Chủ Nhật, 16 tháng 12, 2012

Trung Quốc ẩn núp phía sau màu sơn trắng

Hiền Trang chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Theo Strategy Page
Ngày 11 tháng 12, 2012
Gần đây nhiều nước đã cực lực phản đối thông báo của Trung Quốc về các quy định mới, sẽ bắt đầu từ ngày 01 tháng Một tới đây, bao gồm việc hải quân Trung Quốc sẽ tuần tra và hộ tống hoặc trục xuất tàu nước ngoài trong vùng Biển Đông. Nhưng Trung Quốc đã rất thông minh về cách ứng xử của họ đối với việc này. Trung Quốc không có kế hoạch phủ lớp sơn màu xám lên các tàu hải quân để ngăn chặn và quấy rối các tàu nước ngoài, ngược lại, họ đã sử dụng lớp sơn trắng của các tàu tuần duyên. Màu sơn trắng và các sọc đỏ dọc trên thân tàu được quốc tế công nhận là màu sơn của tàu tuần duyên. Điều này ít nhất là không mang lại nhiều đe dọa so với các tàu chiến. Trung Quốc cũng kêu gọi các tàu dân sự (trong đó chủ sở hữu của các tàu này hiểu rằng từ chối giúp đỡ không phải là cách mà họ có thể lựa chọn) nhập cuộc ngăn chắn các tàu nước ngoài. Vì vậy, nếu các tàu chiến nước ngoài nổ súng để đe dọa và xua đuổi các tàu quấy rối này thì ngay lập tức họ trở thành những kẻ xấu.
Trung Quốc có khoảng ba tàu tuần duyên hạng nặng 1.500 tấn (được biết đến với tên gọi “máy cắt” theo cách nói của người Mỹ) đang được xây dựng, một phần trong số 36 chiếc trong đơn đặt hàng. Tất cả các tàu này thuộc Cơ quan Giám sát Biển Trung Quốc (China Marine Surveillance – CMS). Bảy trong số các tàu mới này có kích thước của tàu hộ tống (1.500 tấn), trong khi phần còn lại là các số nhỏ hơn (15 chiếc có trọng lượng 1.000 tấn và 14 chiếc có trọng lượng 600 tấn). Trong một thời gian dài, việc tuần tra ven biển được thực hiện bởi lược lượng hải quân. Tuy nhiên, trong một thập kỷ qua, lực lượng tuần duyên đã có được nhiều tàu mới hơn. Kế hoạch giao 36 chiếc tàu cho CMS sẽ được hoàn thành trong vòng hai năm tới. Trong khi đó, Trung Quốc đang chuyển giao lại các loại tàu chiến nhỏ hơn (tàu hộ tống loại nhỏ) cho các cơ quan thực thi pháp luật khác nhau chịu trách nhiệm về an ninh biển. Ngày 1 tháng Một tới đây Trung Quốc sẽ chính thức ra lệnh kiểm soát các bờ biển tại các đảo không có người ở, cũng như các bãi đá ngầm và rạn san hô ở khu vực Biển Đông. Điều này sẽ làm cho rất nhiều các khu vực được xem là thuộc vùng biển quốc tế, được Trung Quốc đưa vào chủ quyền của nước này. Và hiện Trung Quốc đang cần thêm tàu để có thể thực hiện những hoạt động này.
CMS là một trong năm cơ quan chịu trách nhiệm thực thi pháp luật dọc theo bờ biển của Trung Quốc. Các cơ quan khác bao gồm Cảnh sát biển, một lực lượng quân sự có các tàu mang lớp sơn trắng liên tục tuần tra các bờ biển. Cơ quan Quản lý An toàn Hàng hải chuyên phụ trách tìm kiếm và cứu hộ dọc theo bờ biển. Cơ quan Thực thi Chính sách Thuỷ sản phụ trách việc đánh bắt cá trái phép. Và Cơ quan Hải quan chuyên chống buôn lậu. Trung Quốc có nhiều cơ quan tuần tra duyên hải bởi vì nước này theo chế độ độc tài cộng sản, việc có nhiều cơ quan an ninh làm các nhiệm vụ tương tự nhau để họ có thể kiểm soát lẫn nhau.
CMS là cơ quan mới nhất được thành lập vào năm 1998. Cơ quan này thực sự là lực lượng cảnh sát Quản lý đại dương của Trung Quốc, có trách nhiệm khảo sát các vùng biển mà Trung Quốc có đặc quyền kinh tế (vùng đặc quyền kinh tế hoặc – exclusive economic zone) và thực thi các pháp luật về môi trường ở các vùng này. Chương trình xây dựng tàu mới này sẽ mở rộng sức mạnh của CMS từ 9.000 đến 10.000 nhân viên. CMS hiện đã có 300 tàu thuyền và 10 máy bay.
Ngoài ra, CMS thu thập và phối hợp các dữ liệu hoạt động giám sát biển tại mười thành phố lớn và 170 quận ven biển. Khi có các cuộc đối đầu vũ trang tại các đảo tranh chấp ở Biển Đông, CMS là các tàu tuần tra thường xuyên được mô tả là “tàu chiến của Trung Quốc”. CMS và bốn “cơ quan bảo vệ bờ biển” khác của Trung Quốc có hàng trăm tàu cỡ lớn (hơn 1.000 tấn, trong đó có một số có trọng lượng hơn 3.000 tấn) và hàng ngàn tàu tuần tra nhỏ hơn. Trung Quốc hiện đang xây dựng cơ sở hạ tầng ở các đảo có tranh chấp để có thể phục vụ cho các tàu tuần tra nhỏ loại này. Cần lưu ý rằng nhiều trong số các tàu tuần tra này được trang bị các vũ khí hạng nặng (như tên lửa, ngư lôi) nêu có chiến tranh xảy ra.
Vì vậy, Trung Quốc thường xuyên tuần tra và tích cực hơn tại các vùng biển mà họ có đặc quyền kinh tế. Luật pháp quốc tế (Hiệp ước Biển năm 1994) công nhận vùng biển cách đất liền 22 kilomet và cho phép nước nào có chủ quyền được kiểm soát khu vực này. Điều đó có nghĩa rằng các tàu [nước ngoài] không được phép đi vào “vùng lãnh hải” nếu như không phép của nước có chủ quyền. Tuy nhiên, các vùng biển cách đất liền 360 kilomet được xem là khu vực đặc quyền kinh tế (EEZ). Các nước có chủ quyền ở vùng đặc quyền kinh tế này có thể kiểm soát các tàu đánh cá và những chất được chiết xuất từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên (chủ yếu là dầu khí) từ đáy biển. Tuy nhiên, chủ sở hữu vùng này không thể ngăn cấm quyền tự do qua lại đối với các tàu nước ngoài hoặc lắp đặt các đường ống và cáp thông tin. Trong khi đó thì phía Trung Quốc đã lên tiếng tuyên bố rằng các tàu nước ngoài đã tiến hành các hoạt động gián điệp bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế của họ. Tuy nhiên, Hiệp ước năm 1994 đặc biệt không nói gì về những vấn đề như vậy. Trung Quốc chỉ đơn giản thực hiện những gì họ đã làm trong nhiều thế kỷ qua, cố gắng áp đặt ý chí của họ lên các nước láng giềng hay bất cứ nước nào mạo hiểm đi vào những gì mà Trung Quốc xem là khu vực thuộc quyền kiểm soát của họ.
Trong hai thế kỷ vừa qua Trung Quốc đã bị ngăn cản thực hiện các “quyền truyền thống” trong vùng biển gần đó vì sức mạnh vượt trội của các lực lượng hải quân nước ngoài (đầu tiên là súng pháo cannon của châu Âu, sau đó vào thế kỷ 19 là tàu chiến thép mới từ Nhật Bản). Tuy nhiên, kể từ khi những người cộng sản lên chiếm quyền 60 năm trước đây, Trung Quốc đã sử dụng bạo lực để tái khẳng định lại quyền kiểm soát của họ trong khu vực (trong nhiều thế kỷ) mà họ xem là một phần của “Vương quốc Trung Tâm – Middle Kingdom” (hoặc Trung Quốc, như là trung tâm “của thế giới”).
Hiện nay Trung Quốc đặc biệt quan tâm quần đảo Trường Sa ở gần đó, một nhóm đảo gồm khoảng 100 đảo nhỏ, rạn san hô, và các bãi đá ngầm có tổng cộng khoảng 5 cây số vuông đất, nhưng bao gồm 410.000 cây số vuông diện tích biển ở Biển Đông. Ngoài có tiếng là một ngư trường lớn nhất thế giới, các đảo này còn được cho là có nguồn dầu mỏ và khí đốt rất lớn bên dưới đáy biển. Một số quốc gia khác cũng đã lên tiếng tuyên bố chủ quyền. Hiện có khoảng 45 trong số các hòn đảo tại đây được các nhóm quân sự chiếm đóng. Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với tất cả các hòn đảo tại đây nhưng họ chỉ chiếm đóng được 8 đảo, Việt Nam đã chiếm hoặc đánh dấu 25 đảo, Philippines chiếm 8 đảo, Malaysia có 6 đảo, và Đài Loan chiếm duy nhất 01 đảo.
Trung Quốc muốn sử dụng các tàu phi quân sự hoặc bán quân sự (giống như tàu của CMS) để quấy rối các tàu nước ngoài nhằm đuổi họ ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế hay các khu vực có tranh chấp. Cách tiếp cận này ít có khả năng châm ngòi cho một cuộc xung đột vũ trang và dễ dàng hơn cho phía Trung Quốc tuyên bố họ là nạn nhân. Việc này diễn ra như một vỡ kịch đối với các nước láng giềng khi Trung Quốc tuyên bố họ là nạn nhân. Đó là bởi vì các quy định mới dưới luật pháp quốc tế tại các khu vực ngoài khơi bở biển của Philippines, Malaysia, Đài Loan, Brunei và Việt Nam không công nhận thuộc chủ quyền của Trung Quốc như cách mà Trung Quốc đang làm. Ấn Độ và Hoa Kỳ đã công bố rằng họ sẽ không tuân thủ các quy định trên [của Trung Quốc] và mong rằng các tàu chiến của Ấn Độ và Hoa Kỳ không bị trở ngại khi di chuyển qua khu vực Biển Đông vào năm 2013 tới đây.
© Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC 2012


Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012

Khi học giả Trung Quốc nói thật(*)

(*) Mình có một blog từ thời sơ khai nhưng số phận hẩm hiu đã phải mấy lần "chuyển nhà" từ YahooPlus rồi Yahoo Vietnam... Giờ  YahooVietnam sắp sập, đành chọn lọc một số bài vỡ đưa về lưu trong Bách Việt. Riêng bài viết này xuất bản cuối năm 2010 nhưng vẫn còn nguyên giá trị thời sự đến ngày hôm nay khi âm mưu  độc chiếm Biển Đông của Bắc Kinh đang trong giai đoạn nước rút, xin mạn phép đăng lại để bạn đọc tham khảo. (Bách Việt)

Bản đồ minh họa các "chư hầu" thời  Vương Tiều 
Trước tình hình tranh chấp Biển Đông ngày càng căng thẳng, tiếp theo cuộc Hội thảo quốc tế về Biển Đông lần thứ nhất (năm 2009), cuộc Hội thảo lần thứ hai có tên “Biển Đông: Hợp tác vì An ninh và Phát triển Khu vực” do Học viện Ngoại Giao và Hội luật gia Viêt Nam đứng ra tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 10 đến 12/11/2010. Hội thảo lần này được dư luận trong và ngoài nước rất quan tâm không phải  vì nó diễn ra ngay sau Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 27 mà vì tình hình Biển Đông đang nóng lên trước hành đồng xâm lấn biển đảo trắng trợn của phía Trung Quốc. 

Bài viết ngắn này không nhằm trình bày về cuộc hội thảo mà chỉ nêu lên một hiện tượng cho thấy người Trung Quốc đang đi theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan rất nguy hiểm. Không ai khác mà chính bộ máy cầm quyền nước này đã và đang cố tình "hâm nóng" tinh thần dân tộc cực đoan Đại Hán đã có từ thời các Hán đế, trong đó Hán tộc được coi là "con trời" trong khi tất cả các dân tộc khác chỉ là man di mọi rợ, các nước láng giềng chỉ là "phiên thuộc" của Vương Triều . Cách tư duy này thực sự  nguy hiểm  không kém gì tư tưởng "đại Đức" của phát xít Hit-le thời kỳ trước Thế chiến II , và nếu không bị ngăn chặn rất có thể sẽ đưa thế giới vào một cuộc chiến tranh mới.  
 
Ngay trong ngày đầu của Hội thảo, dư luận đã ngỡ ngàng trước những cách lập luận thiên lệch không giống ai của các đại biểu Trung Quốc. Một vị tiến sĩ tên là Vương Hàn Lĩnh (của Viên Luật pháp Quốc tế thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc) đã trâng tráo tuyên bố : “Nên nhớ rằng cho đến năm 1885, Việt Nam vẫn là thuộc quốc của Trung Quốc”. Cũng chính là  vị tiến sĩ này trước đó đã giảng giải một cách đầy tự tin rằng  “Anh có thể tự lựa chọn cách giải quyết tranh chấp mà anh cho là tốt nhất, có thể phân định được lãnh hải bằng cách này hay cách khác, nhưng chắc chắn là anh không thể tự lựa chọn được hàng xóm. Hai nước Trung Quốc và Việt Nam mãi mãi là hàng xóm, qua biết bao thế hệ và còn tiếp tục với rất nhiều thế hệ nữa”....và không quên đe dọa : “Nếu không chọn cách giải quyết như tôi vừa nêu, các anh sẽ phải hứng chịu các xung đột bằng vũ lực, hoặc thậm chí chiến tranh. Điều này không hề tốt cho tương lai”. (xem thêm tại www.tuanvietnamnet ngày 11/11/2010).
           
Thì ra, lâu nay thế giới dường như đã quên cơn ác mộng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan Đại Hán. Nhân dân Việt Nam cũng đã phần nào bỏ qua nỗi uất hận trong quá khứ , kể cả cuộc chiến tranh biên giới 1979 với tâm trạng bán tín bán nghi về sự "cải tà quy chính" của ông bạn láng giềng đang chuyển hóa từ chế độ phong kiến lạc hậu sang thế giới đại đồng (!) trong khi cả thế giới quen nghĩ về Trung Quốc như một nước đông dân kém phát triển như con "hổ giấy" vậy!. Ít ai tin rằng cái quốc gia đông dân và nghèo đói này không lúc nào quên ấp ủ giấc mộng bá chủ đã có từ hàng ngàn năm trước. Giấc mộng đó mạnh đến nỗi nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình trước khi chết đã phải căn dặn con cháu phải biết "ẩn minh chờ thời", tức là  đừng quá nóng vội mà bộc lộ dã tâm quá sớm sẽ làm hỏng mưu đồ bá vương!  

Tò mò trước những lập luận  cuồng tín của các nhà nghiên cứu Trung Quốc, tôi  thử tìm trên mạng thì thấy  tin nói về kết quả của một cuộc khảo sát  vừa mới được hãng thông tấn  Mỹ- Global Times thực hiện, trong đó lấy ý kiến của hơn 1.300 người dân tại 6 tỉnh thành lớn của Trung Quốc là Bắc Kinh, Quảng Châu, Thành Đô, Trường Sa, Tây An và Thẩm Dương về giải pháp cho vấn đề tranh chấp chủ quyền Biển Đông. Kết quả khảo sát cho thấy, trong hơn 90% người tham gia trả lời, trong đó 39,8% cho rằng phải chiến đấu để khẳng định chủ quyền; 35,3% cho rằng nên đặt vấn đề tranh chấp chủ quyền qua một bên và cùng nhau phát triển trong khi vẫn tiếp tục lên tiếng khẳng định chủ quyền; chỉ có 18,3% đồng ý xác định lại biên giới lãnh hải cùng với các quốc gia hữu quan. Cuộc thăm dò cũng cho thấy đa số người dân Trung Quốc xếp Việt Nam là nước kẻ thù số 3 cần đề phòng sau Mỹ và Nhật Bản!

