có nhãn ASEAN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ASEAN. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2012

Vài suy nghĩ sau tuyên bố của Đô đôc Samuel Locklear


Đài VOA ngày 7/12/2012 dẫn nguồn tin của Bộ Quốc Phòng Mĩ  (US Department of Defense PR/ Freebeacon.com) đưa tin về tuyên bố báo chí của Đô đốc Samuel Locklear, Tư lệnh Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương của Mĩ ngày 6/12 với tiêu đ "Mỹ từ chối hỗ trợ đồng minh Châu Á trong tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc".Tiếp ngay bên dưới là lời dẫn đề nêu rõ:      
Đô đốc Samuel Locklear 
"Hoa Kỳ không hỗ trợ các đồng minh và nước bạn quan trọng trong khu vực Châu Á có dính líu tới các tranh chấp chủ quyền lãnh hải với Trung Quốc giữa bối cảnh các hành động gây hấn của Bắc Kinh ở Biển Đông đang leo thang" .
(Xem tin đầy đủ tại đây http://www.voatiengviet.com/content/my-tu-cho-ho-tro-dong-minh-chau-a-trong-tranh-chap-bien-dong-voi-trung-quoc/1560465.html

Bản tin thật ngắn gọn, nhưng có lẽ đã cho ta một lời kết về câu chuyện rất dài mà cả thế giới đã chăm chú theo dõi bấy lâu nay -.đó là chờ xem Mĩ sẽ hành động như thế nào trước âm mưu và hành động xâm lược  trắng trợn của nước Trung Quốc "đang trỗi dậy" đối với các quốc gia láng giềng nhỏ yếu hơn xung quanh. Trước mối hiểm họa của chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán, các quốc gia khu vực dù không muốn vẫn phải chấp nhận sự trở lại của Mĩ và mong đợi cường quốc số I này  đóng vai trò như một hiệp sĩ đứng ra bảo vệ cho họ. Về phần mình nước Mĩ đường như chợt nhận ra một cơ hôi để kèm chế đối thủ, nhưng đồng thời cũng nhận ra những hạn chế của bản thân, nhất là trước bối cảnh khủng hoảng kinh tế-tài chính kéo dài và những cam kết phiền toái khác trên toàn cầu. Cũng như xu hướng chung của khu vực, người Việt Nam trong và ngoài nước, dân thường và chính khách, ít nhiều đã  tin rằng Mĩ sẽ không khoanh tay đứng nhìn Trung Quốc độc chiếm Biển Đông. Thậm chí không ít  người tin rằng Mĩ sẽ nhân cơ hội này giáng cho Bắc Kinh một đòn chí tử(!?) Tuy nhiên diễn biến tình hình ngày càng cho thấy không như vậy. Trước việc Mĩ đã không can thiệp gì trong vụ đụng độ Scarbourough giữa  Philipin-Trung Quốc, rồi vụ Senkaku giữa Nhật-Trung, dư luận đã bắt đầu nghi ngờ về vai trò hiệp sĩ của nước Mĩ. Mới đây giới quan sát đã bàn tán về hiện tượng "trầm lặng" của Tổng thống Obama tại Hội nghị cấp Cao Đông Á (EAS) tại Pnom Pênh tháng 11  trong khi phía Trung Quốc vẫn tiếp tục ngang ngược lấn lướt tại Biển Đông. Và bây giờ là lời tuyên bố của vị Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương.

Phải chăng cái gì đến đã đến. Lời tuyên bố mới này có thể được hiểu như một tuyên bố chính thức về lập trường của nước Mĩ, đó là  đứng ngoài cuộc tranh chấp chấp chủ quyền biển đảo giữa các quốc gia nhỏ yếu hơn với cường quốc Trung Quốc. Nói cách khác, Mĩ sẽ khoanh tay đứng nhìn các thế lực bành trướng Trung Quốc tác oai tác quái tại Biển Đông . Có lẽ chỉ còn một điều chưa hoàn toàn rõ ràng là Mĩ sẽ làm gì nếu một ngày kia tàu bè của bản thân nước Mĩ sẽ không được tự do qua lại vùng Biển Đông như họ đã từng được làm như vậy suốt thế kỷ qua. Rất có thể câu chuyện riêng tư này cũng sẽ được Bắc Kinh yêu cầu "thỏa thuận song phương Trung -Mĩ !"

Những ai có chút am hiểu về nước Mĩ, đặc biệt qua những chặng đường biến thiên trong lịch sử quan Mĩ-Trung, nhất là thời kỳ sắp kết thúc chiến tranh Việt Nam, sẽ không mấy ngạc nhiên trước kết cục nói trên.  Còn nhớ người Mĩ đã từng bỏ rơi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và để mất quần đảo Hoàng Sa như thế nào trong thời gian trước biến cố tháng 4/1975. Thực ra sự câu kết Mĩ -Trung đã bắt đầu từ cuộc gặp bí mật Thượng Hải 1972, chứ không phải đợi đến sau khi kết thức chiến tranh lạnh.  Nếu hiểu được sự thật này sẽ thấy rằng lời tuyên bố của Tư lệnh Thái Bình Dương mới đây chỉ là một sự tiếp nối có lo-gíc mà thôi. Đó là một vấn đề có tính chiến lược của nước Mĩ trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh mà trong đó nước Mĩ không sớm thì muộn buộc phải chia sẻ quyền lực với Trung Quốc.
                  
Là người Việt Nam, chúng ta không có gì để ngạc nhiên trước kết cục nói trên. Các cường quốc dù là Mĩ hay Trung Quốc chưa bao giờ thực sự là đồng minh lâu dài của các quốc gia độc lập dân tộc, nếu có chăng chỉ là tạm thời và có điều kiện. Sự nghiệp bảo vệ độc lập và  toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của mỗi quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào nội lực của mỗi nước. Lịch sử thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã chứng minh điều đó. Dĩ nhiên Việt Nam cũng không thể trông chờ hoặc phụ thuộc mãi mãi vào một cường quốc. Vẫn biết vai trò Mĩ rất quan trọng, nhưng bạn bè thiết thực của Việt Nam là những nước có cùng cảnh ngộ trong khu vực như Nhật Bản, Ấn Độ, Philipine, Hàn Quốc, ASEAN, Úc, Nga...  Nhớ lại thời đại phong kiến ít khả năng liên kết với quốc tế, người Việt Nam đã từng chiến thắng xâm lược Phương Bắc, huống chi trong thời đại toàn cầu hóa bạn bè có ở khắp nơi . Đối với Việt Nam , bí quyết thành công của mọi cuộc kháng chiến chống ngoại xâm chính là lòng tự tôn, tự cường dân tộc; sức mạnh để chiến thắng kẻ thù chính là khối đoàn kết toàn dân. Nếu không ghi nhớ bài học đơn giản này, sẽ không thể tin vào thắng lợi tất yếu của dân tộc. Người lãnh đạo nào không thấm nhuần bài học này thì nên từ bỏ vai trò lãnh đạo nếu không muốn bị nhân dân đào thải.

