Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2013
Trung Quốc đùa với lữa (*)
(*) Đó là tên của bài viết của tác giả người Mỹ David Brown- một nhà báo tự do đã từng sống ở cả miền Nam và Bắc
Việt Nam, từng là nhà ngoại giao Mỹ (từ thời chế độ Sài Gòn), và trong
những năm gần đây đã quản lý dự án bảo tồn môi trường, biên tập báo chí
và dạy học ở Việt Nam. Hiện nay ông Brown đang sinh sống ở California,
Hoa Kỳ. Bài viết này được đăng tải lần đầu tiên trên số tháng 6, 2013 của
tạp chí điện tử China Economic Quarterly, do công ty Gavekal Dragonomics
(Hương Cảng) xuất bản.
Bài báo được nhà báo Huỳnh Phan dịch ra tiếng Việt, rồi lại được "hiệu đính bởi tác giả David Brown (có nghĩa là nội dung hoàn toàn chuẩn xác...khỏi phải lo"tam sao thất bản" nhé!). Hơn nữa, người Việt Nam đã nói và viết quá nhiều về quan hệ Việt-Trung, và có lẽ trở nên nhàm chán, thường bị cho là "thiếu khách quan", thậm chí bị quy chụp là "phản động".... Vậy ta hãy nghe người ngoài nói về cùng chủ đề cho nó khách quan!
Bản dịch được giới thiệu trên trang Anh Basam ngày 6/7/2013 và đã nhận được một số lời bình đàu tiên nên Bách Việt xin mạn phép đăng lại toàn bộ để mọi người tiện tham khảo luôn thể và thảo luận tiếp.
Theo Mỹ mất Đảng; theo Tàu mất nước.
Câu nói phổ biến này ở Việt Nam đã cô đọng lại nan đề địa chính trị mà
Đảng Cộng sản đang phải đối mặt. Bốn mươi năm sau khi những người lính
Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, cái Đảng đã giành được độc lập và thống
nhất cho đất nước đang mất đi phần lớn tính chính danh của mình. Dường
như có quay ra đề cao đạo đức của Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông
đến mấy cũng không thể khôi phục lại lòng nhiệt huyết của Đảng cũng như
loại bỏ được nạn tham nhũng đã bắt rễ tràn lan trong guồng máy. Trách
nhiệm lớn nhất của chế độ là đã thất bại trong việc chỉnh đốn nền kinh
tế sút kém. Nhưng ngoài ra, dư luận cũng xem thường sự bất lực của Đảng
trong việc bảo vệ các lợi ích của Việt Nam trước Trung Quốc.
Theo cách nhìn nhận của những người dân
thường ở Hà Nội hoặc TP Hồ Chí Minh, Bắc Kinh đã rũ bỏ vỏ bọc “trỗi dậy
hòa bình” và quay lại với vai trò lịch sử của mình là kẻ côn đồ trong
khu vực. Tuyên bố nực cười của họ đối với tài nguyên khoáng sản biển
trên toàn bộ biển Đông chỉ là một ví dụ nổi trội nhất. Việc Trung Quốc
xây dựng một chuỗi các con đập trên thượng nguồn sông Mê Kông ở tỉnh Vân
Nam và hậu thuẫn cho kế hoạch xây dựng thêm mười một con đập phía hạ
lưu ở Lào đe dọa làm mất đi đợt lũ lụt hàng năm vốn mang lại sự màu mỡ
cho vùng đồng bằng sông Cửu Long. Các doanh nghiệp Trung Quốc cũng đang
săn đón các nguồn tài nguyên khoáng sản và lâm sản của Lào, thách thức
quyền bá chủ của Việt Nam ngay tại sân sau của họ. Còn ở ngay tại Việt
Nam, sự gia tăng đầu tư của các công ty kỹ thuật, xây dựng và khai thác
mỏ Trung Quốc — đáng chú ý nhất là dự án bauxite nhiều tỷ đô la của
Chinalco ở Tây Nguyên — đã thu hút sự chỉ trích nặng nề. Hàng hóa giá rẻ
và thường là kém chất lượng của Trung Quốc đã tràn ngập thị trường Việt
Nam, đè bẹp các nhà sản xuất nội địa.