Khi được hỏi lý do tại sao, một số người  cho rằng có thể việc giáo dục lịch sử cũng như tình trạng kiểm soát thông tin tại Trung Quốc đã dẫn đến nhận xét trên…Vì theo họ, không ít người dân Trung Quốc khi còn ngồi trên ghế nhà trường, họ đã được giáo dục rằng chủ quyền của hai quần đảo Nam Sa và Tây Sa (Trường Sa và Hoàng Sa) là thuộc về Trung Quốc, nhưng bị Việt Nam và các nước khác chiếm đoạt (!?).

Bình luận về kết quả khảo sát nói trên, Tiến sĩ  June Teufel Dreyer, Giảng viên Khoa học Chính Trị của trường đại học Miami  cho rằng "Sách của Trung Quốc đã phá hỏng lịch sử một cách nặng nề bởi vì Việt Nam đang nắm giữ Hoàng Sa vào thời điểm mà Trung Quốc dùng bạo lực để chiếm lấy nó vào khoảng những năm 1974 – 1975. Vì vậy, tôi không hiểu vì sao mà người ta có thể nói rằng các quần đảo trên là của Trung Quốc. Tuy nhiên, nhiều người đã đọc sách giáo khoa của Trung Quốc thì nói rằng có nhiều điều không hẳn là đúng sự thật".      


Tiến sĩ Dreyer cũng nhận xét: “Mặc dù mọi cuộc khảo sát đều mang tính tương đối, nhưng trước con số khá cao mang tính thể hiện sự đồng lòng của người dân Trung Quốc đối với các quyết định của chính quyền khiến người ta không khỏi đặt câu hỏi về sự thành công của chính sách giáo dục và sự kiểm soát thông tin hữu hiệu của Bắc Kinh trong mục tiêu phục vụ cho chính trị. Vấn đề ở chỗ, hy sinh dân trí để đạt được mục tiêu chính trị lại không phải là lựa chọn của một xã hội dân chủ và văn minh”.
          
Thì ra Tiến sĩ Vương Hàn Lĩnh và các học giả Trung Quốc đã nói rất thật về tình trạng chủ nghĩa dân tộc cực đoan trong xã hội Trung Quốc đương đại. May thay sự nói thật của họ dù sao cũng giúp cảnh báo thế giới về nguy cơ của  chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán đang đến gần. 
 

Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

Viện Toán học (VN) có Viện phó mới là giáo sư trẻ nhất năm 2012

Theo tin V-Express 11/12/2012,  

 Được các viện nghiên cứu lớn ở Italia, Đức, Mỹ... mời làm việc với chế độ đãi ngộ và lương bổng cao nhưng TSKH Phùng Hồ Hải vẫn về nước làm việc và được bổ nhiệm làm Viện phó Viện Toán học.

TSKH Phùng Hồ Hải.
TSKH Phùng Hồ Hải. Ảnh: Viện Toán.
Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước vừa tổ chức kỳ họp thứ 10 xét đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư 2012. Sau khi thẩm định, bỏ phiếu kín, có 41 ứng viên được công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, một ứng viên được đề nghị công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư đặc cách; 426 ứng viên được công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh phó giáo sư, một ứng viên được đề nghị công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh phó giáo sư đặc cách.
Hai nhà khoa học được xét đặc cách là ông Phùng Hồ Hải, Viện phó Viện Toán học (sinh năm 1970, xét đặc cách chức danh giáo sư) và Phạm Hữu Anh Ngọc, giảng viên ĐH Quốc tế, ĐHQG TP HCM (xét đặc cách chức danh phó giáo sư).
Trao đổi với VnExpress, giáo sư Trần Văn Nhung, Tổng thư ký Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước cho biết, Hội đồng vừa làm tờ trình gửi Thủ tướng về việc đề nghị cho phép công nhận đặc cách đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư và phó giáo sư.
Theo GS Nhung, PGS Phùng Hồ Hải là nhà toán học trẻ, có nhiều công trình được đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế danh tiếng trên thế giới, có thành tích khoa học xuất sắc. Ông được mời làm việc tại các Viện Nghiên cứu Toán - Lý lớn như: Trung tâm Vật lý lý thuyết quốc tế ở Trieste (Italia), Viện Max Planck về toán ở Bonn (Đức), Viện Nghiên cứu các khoa học về toán tại Berkeley (Mỹ).
Ông Hải từng được nhận giải thưởng Baedeker dành cho luận án tiến sĩ khoa học xuất sắc nhất của Đức năm 2005, Giải thưởng Von Kaven của Quỹ DFG (Đức) năm 2006, Học bổng Heisenberg các năm 2005-2010, được Viện Hàn lâm khoa học thế giới thứ ba (TWAS) bầu làm Viện sĩ trẻ, đại diện cho khu vực Đông Á, Đông Nam Á và Thái Bình Dương nhiệm kỳ 2009-2013.
PGS Hải từng giảng dạy một số năm tại ĐH Essen (Đức), nhưng chủ yếu dành thời gian giảng dạy tại Viện Toán học và nhiều trường đại học khác tại Việt Nam. Ông là Phó Tổng Thư ký Hội Toán học Việt Nam, Phó tổng biên tập tạp chí Acta Math Vietnamica, Phó viện trưởng Viện Toán học (từ tháng 7/2012).
"Tuy có thể làm việc và sống ở nước ngoài với chế độ đãi ngộ, lương bổng cao, nhưng PGS Phùng Hồ Hải vẫn quyết tâm làm việc và sống tại Việt Nam. Vì vậy, dù chưa đủ một số tiêu chuẩn bổ nhiệm giáo sư nhưng hội đồng chức danh giáo sư nhà nước, các nhà khoa học vẫn đánh giá rất cao", GS Nhung cho hay.
Còn tiến sĩ Phạm Hữu Anh Ngọc có thành tích nghiên cứu khoa học xuất sắc, đã công bố 45 bài báo khoa học, trong đó 30 bài đăng ở tạp chí SCI và SCI-E (hàng đầu thế giới), có tổng số điểm công trình gấp 6 lần điểm quy định. Ông đã được nhận học bổng Humboldt của CHLB Đức - một học bổng danh giá dành cho các nhà khoa học trẻ (không quá 40 tuổi) có triển vọng.
Khi được Thủ tướng phê duyệt, ông Hải sẽ là giáo sư trẻ nhất năm 2012, còn phó giáo sư trẻ nhất là Nguyễn Khánh Diệu Hồng, công tác ở Viện Kỹ thuật Hóa học, ĐH Bách khoa (sinh năm 1981). 
Phóngviện: Hoàng Thùy



Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2012

Vài suy nghĩ sau tuyên bố của Đô đôc Samuel Locklear


Đài VOA ngày 7/12/2012 dẫn nguồn tin của Bộ Quốc Phòng Mĩ  (US Department of Defense PR/ Freebeacon.com) đưa tin về tuyên bố báo chí của Đô đốc Samuel Locklear, Tư lệnh Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương của Mĩ ngày 6/12 với tiêu đ "Mỹ từ chối hỗ trợ đồng minh Châu Á trong tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc".Tiếp ngay bên dưới là lời dẫn đề nêu rõ:      
Đô đốc Samuel Locklear 
"Hoa Kỳ không hỗ trợ các đồng minh và nước bạn quan trọng trong khu vực Châu Á có dính líu tới các tranh chấp chủ quyền lãnh hải với Trung Quốc giữa bối cảnh các hành động gây hấn của Bắc Kinh ở Biển Đông đang leo thang" .
(Xem tin đầy đủ tại đây http://www.voatiengviet.com/content/my-tu-cho-ho-tro-dong-minh-chau-a-trong-tranh-chap-bien-dong-voi-trung-quoc/1560465.html