Trong việc chọn bạn/thù, Việt Nam nên học hỏi thêm bài học kinh nghiệm của Nhật bản, Hàn Quốc, chừng mực nào đó của Đài Loan và Hồng Kông. Bí quyết thành công của các nước và vùng lãnh thổ nói trên là phải giữ khoảng cách trong quan hệ với Đại lục. Bài học này cũng giải thích tại sao cùng một dân tộc, nhưng Bắc Triều Tiên mãi lạc hậu trong khi Nam Triều Tiên thì phát triển như vậy . Từ bài học này cho thấy, Việt Nam tuy không bao giờ nên chủ trương đối đầu, nhưng nhất quyết phải tách khỏi ảnh hưởng về "ý thức hệ" với  Trung Quốc. Chỉ khi nào thoát khỏi thế kèm cặp của Trung Quốc, Việt Nam mới có thể tận hưởng nguồn tri thức và khoa học-kỹ thuật tiên tiến của nhân loại để phát triển lên một tầm cao mới . Và phát triển là điều kiện để đảm bảo độc lập dân tộc. Nói cách khác, giữ khoảng cách thích hợp với Trung Quốc là thượng sách đối với Việt Nam. Thực tế cũng đã cho thấy trong thời kỳ 100 năm thuộc Pháp dù sao lãnh thổ và biển đảo của Việt Nam đã không mất vào tay Trung Quốc. Từ sau tháng Tám 1945, quan hệ Việt-Trung càng gần gũi bao nhiêu nguy cơ mất lãnh thổ càng lớn bấy nhiêu. Hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc đã nổ ra trong sự bất ngờ của Việt Nam và thế giới, qua đó biên giới phía Bắc đã bị gặm nhấm, mất quần đảo Hoàng Sa  và một phần quần đảo Trường Sa, hiện  đang có nguy cơ mất cả vùng đặc quyền kinh tế. Thực tế cũng cho thấy nền kinh tế Việt Nam đã từng có cơ hội  phát triển theo hướng hiện đại hóa ngay trong thời kỳ từ 1980- đầu những năm 2000 khi quan hệ Việt -Trung căng thẳng và lạnh nhạt. Nhưng từ khi bình thường hóa quan hệ,  máy móc cũ lỗi thời cùng hàng hóa, thiết bị kém chất lượng của Trung Quốc tràn vào bóp chết các cơ sở sản xuất hiện đại mới manh nha của Việt Nam. Đó là chưa kể những âm mưu phá hoại ngầm của ông bạn "4 tốt" từ việc chào thầu thấp để tranh giành các dự án khai thác boxit Tây Nguyên, các nhà máy nhiệt điện, chiếm dụng các vùng đất, rừng, mặt biển trọng yếu v.v...gây nhiều hậu quả và khó khăn cho phía Việt Nam.

Tóm lại, dù  trong bất cứ tình huống nào, có hay không sự can thiệp của Mĩ trong cuộc tranh chấp Biển Đông, thì Việt Nam vẫn kiên quyết đấu tranh bảo về chủ quyền biển đảo của mình vì đó không chỉ là nguồn sống mà là cửa ngõ, là tương lai sinh tồn của dân tộc. Tuyên bố mới đây của Mĩ  "không hỗ trợ đồng minh và nước bạn..." chắc chắn sẽ khuyến khích các hành động lấn chiếm ngang ngược hơn của tàu thuyền Trung Quốc trên khắp vùng Biển Đông khiến Việt Nam, Phlipin thêm điêu đứng . Nhưng tình hình mới sẽ thúc dục Việt Nam và các bên bị tác động xích lại gần nhau hơn để đối phó với Trung Quốc. Việt Nam không có cách nào khác là phải kiên định hơn nữa trong quan hệ với Trung Quốc. Đó là một thời kỳ mới với cả thách thức và cơ hội đòi hỏi Việt Nam, trước hết là giới lãnh đạo, phải thích ứng để tồn tại và phát triển. Đây là cơ hội để Việt Nam điều chỉnh lại quan hệ đồng minh, bạn/thù phù hợp với tình hình mới, đối xử ngang nhau với hai cường quốc Mĩ, Trung. Đây là thời điểm thuận tiện để Việt Nam chuyển sang một chính sách ngoại giao cởi mở, minh bạch, trong đó mọi ân, oán với các cựu thù, kể cả Mĩ và Trung Quốc, cần được giải bày nhằm đi tới cơ sở đồng thuận mới công bằng hợp lý hơn.       
       .

Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2012

Biển Đông lại nóng sau Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 21

Từ 15 đến 20/11/2012 tại Pnom Pênh đã diễn ra Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 21 và các hoạt động trong khuôn khổ Hội nghị, trong đó có Hội nghị Đông Á (EAS) hội tụ đầy đủ các cường quốc thế giới. Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần này diễn ra ngay sau khi cường quốc số 1- Mỹ vừa tái cử Tổng thống Obama và cường quốc số 2-Trung Quốc vừa kết thúc đại hội đảng với việc chọn Tổng Bí thư mới Tập Cận Bình, trong khi cường quốc số 3-Nhật Bản đang thâm hụt thương mại nghiêm trong do hậu quả của cuộc tranh chấp biển đảo với Trung Quốc.

Mục đích chính của Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN bàn về tiến trình nhất thể hóa kinh tế ASEAN vào năm 2015, nhưng nội dung quan tâm thực sự vẫn là vấn đề Biển Đông. Và vấn đề Biển Đông lại một lần nữa nóng lêntrong khi nội bộ ASEAN tiếp tục phân hóa chia rẽ trước thđoạn "chia đ trị" ráo riết của Bắc Kinh. Trên thực tế ASEAN đang chia thành 3 nhóm nước:

a) Nhóm Camphuchia, Lào, Myanma và Thái Lan là những nước không không có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc, có xu hướng chạy theo lợi ích kinh tế trước sự mồi chài hậu hĩnh tBắc Kinh. Riêng Pnom Penh đã dấn sâu vào con đương câu kết với Bắc Kinh, biểu hiện ở việc một lần nữa lợi dụng tư cách nước ch nhà tuyên bố "ASEAN đồng thuận không nêu vấn đề Biển Đông"... Philipine buộc phải lên tiếng phản bác gay gắt, Việt Nam lặng lphản đối.

b) Nhóm gồm Singapore, Indonesia tuy giáp Biển Đông nhưng không có tranh chấp với Trung Quốc. Hai nước này cũng cho thấy ý đồ trục lợi thông qua việc đảm nhận vai trò trung gian hòa giải, nhưng bản thân tránh nêu công khai lại còn tìm cách ngăn cản các bên khác nêu vấn đề Biển Đông không muốn chọc giận Trung Quốc.

c) Nhóm các nước có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc gồm Việt Nam, Philipine, Malaysia và Brunei. Các nước này đều nằm trong phạm vi "đường lưỡi bò" nên ít nhiều dtìm thấy tiếng nói liên quan đến giải pháp Biển Đông, nhưng mức độ có khác nhau . Trong một biểu hiện đáng khích lệ, theo sáng kiến của Philipine bốn nước này dự định sẽ họp riêng rẽ về vấn đề Biển Đông trong tháng 12 tới. Nếu dự định này thành công sẽ tạo ra một kênh đàm phán thực chất và góp phần phá bỏ thế bế tắc lâu nay.

Bên cạnh những thành công là những hạn chế của Hội nghị, đặc biệt xung quanh vấn đề Biển Đông, trong đó lập trường của Bắc Kinh không hề thay đổi, thái độ không hề nao núng. Sự chia rẽ trong nội bộ ASEAN đã bộc lộ, chỉ còn lại Philipine và Việt Nam trên tuyến đầu trong cuộc đối đầu với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán. Đó là một kết cục trớ trêu nhưng hoàn toàn dẽ hiểu trong lịch sử hình thành các quốc gia Đông Nam Á với tính cách phổ biến đã được đúc kết trong ca dao tục ngkhu vưc là "Đèn nhà ai ấy rạng" và "Nước đến chân mới nhảy".... Đó chính là gót chân Asin của ASEAN. Và điểm yếu này đang bộc ltrước ma lực của đồng Nhân dân tkhiến mt nhà ngoại giao châu Á tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN 21 đã nhận xét: “Một số nước dễ bị lung lay bởi tiền bạc. Nếu nhìn thấy tiền, họ có thể dễ dàng vứt bỏ những nguyên tắc ”.