Những người dân thường ở Việt Nam muốn
trả đũa. Họ không nghĩ đến việc lực lượng vũ trang của Việt Nam không
sánh được với Trung Quốc hay Việt Nam rất dễ bị tổn hại trước các cuộc
trả đũa kinh tế. Các nhà phân tích phương Tây thường lý giải “sự lấn
lướt” của Trung Quốc bắt nguồn từ sự trỗi dậy mạnh mẽ của chủ nghĩa dân
tộc trong dân chúng và sự tận tụy thái quá của các cơ quan an ninh Trung
Quốc. Thế nhưng đối với những người dân Việt Nam bình thường thì rõ
ràng là sự gây hấn của Trung Quốc có sự điều phối từ Bắc Kinh. Điều đó
không có gì mới: chủ đề lớn xuyên suốt lịch sử đất nước này, điều mà mọi
người đều được học ở trường, là sự chống trả ngoan cường và cuối cùng
giành thắng lợi trước những kẻ xâm lược. Và hầu hết các đạo quân tràn
qua biên giới Việt Nam trong 2.000 năm qua đều là quân Trung Quốc. Chẳng
có lý gì để tin rằng lần này sẽ khác.
Quan hệ đối tác gai góc
Việt Nam và Trung Quốc có chung 1.350
km đường biên giới và nhiều thứ khác. Cả hai nước đều là những nước theo
chế độ cộng sản kiểu Lenin với một nền văn hóa chính trị được định hình
bởi các khái niệm tân Nho giáo về hệ thống thứ bậc sắp xếp theo tài
năng và các mối quan hệ xã hội. Đảng cộng sản cầm quyền ở mỗi nước đã
trụ lại được bằng cách rũ bỏ nền kinh tế kiểu Mác-xít trong khi vẫn dung
dưỡng một bộ máy an ninh nhà nước rộng khắp. “Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” của họ cho phép các thị trường tự do, năng
động cùng tồn tại với hàng ngàn doanh nghiệp nhà nước, trong đó doanh
nghiệp nhà nước thống trị lĩnh vực công nghiệp nặng. Cả Bắc Kinh lẫn Hà
Nội đều đang bị công kích không ngớt bởi những lời chỉ trích mạnh bạo
của những người bất đồng chính kiến trên mạng Internet. Những yếu tố văn
hóa và chính trị chung này là nền tảng cho một mạng lưới các mối quan
hệ tham vấn giữa hai Đảng và hai Nhà nước nhằm vào việc duy trì sự hợp
tác giữa hai chế độ.
Tuy nhiên, quan hệ song phương thường
là gai góc. Sự chênh lệch quá lớn về tầm quan trọng về địa chính trị và
kinh tế giữa Trung Quốc và Việt Nam nói lên một điều rằng mối quan hệ
này về cơ bản là không bình đẳng. Họa hoằn có khi nào đó người Trung
Quốc chú ý đến Việt Nam, thì họ thường chỉ coi đó như là một tỉnh lị
ngang ngạnh mà bằng cách nào đó đã vuột khỏi tầm tay của mình. Ngược
lại, 90 triệu dân Việt Nam luôn thường trực thái độ dè chừng trước những
người hàng xóm phương bắc, vốn đông hơn họ gấp 15 lần và có nền kinh tế
lớn gấp 50 lần. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ không cúi đầu khuất phục Bắc
Kinh khi sự toàn vẹn lãnh thổ bị đe dọa. Ngoại trừ Hồ Chí Minh, những vị
anh hùng vĩ đại nhất của họ đều là những viên tướng đã làm quân xâm
lược Trung Quốc từ triều đại này đến triều đại khác phải thoái lui. Gần
đây nhất là năm 1979, khoảng 20.000 binh sĩ Trung Quốc đã phải thiệt
mạng khi Đặng Tiểu Bình tìm cách “dạy cho Việt Nam một bài học” vì đã cả
gan lật đổ chế độ Pol Pot do Bắc Kinh bảo trợ ở Campuchia và trở thành
đồng minh của Liên Xô.
