Hoàng Sa là ngư trường truyền thống của dân chài VN |
Sau nhiều năm bị đình hoãn vì những lý do khách quan và chủ quan khác
nhau, hôm qua (21/6/2012) Quốc hội Việt Nam
đã thông qua Luật biển với sự nhất trí hầu như tuyệt đối (495/496 phiếu). Đó là kết quả của một quá trình tranh đấu gay go phức tạp có nhân tố "thù trong giặc ngoài" và cuối cùng đã thắng lợi. Dù sao đó cũng là
một tin vui đối với nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước cũng như bạn bè quốc tế.
Luật gồm 7chương, 55 điều sẽ có hiệu lực đầy đủ vào ngày 01/01/2013. Tuy nhiên, hiệu lực chính trị đối ngoại của nó đã có ngay từ bây giờ, biểu hiện trước tiên là sự giận dữ của ông bạn láng giềng phương Bắc. Chẳng hay Bắc Kinh có nhận ra rằng chính thái độ nóng lòng muốn độc chiếm biển Đông của người Trung Quốc đã thúc dục Việt Nam đi tới quyết định quang trọng này (?). Dù sao đây cũng là thời điểm tốt để các nhà lập pháp Việt Nam có thể "cập nhật" tình hình mới nhất trong bộ luật của mình. Đây cũng là thời điểm mà nhân dân Việt Nam đã vữngvàng hơn về ý thức chính trị, quốc phòng được tăng cường và đang tiếp tục tăng cường nhanh mạnh hơn nữa nhằm đảm bảo việc thực thi pháp luật. Bởi lẽ trong lĩnh vực luật biển, việc ban hành luật lệ của một quốc gia là một chuyện, nhưng năng lực thực thi pháp luật còn quan trọng hơn nhiều. Do đó, việc Quốc hội thông qua Luật Biển vào lúc này tuy có chậm nhưng vẫn còn kịp thời và có thể nói là “chậm chắc”. Với bộ luật này Việt Nam coi như đã được vũ trang cả về quân sự và pháp lý trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo chính đáng của mình. Đó là sự tái khẳng định chính thức nhất về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bất chấp sự chiếm đóng bằng vũ lực phi pháp của các lực lượng Trung Quốc.
Luật gồm 7chương, 55 điều sẽ có hiệu lực đầy đủ vào ngày 01/01/2013. Tuy nhiên, hiệu lực chính trị đối ngoại của nó đã có ngay từ bây giờ, biểu hiện trước tiên là sự giận dữ của ông bạn láng giềng phương Bắc. Chẳng hay Bắc Kinh có nhận ra rằng chính thái độ nóng lòng muốn độc chiếm biển Đông của người Trung Quốc đã thúc dục Việt Nam đi tới quyết định quang trọng này (?). Dù sao đây cũng là thời điểm tốt để các nhà lập pháp Việt Nam có thể "cập nhật" tình hình mới nhất trong bộ luật của mình. Đây cũng là thời điểm mà nhân dân Việt Nam đã vữngvàng hơn về ý thức chính trị, quốc phòng được tăng cường và đang tiếp tục tăng cường nhanh mạnh hơn nữa nhằm đảm bảo việc thực thi pháp luật. Bởi lẽ trong lĩnh vực luật biển, việc ban hành luật lệ của một quốc gia là một chuyện, nhưng năng lực thực thi pháp luật còn quan trọng hơn nhiều. Do đó, việc Quốc hội thông qua Luật Biển vào lúc này tuy có chậm nhưng vẫn còn kịp thời và có thể nói là “chậm chắc”. Với bộ luật này Việt Nam coi như đã được vũ trang cả về quân sự và pháp lý trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo chính đáng của mình. Đó là sự tái khẳng định chính thức nhất về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bất chấp sự chiếm đóng bằng vũ lực phi pháp của các lực lượng Trung Quốc.
