Chủ Nhật, 22 tháng 1, 2012

Thế nào là trí thức?


Ngày Tết nhớ làng tôi xanh bóng tre
Trưa chiều 30 Tết nhàn nhã...Ở nhà không có việc gì  làm, ra phố thấy vắng hẳn xe cộ chỉ lác đác vài ba chiếc xe lăn bánh nhẹ nhàng, hai bên phố những căn nhà đóng cửa với hè phố thênh thang chỉ vài ba người thảnh thơi dạo bộ... Trời không mưa không gió  trong cái se lạnh của mùa đông...  Tất cả tạo nên một sự yên tĩnh không nhàm chán. Ước gì ngày nào cũng được thế này!
Định bụng sẽ không blog bliếc gì trong mấy ngày Tết để thưởng thức không khí thanh bình hiếm hoi của Thủ đô . Nhưng không hiểu sao lại  quay vào nhà ngồi trước máy tính...Rồi thấy Quêchoa với dòng tít "Gửi Ngô Bảo Châu" không có từ Giáo sư là lạ ... (Xem tại http://quechoa.info/2012/01/22/g%e1%bb%adi-ngo-b%e1%ba%a3o-chau/)
Tò mò vào đọc tiếp thì thấy bàn về chuyện Giáo sư Ngô Bảo Châu trả lời phỏng vấn báo Tuổi trẻ, trong đó có câu   "...Theo quan niệm của tôi, giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội..Tiếp dưới là những ý kiến phản biện của nhiều người. Nếu tôi không nhầm thì đây là lần đầu tiên vị giáo sư này bị người hâm mộ phản bác (?). Nội dung  xoay quanh chủ đề thế nào là trí thức, ai là trí thức.
  
Không đọc, không biết thì thôi chứ đọc, biết rồi mà không "còm", thì e rằng ăn Tết mất ngon. Cảm nhận đầu tiên là, nội dung trả lời phỏng vấn của vị giáo sư nói chung là "ổn" trừ một vài câu chữ có thể gọi là "nhỡ mồn" của "Người thích làm toán". Ai cũng biết ông là người tài giỏi thật sự (nếu không làm sao lấy được giải Field?) và cũng rất quan tâm đến thời cuộc đất nước (qua những phát biểu rất "trúng đích" trước đây). Còn nhớ cách đây không lâu chính ông đã từng nói câu bất hủ: "Chỉ có đàn cừu mới đi theo lề" khiến dư luận đông đảo rất tán thưởng . Nhưng bây giờ ông lại cho rằng trí thức không cần tham gia phản biện xã hội; hay nói cách khác là đứng ngoài công cuộc đấu tranh chính trị-xã hội. Với uy tín của mình e rằng câu nói của vị giáo sư trẻ có thể khuyến khích giới trẻ đứng ngoài lề công cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ chính trị-xã hội của đất nước. Có lẽ đây chính là điều mà dư luận cảm thấy thất vọng hoặc không thể tán thành đối với vị giáo sư mà họ rất kỳ vọng .

Vẫn biết khi nói về phạm trù trí thức,đặc biệt nói với giới trí thức, thường không đơn giản chút nào!  Bản thân blogger tôi không rành về lý thuyết Đông-Tây, kim-cổ..., nhưng tin rằng khái niệm trí thức hoàn toàn khác với trí óc (nói "lao động trí óc" thì được, nhưng không ai nói "lao động trí thức"), tức là trí thức không phải một nghề. Vì vậy, nếu đem ra bình chọn trí thức thì dựa vào cơ sở nào? hay chỉ là căn bệnh "thích bình chọn"? Lại còn căn cứ vào việc có tham gia phản biện hay không để phân loại trí thức thì đúng là không công bằng, nghe thoang thoảng mùi "hồng vệ binh"! Mặc khác, thiển nghĩ  đâu phải cứ làm việc bằng trí óc là trí thức, cũng không phải cứ tham gia phản biện là trí thức; nếu thế thì mấy bác xí-lô cũng là trí thức trong khi các nhà khoa học có thể bị loại khỏi dánh sách trí thức (?).