Về phần mình, Trung Quốc sau khi đã ngụy tạo cái gọi là "Thành phố Tam Sa" đặt trụ stại quần đảo Hoàng Sa nhưng cai quản cả vùng biển Đông bao gồm cả bãi san hô Scarborough của Philipine và xuống quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đây là xảo thuật  biến không thành có nhằm tạo thế đứng chân trên thực địa như một sự đã rồi chuẩn bị cho những cuộc đàm phán trong tương lai khi không thể trì hoãn thêm nữa. Đồng thời, sau quá trình kiên trì với các thủ đoạn "chia để trị", Bắc Kinh giờ đây đã thò được cái chân sói vào chiếc chăn ASEAN qua lỗ thủng Campuchia - nước vừa được đính thân Thủ tướng Ôn Gia Bảo tặng danh hiệu "hình mẫu quan hệ láng giềng" ngay trong dịp Hội nghị Thượng đỉnh lần này. Liệu những lỗ thủng tiếp theo là nước nào chắc không khó để suy đoán. Điều đã rõ là, đến nay Bắc Kinh đã khống chế được Cămpuchia, chi phối Lào và ảnh hưởng với mức độ khác nhau đối với các nước khác, tổng cộng ít  nhất cũng quá nửa tổng số thành viên của khối ASEAN. Chiêu bài của Bắc Kinh vẫn chỉ là "cây gậy và củ cà rốt" vốn đã quá quen thuộc của chủ nghĩa thực dân.



Một số diễn biến khác rất đáng lưu ý. Đó là, bất chấp mọi lý lẽ đầy sức thuyết phục bác bỏ đòi hỏi chủ quyền vô lý của phía Trung Quốc được các học giả quốc tế đưa ra tại cuộc Hội thảo Biển Đông lần thứ 4 diễn ra đồng thời với Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 21, THX ngày 21/11 đã phát đi một bài bình luận sặc mùi hiếu chiến sô vanh nước lớn với những lời lẽ áp đặt chủ quan nhằm chia rẽ, cô lập Việt Nam và Philipine.  

Sau khi đổ lỗi cho Việt Nam và Philipine, bài bình luận này kết luận: “Thật là thiếu khôn ngoan khi nêu lên vấn đề tranh chấp trên Biển Nam Trung Hoa tại Hội nghị Thượng đỉnh Ðông Á. Tuy nhiên Philippines và Việt Nam đã gây chi phối hội nghị bằng việc nhấn mạnh đến những tranh chấp này tại hội nghị thượng đỉnh một cách dai dẳng. Trong khi nước chủ tịch luân phiên ASEAN là Campuchia trong một cuộc họp hôm thứ Hai nói rằng khối 10 nước thành viên ASEAN đồng ý không ‘quốc tế hóa’ các tranh chấp này, thì Tổng thống Philippines Aquino lại bất chấp những nguyên tắc ngoại giao cơ bản và thẳng thừng trách cứ Thủ tướng Hun Sen của nước chủ nhà hội nghị.”

Vẫn với thủ thuật "gắp lửa bỏ tay người" bài bình luận viết tiếp: “Việc Philippines và Việt Nam bất chấp những nguyên tắc ngoại giao hình như bị tác động bởi lòng tham trữ lượng dầu khí, và nguồn hải sản dồi dào trên Biển Nam Trung Hoa”. Cả Việt Nam và Philippines đều “chơi con bài kêu gào để tìm sự giúp đỡ từ các nước bên ngoài khu vực, mà cụ thể là Hoa Kỳ trong cái gọi là "Chiến lược Trục xoáy Á Châu”...."Việt Nam và Philippines muốn mượn tay Hoa Kỳ để gây sức ép với Trung Quốc tại hội nghị thượng đỉnh có sự tham dự của Tổng thống Barack Obama.”

Hình lưởi bò được in chìm ở  từng trang của hộ chiếu TQ (ảnh CTV)
Được biết trước đó không lâu Bắc Kinh đã lặng lẽ  tung ra một mẫu hộ chiếu mới có in hình "đường lưởi bò" như một tiểu xảo góp phần khẳng định đòi hỏi chủ quyền Biển Đông vốn đã bị dư luận rộng rãi bác bỏ. Xem thêm tin mi nhận được tại đây
http://tuoitre.vn/The-gioi/521899/Them-mot-hanh-dong-tham-doc-cua-Trung-Quoc.html  
Những động thái trên đây cho thấy thái độ cố chấp đầy ngạo mạn của các thế lực bành trướng bá quyền Đại Hán được sự chđạo ttrung ương. Điều này cho thấy nhà cầm quyền Trung Quốc không hề có ý định đàm phán nghiêm túc dù chỉ là song phương trước khi hđạt được âm mưu "biến không thành có" và tạo dựng những chứng cứ giải tạo cần thiết. Thế giới không nên ảo tưởng vào thiện chí đàm phán hòa bình từ phía Bắc Kinh, trái lại cần đề phòng nguy cơ chiến tranh nóng do chính hgây ra để thôn tính nốt những vùng biển đảo đang thuộc quyền kiểm soát của các nước khác. Đđạt mục tiêu đc chiếm Biển Đông Trung Quốc sẽ không nề hà mọi thđoạn bất chấp công lý quốc tế. 

Thực tế gần đây cho thấy Mỹ tuy đã khẳng định chủ trương "xoay trục" trở lại khu vực Đông Nam Á và Châu Ấ -TBD, nhưng lại bị rơi vào thế "lực bất tòng tâm" trong bi cảnh khủng hoảng kinh tế-tài chính kéo dài và tình hình bất ổn rộ lên tại Trung Đông. Tình thế dường buộc Mphải thay đổi nếp tư duy đơn cực sang lưỡng cực và chấp nhận chia sẻ quyền lực với cường quốc số 2. Có thđó là lý do tại sao dự luận đã nhận thấy "sự trầm lặng của Obama" trong chuyến công du Đông Nam Á vừa qua dù đó là hoạt động đầu tiên ngay sau khi tái đắc c của mình. 

Riêng trường hợp Nhật Bản tuy nằm ngoài Biển Đông nhưng là "người trong cuộc" nếu xét về bản chất của vấn đề Biển Đông. Với vị trí kế cận Biển Đông và là một cường quốc kinh tế hàng đầu, Nhật Bản đã và đang sử dụng tuyến hàng hải xuyên Biển Đông như một huyết mạnh chủ yếu. Hơn nữa cuộc tranh chấp tại Biển Đông có liên quan mật thiết với cuộc tranh chấp tại Biển Hoa Đông. Do đó, Nhật Bản là đồng minh tự nhiên của các quốc gia ven Biển Đông và ASEAN nói chung.  

Có lẽ chỉ trường hợp nước Nga đang cho thấy một sự chuyển động mới. Sau thời kỳ dài sao nhãng hoặc đứng ngoài cuộc trong vấn đề Biển Đông, Nga bắt đầu quan tâm với ý định trở lại khu vực, chí ít để tránh bmất phần trong miếng bánh giữa các cường quốc. Tuy nhiên lập trường cụ thcủa Nga vẫn còn là một ẩn số. 