Bản tin thật ngắn gọn, nhưng có lẽ đã cho ta một lời kết về câu chuyện rất dài mà cả thế giới đã chăm chú theo dõi bấy lâu nay -.đó là chờ xem Mĩ sẽ hành động như thế nào trước âm mưu và hành động xâm lược  trắng trợn của nước Trung Quốc "đang trỗi dậy" đối với các quốc gia láng giềng nhỏ yếu hơn xung quanh. Trước mối hiểm họa của chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán, các quốc gia khu vực dù không muốn vẫn phải chấp nhận sự trở lại của Mĩ và mong đợi cường quốc số I này  đóng vai trò như một hiệp sĩ đứng ra bảo vệ cho họ. Về phần mình nước Mĩ đường như chợt nhận ra một cơ hôi để kèm chế đối thủ, nhưng đồng thời cũng nhận ra những hạn chế của bản thân, nhất là trước bối cảnh khủng hoảng kinh tế-tài chính kéo dài và những cam kết phiền toái khác trên toàn cầu. Cũng như xu hướng chung của khu vực, người Việt Nam trong và ngoài nước, dân thường và chính khách, ít nhiều đã  tin rằng Mĩ sẽ không khoanh tay đứng nhìn Trung Quốc độc chiếm Biển Đông. Thậm chí không ít  người tin rằng Mĩ sẽ nhân cơ hội này giáng cho Bắc Kinh một đòn chí tử(!?) Tuy nhiên diễn biến tình hình ngày càng cho thấy không như vậy. Trước việc Mĩ đã không can thiệp gì trong vụ đụng độ Scarbourough giữa  Philipin-Trung Quốc, rồi vụ Senkaku giữa Nhật-Trung, dư luận đã bắt đầu nghi ngờ về vai trò hiệp sĩ của nước Mĩ. Mới đây giới quan sát đã bàn tán về hiện tượng "trầm lặng" của Tổng thống Obama tại Hội nghị cấp Cao Đông Á (EAS) tại Pnom Pênh tháng 11  trong khi phía Trung Quốc vẫn tiếp tục ngang ngược lấn lướt tại Biển Đông. Và bây giờ là lời tuyên bố của vị Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương.

Phải chăng cái gì đến đã đến. Lời tuyên bố mới này có thể được hiểu như một tuyên bố chính thức về lập trường của nước Mĩ, đó là  đứng ngoài cuộc tranh chấp chấp chủ quyền biển đảo giữa các quốc gia nhỏ yếu hơn với cường quốc Trung Quốc. Nói cách khác, Mĩ sẽ khoanh tay đứng nhìn các thế lực bành trướng Trung Quốc tác oai tác quái tại Biển Đông . Có lẽ chỉ còn một điều chưa hoàn toàn rõ ràng là Mĩ sẽ làm gì nếu một ngày kia tàu bè của bản thân nước Mĩ sẽ không được tự do qua lại vùng Biển Đông như họ đã từng được làm như vậy suốt thế kỷ qua. Rất có thể câu chuyện riêng tư này cũng sẽ được Bắc Kinh yêu cầu "thỏa thuận song phương Trung -Mĩ !"

Những ai có chút am hiểu về nước Mĩ, đặc biệt qua những chặng đường biến thiên trong lịch sử quan Mĩ-Trung, nhất là thời kỳ sắp kết thúc chiến tranh Việt Nam, sẽ không mấy ngạc nhiên trước kết cục nói trên.  Còn nhớ người Mĩ đã từng bỏ rơi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và để mất quần đảo Hoàng Sa như thế nào trong thời gian trước biến cố tháng 4/1975. Thực ra sự câu kết Mĩ -Trung đã bắt đầu từ cuộc gặp bí mật Thượng Hải 1972, chứ không phải đợi đến sau khi kết thức chiến tranh lạnh.  Nếu hiểu được sự thật này sẽ thấy rằng lời tuyên bố của Tư lệnh Thái Bình Dương mới đây chỉ là một sự tiếp nối có lo-gíc mà thôi. Đó là một vấn đề có tính chiến lược của nước Mĩ trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh mà trong đó nước Mĩ không sớm thì muộn buộc phải chia sẻ quyền lực với Trung Quốc.
                  
Là người Việt Nam, chúng ta không có gì để ngạc nhiên trước kết cục nói trên. Các cường quốc dù là Mĩ hay Trung Quốc chưa bao giờ thực sự là đồng minh lâu dài của các quốc gia độc lập dân tộc, nếu có chăng chỉ là tạm thời và có điều kiện. Sự nghiệp bảo vệ độc lập và  toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của mỗi quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào nội lực của mỗi nước. Lịch sử thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã chứng minh điều đó. Dĩ nhiên Việt Nam cũng không thể trông chờ hoặc phụ thuộc mãi mãi vào một cường quốc. Vẫn biết vai trò Mĩ rất quan trọng, nhưng bạn bè thiết thực của Việt Nam là những nước có cùng cảnh ngộ trong khu vực như Nhật Bản, Ấn Độ, Philipine, Hàn Quốc, ASEAN, Úc, Nga...  Nhớ lại thời đại phong kiến ít khả năng liên kết với quốc tế, người Việt Nam đã từng chiến thắng xâm lược Phương Bắc, huống chi trong thời đại toàn cầu hóa bạn bè có ở khắp nơi . Đối với Việt Nam , bí quyết thành công của mọi cuộc kháng chiến chống ngoại xâm chính là lòng tự tôn, tự cường dân tộc; sức mạnh để chiến thắng kẻ thù chính là khối đoàn kết toàn dân. Nếu không ghi nhớ bài học đơn giản này, sẽ không thể tin vào thắng lợi tất yếu của dân tộc. Người lãnh đạo nào không thấm nhuần bài học này thì nên từ bỏ vai trò lãnh đạo nếu không muốn bị nhân dân đào thải.

Trong việc chọn bạn/thù, Việt Nam nên học hỏi thêm bài học kinh nghiệm của Nhật bản, Hàn Quốc, chừng mực nào đó của Đài Loan và Hồng Kông. Bí quyết thành công của các nước và vùng lãnh thổ nói trên là phải giữ khoảng cách trong quan hệ với Đại lục. Bài học này cũng giải thích tại sao cùng một dân tộc, nhưng Bắc Triều Tiên mãi lạc hậu trong khi Nam Triều Tiên thì phát triển như vậy . Từ bài học này cho thấy, Việt Nam tuy không bao giờ nên chủ trương đối đầu, nhưng nhất quyết phải tách khỏi ảnh hưởng về "ý thức hệ" với  Trung Quốc. Chỉ khi nào thoát khỏi thế kèm cặp của Trung Quốc, Việt Nam mới có thể tận hưởng nguồn tri thức và khoa học-kỹ thuật tiên tiến của nhân loại để phát triển lên một tầm cao mới . Và phát triển là điều kiện để đảm bảo độc lập dân tộc. Nói cách khác, giữ khoảng cách thích hợp với Trung Quốc là thượng sách đối với Việt Nam. Thực tế cũng đã cho thấy trong thời kỳ 100 năm thuộc Pháp dù sao lãnh thổ và biển đảo của Việt Nam đã không mất vào tay Trung Quốc. Từ sau tháng Tám 1945, quan hệ Việt-Trung càng gần gũi bao nhiêu nguy cơ mất lãnh thổ càng lớn bấy nhiêu. Hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc đã nổ ra trong sự bất ngờ của Việt Nam và thế giới, qua đó biên giới phía Bắc đã bị gặm nhấm, mất quần đảo Hoàng Sa  và một phần quần đảo Trường Sa, hiện  đang có nguy cơ mất cả vùng đặc quyền kinh tế. Thực tế cũng cho thấy nền kinh tế Việt Nam đã từng có cơ hội  phát triển theo hướng hiện đại hóa ngay trong thời kỳ từ 1980- đầu những năm 2000 khi quan hệ Việt -Trung căng thẳng và lạnh nhạt. Nhưng từ khi bình thường hóa quan hệ,  máy móc cũ lỗi thời cùng hàng hóa, thiết bị kém chất lượng của Trung Quốc tràn vào bóp chết các cơ sở sản xuất hiện đại mới manh nha của Việt Nam. Đó là chưa kể những âm mưu phá hoại ngầm của ông bạn "4 tốt" từ việc chào thầu thấp để tranh giành các dự án khai thác boxit Tây Nguyên, các nhà máy nhiệt điện, chiếm dụng các vùng đất, rừng, mặt biển trọng yếu v.v...gây nhiều hậu quả và khó khăn cho phía Việt Nam.