Nhưng nếu cứ tranh cãi loanh quanh như thế sẽ không bao giờ phân thắng bại, nhất là trong môi trường Việt Nam lâu nay không chỉ thiếu nhiều luật lệ mà còn thiếu nếp tư duy khách quan (Chỉ có dân số ngày càng đông, xe cộ ngày càng nhiều, kẻ cắp các loại cũng nhiều làm ô nhiễm cả môi trường tự nhiên cũng như môi trường xã hội). Sự thật là, từ ngày cách mạng thành công dường như không còn chỗ cho cách tư duy độc lập, khách quan theo lô-gíc, mà thay vào đó bằng cách tư duy theo định hướng hoặc để chứng minh cho một định đề. Cách tư duy này được áp dụng không chỉ trong trong lĩnh vực nghiên cứu chính trị mà cả trong khoa học tự nhiên và xã hội, nguy hại nhất là cả trong giáo dục-đào tạo. Rốt cuộc ai cũng rất giỏi ngụy biện và thích "thần tượng hóa", mô hình hóa"...Nhà toán học trẻ mới chân ước chân ráo về nước đã được đón nhận như một thần tượng....đến bản thân ông cũng ngỡ ngàng. Và giờ đây người hâm mộ cũng rất dễ thất vọng khi thấy có điều gì đó không như ý từ thần tượng của mình.Và người ta tha hồ suy diễn, tranh cãi không theo một thứ lo-gíc nào cũng là điều dễ hiểu./.    

Hẹn sau Tết  gặp lại bàn thêm. Nhân đây chúc mọi người NĂM MỚI AN KHANG, HẠNH PHÚC! 

Thứ Hai, 16 tháng 1, 2012

Hiểm họa đối với các quốc gia độc tài

Vì sao độc tài được dân chấp nhận?   
Các bài học luân lý Đông-Tây xưa nay đều cho rằng các chế độ độc tài dù ở bất cứ hình thức nào đều là xấu xa , và vì vậy sớm muộn cũng bị nhân dân vùng lên đánh đổ. Cũng đã có rất nhiều dẫn chứng về vấn đề có tính quy luật này, đó là sự sụp đổ của các thể chế cũ kĩ, lỗi thời trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, gần đây nhất là trường hợp Saddam Hussein ở I rắc, Mubarak ở Ai Cập và Gadhafi ở Libya.
Tuy nhiên còn có một thực tế khác, đó là nhiều thể chế độc tài chuyên chế vẫn trường tồn, thậm chí với sự ngưỡng mộ và thần phục của đông đảo dân chúng. Đó là trường hợp các vương triều như ở Bhuttan,  Botswana, Bruney, và cả các thể chế chính trị hiện đại nơi mà đói nghèo luôn đeo bám người dân, như Zimbabwe và Bắc Triều Tiên, v.v...Ở một số nước phát triển vẫn duy trì hình thức vua chúa vì nó còn hấp dẫn đối với dân chúng. Trước cảnh tượng người dân Bắc Triều Tiên than khóc như mưa sau cái chết của "lãnh tụ vĩ đại" Kim Jong-Il mới đây nhiều người không tin đó là khóc thật. Nhưng dù khóc thật hay giả, đó là một cách hành xử thường thấy trong cộng đồng các nền độc tài chuyên chế. Nó cho thấy những chế độ độc tài vẫn có cơ sở để tồn tại một cách vững chắc, thậm chí còn lâu hơn một số thể chế không độc tài.
Phụ nữ Botswana khoe sắc để được nhà vua chọn làm thê thiếp  
Vậy ra, không hẳn cứ là độc tài thì ắt sẽ bị quần chúng nhân dân đứng lên đánh đổ(?). Và điều này thể hiện khá rõ ngay cả ở trường hợp Sadam Husein và Gadhafi trong suốt thời kỳ cầm quyền của họ; lại càng rõ với trường hợp Bắc Triều Tiên, I-ran và một số quốc gia độc tài chuyên chế khác nơi mà mãi vẫn chưa thấy một phong trào quần chúng thật sự lớn mạnh lật đổ; trái lại còn được dân chúng một lòng ủng hộ. Trên thực tế hầu hết các vương quốc ngự trị bởi chế độ cha truyền con nối hoặc các chính thể độc tài chuyên chế không hề gặp phải sự phản kháng mạnh mẽ nào từ dân chúng, trái lại ở đó kẻ thống trị còn được người dân sùng bái hơn nhiều so với những gì mà các nguyên thủ ở các quốc gia dân chủ nhận được từ nhân dân của họ.
Người dân Bắc Triều Tiên vật vã tiếc thương Kim Jong Il
Người ngoài cuộc thường dễ dãi kết luận rằng đó là do sự đàn áp và bưng bít thông tin. Kết luận này đúng nhưng chưa đủ; còn phải tính đến đặc điểm tư duy của con người bị chi phối bởi yếu tố tinh thần mơ hồ về đạo đức, tín ngưỡng và quyền lợi....  Mặc khác, khách quan mà nói, ngay cả bản thân khái niệm độc tài cũng chưa hẳn nhất thiết phải như nhau giữa các dân tộc tùy trình độ phát triển và hoàn cảnh lịch sử, văn hóa-xã hội. Tất cả những điều đó dù muốn hay không đều góp phần tạo nên mãnh đất màu mỡ cho các chế độ độc tài chuyên chế sinh tồn. Chúng tồn tại ở nhiều dạng khác nhau, có trường hợp công khai, lộ liễu, thậm chí được tuyên bố; có trường hợp trá hình dưới những tên gọi mĩ miều với những chiêu bài chính trị, tôn giáo thần bí. Điểm chung nhất của chúng là tệ sùng bái cá nhân, tham quyền cố vị và tham nhũng bất chấp lợi ích của dân chúng. Để tồn tại chúng thường sử dụng các thủ đoạn tuyên truyền đạo đức giả kết hợp với các thủ đoạn đàn áp.    