Tóm lại, điểm mới trong cục diện vấn đề Biển Đông sau Hội nghị thượng đĩnh ASEAN 21 cho thấy ở hai khía cạnh. Một là sự phân hóa ngày càng rõ trong nội bASEAN giữa một bên là các nưc thành viên bđe dọa bởi đòi hỏi chủ quyền thái quá của Trung Quốc và một bên là những nước thành viên tcảm thấy chưa bđe dọa và lại có cơ hội hưởng lợi từ sự ve vãn của Trung Quốc. Hai là xu hướng tái hiện một chu kỳ mới của sự tranh giành ảnh hưởng giữa  tất cả các cường quốc như đã từng xảy ra trong quá trình chiến tranh lạnh, có lẽ chỉ khác ở chỗ bãi chiến trường giđây là toàn bộ Biển Đông, bao gồm ccác quốc gia ven biển, chứ không phải trên đất liền Việt Nam và Đông Dương như trước đây.

Phải chăng diễn biến tình hình và quá trình tìm kiếm giải pháp cho vấn đề Biển Đông đến nay khiến ta phải nghiêm túc xem xét lại vai trò vị trí của khối ASEAN cùng với các cơ chế ARF, ASEAN+ (?). Nhìn lại quá trình chậm chạp từ DOC sang COC trong 10 năm qua có thể thấy sự hạn chế đến mức bất lực của ASEAN trong giải quyết tranh chấp với Trung Quốc. Những kỳ vọng vào squay lại khu vực của Mỹ cũng tắt dần. Một kết cục "bùng n" nào đó ngõ hầu có thể ngăn chặn tham vọng của chủ nghĩa bành trướng bá quyền cũng khó diễn ra. Chỉ có sự vô lý ngày càng hiện rõ khi một mình Trung Quốc có thể quyết định tiến trình giải pháp từ chi tiết đến tổng th, thậm chí bóp méo cả những khái niệm thông thường trong luật lvà ứng xử quốc tế, như niệm đa phương/song phương, khái niệm bình đẳng giữa các quốc gia, v.v...; ngay c Công ước Luật Biển 82 cũng bị thách thức! Thời gian càng trôi đi lợi thế càng thuộc về Trung Quốc, và "chúng ta không còn nhiều thời gian nữa" đúng như nhận xét của  nhà nghiên cứu Đông Nam kỳ cu Carlyle A. Thayer mới đây . Chẳng lẽ cộng đồng quốc tế lại c khoanh tay đứng nhìn một nước lớn  nuốt chng cả vùng biển vốn đã từ lâu thuộc chủ quyền của nhiều quốc gia Đông Nam Á ? Chẳng lẽ những giá trcông lý cơ bản nhất mà loài người đã khókhăn lắmmới giành được lại có thể d dàng bị một cường quốc mới trỗi dậy ngang nhiên chà đạp?             

Thứ Tư, 21 tháng 11, 2012

BT Ngoại giao Phạm Bình Minh nói về HN CC ASEAN 21

Nguồn: TTXVN 20/11/2012





Ngày 20/11, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh đã trả lời phỏng vấn báo chí về các kết quả chính của Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 21 và các hội nghị cấp cao liên quan.

TTXVN trân trọng giới thiệu bài trả lời phỏng vấn:

- Xin Bộ trưởng cho biết trọng tâm của Hội nghị Cấp cao ASEAN-21 và các hội nghị cấp cao liên quan?

Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh: Từ ngày 18-20/11/2012 tại Phnom Penh đã diễn ra Hội nghị Cấp cao ASEAN 21 và một loạt Hội nghị Cấp cao quan trọng khác gồm Cấp cao ASEAN+3, Cấp cao Đông Á (EAS) lần thứ 7, các Cấp cao ASEAN+1 với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, và Hoa Kỳ.

Bên lề các hội nghị cũng diễn ra Đối thoại toàn cầu ASEAN và cuộc gặp của các nhà lãnh đạo bảy nước thành viên Cấp cao Đông Á tham gia Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP). Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam tham dự các Hội nghị.

Trong bối cảnh khu vực đang có nhiều thuận lợi cho hòa bình và hợp tác phát triển nhưng cũng gặp không ít khó khăn, phức tạp, các Hội nghị Cấp cao lần này đã tập trung bàn về những vấn đề ưu tiên và quan trọng nhất của khu vực, nhất là việc bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực; đẩy mạnh xây dựng Cộng đồng ASEAN; tăng cường quan hệ với các Đối tác; thúc đẩy mạnh mẽ liên kết và kết nối khu vực, cũng như trao đổi về các vấn đề khu vực và quốc tế quan tâm...

- Xin Bộ trưởng cho biết những kết quả chính của các Hội nghị Cấp cao?

Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Lãnh đạo các nước ASEAN và các Đối tác đã có những cuộc trao đổi sâu sắc, đề ra các định hướng lớn cho hợp tác ASEAN, cũng như giữa ASEAN với các Đối tác, trong đó nổi lên:

- Thứ nhất, Lãnh đạo các nước ASEAN quyết tâm đẩy mạnh hơn nữa hiện thực hóa Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 nhằm hoàn thành đúng tiến độ và các chỉ tiêu đề ra trong từng trụ cột Cộng đồng, nhất là trụ cột Kinh tế.

Theo đó, ASEAN cần tập trung thúc đẩy phát triển đồng đều và bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển ở khu vực, hướng tới đưa ASEAN trở thành một thị trường duy nhất và một không gian sản xuất thống nhất, có sức cạnh tranh cao và ngày càng hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Các nhà lãnh đạo cũng chỉ đạo việc đẩy mạnh liên kết và kết nối ở khu vực, trước hết là trong ASEAN rồi mở rộng ra khu vực Đông Á. Để góp phần đạt được điều này, cùng với nỗ lực của các chính phủ, cần tăng cường huy động sự đóng góp từ khu vực tư nhân, doanh nghiệp, cũng như từ các Đối tác và các tổ chức tài chính quốc tế.

- Thứ hai, Lãnh đạo các nước ASEAN khẳng định cần tiếp túc phát huy vai trò chủ đạo của ASEAN trong việc bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định, an ninh và phát triển ở khu vực, cũng như trong cấu trúc hợp tác khu vực và định hướng xử lý các vấn đề thuộc quan tâm chung ở khu vực, vì lợi ích chung của hòa bình, hợp tác và phát triển. Do đó, ASEAN cần chủ động xây dựng các chuẩn mực ứng xử chung và phát huy tác dụng của các công cụ hợp tác chính trị-an ninh ở khu vực như Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), Hiệp ước khu vực ĐNA không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), Tuyên bố Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông, Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+)…

Trong quá trình trao đổi, các nhà lãnh đạo của các nước đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông vì đây là lợi ích và quan tâm chung của khu vực và tất cả các nước; đồng thời ủng hộ DOC, Tuyên bố Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông và sớm xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); tôn trọng luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển 1982 của LHQ.

Đáng chú ý, nhân dịp này, Lãnh đạo các nước ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí thông qua Tuyên bố chung kỷ niệm 10 năm DOC; trong đó nhấn mạnh giá trị quan trọng của DOC và việc thực hiện đầy đủ các nguyên tắc, quy định trong văn kiện này, vì hòa bình, ổn định và an ninh ở Biển Đông.