Vào giữa thập niên 1990, quan hệ Trung
Quốc và Việt Nam đã trở lại êm dịu hơn. Cả hai nước đều bận rộn với cải
cách kinh tế trong nước, Liên Xô đã giải thể, và Trung Quốc thì quảng bá
việc “trỗi dậy hòa bình” của họ với Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN), giờ đây bao gồm cả thành viên mới là Việt Nam. Thương mại song
phương dần mở rộng, hai nước thảo luận về việc nâng cấp các “hành lang
thương mại” từ vùng tây nam Trung Quốc không tiếp giáp biển tới các cảng
biển của Việt Nam, và đàm phán về việc phân định biên giới trên đất
liền. Thậm chí những tuyên bố xung khắc về quyền sở hữu các rặng san hô,
bãi đá và bãi ngầm ở biển Đông dường như đang được xử lý một cách hài
hòa, nếu không nói là gần đạt tới giải pháp cuối cùng.
Tuy nhiên, mọi thứ đã thay đổi trong
năm 2009. Dù là do tính toán hay sự cố ngoại giao, Trung Quốc không còn
bằng lòng với việc gác lại các yêu sách chồng lấn. Tháng 5 năm đó, Trung
Quốc đã đưa ra trước Liên Hiệp Quốc một tấm bản đồ mập mờ tuyên bố “chủ
quyền không thể tranh cãi” đối với trên 80% diện tích biển Đông. Sau đó
căng thẳng leo thang nhanh chóng, thách thức mức độ gắn kết của ASEAN,
và lôi kéo các nước ngoài khu vực – gồm cả Hoa Kỳ — vào cuộc. Việt Nam
và Philippines phải gánh chịu phần lớn áp lực từ bước tiến này của Trung
Quốc muốn ngụy tạo các “bằng chứng” mà, cho dù không phù hợp với luật
pháp quốc tế, rất khó để bác bỏ. Tinh thần dân tộc chủ nghĩa đang sục
sôi ở cả ba nước, đe doạ gây ra xung đột vũ trang trên biển. Chính sách
phục tùng trước Trung Quốc của Hà Nội bị phá sản.
Nhiều nhân sĩ, trí thức ngoài Đảng,
cũng như một số bên trong Đảng, tin rằng giải pháp là tìm kiếm một liên
minh kinh tế và quân sự trên thực tế (de facto) với Mỹ. Tuy nhiên, những
thành viên cao cấp trong Đảng còn rất hoài nghi về ý định của Mỹ, họ
vẫn tự coi mình như còn bị trói chặt trong cuộc xung đột một mất một còn
với chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc phương Tây.
Họ chỉ miễn cưỡng thực hiện những cải cách nhắm tới việc xây dựng khả
năng cạnh tranh kinh tế toàn cầu của đất nước và lôi kéo Hoa Kỳ vào làm
đối trọng lại với Trung Quốc. Nhóm “bảo thủ” trong Đảng ngậm miệng trước
các đòi hỏi của Hoa Kỳ muốn Việt Nam tôn trọng các quyền tự do dân chủ,
vì sợ rằng mục tiêu thực sự của Washington là lật đổ chế độ cộng sản.