Xu hướng sử dụng can thiệp bên ngoài để đánh đổ độc tài và hệ quả của nó
 
Nhìn lại hầu hết trường hợp sụp đổ của các chế độ độc tài gần đây tại Trung Đông và Bắc Phi ta thấy đều nhờ có sự can thiệp trên quy mô lớn của quân đội nước ngoài. Đó là sự can thiệp công khai, thậm chí trắng trợn, của một nước hoặc nhóm nước. Vẫn biết đó là cái giá mà những kẻ độc tài phải trả, nhưng khách quan mà nói, hầu hết các trường hợp can thiệp quân sự từ bên ngoài trong thời gian qua đều dẫn đến chiến tranh tàn khốc kéo dài, và nạn nhân chính là nhân dân ở các nước bị can thiệp.
Nguy cơ nội chiến kéo dài ở Libya


Có thể còn quá sớm để thế giới ngồi lại đặt vấn đề một cách nghiêm túc về câu hỏi nói trên. Nhưng trước mắt có thể thấy nguyên nhân từ hệ quả của trào lưu toàn cầu hóa cao độ đang xóa bỏ tình trạng biệt lập hoặc khác biệt quá xa giữa các quốc gia, đồng thời sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin đã tạo ra những hiệu ứng trực tiếp giúp con người mau chóng truyền đạt thông tin và tri thức xuyên quốc gia trên quy mô toàn cầu, trong đó internet là phương tiện hầu như không bị ngăn cách bởi biên giới hay chế độ chính trị-xã hội. Nói cách khác, bức tường ngăn cách thông tin giữa các quốc gia đã bị phá vỡ. Đó là cơ sở để nhanh chóng hình thành mối liên kết giữa các cá nhân và các nhóm chính kiến từ bên trong các quốc gia độc tài chuyên chế với thế giới bên ngoài và tạo nên tình huống cho sự hỗ trợ của các lực lượng từ bên ngoài . Phương cách can thiệp như vậy dường như đang tìm thấy lý do chính đáng và được hoan nghênh đơn giản vì vì nó có thể đánh sập nhanh một chế độ độc tài . Đó là những gì đã và đang diễn ra khi Mỹ và Đồng minh được cả LHQ chấp thuận sử dụng biện pháp chiến tranh để lật đổ các chế độ độc tài chuyên chế của các quốc gia có chủ quyền như ta thấy gần đây tại Trung Đông và Bắc Phi.