- Thứ ba, ASEAN và các Đối tác đã bàn và đề ra các biện pháp nhằm tiếp tục tăng cường và làm sâu sắc quan hệ giữa hai bên, khuyến khích các Đối tác tham gia hợp tác và đóng góp xây dựng vào hợp tác ở khu vực, vì các mục tiêu chung là hòa bình, ổn định và phát triển, thiết thực hỗ trợ ASEAN xây dựng Cộng đồng và tăng cường liên kết, ứng phó hiệu quả với các thách thức đang đặt ra. Các Đối tác đều khẳng định ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN, hỗ trợ xây dựng Cộng đồng và tăng cường hợp tác trong giải quyết các vấn đề ở khu vực cũng như trong các khuôn khổ ASEAN+1, ASEAN+3, EAS, ARF, ADMM+…

Các Đối tác cũng đưa ra nhiều sáng kiến hợp tác cụ thể như Đối tác Hợp tác Biển và Diễn đàn Hợp tác du lịch ASEAN-Trung Quốc; Nhật Bản đề xuất các sáng kiến mới về hợp tác giao thông-vận tải, sử dụng năng lượng xanh, hợp tác lao động; Hàn Quốc cam kết hỗ trợ 10 triệu USD cho ASEAN thực hiện Sáng kiến liên kết IAI giai đoạn 2013-2017; Ấn Độ đề xuất nâng quan hệ ASEAN-Ấn Độ lên đối tác chiến lược; Hoa Kỳ đề xuất sáng kiến Gắn kết Kinh tế Mở rộng ASEAN-Hoa Kỳ (E3), “Đối tác toàn diện về tương lai năng lượng bền vững” và các sáng kiến về hợp tác phát triển Tiểu vùng Mekong…

Các Hội nghị Cấp cao đã thành công tốt đẹp, thông qua nhiều văn bản hợp tác quan trọng của ASEAN cũng như giữa ASEAN với các Đối tác. Đáng chú ý, Lãnh đạo các nước ASEAN đã ký “Tuyên bố Phnom Penh thông qua Tuyên bố Nhân quyền ASEAN;" thông qua Kế hoạch Hành động triển khai Tuyên bố Bali về “Cộng đồng ASEAN trong Cộng đồng các Quốc gia toàn cầu;” chính thức công bố lập Viện nghiên cứu Hòa bình-Hòa giải ASEAN (AIPR); ASEAN và các Đối tác liên quan chính thức khởi động đàm phán Đối tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEP); Tuyên bố chung ASEAN-Trung Quốc kỷ niệm 10 năm Tuyên bố DOC; Tuyên bố chung Cấp cao ASEAN-Mỹ về thúc đẩy hợp tác giữa hai bên và hướng tới quan hệ Đối tác chiến lược; Tuyên bố Kỷ niệm 15 năm hợp tác ASEAN+3; Tuyên bố Đối tác Kết nối ASEAN+3, Tuyên bố Phnôm Pênh về Sáng kiến Phát triển EAS…

Cũng nhân Hội nghị Cấp cao ASEAN 21, Lãnh đạo các nước ASEAN đã chính thức phê duyệt và bổ nhiệm đề cử nhân sự của Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Lê Lương Minh, vào cương vị Tổng Thư ký ASEAN với nhiệm kỳ sẽ bắt đầu từ năm 2013-2017.

- Xin Bộ trưởng cho biết sự tham gia và đóng góp của Việt Nam vào thành công của các Hội nghị Cấp cao?

Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Đoàn Việt Nam tham dự các Hội nghị Cấp cao lần này do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu đã tiếp tục phương châm đóng góp "chủ động, tích cực và có trách nhiệm" vào các mục tiêu chung nêu trên và các trọng tâm ưu tiên của ASEAN và khu vực.

Cụ thể là: - Chúng ta luôn coi trọng và tích cực đóng góp vào việc tăng cường vai trò và hợp tác ASEAN, cũng như xây dựng ASEAN đoàn kết, liên kết và vững mạnh, mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác, vì hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển ở khu vực.

- Chúng ta đã tích cực đóng góp vào việc đẩy mạnh xây dựng Cộng đồng ASEAN, liên kết và kết nối khu vực; thúc đẩy phát triển bền vững và đồng đều của khu vực đi đôi với bảo vệ môi trường, đảm bảo an sinh xã hội; tích cực quảng bá và giáo dục về ASEAN; khuyến khích các Đối tác, các tổ chức khu vực và quốc tế hỗ trợ ASEAN xây dựng Cộng đồng.

- Chúng ta ủng hộ và đề cao việc ASEAN tiếp tục phát huy vai trò chủ đạo trong cấu trúc hợp tác khu vực và trong việc thúc đẩy hòa bình, an ninh và phát triển ở khu vực, đoàn kết có tiếng nói và xử lý hiệu quả các vấn đề nảy sinh và các thách thức đặt ra ở khu vực. Đồng thời, ASEAN cần tiếp tục chủ động xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực ứng xử, phát huy hiệu quả các văn kiện nền tảng của ASEAN như Hiến chương ASEAN, Hiệp ước TAC, SEANWFZ, Tuyên bố DOC, Tuyên bố Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông…

Chúng ta đồng tình với quan điểm chung của ASEAN về vấn đề Biển Đông và nhấn mạnh tầm quan trọng của hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn hàng hải; ủng hộ các bên liên quan thực hiện đầy đủ và hiệu quả DOC, Tuyên bố về Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN và sớm xây dựng COC; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc của luật pháp quốc tế và Công ước Luật biển của LHQ 1982 (UNCLOS), trong đó có các quy định của Công ước về tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia ven biển.

- Về quan hệ đối ngoại, chúng ta ủng hộ ASEAN tiếp tục mở rộng và làm sâu sắc quan hệ với các Đối tác, tạo môi trường thuận lợi và tăng cường tranh thủ nguồn lực cho tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN; chủ động định hướng hợp tác chung ở khu vực và thúc đẩy các Đối tác tiếp tục triển khai hiệu quả các chương trình hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, thu hẹp khoảng cách phát triển, khoa học công nghệ, bảo đảm sử dụng bền vững nguồn nước.

Mặt khác, ASEAN và các Đối tác cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác về các vấn đề an ninh phi truyền thống và các thách thức đang nổi lên như thiên tai, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, an ninh an toàn hàng hải, tội phạm xuyên quốc gia…; đóng góp vào các mục tiêu chung vì hòa bình, ổn định, an ninh và phát triển ở khu vực.

- Bên lề các Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cũng đã có nhiều cuộc tiếp xúc song phương để trao đổi về tăng cường hợp tác cũng như các vấn đề cùng quan tâm.

Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!/.

--------------

Thứ Năm, 15 tháng 11, 2012

Vì sao giải pháp Biển Đông bế tắc?


Theo dõi tình hình Biển Đông, ai cũng thấy lực cản chính của một giải pháp dĩ nhiên là Bắc Kinh. Nhưng không phải ai cũng nhận ra "lực cản phụ" là sự thiếu đồng nhất trong nội bộ ASEAN. Nếu thái độ phản trắc đối với những người cùng hội cùng thuyền ASEAN của Cămpuchia với tư cách nước chủ nhà của Hội nghị AMM lần thứ 45 thì thái độ của nước Lào tại Hội nghị Á- Âu (ASEM) do Lào làm chủ nhà mới đây cũng không khá hơn là mấy. Trong khi đó  3 nước Thái Lan, Singapore và Indonesia, dù rất muốn đóng vai trò, nhưng thái độ lại "nữa vời". Nhìn quanh rốt cuộc chỉ có  Philipine và Việt Nam phải "giơ đầu chịu báng". Đó là thực trạng của ASEAN trước một đối phương ngày càng quả quyết hơn là Trung Quốc. 

Vì sao có tình trạng "trống đánh xuôi kèn thổi ngược" trong nội bộ ASEAN? Có thể  đó là do bản thân một số nước còn nhầm tưởng rằng họ có thể đứng ngoài cơn mưa của chủ nghĩa bành trướng Bắc kinh (?) đồng thời những lợi ích kinh tế, thương mại, đầu tư và cả viện trợ từ Bắc Kinh tỏ ra quá hấp dẫn đối với họ (?)
    