Thế giới đều biết, Bắc
Kinh đã dùng vũ lực đánh chiếm Hoàng Sa
năm 1974 lúc đó đang thuộc chính quyền Việt Nam Cộng hòa (miền nam Việt Nam), và do đó sự chiếm đóng trong mấy chục năm qua của Trung Quốc chỉ là tạm thời và hoàn toàn phi pháp theo luật pháp quốc tế. Thế giới cũng biết rằng
Việt Nam với tư cách một quốc gia dù trong thời kỳ phong kiến, thuộc địa hoặc thời kỳ bị
chia cắt hai miền đều đã thực thi quyền chiếm hữu hợp pháp liên tục đối với hai quần đảo
Hòang Sa và Trường Sa. Theo Công ước Luật Biển 1982 của Liên hợp quốc (UNCLOS 1982) Việt Nam cũng có đầy đủ
điều kiện để tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo này và toàn bộ vùng nước
từ bờ biển đất liền như một thực thể lãnh thổ và biển đảo không tách rời. Thế
giới cũng biết rằng cả Trung Quốc lục địa và Đài Loan đều cách rất xa về mặt địa lý
và không có hoặc thiếu cơ sở lịch sử để
đòi chủ quyền đối với toàn bộ hoặc một phần của hai quần đảo nói trên, lại càng
không có quyền gì đối với lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam.
Đồn trú TQ tại bãi Gạc Ma-nơi 60 công binh VN hy sinh năm 1988 |
Cho đến nay, ngoại trừ sự phản ứng thái quá của phía Trung Quốc, các bên liên quan khác đều tỏ ra thận trọng. Trong bối cảnh hiện nay, giữa lúc đang diễn ra cuộc tranh chấp Hoàng
Nham-Scarborough giữa Trung Quốc với Philipine, chắc rằng sự
kiện Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Biển sẽ “làm nóng
“ thêm không khí của Hội nghị cấp cao về an ninh khu vực tại Phnom Penh sắp nhóm
họp trong đầu tháng 7. Hồ sơ biển Đông sẽ được chồng chất thêm và thành phần
tham gia tranh chấp cũng tăng lên theo hướng đa phương, chứ không “song phương”
như Bắc Kinh mong muốn, nhất là trước những bước đi quyết đoán hơn của Mỹ và
đồng minh trong việc chuyển hướng bố trí lực lượng tại khu vực.
Tuy nhiên, bàn
cờ khu vực có lẽ vẫn còn tiếp tục chuyển động trong thế đấu giữa những người tí hon với tên khổng lồ. Nhưng điều quan trọng là những người tí hon có trong tay một cơ sở pháp lý
và thế chính nghĩa trong khi tên khổng lồ chỉ có thân hình hộ pháp và sức
mạnh. Đây là một nghịch lý. Thoạt nhìn ai cũng cho rằng tên khổng lồ đang thắng thế. Nhưng rồi người ta nhận ra rằng đằng sau vẽ hung hãn và hiếu thắng của tên khổng lồ luôn che đậy một
nỗi sợ hãi, đó là pháp lý và dư luận quốc tế. Cuộc đấu tranh nào cũng vậy, thắng lợi thực sự và cuối cùng bao giờ
cũng thuộc về phía chính nghĩa. Điều này đã được chứng minh rất rõ ràng qua
lịch sử chống ngoại xâm của nhiều dân tộc , trong đó có dân tộc Việt Nam, một
dân tộc vì những điều kiện ngẫu
nhiên luôn phải đối kháng với những kẻ
khổng lồ. Bất đắc dĩ mới phải chiến đấu, lại càng bất đắc dĩ để chiến đấu với
tên khổng lồ. Nhưng chắc rằng nhân dân
Việt Nam biết mình phải làm gì và làm như thế nào để chiến thắng.
Dưới đây xin đính kèm môt tài liệu nói về Công ước UNCLO có liên quan như thế nào trong trường hợp của VN để bạn đọc tiện tham khảo:
Báo Tổ quốc: Công ước Luật Biển năm 1982 xác định quy chế pháp lý của
các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia ven biển.