Tóm lại, dù  trong bất cứ tình huống nào, có hay không sự can thiệp của Mĩ trong cuộc tranh chấp Biển Đông, thì Việt Nam vẫn kiên quyết đấu tranh bảo về chủ quyền biển đảo của mình vì đó không chỉ là nguồn sống mà là cửa ngõ, là tương lai sinh tồn của dân tộc. Tuyên bố mới đây của Mĩ  "không hỗ trợ đồng minh và nước bạn..." chắc chắn sẽ khuyến khích các hành động lấn chiếm ngang ngược hơn của tàu thuyền Trung Quốc trên khắp vùng Biển Đông khiến Việt Nam, Phlipin thêm điêu đứng . Nhưng tình hình mới sẽ thúc dục Việt Nam và các bên bị tác động xích lại gần nhau hơn để đối phó với Trung Quốc. Việt Nam không có cách nào khác là phải kiên định hơn nữa trong quan hệ với Trung Quốc. Đó là một thời kỳ mới với cả thách thức và cơ hội đòi hỏi Việt Nam, trước hết là giới lãnh đạo, phải thích ứng để tồn tại và phát triển. Đây là cơ hội để Việt Nam điều chỉnh lại quan hệ đồng minh, bạn/thù phù hợp với tình hình mới, đối xử ngang nhau với hai cường quốc Mĩ, Trung. Đây là thời điểm thuận tiện để Việt Nam chuyển sang một chính sách ngoại giao cởi mở, minh bạch, trong đó mọi ân, oán với các cựu thù, kể cả Mĩ và Trung Quốc, cần được giải bày nhằm đi tới cơ sở đồng thuận mới công bằng hợp lý hơn.       
       .

Thứ Năm, 6 tháng 12, 2012

Đất nước tôi (*)

 (*) Đây là tên bài "thơ tức cảnh"trên blog Trương Duy Nhat. Đọc thấy hay hay, cay cay... cóp lại xem chơi ... Không quên nhắc lại  "không nhất thiết phản ánh quan điểm của chủ blog Bách Việt !"
Không hiểu sao nghe Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói chuyện nhóm lò, lại hứng chí mần... thơ!


 
 
Đất nước tôi
Hà Tĩnh, Cần Thơ, Tiên Lãng, Văn Giang, Vụ Bản...
Người nổ súng, kẻ uống thuốc sâu, nơi biểu tình
Phụ nữ khỏa thân, cả làng để tang đòi đất
***
Đất nước tôi chưa bao giờ đau đến thế
Trấn áp nhân dân, quị lụy kẻ thù
Đảng ung thư(1)
Dân tình mất đất
***
Đất nước tôi
Như một con tàu lao dốc tuột phanh(2)
Hết Vinashin, Vinalines đến Vina đồng chí X
Hàng trăm nghìn tỷ vẫn không sai, chỉ một lời xin lỗi
***
Đất nước tôi
Đi đâu cũng nghe Đinh La Thăng, Vương Đình Huệ, Nguyễn Văn Bình, đồng chí X
Đâu cũng dựng tượng Bác Hồ
Đâu cũng muôn năm nhiệt liệt
Đảng cao cả, đảng là đạo đức văn minh
***
Đất nước tôi
Phó Thủ tướng cũng nên thầy ưu tú
Thống đốc tồi cũng thành chiến sĩ thi đua
Và một đứa ca sĩ chân dài cũng được tôn vinh là nhân vật tiên phong
***
Đất nước tôi
Cái mảnh đất mang hình dấu hỏi(3)
Từ Đinh Lý Trần Lê, Bà Triệu, Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung...
Đến đồng chí X
Có bao giờ như thể hôm nay
Cả đất nước như như một chiếu hề
Đến Thủ tướng cũng bị gọi là “đồng chí X”
Chủ tịch nước mở miệng là “một bầy sâu”
Tổng Bí thư tự biến mình thành ông già nhóm bếp
Và đảng viên là một bầy sâu
***
Đất nước tôi
Bốn nghìn năm đến nay còn nhóm lửa
Nhân văn trên sự bất lực đê hèn
Đất nước tôi ơi, Việt Nam đâu phải thế
Nhưng vì sao, ơi hỡi vì sao?
_______________
- (1): ý của cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu
- (2): ý của Đại biểu quốc hội Dương Trung Quốc
- (3): ý của nhà báo Bùi Thanh (chẳng lẽ đất nước mang hình dấu hỏi/ để chúng mình cứ phải hỏi tại sao?)


*****

Thứ Ba, 4 tháng 12, 2012

Lòng tin chạm đáy chưa?

Gần đây người ta nói nhiều đến sự "chạm đáy" của thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán v.v...Có nhiều người phân vân không biết lòng tin của nhân dân vào tương lai đất nước đang ở mức độ nào, đã chạm đáy chưa? Xin mạn phép lạm bàn đôi lời về câu hỏi này như sau.

Đáy và đỉnh là khái niệm dùng để so sánh tuyệt đối về mức độ, trình độ...  Cái gì có đáy thì cũng có đỉnh và ngược lại. Với phạm trù lòng tin mà nói về đỉnh và đáy thì hơi khó hình dung, nhưng không phải là không thể . Còn nhớ nhà thơ kiêm chính trị gia Tố Hữu -nguyên Ủy viên TW Đảng, Phó thủ tướng Chính phủ cách đây 1/2 thế kỷ đã từng đưa ra một đánh gía độc đáo như sau: 
"Chào 61! Đỉnh cao muôn trượng
Ta đứng đây, mắt nhìn bốn hướng
Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau
Trông Bắc trông Nam, trông cả địa cầu!" (1)

Có thể hiểu, qua đoạn thơ trên ông Tố Hữu muốn đánh giá về vị thế của đất nước trong so sánh các thời kỳ lịch sử và thế giới. Ông chọn năm1961 là đỉnh cao...là hoàn toàn có ý của ông. Đó là thời kỳ đạt nhiều thành tích trong công cuộc xây dựng kinh tế ở miền Bắc hòa bình  (chưa bị chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mĩ) trong khi tình hình cách mạng ở miền Nam đang tiến triển rất thuận lợi (vùng giải phóng mở rộng đẩy đối phương vào thế phòng ngự bị động...). Có thể có những ý kiến khác nhau, nhưng bài thơ đó đã từng được cả nước nhiệt liệt tán thưởng. Thực tế cũng cho thấy vào thời đó nhân dân hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam. Và chính  lòng tin đó đã làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975 hoàn thành sứ mệnh "thu gian sơn về một mối". Có thể nói đó cũng là thời kỳ đỉnh cao nhất của niềm tin mà nhân dân Việt Nam từng có vào tương lai của đất nước và dân tộc. Lòng tin đó như được tiếp sức bởi nhận định của  Tổng Bí thư Lê Duẩn rằng từ nay đất nước đã sạch bóng quân thù, và sẽ không kẻ thù nào dám đánh Việt Nam nữa! (2)

