Báo Dân trí ngày 27/5/2013 có đăng bài viết với tiêu đề "Nợ công đã lên tới 95% GDP?" cho thấy những số liệu đáng kinh ngạc dưới đây.
Tổng nợ công năm 2012 ước tính khoảng 55,4% GDP. Tuy nhiên, nếu tính
cả nợ trong hệ thống ngân hàng của DNNN và khoản nợ bằng trái phiếu
trong nước không được Chính phủ bảo lãnh khác thì nợ công Việt Nam lên
tới 95% GDP, vượt xa ngưỡng an toàn 60% GDP.
Tại
báo cáo nghiên cứu "Nợ công và tính bền vững ở Việt Nam", Uỷ ban Kinh
tế cho biết, tính đến hết năm 2011, tổng nợ công của Việt Nam vào khoảng
54,9% GDP, trong đó nợ công nước ngoài và nợ công trong nước lần lượt
là 30,9% và 24,0% GDP. Các con số tương ứng ước tính cho năm 2012 là
55,4% GDP; 29,6% GDP và 25,8% GDP.
Tuy nhiên, theo nhận xét của
Uỷ ban, rủi ro tiềm tàng lớn nhất đối với nợ công của Việt Nam có lẽ
không phải ở những khoản nợ được ghi nhận trên sổ sách. Vấn đề nằm ở
những khoản nợ xấu của khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) - mà rất có
thể sẽ phải dùng ngân sách nhà nước để trả - mới là mầm mống đe doạ tính
bền vững của nợ công Việt Nam. Cụ thể, khoản nợ nước ngoài của khu vực
tư, mà chủ yếu là DNNN, không được Chính phủ bảo lãnh chiếm 10,6% GDP.
Ngoài
ra, nợ trong hệ thống ngân hàng của khu vực DNNN theo ghi nhận tại đề
án Tái cấu trúc DNNN của Bộ Tài chính (2012) cũng chiếm xấp xỉ khoảng
16,5% GDP. Nếu tính đến các con số này và cộng với các khoản nợ bằng
trái phiếu trong nước không được Chính phủ bảo lãnh khác của DNNN, Uỷ
ban Kinh tế cho biết, nợ công Việt Nam sẽ lên tới xấp xỉ 95% GDP!
Tỷ
lệ này rõ ràng đã vượt xa so với ngưỡng an toàn (60% GDP) được khuyến
cáo bởi các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (World Bank) hay Quỹ
tiền tệ quốc tế (IMF). Đồng thời, cao hơn nhiều so với tỷ lệ được công
bố trên Đồng hồ nợ công thế giới của Economist.
Cấu trúc nợ công của Việt Nam.
Hiện
nay, theo định nghĩa, tổng nợ công là nợ trong nước và nợ nước ngoài
của khu vực công, bao gồm nợ của chính quyền trung ương và chính quyền
địa phương nhưng không bao gồm nợ của DNNN, kể cả những doanh nghiệp mà
Nhà nước sở hữu trên 50% vốn. Chỉ có nợ của các DNNN được Chính phủ bảo
lãnh mới được tính vào tổng nợ công.
Nợ nước ngoài tính bằng nội tệ tăng với tốc độ chóng mặt
Uỷ
ban cũng lưu ý rằng, mặc dù nợ nước ngoài có thể được hưởng lãi suất
thấp song lại tiềm ẩn đầy rủi ro về tỉ giá. Sự mất giá của đồng nội tệ
sẽ khiến cho gánh nặng nợ nước ngoài tính theo nội tệ tăng lên.
Các
chủ nợ lớn của Chính phủ Việt Nam bao gồm Nhật (chiếm 34,3% tổng nợ) và
các tổ chức quốc tế như IDA (24,9%) và ADB (15,0%). Mỹ và khối EU chỉ
chiếm lần lượt 0,3% và gần 6,9% tổng nợ của Chính phủ Việt Nam, tuy
nhiên nợ theo đồng tiền của các nước/khu vực này lại chiếm tỉ trọng lớn.