Theo Công ước Luật Biển này, quốc gia ven biển có các vùng biển là nội
thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Công ước bao gồm 320 điều
khoản, 9 phụ lục. Công ước cho phép các quốc gia mở rộng chủ quyền quốc
gia ra biển, và biến một phần tài sản chung của nhân loại thuộc về quốc
gia mình. Đây là điều có lợi cho một quốc gia ven biển. Lấy ví dụ Biển
Đông, xét trường hợp Việt Nam, quốc gia ven biển kẻ một đường cơ sở về
mặt kỹ thuật, dựa trên đường cơ sở để xác định các vùng biển bao gồm nội
thủy nằm sát ở bờ biển bên trong đường cơ sở. Từ đường cơ sở, sẽ tính
vùng lãnh hải bao gồm 12 hải lý, nếu kéo dài vùng lãnh hải thêm 12 hải
lý nữa còn được gọi là vùng tiếp giáp lãnh hải. Bắt đầu tính từ đường cơ
sở sẽ kéo dài 200 hải lý để mở rộng ra tới vùng đặc quyền kinh tế. Tiếp
giáp trực tiếp với vùng đặc quyền kinh tế sẽ là vùng biển quốc tế hay
vùng biển cả đại dương. Dưới mực nước biển, tính từ bờ biển các quốc gia
ven biển mặc nhiên được công nhận quyền chủ quyền quốc gia với việc mở
rộng thềm lục địa 200 hải lý, trong trường hợp thềm lục địa kéo dài hơn
thì có thể tới 370 hải lý. Về nguyên tắc, nội thủy và lãnh hải là hai
vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển. Vùng tiếp giáp lãnh
hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa là ba vùng biển thuộc quyền
chủ quyền của quốc gia ven biển. Còn lại vùng biển cả ngoài phạm vi ấy
là biển tự do, không một quốc gia nào có quyền xác lập chủ quyền đối với
bất cứ bộ phận nào của biển.
Nội thủy là tiếp giáp với bờ biển và nằm phía trong đường
cơ sở. Tại nội thủy, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt
đối như đối với lãnh thổ đất liền của mình.
Nội thủy là toàn bộ vùng biển tiếp giáp với bờ biển từ bên
trong của đường cơ sở bao gồm các vùng nước cảng biển, các vũng tàu, cửa
sông, các vịnh và các đảo bên trong đường cơ sở. Các quốc gia ven biển
có chủ quyền không chỉ với vùng nước mà cả vùng trời, vùng đáy biển và
vùng đất dưới đáy biển, tức là quyền chủ quyền được mở rộng trên mọi
hướng. Tại đây, quốc gia ven biển có chủ quyền tuyệt đối như là có chủ
quyền trên đất liền.
Lãnh hải là vùng biển nằm bên ngoài đường cơ sở có chiều rộng tối đa 12 hải lý (trước năm 1958 thì lãnh hải chỉ có ba hải lý). Tại đây các quốc gia ven biển có chủ quyền của mình. Tuy nhiên, tính chủ quyền ở đây không được tuyệt đối như
trong nội thủy bởi vì trong lãnh hải của quốc gia ven biển, tàu thuyền
của các quốc gia khác được quyền qua lại không gây hại và cần xin phép. Các
quốc gia ven biển có thẩm quyền trên biển về phòng thủ quốc gia, hoạt
động cảnh sát trên biển, đánh thuế quan, đánh cá, khai thác tài nguyên
thiên nhiên, đấu tranh chống ô nhiễm môi trường và quy định hành lang để tàu thuyền đi qua. Tại đây vẫn có thể dựa trên nguyên tắc lấy đất liền làm cơ sở để xác định lãnh hải.
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm phía ngoài lãnh hải và có chiều rộng 200
hải lý tính từ đường cơ sở (vì lãnh hải 12 hải lý, nên thực chất vùng
đặc quyền kinh tế có 188 hải lý). Trong vùng đặc quyền kinh tế của mình,
quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật ở đó và đối với các hoạt động khác
như sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió. Quốc gia ven biển có
quyền tài phán đối với việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các
thiết bị, công trình; nghiên cứu khoa học biển; bảo vệ và giữ gìn môi
trường biển. Việc các quốc gia khác tới đây với mục đích khai thác
kinh tế là không được phép, chỉ có quốc gia ven biển đó mới có quyền
khai thác kinh tế ở đó.
