Có vô vàn những học thuyết được các nhà khoa học nghiên cứu và đưa ra. Có những học thuyết đem lại cho nhân loại giá trị to lớn nhưng bên cạnh đó, có những học thuyết mang đến vô vàn hệ lụy đáng sợ. Thuyết ưu sinh là một trong những thuyết như vậy. Đây là một trong những học thuyết gây tranh cãi nhất của thế giới, nó khiến hàng trăm ngàn người bị giết, bị triệt sản, bỏ tù...
Thuyết ưu sinh là gì?
Thuyết
ưu sinh (eugenics) là học thuyết nổi tiếng những năm cuối thế kỷ XIX -
đầu thế kỷ XX. Học thuyết cho rằng, các chủng tộc loài người có thể cải
tiến bằng cách nhân giống chọn lọc có kiểm soát, tạo ra những đứa trẻ
với đặc điểm mong muốn, tính trạng hoàn hảo về sức khỏe, vóc dáng, trí
tuệ.
Người
đưa ra học thuyết tranh cãi này là nhà nhân chủng học người Anh -
Francis Galton. Ông là em họ của Charles Darwin, tác giả của học thuyết tiến hóa vĩ đại.
Sau khi đọc cuốn sách nguồn gốc các loài của anh họ mình, Francis Galton đã nêu ra rằng: “Các cơ chế của chọn lọc tự nhiên, sự tiến hóa có thể bị cản trở bởi văn minh con người.
Các xã hội thường bao bọc người yếu kém nhất, dẫn đến sự tụt lùi trong
nhiều thế hệ. Chỉ tới khi thay đổi hoàn toàn các chính sách ấy thì xã
hội loài người mới thoát khỏi sự tầm thường”.
Nhà nhân chủng học Francis Galton - cha đẻ của thuyết ưu sinh.
Học
thuyết này ngay lập tức đã trở thành đề tài tranh cãi và nghiên cứu của
các nhà khoa học. Nó cũng nhận được nhiều sự hậu thuẫn bởi các chương
trình khoa học ứng dụng và phong trào sinh học. Các nhà ưu sinh học ủng
hộ việc sử dụng những phương thức triệt sản nhằm cải thiện cấu tạo gene
của dân số loài người.
Học thuyết tàn bạo
Sau
khi được truyền bá rộng rãi trong giới khoa học, thuyết này dần được
nhiều chính khách, nguyên thủ quốc gia ủng hộ dùng làm công cụ để “rửa
sạch giống nòi”.
Từ đây, học thuyết này là
nguyên nhân khiến rất nhiều người bị ép buộc triệt sản nhằm loại bỏ các
cá thể khuyết tật như người bị tâm thần, mù, điếc, phụ nữ có quan hệ
tình dục bừa bãi, người đồng tính hay bộ tộc bị xếp vào loại “thoái hóa”
hoặc “không đủ tiêu chuẩn” để tồn tại.
Thời
bấy giờ, Mỹ là quốc gia đầu tiên đưa các luận điểm của thuyết ưu sinh
vào trong luật pháp cho phép triệt sản các cá nhân thoái hóa. Trong giai
đoạn 1907 - 1963, 64.000 người bị ép buộc triệt sản theo luật ưu sinh.
Theo
tài liệu mật ghi lại, California là nơi có tỉ lệ triệt sản cao nhất,
với khoảng 20.000 ca, chiếm 1/3 trong tổng ca triệt sản ở Mỹ từ năm 1909
tới thập niên 1960. Ý tưởng tạo ra thiên tài và tài năng từ ưu sinh đã
được quảng cáo khá rùm beng. William Graham Sumner - người sáng lập Hiệp
hội Xã hội học Mỹ cũng đã ủng hộ ý tưởng này.
Sumner
cho rằng, nếu chính phủ không can thiệp loại bỏ thì những người khiếm
khuyết và nhóm tội phạm sẽ sinh sôi nảy nở ngày càng nhiều, tạo gánh
nặng cho xã hội.
Với
việc thông qua đạo luật nhập cư năm 1924, các nhà ưu sinh học lần đầu
tiên đóng vai trò là cố vấn trong các cuộc thảo luận của Quốc hội về
nguy cơ bị "ô nhiễm" bởi “nguồn gene hạ đẳng” do dân nhập cư từ Đông và
Nam Âu. Điều luật này đã làm lượng nhập cư vào Hoa Kỳ giảm tới 15% và
gây nên những vụ thù hằn lớn giữa các dân tộc.
Đầu
thế kỷ XX, Mỹ, Canada là “cái rốn” nhập cư, nhất là từ Đông và Nam Âu
nên 2 nước này đã thông qua các điều luật phân loại thứ bậc quốc tịch.
Theo
đó, những người được ưu tiên nhập tịch là nhóm người Anglo-Saxon và
người Nordic mà theo thuyết ưu sinh là nhóm dân số ưu việt nhất của loài
người. Trong khi đó, một số dân tộc khác lại bị “soi” kỹ hơn, thậm chí
còn bị cấm nhập cư vào Mỹ.