Vẫn biết các chế độ độc tài là xấu xa và cần phải loại bỏ càng sớm càng tốt, và trước sự cố kết để bám giữ của chúng thì sự can thiệp từ bên ngoài là cần thiết. Song cái gì cũng có ít nhất là hai mặt của nó. Trước hết cần khẳng định lại nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đó là mọi sự can thiệp quân sự  từ bên ngoài vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền đều là phi pháp. Thực tiễn cho thấy cách thức can thiệp như vậy suy cho cùng chỉ có lợi cho các nước lớn mạnh, và cũng được các nhóm lợi ích kình chống nhau trong nội bộ mỗi quốc gia lợi dụng, nhưng đại đa số nhân dân các nước bị can thiệp cũng như các nước đi can thiệp đều không có lợi ích gì, trái lại phải hứng chịu những hậu quả khôn lường .  Về mặt này cũng nên nhắc lại nguyên lý  "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng". Sự can thiệp của bên ngoài chỉ có thể chấp nhận một khi quần chúng bên trong một quốc gia đồng lòng kêu gọi. Nói cách khác, xấu-tốt, sớm-muộn, thành công hay thất bại, đều nên để nhân dân mỗi nước quyết định vận mệnh của họ. Khốn nỗi đó là một khái niệm mơ hồ, dễ nhầm lẫn giữa phong trào quần chúng thực sự với những nhóm lợi ích hay sắc tộc hoặc tôn giáo cố tình lợi dung sự can thiệp của bên ngoài. Mọi sự can thiệp dựa trên cơ sỡ "nhầm lẫn" như vậy đều không thể chấm dứt được nguồn gốc  độc tài  mà chỉ thay thế chế độ độc tài này bằng một chế độ độc tài khác hoặc gây ra một quá trình nội chiến và nạn nghèo đối kéo dài, thậm chí nguy cơ mất độc lập chủ quyền đối với các quốc gia bị can thiệp. Nguy cơ này đang thể hiện khá rõ trong trường hợp I-rắc sau Saddam Hussein,  Libya sau Gadhafi và cả Ai cập, Afghanistan cũng như đối với các nước khác đang trong quá trình của cái gọi là "cách mạng màu".

Tóm lại, các thể chế độc tài, chuyên chế và phi dân chủ là trở ngại phải loại bỏ để mở đường cho nhân dân tiến lên ấm no hạnh phúc. Nhưng cách thức đánh đổ chúng và hậu quả sau đó đối với quốc gia bị đánh đổ là một vấn đề đặt ra đối với thế giới hiện đại. Đây là bài học đối với mọi quốc gia dân tộc không may đang bị các chế độ độc tài chuyên chế ở các mức độ khác nhau thống trị. Bài học nhãn tiền là đất nước có thể rơi vào tình trạng bạo loạn và nội chiến, thậm chí mất cả độc lập tự chủ. Không phải dân tộc nói chung mà trước hết những kẻ độc tài chuyên chế phải nhận thức được điều này. Họ cần biết rằng ngày nay dân chúng có điều kiện tốt hơn để hiểu biết và giác ngộ về quyền lợi chính đáng của mình để nổi dậy. Và đó là cơ sở để bên ngoài can thiệp dù muốn hay không. Do đó, giải pháp ít xấu hơn là  họ phải tự thay đổi  hoặc chuyển giao quyền lực khi chưa quá muộn. Trường hợp Vua Nêpan đã tự nguyện thoái vị để nhường bước cho cho chế độ dân chủ hồi năm 2006 và mới đây giới quân sự Myanma cũng đã chuyển giao quyền lực một cách hòa bình cho giới dân sự khiến thế giới hết sức ngưỡng mộ. Sự sụp đổ của Liên Xô cũ và các nước Đông Âu những năm cuối thế kỷ trước dù sao cũng là một dạng chuyển giao quyền lực thành công một cách hòa bình  mà không cần sự can thiệp quân sự  từ bên ngoài. /.       


Chủ Nhật, 15 tháng 1, 2012

5 điểm du lịch đáng đến trong dịp Tết âm lịch năm này

1. Hà Giang
Nằm ở Cực Bắc của Tổ Quốc, Hà Giang là nơi có phong cảnh tuyệt đẹp cuốn hút rất nhiều khách du lịch. Đến đây du khách sẽ được tham quan những cảnh đẹp hoang sơ, với núi đá trải dài hai bên đường đi, không khí trong lành và thoáng đãng như tuyến đường Bắc Quản Bạ - Yên Minh – Đồng Văn – Mèo Vạc. Các cảnh đẹp sẽ đi qua theo thứ tự là Núi Đôi (Quản Bạ) - Đồi Thông và Ruộng Bậc Thang ở Yên Minh - Cực Bắc Lũng Cú - Chợ phiên Đồng Văn - Đèo Mã Pì Lèng. Khi tới Hà Giang bạn sẽ được đến thăm cột cờ Lũng Cú.


Nếu đi bằng xe máy thì nên chú ý chọn xe tốt, được bảo dưỡng cẩn thận và nên đưa theo các dụng cụ cần thiết để sửa những lỗi trên đường đi. Nếu đi vào trời mưa hoặc sương mù nên cẩn thận. Một số người đã từng đi Hà Giang đưa ra lời khuyên có thể đi ô tô tự lái thì tiện hơn xe khách, vì các điểm du lịch nằm rải rác ở nhiều tuyến đường khác nhau. Tuy nhiên, cần lưu ý chọn lái xe có kinh nghiệm, kiểm tra xăng đầy đủ vì đường núi nên để tìm được trạm xăng không phải dễ dàng.