Bên cạnh đó, Công ước cũng quy định rõ ở trong vùng đặc
quyền kinh tế của quốc gia ven biển, các quốc gia khác có một số quyền
như quyền tự do hàng hải và quyền tự do hàng không ở vùng trời trên vùng
đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển.
Trong vùng đặc quyền kinh tế còn có một vùng biển với
chiều rộng 12 hải lý gọi là vùng tiếp giáp lãnh hải. Trong vùng biển đặc
thù này các quốc gia ven biển có quyền thực hiện sự kiểm soát cần thiết
nhằm mục đích ngăn ngừa và trừng trị các vi phạm xảy ra trong lãnh hải
của quốc gia đó.
Thềm lục địa là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải
của quốc gia ven biển với chiều rộng tối thiểu là 200 hải lý (kể cả khi
chiều rộng thực tế của thềm lục địa thực tế hẹp hơn 200 hải lý). Nếu
chiều rộng thực tế của quốc gia ven biển rộng hơn 200 hải lý thì quốc
gia đó có thể mở rộng thềm lục địa của mình đến tối đa 350 hải lý hoặc
không quá 100 hải lý kể từ đường đẳng sâu 2.500 m. Tuy nhiên, để có thể
mở rộng thềm lục địa quá 200 hải lý, quốc gia ven biển liên quan phải
trình Ủy ban Thềm lục địa của Liên hợp quốc báo cáo quốc gia kèm đầy đủ
bằng chứng khoa học về địa chất và địa mạo của vùng đó. Thực hiện quyền
này, vào tháng 5-2009, Việt Nam đã trình Liên hợp quốc hai báo cáo quốc
gia xác định ranh giới thềm lục địa của ta ngoài 200 hải lý. Báo cáo
phía bắc nước ta tự nộp, còn Báo cáo khu vực phía nam Biển Ðông ta phối
hợp với Malaysia cùng xây dựng và cùng trình Liên hợp quốc.
Công ước Luật Biển năm 1982 quy định trong thềm lục địa
của mình, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò,
khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên ở đó. Ðặc biệt, Công ước nêu rõ
quyền chủ quyền đối với thềm lục địa mang tính đặc quyền ở chỗ nếu quốc
gia đó không thăm dò, khai thác thì cũng không ai có quyền khai thác tại
đây nếu không được sự đồng ý của quốc gia ven biển.
Như vậy, các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982 về
phạm vi cũng như quy chế pháp lý các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền
chủ quyền của quốc gia ven biển rất rõ ràng và minh bạch. Phù hợp với
Công ước các quốc gia ven biển có các quyền hợp pháp và chính đáng đối
với mỗi vùng biển của mình. Khi thực hiện các quyền đó của mình, mỗi
quốc gia ven biển có nghĩa vụ tôn trọng các quyền tương tự của các quốc
gia ven biển khác. Ðó là yêu cầu khách quan của trật tự pháp lý trên
biển mà cộng đồng quốc tế đã cùng nhau xây dựng nên. Các quyền và nghĩa
vụ theo các cam kết quốc tế luôn luôn phải song hành. Không có gì có thể
biện minh cho việc một quốc gia thành viên xâm phạm các quyền chính
đáng của một quốc gia thành viên khác theo Công ước Luật Biển năm 1982.
Ðáy biển quốc tế (hay còn gọi là đáy đại dương) là vùng đáy biển và lòng
đất dưới đáy biển nằm bên ngoài thềm lục địa của quốc gia ven biển. Công
ước Luật Biển năm 1982 quy định đáy biển quốc tế là tài sản chung của
nhân loại và không một quốc gia nào có quyền đòi hỏi chủ quyền hay các
quyền chủ quyền ở đáy biển quốc tế, kể cả tài nguyên ở đó. Tức là về quy
chế pháp lý, ở đáy biển quốc tế các quốc gia không có quyền tự do khai
thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên như đối với vùng biển quốc tế. Căn
cứ quy định của Công ước, các quốc gia thành viên đã thành lập Cơ quan
Quyền lực quốc tế về Ðáy đại dương để điều chỉnh mọi hoạt động liên quan
đến đáy biển quốc tế.