Trong số các bài viết và phân tích của nhiều tác giả quốc tế và khu vực về chủ đề tranh chấp Biển Đông, có thể nói bài phân tích có tựa đề "A way ahead in the South East Asia" của tác giả David Brown (*)  đăng trên tờ Asia Times online ngày 7/11/2012 là một trong những bài phản ánh khách quan và chính xác hơn về thực trạng của vấn đề tranh chấp Biển Đông cho đến nay. Xin trích đăng lại Bài viết được dịch giả Hoàng Anh chuyển ngữ
dưới đây  để bạn đọc tiện tham khảo.

          Hướng tháo gỡ cho vấn đề Biển Đông

Tác giả : David Brown - Asia Times online , 07-11-2012
Người dịch: Hoàng Anh 
Người ta đã từng rất kỳ vọng rằng Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) sẽ tạo được một bức tường thành vững chắc, có khả năng ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc xuống các vùng biển trong khu vực Đông Nam Á. Và họ cũng đã từng nghĩ rằng để chuẩn bị ứng phó với tuyên bố chủ quyền “không thể bác bỏ” của Trung Quốc đối với các “vùng biển liên quan” mà có vẻ vươn tới tận sát vách Singapore, các nước ASEAN sẽ cùng thống nhất được một lợi ích chung, và vạch ra được một kênh mà các cường quốc ngoài khu vực như Nhật Bản, Úc, Ấn Độ và đặc biệt là Hoa Kỳ, có thể can thiệp giúp đỡ.
Tuy nhiên, cơ chế hoạt động dựa trên nguyên tắc đồng thuận và đối thoại không đối đầu của ASEAN lại là một lỗ hổng chết người trong trường hợp này. Bốn trong mười quốc gia thành viên – Lào, Campuchia, Thái Lan và Myanmar – một mực đặt ưu tiên cho việc duy trì mối quan hệ song phương nồng ấm với Trung Quốc lên trên sự thống nhất của khối ASEAN. Bởi sự chia rẽ nội bộ này, các thành viên ASEAN đã phải hội đàm không ngừng nghỉ, nhằm đi đến một kế hoạch khung có khả năng đáp ứng các đòi hỏi của Bắc Kinh ở mức tối thiểu.
Trong khi đó, họ lại không nhận được nhiều sự hợp tác từ phía Bắc Kinh. Trung Quốc lẩn tránh mọi đề xuất của ASEAN nhằm thiết lập một cơ chế kiểm soát xung đột, bao gồm cả bản dự thảo Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông. Bắc Kinh không đồng ý với việc đem các tuyên bố chủ quyền chồng lấn ra nhờ trọng tài quốc tế phân xử hay ngay cả việc đàm phán đa phương. Họ cũng chẳng thèm làm rõ phạm vi tuyên bố chủ quyền của mình ở Biển Đông. Và bởi lẽ đó, suốt hai thập kỷ qua, đã bao lần ASEAN nhóm họp để rồi chẳng làm nên trò trống gì.
Bốn trên tổng số mười nước ASEAN đang trực tiếp ở tuyến đầu của cuộc tranh chấp này. Malaysia, Brunei, Philippines và Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ hoặc một phần quần đảo Trường Sa, bao gồm một loạt rặng san hô, bãi đá và các hòn đảo nhỏ nằm rải rác khắp khu vực phía nam của Biển Đông. Việc kiểm soát các hòn đảo và bãi đá này lại dẫn đến các tuyên bố chủ quyền đối với các vùng biển xung quanh. Ngoài ra, hai nước Việt Nam và Philippines còn tuyên bố chủ quyền đối với một số đảo nhỏ và rặng san hô nằm về phía bắc quần đảo này, gần về phía Trung Quốc.
Đối với Hà Nội, họ tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, nằm giữa khu vực miền Trung Việt Nam và đảo Hải Nam của Trung Quốc. Bắc Kinh đã đánh chiếm quần đảo này từ tay chế độ Việt Nam Cộng hòa đang trên đà sụp đổ hồi năm 1974. Đó cũng là nơi mà hồi đầu năm nay, Bắc Kinh đã bày bố lớp vỏ cho cái mà họ gọi là thành phố Tam Sa với địa hạt bao trùm lên toàn bộ các tuyên bố chủ quyền rất bành trướng của Trung Quốc ở khu vực Biển Đông. Còn đối với Manila, họ tuyên bố chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough, một ngư trường ngoài khơi trù phú nằm cách Luzon, hòn đảo chính của Philippines, chỉ khoảng 200 km. Đây là nơi mà hồi tháng tư vừa qua Philippines đã phải đối mặt với các tàu tuần duyên của Trung Quốc, và rồi phải rút lui trong thế bất lợi.
Bởi vậy, không có gì phải ngạc nhiên khi Việt Nam và Philippines là hai nước tích cực nhất trong việc tìm kiếm một giải pháp triệt để nhằm đối phó với tham vọng của Trung Quốc muốn đạt được bá quyền trên vùng biển kéo dài gần 2.000 km về phía nam của đảo Hải Nam. Việc Manila và Hà Nội nóng lòng lôi kéo sức mạnh hải quân Hoa Kỳ vào cuộc tranh chấp này, đã khiến cho một số nước ASEAN anh em của họ cảm thấy khó chịu.
Ngược lại, Malaysia và Brunei luôn giữ một thái độ mềm mỏng hơn. Họ đã tự phân định tranh chấp với nhau và với Việt Nam, dựa trên các nội dung quy định trong Công ước Quốc tế về Luật Biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS) và theo tập quán quốc tế. Cả hai nước để mặc Việt Nam và Philippines tự bảo vệ các tuyên bố chủ quyền của mình ở khu vực phía bắc Biển Đông. Mặc dù không phải là nước cờ cao thượng cho lắm, nhưng cả Kuala Lumpur và Bandar Seri Begawan đều có vẻ hy vọng rằng tham vọng bành trướng của Trung Quốc sẽ được thỏa mãn trước khi nó lan tới vùng biển mà hai nước này tuyên bố chủ quyền, bất chấp ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy điều ngược lại.
Indonesia và Singapore cùng có chung lợi ích trong việc ngăn Trung Quốc theo đuổi các tuyên bố chủ quyền bành trướng của họ. Vùng biển nằm trong đường chín đoạn gây tranh cãi của Trung Quốc chồng lấn lên vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia ở gần quần đảo Natuna. Jakarta và Singapore cho đến nay đã nổi lên như là hai nước hậu thuẫn chính cho một “giải pháp ASEAN”, trong đó Singapore, như thường lệ, công khai chấp nhận vai trò lãnh đạo của Indonesia.
Mặc dù tuyên bố sẵn sàng đàm phán tranh chấp song phương với từng nước, nhưng Trung Quốc chẳng mảy may từ bỏ tuyên bố về quyền chủ quyền lịch sử của mình đối với vùng biển nằm trong đường chín đoạn. Như vậy, Bắc Kinh đang khẳng định quyền sở hữu đối với các nguồn tài nguyên biển nằm trong khu vực chiếm hơn 85% diện tích Biển Đông, bất chấp quy định của Công ước rằng tất cả các quốc gia có đặc quyền về kinh tế đối với phạm vi vùng biển cách bờ của họ 200 hải lý, hoặc xa hơn nếu thềm lục địa của họ rộng hơn, trừ khi nó tiếp giáp với vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia khác. Trung Quốc đã liên tục bác bỏ các quy định của Công ước, bằng cách tuyên bố rằng các nhà hàng hải và ngư dân của Trung Quốc đã ngược xuôi khắp vùng biển này từ thời xa xưa.