Cuộc thi của trẻ con phục vụ cho chương trình triệt sản theo thuyết ưu sinh ở bang Indiana, Mỹ năm 1931.
Thế
nhưng đáng sợ hơn cả là ứng dụng của thuyết ưu sinh ở Đức, học thuyết
này rất được trùm phát xít Hitler tin tưởng, hắn thực hiện các cuộc
thanh trừng, diệt chủng, chọn lọc để tạo ra những người ưu việt nhất.
Trong
thập niên 1930 - 1940, chế độ phát xít đã thực hiện triệt sản ép buộc
với hàng trăm nghìn người mà chúng coi là không đủ sức khỏe thể chất và
tinh thần. 400.000 người bị triệt sản là con số ước tính trong giai đoạn
từ 1934 - 1937 tại đây. Chế độ phát xít còn tàn bạo đến mức ép buộc
những người tật nguyền phải chết thông qua chương trình “chết tình
nguyện” bằng cách tiêm chất độc Hydro xyanua (HCN).
Hitler từng tuyên bố nhiều lần: “Chúng
ta phải tạo ra một giai cấp ưu việt nhất, có khả năng thống trị trong
nhiều thế kỷ. Đội quân của chúng ta phải được lựa chọn trên nguyên tắc
của học thuyết ưu sinh, để con cái sau này thuộc giai cấp quý tộc của
hiện tại và tương lai, không chỉ ở nước Đức mà trên toàn thế giới".
Theo
lệnh của Hitler, nước Đức đã thành lập các "trại giống". Những chàng
trai ưu tú trong quân đội, được tuyển chọn qua chu trình cực kỳ nghiêm
ngặt, những cô gái hoàn mỹ về ngoại hình, thể lực, về tinh thần và tư
tưởng (theo tiêu chuẩn của chủ nghĩa phát xít Đức) đều tập trung tại
đây.
Những chàng trai ưu tú trong quân đội được tuyển chọn qua chu trình cực kỳ nghiêm ngặt.
Họ
được chăm sóc, nuôi dưỡng cẩn thận để giao phối với nhau và sinh con.
Tất cả nhằm thực hiện và chứng minh học thuyết ưu sinh, tuy nhiên, kết
quả thu được khá thất vọng.
Có khoảng 50.000
trẻ em ra đời từ các "trại giống" người “thượng đẳng” này. Sau khi chủ
nghĩa phát xít thất bại và tan rã, người ta biết rằng, phần lớn các em
nhỏ đó có chỉ số thông minh dưới trung bình. Ngoài ra, số trẻ đần độn
nhưng tính tình hung hãn cao hơn mức bình thường đến vài lần.
Điều này đánh dấu chấm hết cho những tranh cãi còn dai dẳng, xóa nhòa khả năng thực hiện thuyết ưu sinh đối với con người.
Muôn vàn hệ lụy của thuyết ưu sinh...
Ngoài
việc dùng thuyết ưu sinh để phục vụ cho mục đích chính trị, cho ra đời
nhiều đạo luật gây phân biệt chủng tộc, làm tăng sự hận thù giữa các
quốc gia, việc áp dụng thuyết ưu sinh không đúng mục đích còn tạo ra vô
vàn hệ lụy khác.
Sau
Chiến tranh Thế giới thứ II, ý tưởng thanh trừng chủng tộc của Đức Quốc
xã đã bị loài người lên án công khai vì nó mang tính phi đạo đức, đi
ngược lại các tuyên ngôn của Liên Hiệp Quốc về quyền con người. Từ đó,
thuyết ưu sinh bị gắn liền với chủ nghĩa phát xít mỗi khi được nhắc tới.
Việc
thực hiện những mặt tiêu cực của thuyết ưu sinh ngày nay bị liệt vào
tội diệt chủng quốc tế. Trong thực tế có không ít người khuyết tật hoặc
sức khỏe không tốt mà vẫn thành công trong cuộc sống, trở thành thiên
tài như nhạc sĩ Schuman, nhạc sĩ Franciszek Chopin, họa sĩ thiên tài Van
Gogh, nhà bác học Newton... Hoặc ngược lại, nhiều người bình thường
nhưng lại có những suy nghĩ và hành vi điên rồ như chính Hitler vậy.
Điều
này chứng tỏ không phải gene di truyền hoàn toàn quyết định mà nó còn
liên quan đến nhiều yếu tố khác như môi trường nuôi dưỡng, chế độ giáo
dục, yếu tố tiến hóa và cả những điều mà chính con người đến nay vẫn
chưa khám phá hết. Việc đánh giá con người chỉ qua vẻ bề ngoài và cha mẹ
của họ thực sự vẫn chỉ là điều ấu trĩ, điên rồ nhất.
Chưa là gì so với học thuyết điên rồ cộng sản. Hơn 100 triệu người mất mạng vì nó
Trả lờiXóaCòn học thuyết Mac-Le thì sao?
Trả lờiXóaChủ nghĩa "lý lịch thành phần" và " Hồng , Chuyên" cũng kinh dị không kém thuyết ưu sinh .
Trả lờiXóa