Tuy nhiên, dường như theo quy luật, cái gì  lên đến đỉnh cũng sẽ có ngày đi xuống.  Chỉ ít lâu sau, đã nổ ra cuộc chiến tranh biên giới Tây-Nam  năm 1976, rồi chiến tranh biên giới phía Bắc năm1979 trong sự ngỡ ngàng của bản thân Việt Nam và của cả thế giới. Đó cũng là thời kỳ mà lòng tin của nhân dân vào tương lai của đất nước, cụ thể vào sự lãnh đạo của Đảng (lúc này đã đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam) đã bắt đầu có dấu hiệu đi xuống. Tuy ai ai cũng chấp hành sự phân công của Đảng và Chính phủ, vượt qua gian khổ khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ, nhưng trong thâm tâm đã bắt đầu nhận ra rằng  hai cuộc chiến tranh đó không phải tự chúng nổ ra hoặc hoàn toàn do kẻ thù cố tình gây ra, mà có một phần do sự chủ quan và sai lầm trong đối sách của giới lãnh đạo đất nước thời bấy giờ. Sai lầm không chỉ diễn ra trên mặt trận quân sự và đối ngoại mà cả trong đối nội. Một trong những biểu hiện mất lòng tin rõ rệt nhất là việc hàng triệu người đã liều mạng bỏ đất nước ra đi trong nhiều năm liền . Tại sao họ phải làm thế nếu không phải vì mất lòng tin vào chính quyền mới cũng như vào tương lai của đất nước?  Ai cũng biết, nếu "thời giờ là vàng ngọc" thì Việt Nam đã mất quá nhiều cho chiến tranh, đặc biệt hai cuộc chiến tranh với hai nước láng giềng để lại những hậu quả lâu dài về sau. Đồng thời hàng loạt những sai lầm nối tiếp nhau trong đường lối kinh tế-xã hội đã khiến đất nước phải trả những cái giá quá đắt với tình trạng kinh tế trì trệ kéo dài, lạm phát phi mã để lại nhiều hậu quả chính trị-xã hội đến ngày nay chưa giải quyết được. Một khi khi lòng tin đã mất thì những thành tích thu được qua quá trình đổi mới dù  to hay nhỏ, tạm thời hay lâu dài ...đều không đủ để vực lại, huống chi công cuộc đổi mới đó đã không đi đến nơi về đến chốn.    

Lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng nói riêng và vào tương lai đất nước nói chung, cũng theo đó mà tụt dốc. Có điều là nó không đi xuống theo đường thẳng đứng mà theo hình Sin nên đỡ gây sốc và cũng dễ ru ngủ với nhiều người. Giờ đây sau từng ấy năm tháng gập ghềnh, lúc nhanh lúc chậm, thật khó để đánh giá chính xác về mức độ và tốc độ phát triển của đất nước trong tương quan so sánh khu vực và toàn cầu. Nhưng riêng về sự giảm sút lòng tin của người dân thì đã quá rõ. Có thể nói đến nay không còn người Việt Nam nào kỳ vọng trở thành  "rồng", thành  "hổ" ..."đặng sánh vai cùng các nước  năm châu" (3). khoảng cách ngày càng rộng trong tương quan so sánh lực lượng với các nước láng giềng, đặc biệt với Trung Quốc khiến nhân dân thất vọng và lo ngại. Mặc khác, có thể nói chưa bao giờ có sự cách biệt về tình cảm, mức sống và lối sống giữa cán bộ lãnh đạo và dân thường như bây giờ. Không phải lãnh đạo không biết đâu là nguyên nhân tham nhũng, nhưng đối với họ chống tham nhũng khác nào tự chống mình. Không phải lãnh đạo không biết điều gì đang đe dọa sự tồn vong của chế độ, nhưng lợi ích của họ còn quan trong hơn chế độ. Không phải lãnh đạo không biết ai là bạn ai là thù, nhưng mối quan tâm hàng đầu của họ là ai có thể giúp họ tiếp tục cầm quyền. Không phải lãnh đạo không biết hiện tượng bất tín, bất phục trong nhân dân đang chuyển từ ý nghĩ sang hành động . Đó là tình trạng kỳ cương phép nước lỏng lẻo không chỉ thể hiện trên đường phố mà đã ảnh hưởng đến việc thực hiện các kế họach phát triển quốc gia. Đó là những cuộc biểu tình , khiếu kiện phản đối sự điều hành thiếu minh bạch của các cơ quan công quyền trong các lĩnh vực đất đai, đầu tư, xây dựng v.v...Đó là phong trào yêu nước tự phát ngày càng dâng cao trước hành động xâm lược bành trướng của Trung Quốc bất chấp sự ngăn chặn, cấm đoán của chính quyền. Lãnh đạo biết tất cả nhưng có lẽ do cái tâm của họ không trong sáng hoặc do "lực bất tòng tâm", hoặc do cả hai lý do cộng lại. Đó là những gì người ta có thể quan sát được qua đợt kiểm điểm chống tham nhũng vừa qua.

Trong bối cảnh nêu trên, việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mới đây gợi ra ý tưởng "nhóm lò" (4) có lẽ đã nói lên một cách đầy đủ về thực trạng mất lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và vào tương lai đất nước nói chung.  Để trả lời câu hỏi lòng tin chạm đáy chưa, có lẽ nên thay bằng câu hỏi  lòng tin đã tắt chưa thì rõ hơn. Câu trả lời ở đây là lòng tin đã và đang tắt! Vì tắt rồi nên người đứng đầu của Đảng  mới đặt vấn đề "nhóm lại" chứ! Hình ảnh một ông già lọ mọ nhóm lò khiến chúng ta thấy ái ngại, nhất là khi không còn mấy ai quan tâm đến ngọn lửa đó nữa trong khi không ít kẻ đang lăm le dập tắt đóm lửa trên tay ông./.            

Ghi chú
1. Trích thơ Tố Hữu 
2. Phỏng theo nộị dung nhân định  của Tổng BT Lê Duẩn thời kỳ sau giải phóng miền Nam
3.Trích lời Bác Hồ căn dặn các cháu thiếu nhi trong kháng chiến chống Pháp
4. Tổng BT Nguyễn Phú Trọng nói tại buôi tiếp xúc cử tri quận Ba Đình ngày 2/12/2012.

Chủ Nhật, 2 tháng 12, 2012

Khi cán bộ thiếu phẩm chất, thừa quyền hành


Sự kiện cán bộ huyện Đức Phổ và tỉnh Quảng Ngãi trừng trị những người dân hành hương vĐền Hùng (được thuật lại trên nguyentuongthuyblog dưới đây) mới nghe thấy có v lạ lẫm...(!?) Nhưng tìm hiểu khơn tôi tin vụ việc đó là có thật, chỉ có những chi tiết cụ thể cần xác minh thêm. Về cách hành xử của cán bộ với người dân theo kiểu "chuyện bé xé ra to" như vậy khônđáng nghi ngờ trong bối cảnh trình độ cán bộ yếu kém do công tác đào tạo, tuyển dụng tràn lan và tệ nạn mua quan bán tước quá dẽ dàng suốt mấy chục năm nay rồi. Cũng không còn lạ lẫm gì tình trạng đã được xã hội thừa nhận: quan lại lộng hành, ức hiếp nhân dân, chỉ khác nhau  tùy theo địa phương và cấp đ. Với một địa bàn  xa trung ương và "nỗi tiếng" khắt khe với dân chúng như Quảng Ngãi thì vụ việc nêu trên lại càng dễ xảy ra. Điều llẫm hơn là tại sao một vụ việc chứa đầy uẩn khúc như thế vẫn tồn tại dai dẳng 12 năm nay? 