Tất cả các quốc gia tranh chấp đều có thể viện dẫn đến các bằng chứng lịch sử để lý giải cho các yêu sách của mình. Từ hàng nghìn năm nay, Biển Đông vẫn luôn là một khu chợ chung của cả khu vực. Việt Nam có thể trưng ra hàng đống bản đồ và chiếu dụ từ thế kỷ 18, thể hiện mối lợi ích trong việc tuyên bố chủ quyền đối với các hòn đảo trên Biển Đông một cách còn nhất quán hơn nhiều so với Trung Quốc. Cũng như ở Trung Quốc, những tài liệu cũ đã ố vàng đó lại góp phần khơi dậy ngọn lửa của chủ nghĩa dân tộc.
Tuy nhiên, tranh cãi dựa trên các bằng chứng lịch sử sẽ không thể đưa các nước tới lối thoát khỏi mớ bòng bong các tuyên bố chồng lấn này, trừ khi chúng được hậu thuẫn bởi một thế lực không thể gạt bỏ được – như ít nhất là có nhân vật nào đó bên phía Trung Quốc tin tưởng. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì đã từng có một tuyên bố gây xôn xao tại một cuộc họp vào tháng 8 năm 2010 do ASEAN chủ trì rằng “Trung Quốc là một nước lớn, còn các nước khác chỉ là những nước nhỏ, và đó là sự thật”.
Biển Đông dậy sóng
Từ vài năm nay, những triển vọng về một đột phá ngoại giao lại dấy lên mỗi khi bước vào những tháng mùa thu, khi mà Biển Đông phải dồn dập hứng chịu những cơn bão. Và cứ mỗi khi các cơn bão lắng dịu đi, thì các động thái khiêu khích của Bắc Kinh lại càng nhân lên gấp bội, đặc biệt tập trung vào việc quấy nhiễu, bắt bớ các ngư dân Việt Nam và Philippines, trong khi hăm dọa, xua đuổi các công ty năng lượng có ý muốn thăm dò nguồn dầu khí dưới biển do Hà Nội hoặc Manila cấp phép.
Bắc Kinh dựa vào hàng trăm tàu “hải giám” và “ngư chính” có vũ trang để mở rộng tầm kiểm soát của mình, trong khi hải quân Trung Quốc cũng đang được đầu tư phát triển tiềm lực từng ngày. Chẳng đáng phải ngạc nhiên khi Việt Nam, Malaysia, Indonesia và Singapore đã khẩn trương tăng tốc, củng cố tiềm lực không quân và hải quân của mình. Philippines là nước chậm chân trong cuộc đua này, nên mặc dù Manila đã có đôi chút chuẩn bị sau khi bị lôi kéo đột ngột vào những lần va chạm gần đây với Trung Quốc, các lực lượng của họ vẫn ở trong tình trạng đặc biệt lép vế.
Chính triển vọng nắm được nguồn dầu mỏ và khí đốt dồi dào dưới lòng Biển Đông, cộng với việc bị dồn nén từ sự miệt thị của các quốc gia khác từ bấy lâu nay, đã khiến Trung Quốc quyết tâm ôm trọn Biển Đông vào tầm kiểm soát của mình. Thực tế những cuộc hội đàm của các quốc gia ASEAN đã thất bại trong việc tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng đang leo thang, cùng với việc Trung Quốc áp dụng chiến lược “vừa đàm vừa đoạt” không chùn bước, và hệ quả là Hoa Kỳ nhúng tay vào một mớ các tranh chấp này đã khiến cho giới chuyên gia trở nên gần như tuyệt vọng.
Những suy tính về các kịch bản có thể xảy ra về vị thế của Trung Quốc trong trường hợp họ, một nước Trung Quốc mang đậm tư tưởng phục thù, giành thắng lợi trong cuộc tranh chấp hiện nay đã khiến cho Hoa Kỳ phải bận tâm. Washington không muốn động thủ và vẫn còn chưa rõ xem liệu Hoa Kỳ sẽ ứng phó ra sao trong trường hợp Việt Nam, Philippines hay thậm chí Singapore bị rơi vào tầm ảnh hưởng của Trung Quốc. Tuy nhiên, ít ai nghi ngờ quyết tâm của Hoa Kỳ muốn ngăn chặn Bắc Kinh kiểm soát toàn bộ tuyến hàng hải đi qua Biển Đông.
Nếu không phải là ASEAN chủ động đứng ra đương đầu, thì còn ai ra thay thế họ đây? Hoa Kỳ và các nước khác trên thế giới cần một lý lẽ đủ mạnh để biện minh cho một cuộc can thiệp bền vững và có hiệu quả. Gần đây, đã quá chán ngấy với con ngáo ộp “vũ khí hủy diệt hàng loạt” tại Irắc, công chúng Mỹ tỏ ra e dè trước một cuộc phiêu lưu quân sự tiếp theo. Còn Nhật Bản thì vốn đã luôn e dè với việc phô trương sức mạnh của mình. Nếu các quốc gia Đông Nam Á quanh vùng biển này muốn Hoa Kỳ và các đồng minh hỗ trợ nhiều hơn là những lời tuyên bố giữ vững tự do hàng hải ở Biển Đông, thì họ phải chứng tỏ rõ được rằng họ cần và đáng nhận được sự trợ giúp.
Nhiều người trong giới chính sách quốc tế ở phương Tây tin rằng Hoa Kỳ nên làm bạn với một “Trung Quốc đang trỗi dậy”. Những căng thẳng đang leo thang tại Biển Đông là một mối đe dọa cho viễn cảnh của họ về một cộng đồng các nước Thái Bình Dương hòa bình và thịnh vượng. Một số chuyên gia ngoại giao này có vẻ sẵn sàng nhường lại một khu vực ảnh hưởng cho Trung Quốc – chẳng hạn như ASEAN – và họ sẽ không đứng ra bênh vực bên nào trong các tranh chấp này. Nhiều “chiến lược gia” phương Tây vẫn còn đàm luận về các cuộc đối đầu này như thể tất cả các bên đều có lỗi như nhau.
Tuy nhiên, quan niệm đó có thể thay đổi — chỉ cần các nước Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam thảo luận và đi đến một chỗ đứng chung. Họ có thể thực hiện điều này được bằng cách khoanh vùng lại, nếu không phải là dàn xếp ổn thỏa, các tuyên bố chủ quyền chồng chéo giữa họ với nhau, thông qua việc áp dụng các quy định trong Công ước về Luật Biển và các quy định khác trong công pháp quốc tế. Họ cũng có thể cam kết sẽ dựa vào  trọng tài quốc tế phân xử cho các tranh chấp còn lại. Các nước không có tranh chấp như Indonesia và Singapore có thể đứng đằng sau hỗ trợ cho quá trình dàn xếp này của các nước ASEAN.
Kết quả có thể thấy ngay được đó là việc phân định rõ các vùng tranh chấp chồng lấn hiện nay của bốn nước đối với các hòn đảo, rặng san hô và bãi đá ở quần đảo Trường Sa. Họ có thể ngắm tới việc thỏa thuận các “giới hạn lãnh hải” mà các hòn đảo, bãi đá này tạo ra, và nhờ đó khoanh vùng địa lý các khu vực còn tranh chấp. Điều này lại giúp tiếp tục phân định rõ quyền kiểm soát đối với các khu vực biển lân cận.