Bất chấp tất cả những xích mích gần đây, họ vẫn không tin rằng các nhà
lãnh đạo Trung Quốc sẽ phản bội lại một đảng cộng sản cầm quyền rất
giống với chính Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Vẫn đang trông ngóng miếng bánh từ trên trời rơi xuống
Thật ra, hiện nay Trung Quốc chẳng mấy
quan tâm tới việc giúp các anh bạn cộng sản bám lấy quyền lực so với
việc khai thác tài nguyên trong khu vực và vươn vòi bạch tuộc kinh tế ra
xa. Với nguồn tín dụng xuất khẩu dồi dào và khả năng vay vốn ưu đãi từ
các ngân hàng nhà nước, các công ty Trung Quốc đã trở thành những đối
thủ đáng gờm trong việc phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam, đặc biệt
là xây dựng các nhà máy nhiệt điện. Nói chung, các công ty Trung Quốc
không chèn ép các nhà thầu Việt Nam, mà thay vào đó họ giật lấy các hợp
đồng từ tay các đối thủ cạnh tranh từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ hoặc
châu Âu bằng cách chào thầu với giá thấp. Thế nhưng các nhà phê bình cáo
buộc các doanh nghiệp Trung Quốc về việc sử dụng lao động đồng hương,
hoàn thành công việc với chất lượng thấp, thường xuyên chậm tiến độ và
vượt dự toán tổng kinh phí. Phe diều hâu ở Việt Nam còn khẳng định thêm
rằng sự phụ thuộc vào các nhà thầu Trung Quốc trong các lĩnh vực chiến
lược như năng lượng sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Một chủ đề tranh cãi khác là thâm hụt
thương mại tăng cao của Việt Nam với Trung Quốc, đối tác thương mại lớn
nhất của họ mà nhà kinh tế Trần Văn Thọ gọi là “cơn sóng thần công
nghiệp”. Cán cân thương mại của Việt Nam với các nước ASEAN khác và với
Nhật Bản là tương đối cân bằng, và có thặng dư lớn với Liên minh châu Âu
và Mỹ. Nhưng với Trung Quốc lại bị thâm hụt 16,4 tỷ USD vào năm 2012,
giúp cho Trung Quốc có thặng dư thương mại song phương là 40%. Phần lớn
hàng xuất khẩu của Trung Quốc đều ở dạng bán thành phẩm để gia công tiếp
trong các nhà máy chế biến xuất khẩu của Việt Nam: vải vóc, khóa kéo,
khuy, dây điện, bảng mạch và đủ loại vật tư khác. Nhưng Trung Quốc cũng
cung cấp các loại máy móc thiết bị để trang bị cho các nhà máy và xây
dựng cơ sở hạ tầng của Việt Nam. Cấu phần thứ ba và rất dễ thấy là hàng
tiêu dùng, được bán với giá rẻ hơn các đối thủ nội địa. Báo chí Việt Nam
thường xuyên đăng các bài cáo buộc Trung Quốc tuồn hàng độc hại hoặc
chất lượng kém vào Việt Nam, còn bất cứ động thái khiêu khích nào của
Bắc Kinh ở biển Đông cũng lập tức dẫn đến việc kêu gọi tẩy chay hàng hóa
Trung Quốc.
Lẽ ra mọi việc phải diễn ra theo chiều
hướng khác. Theo dự đoán của các nhà kinh tế, tới lúc này đáng ra Việt
Nam đã phải giành trọn miếng bánh khỏi tay Quảng Đông. Với chi phí lao
động thấp hơn đáng kể, Việt Nam là một lựa chọn hợp lý cho các nhà máy
từ trung tâm chế xuất của Trung Quốc khi cần di dời tới nơi rẻ hơn. Các
ngành công nghiệp may mặc và giày dép cần nhiều lao động từ lâu đã chiếm
khoảng 20% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam; các ngành này đã có được
bước khởi đầu trong thâp niên 1990 khi hàng may mặc và giày dép xuất
khẩu của Trung Quốc bị EU và Mỹ áp hạn ngạch. Tuy nhiên, năng suất lao
động vẫn còn thấp, tiền lương thực tế tăng ở mức 10% một năm trong giai
đoạn 2006-11, và Việt Nam nhìn chung là đã thất bại trong việc thu hút
các nhà sản xuất vốn dĩ đóng cơ sở tại Trung Quốc. Do chi phí lao động
tiếp tục tăng ở cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, các nhà máy đang chuyển sang
Campuchia, Bangladesh, hay thậm chí Myanmar thay vì Việt Nam.
Tình hình kinh tế Việt Nam không phải
là hoàn toàn xấu. Cùng với việc kinh tế toàn cầu dần phục hồi, khu vực
đầu tư nước ngoài của Việt Nam lại đi lên một lần nữa. Thay vì chuyển
nhà máy khỏi Trung Quốc, một số công ty đa quốc gia và các nhà thầu của
họ đã đa dạng hóa bộ phận sản xuất bằng cách mở thêm các nhà xưởng tại
Việt Nam. Theo những chứng cứ chưa đầy đủ hiện có, dường như đang hình
thành một xu hướng đầu tư rõ rệt vào các dự án có chất lượng cao hơn mà
có thể được hưởng lợi từ các ưu đãi thuế hào phóng. Các hãng thiết lập
hoặc mở rộng nhà máy lắp ráp bao gồm những cái tên nổi tiếng như Canon,
Samsung, Intel và IBM, Hitachi, Panasonic và Nokia. Tuy nhiên, gần như
tất cả các vật tư đầu vào để sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam đều là
nhập khẩu, một phần từ Trung Quốc. Những gì được thêm vào ở Việt Nam
chủ yếu chỉ là sức lao động chân tay – điều Trung Quốc có thể làm hiệu
quả hơn và trên một quy mô lớn hơn nhiều.