Một vài chỗ ở gợi ý: Mèo Vạc có KS Hoa Cương, Đồng Văn có Hoàng Ngọc, Cao Nguyên Đá, TP Hà Giang có Khách sạn Huy Hoàn.

Phương tiện đi lại: Nếu đăng ký tour với các công ty du lịch thì sẽ có xe đưa đón

Nếu tự tổ chức đi thì bạn có thể chọn xe khách khởi hành từ Bến xe Mỹ Đình vào lúc sáng (6, 7, 9, 11h), chiều (1h, 2h), tối (8h30, 9h) với mức giá giường năm khoảng gần 180.000 đồng/người, nếu ghế ngồi khoảng 140.000 đồng/người.

Nếu chọn ô tô có lái xe kèm theo thì nên thuê xe từ 16 – 24 chỗ.


2. Biển Ninh Chữ (Ninh Thuận)

Ninh Chữ trải dài khoảng 10km, thuộc thôn Bình Sơn, xã Văn Hải, tỉnh Ninh Thuận. Nơi đây có biển xanh, bãi cát trắng. Đến đây, các bạn sẽ được trải nghiệm khi tham quan vịnh Vĩnh Hy. Đặc biệt không thể bỏ qua làng gốm bàu Trúc, suối Lồ Ô…Thưởng thức đặc sản Phan Rang ngoài nho, táo, tỏi, hành tím còn có con dông, mực một nắng ... các loại trái cây như sầu riêng, chôm chôm, mít... các loại trái cây này trồng ở khu vực Lâm Sơn - Sông Pha.

Còn về nhà hàng, nếu chọn phong cách miệt vườn có Song Yến, Chốn Quê, Hoa Phượng vừa ẩm thực vừa câu cá thư giãn. Còn các quán trong thành phố có các nhà hàng Hoa Thiên Lý, Hương Đồng, Bồ Câu quán, Đông Dương .v.v. Ngoài ra còn có cơm gà Khánh Kỳ, Hải Nam...

Phương tiện đi: Nếu đi từ Hà Nội có thể bay vào sân bay Cam Ranh sau đó đi ô tô đến Ninh Chữ hoặc đi tàu vào ga Tháp Chàm sau đó đi taxi hoặc ô tô đến resort của bạn.
Nếu đi từ TP.HCM có thể đi ô tô Đường Lê Hồng Phong Quận 5 có các hang xe: Tuấn Tú, Liên Thành, Hoàng Anh. 

Ngã 4 Lê Hồng Phong , Trần Phú có hãng Quốc Trung. Các hãng xe này xuất phát từ 17h00 là chuyến đầu tiên. Với mức giá vé từ 80.000 đồng – 100.000 đồng.


3. Phú Yên
Phú Yên nằm ở duyên hải Nam Trung Bộ, cách Hà Nội 1.160km, cách TP.HCM 561 km. Đây là nơi có biển và nhiều thắng cảnh đẹp. Ngoài biển, ở đây có khu sinh thái Sao Việt, Bãi Tràm, Mũi Điện, Vịnh Vũng Rô, Đá Bàn, suối nướng nóng, lạnh, Đập Đồng Cam, Nhất Tự Sơn, Vịnh Xuân Đài, Đồi Thơm… Đặc biệt, khi đến Phú Yên không quên thăm gành Đá Đĩa và đầm Ô Loan, tham quan Vũng Rô, Núi Đá bia, ngọn hải đăng mũi Đại Lãnh.





Các khách sạn cho bạn có thể lựa chọn là Kaya (238 Hùng Vương) 4 sao, khách sạn Hương Sen, KS Ái Cúc, KS Công đoàn sát biển... và rất nhiều nhà khách, nhà trọ giá bình dân Ngoài ra, ở Tuy Hòa còn có khách sạn 5 sao Cendeluxe. Bạn có thể chọn nhà hàng tại khu sinh thái Thuận Thảo, nhà hàng Gió Chiều, Hoàng Gia…

Ở Phú Yên có rất nhiều đặc sản biển, bạn có thể đến cảng cá Phường 6 (TP Tùy Hòa) để thưởng thức hải sản. Ngoài ra, còn có các đặc sản như bánh canh Tuy Hòa, sò huyết Ô Loan, gà nướng Sông Cầu..... Phương tiện đi lại ở Phú Yên là có  Taxi ( Mai Linh, Thuận Thảo, Ái Cúc...), xe máy và xe bus (Anh Tuấn, Cúc Tư). Để chủ động bạn có thể thuê xe máy để đi tham quan.