Theo nhận xét của Uỷ ban, các chủ nợ thường có xu hướng sử dụng
những đồng tiền mạnh, và việc vay nợ theo các đồng tiền mạnh này khiến
nợ nước ngoài chịu rủi ro cao khi chúng có xu hướng lên giá theo thời
gian.
Cụ thể, chỉ tính kể từ đầu năm 2010 đến cuối tháng 6/2011,
ba đồng tiền chủ chốt gồm EUR, USD và JPY trong giỏ nợ nước ngoài của
Việt Nam đã lên giá lần lượt khoảng 12%, 13% và 26% so với VND. Điều này
cũng đồng nghĩa với việc gánh nặng nợ nước ngoài tính theo nội tệ đang
tăng với tốc độ chóng mặt và gây sức ép đối với thâm hụt ngân sách và
chính sách tiền tệ.
Uỷ ban Kinh tế đánh giá, việc tiếp cận các
nguồn thông tin chính thống và cập nhật về nợ công, nợ nước ngoài và nợ
của DNNN ở Việt Nam là hết sức khó khăn. Nguồn thông tin chính thống về
nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay được cung cấp duy nhất qua Bản tin
Nợ nước ngoài phát hành định kỳ 6 tháng/lần của Bộ Tài chính. Dù vậy,
bản tin mới nhất cũng chỉ phản ánh sơ sài về thống kê nợ nước ngoài cho
tới hết năm 2010.
Các thống kê khác về nợ công trong nước và đặc
biệt là nợ của khối DNNN đều không được công bố chi tiết và chính thống.
Các số liệu của DNNN được nhóm nghiên cứu của Uỷ ban Kinh tế thu thập
và tính toán đề dựa trên báo cáo của Bộ Tài chính tại các kỳ họp Quốc
hội và thống kê dư nợ tín dụng trong hệ thống ngân hàng của NHNN
Do
vậy, Uỷ ban Kinh tế cho rằng, thách thức đầu tiên trong việc quản lý nợ
công Việt Nam đó là việc xây dựng một hệ thống cung cấp và quản trị
thông tin nợ công/nợ nước ngoài một cách minh bạch và nhanh chóng. Điều
này cần có sự nhìn nhận đúng đắn của các nhà quản lý và hoạch định chính
sách ở Việt Nam về vấn đề quản lý rủi ro nợ công hiện nay.
Bích Diệp
Xem thêm: Báo cáo kinh tế VN 2013: 'Quên' khoản nợ 1.334.000 tỷ đồng
Tôi là 1 Cử tri cùng Tâm trạng với hàng Tiệu ,Triệu cử tri ,Rất Đau lòng , Đã Cầm lá Phiếu theo Ý Đảng để Bầu nên Cái Đại Biểu QH này
Trả lờiXóa- Một Chính phủ Làm ăn bê bét,nền Chính trị Càng Thụt Lùi
- Chính phủ Coi Thường QH, Báo cáo láo , Hời hợt ... Lừa bịp ,Mà QH bỏ qua ( chỉ có 1,2 ý kiến phản bác lại , còn cả Hội Trường ngồi im Thin thít ,ko có Phản ứng gì
+ Nợ Lên đến 95% mà họ nói Vẫn Trong Vòng Kiểm soát của Họ
Họ sẽ mất kiểm soát , Lúc đó Ai Chịu trách nhiêm, Hòa Cả Làng
Chỉ có Dân là Lãnh đủ
Còn nhiều Việc Tầy đình do Chính phủ Gây nên . Sao QH ko mang ra Mổ xẻ Quyết liệt . Để ngăn chặn Tổn thất
Mỗi Đại Biểu Hãy vì Nước ,Vì Dân
Hãy Dũng Cảm lên ,để có niềm tin với Cử Tri
Nhà nước này thuộc loại không thể đối thoại được. Đừng hy vọng đối thoại, góp ýnữa.
Trả lờiXóa