Sai lầm chiến lược toàn diện
Năm 2008, khép lại một giai đoạn nồng
ấm trong quan hệ song phương, hai tổng bí thư Hồ Cẩm Đào và Nông Đức
Mạnh tuyên bố xây dựng một “quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện”. Và
nếu Trung Quốc thực sự quan tâm đến việc vun vén một mối quan hệ đặc
biệt với chế độ cộng sản duy nhất khác trên thế giới theo đuổi “kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” — và qua đó củng cố ảnh hưởng
ngoại giao ở Đông Nam Á — thì Bắc Kinh hoàn toàn có khả năng giúp đỡ.
Mặc dù các nhà cầm quyền Việt Nam thừa nhận không lo lắng về sự mất cân
bằng thương mại song phương, đó vẫn là một trách nhiệm chính trị kinh
niên. Trung Quốc nhập khẩu lượng lớn cao su, than, dầu, gỗ, nông sản, và
thậm chí các loài động vật đang bị đe dọa tuyệt chủng, nhưng lại chẳng
màng tới hàng công nghiệp của Việt Nam. Một động thái thân thiện như gia
tăng nhập khẩu hàng công nghiệp sẽ không gây tốn kém nhiều cho Trung
Quốc, mà lại là tin rất tốt lành cho Hà Nội. Trên hết, một đề nghị chân
thành về việc cùng khai thác tài nguyên khoáng sản và cùng quản lý nguồn
hải sản trong khu vực tranh chấp song phương ở biển Đông có thể trở
thành một bước đi làm thay đổi cục diện – cho quan hệ của nước này với
Việt Nam và cả với ASEAN.
Tuy nhiên, thực tế là quan hệ giữa Bắc
Kinh và Hà Nội đã trở nên bất ổn một cách nguy hiểm kể từ thỏa thuận năm
2008. Sức ép của Trung Quốc về các vấn đề chính trị và chiến lược đã o
bế các nhà lãnh đạo Việt Nam có lẽ đến mức đe dọa sự sống còn của họ.
Chế độ Bắc Kinh đã tăng cường được vị thế của mình trước những người
theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan tại Trung Quốc bằng cách phô trương sức
mạnh của họ ở biển Đông. Trong khi đó những nỗ lực kháng cự lại một cách
thiếu hiệu quả của Hà Nội trước các hành động khiêu khích của Trung
Quốc đã dần làm xói mòn vị thế của nhà cầm quyền Hà Nội trước công chúng
Việt Nam. Ngoại trừ xung đột vũ trang, rất khó hình dung ra Trung Quốc
còn có thể làm điều gì nữa để đẩy nhanh sự thất bại của những người lẽ
ra đã vừa là bạn bè, vừa là đồng minh về mặt ý thức hệ của họ ở Việt
Nam. Rất có thể, nếu các lãnh đạo Việt Nam hiện nay mất vị trí của mình,
lớp lãnh đạo thay thế họ sẽ tìm cách hâm nóng quan hệ với Hoa Kỳ – một
kết cục thất bại hoàn toàn do Trung Quốc tự chuốc lấy.
Đáng lo ngại hơn, một cuộc xung đột vũ
trang không phải là điều viễn tưởng. Trung Quốc có hỏa lực áp đảo so với
Việt Nam, nhưng Hà Nội đang nhanh chóng gia tăng khả năng răn đe trên
không và trên biển. Nếu bị dồn vào chân tường, lịch sử cho thấy rằng
người Việt Nam sẽ đánh trả. Một tính toán sai lầm của bên này hay bên
kia đều có thể dẫn đến đụng độ vũ trang. Nó sẽ diễn ra gay gắt và đẫm
máu, với những hậu quả không thể lường trước. Trung Quốc có thể tiếp tục
thủ vai kẻ bắt nạt – nhưng cũng có nghĩa họ đang tiếp tục đùa với lửa.