Đối với các tranh chấp bên ngoài quần đảo Trường Sa, lấy lại được một chút lợi ích trên bàn đàm phán còn hơn là chẳng thu lại được gì. Bởi lẽ, Trung Quốc đã kiểm soát quần đảo Hoàng Sa được gần bốn thập kỷ, và giờ đây lại tỏ rõ quyết tâm chiếm giữ cả bãi cạn Scarborough. Cho đến thời điểm này, việc Việt Nam và Philippines giành lại được hai khu vực đó dựa vào các tuyên bố chủ quyền lịch sử dường như là điều hoang tưởng.
Hướng giải pháp thực tế hơn là đấu tranh buộc Trung Quốc phải chấp nhận vùng đặc quyền kinh tế quy định trong Công ước về Luật Biển, mà theo đó Việt Nam có thể lấy lại được một phần phía tây quần đảo Hoàng Sa còn Philippines thì sẽ lấy lại được bãi cạn Scarborough. Nếu căn cứ vào đó thì Malaysia, Brunei, Indonesia và Singapore sẽ dễ dàng đứng sau hậu thuẫn hơn, cho dù là họ đã ngần ngại ủng hộ việc đấu tranh thông qua bằng chứng về chủ quyền lịch sử.
Những bước đi này, có lẽ sẽ đạt đến sau một vài tháng đàm phán quyết liệt và kín đáo, sẽ giúp kiến tạo nền móng cho một giải pháp hòa bình cho chuỗi các sự kiện mà nay đã hiện rõ là một cuộc khủng hoảng. Nó cũng giúp cho Hoa Kỳ và đồng minh có được một lý do thích đáng để tích cực hỗ trợ, và thậm chí là can thiệp quân sự – nếu tình hình thực sự leo thang đến mức đó.
Hành trang lịch sử
Trung Quốc, một khi có ban lãnh đạo mới cho vài năm tới đây, có thể sẽ tìm cách thoái lui khỏi thế đối đầu hiện nay. Các phát ngôn viên của Trung Quốc đôi lần đã nhắc tới việc nên giải quyết các tranh chấp dựa trên luật pháp quốc tế, và trong khi chưa giải quyết xong vấn đề tranh chấp yêu sách, các thỏa thuận về khai thác chung các nguồn tài nguyên của Biển Đông sẽ góp phần xoa dịu căng thẳng.
Tuy nhiên, sẽ không dễ dàng để Trung Quốc từ bỏ các tuyên bố về chủ quyền lịch sử của mình. Việc từ bỏ đó là điều không thể, trừ phi Việt Nam cũng làm vậy – nghĩa là, trừ khi Việt Nam cũng đồng ý phân định chủ quyền lãnh hải chỉ dựa trên Công ước về Luật Biển và các nguyên tắc liên quan khác theo công pháp quốc tế.
Giống như Trung Quốc, Việt Nam đầu tư rất nhiều nỗ lực cho việc đấu tranh dựa trên chứng cứ lịch sử. Trên thực tế, nhiều học giả độc lập cho rằng nếu dựa trên các chứng cứ lịch sử thì tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo tranh chấp có sức nặng hơn. Sẽ không dễ dàng đối với Việt Nam khi phải gác lại chuyện lịch sử, bởi dù sao, Việt Nam cũng là một quốc gia đã gây dựng bản sắc của mình một phần từ việc liên tiếp đánh bại các cuộc xâm lăng của Trung Quốc từ năm 938. Và vì vậy, trừ khi hai cựu thù truyền kiếp bất cân xứng này có thể vượt lên trên bóng ma của lịch sử, thì có rất ít cơ hội để đi đến một cái kết êm đẹp cho cuộc khủng hoảng tại Biển Đông hiện nay.
Một số ý kiến cho rằng phủ nhận các tuyên bố về chủ quyền lịch sử của Trung Quốc và đề xuất giải pháp cùng đàm phán dựa trên các cơ sở pháp lý phù hợp sẽ chỉ khiến cho siêu cường đang trỗi dậy này nổi giận. Tuy nhiên, khó có thể hình dung việc nhượng bộ trước những tham vọng của Trung Quốc lại có thể đem lại một kết quả tốt đẹp hơn.
Vẫn còn một kịch bản có nhiều triển vọng. Đó là, nhận thấy rằng họ không còn nhiều thời gian, bốn nước ASEAN tham gia tranh chấp sẽ tự dàn xếp chủ quyền lãnh hải của họ dựa trên các cơ sở pháp lý liên quan. Được Indonesia và Singapore – nếu không phải là cả khối ASEAN – hậu thuẫn, họ sẽ có thể tuyên bố sẵn sàng bước vào đàm phán với Trung Quốc với cùng một tiếng nói chung. Và thay vì phủ nhận các thành quả đàm phán đã đạt được của các nước hay một mực chỉ đồng ý đàm phán song phương, Trung Quốc chấp nhận bước vào tiến trình đàm phán. Theo kịch bản này, một thỏa thuận sẽ sớm đạt được, trong đó thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với một phần lớn quần đảo Hoàng Sa, và một vài đảo lẻ tẻ ở Trường Sa.
Các bên sau đó sẽ quay sang thảo luận đến các vấn đề liên quan, ví dụ như một Bộ Quy tắc Ứng xử. Tài liệu này sẽ khác xa so với Bộ Quy tắc Ứng xử mờ nhạt mà ASEAN đã từng vạch ra trước đây. Nó sẽ là một tài liệu có sức nặng, khẳng định các phương án dàn xếp chủ quyền kể trên. Và rồi, việc cùng khai thác các nguồn tài nguyên năng lượng có thể sẽ giúp quy tụ những nền tảng cho một tương lai ổn định, hợp tác ở khu vực Biển Đông. Các bên cũng có thể sẽ đồng ý “mở cửa” chào đón các quốc gia quanh vùng với điều kiên họ ứng xử có trách nhiệm.
Nói cách khác, bất kỳ cơ chế giám sát, quản lý khu vực Biển Đông nào muốn thành công đều phải đảm bảo quyền tiếp cận bình đẳng tới các nguồn tài nguyên biển cho các doanh nghiệp của Trung Quốc. Các nước quanh vùng phải chào đón và tạo điều kiện cho các dự án đầu tư và hợp tác của Trung Quốc, bao gồm cả việc cấp phép cho các công ty Trung Quốc khai thác các nguồn tài nguyên hyđrôcácbon. Việc đánh bắt hải sản có thể được các bên cùng quản lý và thực hiện một cách bền vững, trong khi tổ chức các cuộc tuần tra chung để bảo đảm rằng các quy định được tuân thủ nghiêm túc. Cuối cùng, các nước quanh vùng và các cường quốc hàng hải có thể đàm phán các quy tắc nhằm quản lý các tuyến đường, hệ thống báo hiệu, và quyền lưu thông hàng hải trong vùng Biển Đông.
Có thể sẽ có ai đó phản đối kịch bản tươi sáng này với lý lẽ nó có thể làm đổ vỡ các nguyên tắc về tổ chức và thông lệ về lãnh đạo vốn là hiện thân cho thứ được gọi là “Con Đường ASEAN”. Nhưng trong trường hợp này, chúng ta cần thừa nhận rằng ASEAN không thể giải quyết vấn đề dựa trên nguyên tắc đồng thuận. Nhìn vào thực tế đó, trong bối cảnh các tranh chấp đang ngày một leo thang, chúng ta có thể thấy được rằng, việc một mực cố gắng duy trì tính trung tâm của ASEAN trong vấn đề Biển Đông chỉ càng làm giảm uy tín và hiệu quả của tổ chức mười nước này mà thôi.
(*)David Brown là một cựu quan chức ngoại giao Hoa Kỳ tại Việt Nam. Ông chuyên viết bài về các vấn đề thời sự ở Việt Nam. Liên hệ e-mail: nworbd@gmail.com.
Nguồn: Asia Times

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này