Chế độ pháp lý của đảo: Công
ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 quy định về đảo ở Điều 121,
nhưng không có quy định riêng về quần đảo. Theo cách hiểu thông thường,
đảo là một vùng đất có nước bao quanh. Theo định nghĩa đảo là một vùng
đất tự nhiên có nước bao bọc khi thủy triều lên vùng đất này vẫn nổi
trên mặt nước. Khi thủy triều rút thì vùng đất đó nhô lên nhưng khi thủy
triều dâng nếu vùng đất đó biến mất thì không thể coi đó là đảo. Nghĩa
là đảo phải luôn nổi trên mặt nước (khoản 1 Điều 121 Công ước). Các đảo
có thể nằm trong sông hồ, các đảo nằm ngoài biển được gọi là hải đảo, có
thể là các đảo hoặc đảo đá, đảo san hô.
Điểm quan trọng trong Công
ước là cho phép quy chế đảo ngang hàng với quy chế đất liền. Việt Nam ở
vào vị trí một quốc gia có biển rộng, bờ biển dài, nhiều đảo và quần
đảo. Nếu một vùng đất được hưởng quy chế đảo tương đương quy chế đất
liền thì nó được hưởng đầy đủ các quyền như trên đất liền, tính từ bờ
đảo được mở rộng thêm nội thủy, vùng lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, vùng
đặc quyền kinh tế, và thềm lục địa, với điều kiện vùng đất đó phải tuân
thủ đầy đủ các điều kiện do Công ước đặt ra theo khoản 2 Điều 121 Công
ước.
Về quy chế các bãi đá, thông
thường vẫn còn được gọi là đảo đá thì không được hưởng các quy chế của
đảo, chỉ có thể có được vùng lãnh hải 12 hải lý. Theo khoản 3 Điều 121
Công ước ghi rằng những đảo đá không thích hợp cho con người đến ở hoặc
có sinh hoạt kinh tế riêng chỉ có được vùng lãnh hải, không có quyền mở
rộng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Vấn
đề này gây tranh cãi lớn trên thế giới để xác định khi nào một bãi đá
được coi là đảo. Sự tranh cãi ở hai điểm, thứ nhất là thế nào là không
thích hợp cho con người đến ở và thứ hai là hiểu thế nào là đời sống
kinh tế riêng. Trong những năm gần đây, các quốc gia đã tranh thủ thời
gian để ra đảo bỏ ra nhiều tiền đổ đá, xây nhà ở, xây sân bay và tạo ra
các đời sống kinh tế riêng, tạo điều kiện du lịch, để được coi là đảo.
Việt
Nam đã ký kết và trở thành thành viên thứ 63 của Công ước Luật Biển.
Theo luật pháp quốc tế về biển, đặc biệt là Công ước Liên Hiệp Quốc về
Luật biển năm 1982 và các Tuyên bố, văn bản quy phạm pháp luật của nhà
nước Việt Nam được ban hành trong mấy chục năm gần đây, Việt Nam có chủ
quyền và quyền tài phán đối với những vùng biển và hải đảo của mình với
các chế độ pháp lý khác nhau. Theo Công ước Luật Biển 1982, Việt nam
được phép mở rộng chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia tại Biển Đông,
bao gồm các vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, thềm lục
địa dưới biển tới 370 hải lý. Điều này có nghĩa là, với chiều dài bờ
biển của Việt nam là 3260 km, Việt Nam được mở rộng lãnh hải quốc gia
đến 1 triệu km2. Việt Nam trở thành một quốc gia biển./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Hoan nghênh mọi ý kiến thảo luận, nhưng làm ơn viết tiếng Việt có dấu và không chửi tục.