3 nhận xét:
Tác giả này đã thiếu trung thực khi tự ý đổi tiêu đề bìa báo. Thực ra trên Asia Sentinel, David Brown đặt tên là : Vietnam: playing with fire.
Trả lờiXóa
http://asiasentinel.com/index.php?option=com_content&task=view&id=5549&Itemid=188Trả lờiĐây là tên bài viết trong bản dịch tiếng Việt của dịch giả Huỳnh Phan. Tôi cho rằng việc chuyển đổi như vậy cũng hợp lý và sát hơn với nội dung của bài viết. Riêng chữ "Vietnam:"... cũng có nghĩa là "vấn đề VN". Còn chuyện ai "chơi với lửa" thì phải dịch theo nôi dung bài viết.
Xóa
Tôi cho đó là vấn đề dịch thuật, chứ không phải là "thiếu trung thực" như bạn Huong nghĩ (?)Mọi người hãy đọc câu kết cuối bài của tác giả David Brown: "China can continue playing the bully - but it is playing with fire".
Xóa
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
“Đáng lo ngại hơn, một cuộc xung đột vũ trang không phải là điều viễn tưởng. Trung Quốc có hỏa lực áp đảo so với Việt Nam, nhưng Hà Nội đang nhanh chóng gia tăng khả năng răn đe trên không và trên biển. Nếu bị dồn vào chân tường, lịch sử cho thấy rằng người Việt Nam sẽ đánh trả. Một tính toán sai lầm của bên này hay bên kia đều có thể dẫn đến đụng độ vũ trang. Nó sẽ diễn ra gay gắt và đẫm máu, với những hậu quả không thể lường trước. Trung Quốc có thể tiếp tục thủ vai kẻ bắt nạt – nhưng cũng có nghĩa họ đang tiếp tục đùa với lửa.”
tê liệt mọi cơ năng rồi bất động.
Liều thuốc này được bào chế từ cây nhà lá vườn bản địa. Đó là lòng tham vô độ và điên cuồng của những quan chức đang say sưa làm giàu trên sự xót xa của đân tộc trước tiền đồ tối
đen của giang sơn Tổ Tiên và sinh mệnh của tộc Việt. Không ai đưa hối lộ giỏi bằng người Tàu. Vô cùng nguy hiểm!
————————————
David Brown là một Ông Tây,
Mà em cứ tưởng Ông là dân thường Việt Nam.
“Đi với Mỹ thì mất đảng”. Câu này không đúng. Chỉ mất sự độc tài, toàn trị của đảng CS. Vì chính ở Mỹ vẫn có đảng CS, thậm chí trước đây tổng bí thư đảng CS Mỹ McGavơn còn tranh cử tổng thống với Nicxon. Đảng với tư cách là các lực lượng chính trị chẳng những không mất, mà còn rất phát triển, chính là động lực phát triển như các xã hội văn minh. Câu này nên hiểu chính xác như sau:
“Đi với tàu là mất nước, mất đảng
Đi với Mỹ là còn nước, còn đảng”
Đảng cộng sản Việt Nam đang ở cuối con đường, sự sụp đổ là không tránh khỏi, do những mâu thuẫn giữa Đảng với nhân dân, trong nội bộ đảng, trong khi Bắc Kinh cũng không để cho yên…
Việc TQ ép Nông Đức Mạnh đơn phương ký kết đưa TQ và khai tác bô xít ở Tây Nguyên, trong lúc Bộ Chính trị không giám làm gì Mạnh, đã cho thấy, TQ đã lũng đoạn BCT của VN từ ngày Mạnh còn làm TBT. Sẽ đến lúc bọn bán nước phải đền tội. ngày đó chắc không còn xa. Nhân dân và quân đội nhân dân đâu có để cho bọn thân Tàu bán nước để rồi “theo Tàu mất nước”.
Đồng minh với Hoa Kỳ sẽ là chuyện đương nhiên.
Hãy nhìn vào lịch sử chống giặc phương Bắc của người Việt, thì quả thật, “Trung Quốc đang đùa với lửa”.
Ke dang thuc su dua voi lua la DCS VN – ho dua voi lua cua nhan dan VN.