Riêng về khía cạnh giáo dục lịch sử, thì vụ việc nói trên gióng thêm một tiếng chuông cảnh báo về nguy cơ mất gốc nguồn cội dân tộc do nếp tư duy sai lệnh và cách "làm sử" lạc hậu kéo dài của các cơ quan chức năng. Thật không thể chấp nhận khi một dân tộc luôn tự hào với 5.000 năm lịch sử (từ  thời Kinh Dương Vương  2879 trước CN) nhưng 90 triệu thành viên mỗi người hiểu về nguồn cội một cách khác nhau , thậm chí trái ngược nhau: Người cho rằng "Việt Nam từ Trung Quốc mà ra", người khác quả quyết rằng người Việt là tiền bối của người Trung Quốc,v.v...thì chẳng lạ gì có ai đó nhận "nguồn gốc Chiêm Thành"!. Phải chăng vì sách sử của ta clặp lại những kiến thức rập khuôn mơ hồ nng vý nghĩa chính trị mà không tôn trọng sự thật lịch sử khách quan, né tránh nghiên cứu bàn thảo vể những chđđược cho là "nhậy cảm"...? Nếu sợ hãi là lý do thì quả là nực cười! Vì điều đáng sợ hơn là khi chính những người đại diện chính quyền không hiểu đúng v quá trình biến thiên của chủ quyền lãnh thổ quốc gia như thế nảo... Nếu hiểu rõ điều đó, chắc mấy ông quan Đức Phổ kia dù lộng quyền cũng đã không hành động quá lố bịch như vậy!

Nhìn rộng sang các lĩnh vực khác, các địa phương khác, từ trung ương xuống địa phương cũng đều thấy những vụ việc sai phạm trương tbắt nguồn từ sự yếu kém vtrình đvà đạo đức của một "bộ phận không nhỏ" trong đội ngũ cán bộ, chứ không ai khác.  Hãy xem cái cách mà các bộ/ngành, các tĩnh /thành, quận/huyện, phường/xã thực thi công vụ trong các lĩnh vực như quản lý đất đai, xây dựng, giao thông, ý tế, giáo dục v.v...ta sẽ thấy ngay rằng, tuy khác nhau về mức độ, h hoàn toàn giống nhau ở tình trạng kém năng lực, thiếu đạo đức, nhưng quá thừa quyền hành và thđoạn. Hậu quả là đương nhiên khi "bộ phận không nhỏ" này  trực tiếp điều hành các cơ quan công quyền, các công ty, dán ...? Đã xảy ra rồi đó những vụ thất thoát bạc nghìn tỷ mà công luận đu biết, và đang diễn ra đầy rẫy những vđồng lỏa, câu kết nhằm chiếm dụng đất đai, tài sản công... Và đđạt điều đó bọn họ không nề hà mọi thđoạn, kể cám hại những người dám lên tiếng tố giác.  Đó chính là mối đe dọa trực tiếp đối với người dân và là hiểm họa đối với dân tộc.


Phải chăng huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi) có tư tưởng ly khai?

Nguyễn Tường Thụy
Một người đàn ông trước đây đã nhiều lần gọi điện cho tôi xưng là Đinh Hùng Chung ở huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi) hẹn khi nào ra Hà Nội sẽ đến thăm tôi.
Lần này ông ra Hà Nội. Tôi nghe điện thoại, thấy giọng quen của những lần gọi điện trước. Tôi đồng ý tiếp ông ở nhà. Bây giờ, trước mặt tôi là người đàn ông mà tôi đoán chừng 65 – 70 tuổi.

Nói chuyện một lúc, thấy tôi cứ xưng bác/em, ông bảo bây giờ phải hỏi tuổi nhau để xưng hô cho đúng, sợ thất lễ. Tôi nói tuổi tôi, ông nói tuổi ông. Thì ra ông sinh năm 1961, tức là 51 tuổi. Tôi nhìn lại gương mặt khắc khổ của ông và mái tóc bạc trắng, kinh ngạc.Ông kể cho tôi nghe hoàn cảnh oan khuất của ông và gửi cho tôi một lá đơn kêu cứu dài tới 16 trang của ông – Đinh Hùng Chung, nguyên bộ đội ở đảo Lý Sơn và ông Nguyễn Đức Thông, nguyên bộ đội ở Lào. Trong 16 trang ấy có 11,5 trang là nội dung đơn, 4,5 trang là ý kiến và chữ ký xác nhận nội dung đơn của 9 nhân chứng.
Qua câu chuyện ông kể và qua lá đơn, tôi chú ý đến một câu chuyện mà tôi thấy giật mình. Ông kể dài, trong đơn kể cũng dài, tôi chỉ tóm tắt câu chuyện:
Năm 2000, ông Chung, ông Thông cùng 16 bà con khác thuê xe về dự giỗ Tổ Hùng Vương. Trước khi đi, các ông có làm đơn xin phép nhưng chính quyền ngăn cản không cho đi. Thuê xe thứ nhất thì công an huyện hù dọa đòi bắt xe, lái xe không dám chở. Xe thứ hai cũng thế. Đến xe thứ 3 thuê từ Quảng Ngãi vào, nhờ mọi người giữ được bí mật thì mới đi được. Mọi người treo lên xe băng rôn ” ĐỒNG BÀO ĐỨC PHỔ DỰ GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG NĂM 2000″ và được lái xe đồng tình. Khi chạy đi thu gom bà con thì cảnh sát giao thông Quang Ngãi chặn lại yêu cầu lột tấm băng rôn xuống. Mọi người không đồng ý. Do bà con đấu tranh mạnh nên cuối cùng họ cũng phải nhân nhượng. Sau khi đi về, hai ông và tất cả những ai đi chuyến hành hương về đất Tổ đó đều bị công an huyện mời lên mời xuống nhiều tháng không cho làm ăn gì cả. Khi các ông gặp ông Hoàng Quốc Vệ phó chủ tịch huyện hỏi, chúng tôi tội gì thì ông này nói:

Vua Hùng ở ngoài Bắc, không liên quan gì đến Đức Phổ. Đây là đất của Chiêm Thành (!?). Nhưng kẻ nào cho mình là con Rồng, cháu Tiên cần tiêu diệt.
Vì quá oan ức, các ông lên tỉnh xin can thiệp. Tỉnh ra công văn với nội dung là việc này thuộc chức năng của huyện và đưa cho các ông mang về huyện để giải quyết. Các ông mang về Thanh tra huyện, Công an huyện, rồi Tòa án huyện.

Ông kể tiếp: Đến Tòa án huyện Đức Phổ họ đã âm mưu sẵn. Trong khi làm việc, ông Phó chánh án huyện tự đập bể bảng chức danh của mình (bảng tên,chức vụ đặt ở bàn làm việc) và hô lên hai ông gây rối trật tự tại cơ quan Tòa án. Lập tức, Công an, Viện kiểm sát đến Tòa án bắt ông Chung và ông Thông giam.Tôi hỏi, thấy trong đơn ông nói bị đánh trong thời gian tạm giam, vậy cụ thể như thế nào. Ông Chung kể tại cơ quan CA Đức Phổ bị đánh 1 lần, còn tại trại giam Đức Phổ bị đánh 1 lần.
Sau đó hai ông bị đưa về trại giam của tỉnh Quảng Ngãi và tiếp tục bị hành hạ.

Trả lời tôi về thời gian tạm giam trước khi ra tòa, ông Chung nói, các ông bị giam 4 tháng tại trại giam Đức Phổ sau đó đưa ra trại giam Quảng Ngãi giam 4 tháng nữa rồi mới đưa ra tòa xét xử. Phiên Tòa sơ thẩm xử mỗi ông 3 năm tù giam. Phiên phúc thẩm y án. Các ông thi hành án ở trại Kim Sơn.
Ông cũng nói, quản giáo trại Kim Sơn (tên là Hùng) thấy tội trạng của các ông không có gì nên dễ dãi với các ông, ông rất biết ơn. Tôi lại hỏi về thời gian thi hành án thực tế như thế nào, ông Chung cho biết, ông được giảm 6 tháng, ông Thông được giảm 3 tháng bằng quyết định ân xá, lý do cải tạo tốt. Sau khi mãn hạn tù, về địa phương, các ông vẫn tiếp tục bị trù dập như trước.

Trở lại chuyện các ông đi dự giỗ tổ Hùng Vương về, các ông viết trong đơn:
Những người đi dự giỗ Tổ về bị công an Đức Phổ mời lên hành xuống làm cho kinh hoàng. Có người suy sụp tinh thần, có người chết như cô Hiền, anh Bưng, anh Nguyên. Mẹ của hai ông cũng bị suy sụp tinh thần lâm bệnh chết (mẹ ông Chung chết 2008, mẹ ông Thông chết năm 2007).Theo đơn trình bày thì cán bộ ở huyện Đức Phổ có những lời nói rất lạ, tới mức khó tin như:

Ông Nguyễn Đức Tâm, chủ tịch Quảng Ngãi nói: Giỏi đấy, tụi nó gọi con Rồng, cháu Tiên, tôi sẽ lệnh cho chính quyền huyện Đức Phổ bắt nhốt vô, trảy sạch.


Ông Cao Văn Lệ, bí thư Đức Phổ: Tụi nó không chấp hành cái lệnh của chính quyền Đức Phổ. Thằng nào đi dự lễ về, tao sẽ cho nó tan nhà nát cửa.


Ông Tạ Mỹ Ba, chủ tịch huyên Đức Phổ: Vua Hùng ở miền Bắc chứ đâu ở đây. Tụi nó mà phá lệnh của chính quyền tao cho chúng nó ở tù rục xương. Nói trực tiếp với ông Trung khi gặp tại huyện.


Ông Lê Trung Thu, trưởng công an Đức Phổ: Nếu các anh ngoan cố đi dự giỗ Tổ, ra khỏi Đức Phổ thì công an giao thông Quảng Ngãi sẽ bắt …


Ông Thọ, cảnh sát giao thông Đức Phổ: Chủ trương địa phương đề ra việc gì thì các anh chấp hành. Nếu theo chủ trương thờ Vua Hùng, thì các anh đã phản lại chủ trương của địa phương, tôi sẽ cho các anh chết.


Ông Huỳnh Quang Minh trưởng công an huyện Đức Phổ: luật pháp chính từ miệng tao, chủ trương cũng chính từ miệng tao. Nếu ngoan có dự giỗ Tổ về tới nhà chưa kịp rửa chân, tao sẽ cho tụi bay rục xương.


Ông Huỳnh Ngọc Trí, Viện trưởng Viện kiểm sát huyện Đức Phổ: Anh em cán bộ huyện Đức Phổ yên trí. Tụi con Rồng, cháu Tiên nó đi dự giỗ Tổ về là hết số.Tôi là Viện kiểm sát, tôi sẽ cho tụi nó tiêu đời.


Ông Huỳnh Kính, chánh tòa Đức Phổ: Tôi đang cầm cái máy chém mà anh Chung … Tụi anh mà còn theo Vua Hùng, tôi sẽ cho tụi anh mút chỉ.


Ông Huỳnh Ngọc Kháng, phó tòa Đức Phổ: Anh tưởng anh đi dự giỗ Tổ Hùng Vương là ngon lắm hay sao. Nếu anh ngoan cố chống lại chủ trương của huyện thì tôi là người đưa anh vào rọ cho anh hết đời.


Những người ở các vị trí trên đây đều vào thời kỳ các ông đi dự Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2000. Nay các vị trí đó đã có những thay đổi. Trong chuyện này, tôi đã lược bớt cho gọn và từ ngữ cũng nhẹ nhàng hơn. Trong đơn còn nhiều chi tiết khác với những tiếng kêu thảm thiết. Ngoài ra, nội dung đơn và lời kể của các ông còn đề cập đến những chuyện khác nữa.


Nếu đây là sự thật thì là một điều kinh hoàng. Nhưng các ông là người có địa chỉ cụ thể, các ông biết nếu nói sai thì trách nhiệm của mình ra sao. Ngoài ra, lá đơn có 9 nhân chứng xác nhận, trước khi ký xác nhận, những người làm chứng đều có nhận xét và xác nhận nội dung lá đơn. Chẳng lẽ các ông bịa ra để rồi 12 năm nay theo kiện cho tốn tiền và công sức? Bạn đọc tin đến đâu thì tùy suy nghĩ của mỗi người và có thể liên hệ với hai ông cùng ký đơn: Đinh Hùng Chung: số máy 01268370906, ông Nguyễn Đức Thông: 0163405946. Tôi đã liên hệ với ông Thông theo số máy trên. Ngoài ra tôi cũng đã liên hệ với bà Phạm Thị Kim Chi số máy 01677910091 là một trong 9 người ký tên làm chứng. Cả hai đều xác nhận nội dung lá đơn và kể cho tôi nghe thêm những chuyện xung quanh lá đơn trên.


Tại sao huyện Đức Phổ lại có chủ trương cấm dân đi dự Giỗ tổ Hùng Vương và đe dọa trắng trợn như vậy? Trong đơn, các ông có dẫn ra lời của ông Tâm, chủ tịch Quảng Ngãi, vậy ngoài Đức Phổ ra thì các huyện khác có cấm đoán dân như ở Đức Phổ không? Nếu có chủ trương này, thì nó được thực thi ở Đức Phổ hay cả tỉnh Quảng Ngãi? Được biết, trong suốt 12 năm qua, các ông đã khiếu kiện nhiều nơi, gửi đơn đến nhiều tòa soạn báo. Hiện trong tay tôi có trong tay bản foto công văn của UBND huyện Đức Phổ gửi báo Nhân dân và báo Công an nhân dân giải thích về đơn của các ông, bản foto bài viết trong mục “Hồi âm bài báo” của báo Tiền phong số ra ngày 1/9/2000.
Tất nhiên, công văn và bài báo nói trên đều bác bỏ nội dung mà các ông trình bày trong đơn. Vậy thêm một câu hỏi đặt ra: Tại sao các ông bịa đặt mà chính quyền hay các cơ quan chức năng ở Đức Phổ lại để yên cho các ông? Sao các ông vu khống chính quyền dễ dàng như vậy? Trong khi đó, tôi hỏi đi hỏi lại, các ông đều khẳng định những điều trình bày trong đơn là đúng sự thật. Ông Thông, khi trả lời tôi qua điện thoại, khẳng định: nếu tôi nói sai thì tôi chấp nhận đi tù. Ông Chung cho rằng, chính việc đi dự giỗ Tổ Hùng Vương là nguyên nhân dẫn đến ông và ông Thông vào tù với tội “gây rối trật tự”.

Đây là lần đầu tôi biết đến chuyện như thế này. Không biết ngoài việc cấm đoán, gây khó dễ với những người đi dự giỗ Tổ như thế thì chính quyền huyện Đức Phổ đã tuyên truyền cho dân đến đâu về việc không được xưng là con Rồng, cháu Tiên, rằng Vua Hùng không liên quan gì đến dân huyện Đức Phổ, rằng Đức Phổ là đất Chiêm Thành. Liệu ở Đức Phổ có tư tưởng ly khai?
Thiết nghĩ TW Đảng và Nhà nước cần điều tra cặn kẽ làm sáng tỏ chuyện này. Nếu đơn của các ông phản ánh đúng sự thật thì đây là sự việc tày đình. Cùng với việc giải oan cho hai ông, cần xử lý nghiêm khắc, kể cả đưa ra Tòa việc cấm đoán nhân dân hướng về cội nguồn, tổ tiên, tìm hiểu cặn kẽ nguồn gốc vấn đề, không thể xuê xoa, cho qua. Còn nếu ông Thông và ông Chung cùng với 9 người làm chứng viết sai sự thật, xác nhận sai sự thật thì cũng cần xử lý theo qui định của pháp luật./.
 

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này