Phương tiện đi lại: Để tới Phú Yên bạn có thể bay từ Hà Nội – Phú Yên hoặc TP.HCM – Phú Yên
Với du khách đi từ TP.HCM còn có thêm lựa chọn là ô tô, còn du khách ở Hà Nội cũng có thể đi bằng ô tô nhưng không tiện bằng đi máy bay.

Ngoài ra, du khách có thể chọn đi bằng tàu hỏa từ Hà Nội – Phú Yên hoặc TP.HCM – Phú Yên.

4. Duyên hải Bắc Trung Bộ

Năm 2012 sẽ là năm du lịch quốc gia duyên hải Bắc Trung Bộ. Với chủ đề “Du lịch Di sản” sẽ được thực hiện với chuỗi hoạt động xuyên suốt năm với sự tham gia của 8 tỉnh từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam. Thành nhà Hồ (Thanh Hóa), Vườn


quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng (Quảng Bình), cố đô Huế và Nhã nhạc cung đình Huế (Thừa Thiên - Huế), di tích Mỹ Sơn và phố cổ Hội An (Quảng Nam).

 Khu vực này cũng là nơi có nhiều đặc sản như: cháo lươn Vinh, cu đơ (Hà Tĩnh), các món ăn như cơm hến (Huế), bánh canh, bánh bèo và rất nhiều loại bánh khác.

Ngoài ra, ở đây nếu đi vào mùa hè, bạn sẽ được tắm các biển Sầm Sơn, Cửa Lò, Thiên Cầm, Cửa Tùng, Nhật Lệ, Thuận An, Cảnh Dương và một số bãi biển của các tỉnh Nam Trung Bộ. Một số khu vực đã có thương hiệu như Phong Nha- Kẻ Bàng, Vườn quốc gia Bạch Mã, Lăng Cô.
Phương tiện đi lại: Có thể đi bằng máy bay tới Vinh (Nghệ An) rồi tiếp tục thuê xe đi dọc các tỉnh Bắc Trung Bộ. Hoặc đi máy bay tới Huế, Quảng Nam, Quảng Bình.

Hoặc bạn có thể chọn đi tàu, dừng ở ga Thanh Hóa để bắt đầu hành trình các tỉnh hoặc chọn phương tiện di chuyển là tàu sau khi hoàn thành tham quan ở mỗi tỉnh.

Ngoài ra, với các du khách từ Hà Nội có thể chọn đi bằng ô tô. Để về các tỉnh Bắc Trung Bộ, bạn đến bến xe Nước Ngầm (Hà Nội) để mua vé và chọn điểm đến trong hành trình của bạn.


5. Phú Quốc
Biển Phú Quốc còn gọi là Đảo Ngọc, thuộc huyện Đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang. Tới đây du khách được chìm đắm với những bãi biển tuyệt đẹp như bãi Dài, cát trắng lấp lánh tại bãi Sao, hòa mình vào không khí trong lành. Thích khám phá tự nhiên có thể đi lặn xuống biển, ngắm san hô. Vào rừng nguyên sinh khám phá suối Tranh, đi thăm trại nuôi chó xoáy lưng. Về thị trấn Dương Đông thăm Dinh Cậu…




Để khám phá toàn bộ đảo thì nên chọn xe máy với giá 120.000 đồng -150.000 đồng/ngày ( khu vực đường Trần Hưng Đạo – Thị trấn Dương Đông nhiều chỗ thuê). Hoặc thuê ô tô với loại xe jeep giá khoảng 400.000 đồng/ngày. Ở đây cũng có dịch vụ cho thuê ô tô tự lái giá khoảng 600.00 đồng/ngày, xe từ 7-8 chỗ (nhưng nhớ trước khi khởi hành mang theo các loại giấy tờ như bằng lái xe, chứng minh thư nhân dân…).

Ngoài ra, bạn có thể đi câu cá ban ngày, câu mực ban đêm lênh đênh trên thuyền. Ẩm thực ở đây chủ yếu là món ăn làm từ hải sản như gỏi cá trích hoặc bánh canh hải sản ở gần Blue Galoon, cá măng, nước mắm Phú Quốc nức tiếng gần xa ngon miễn chê, rượu vang sim được chế biến từ trái sim chín, hồ tiêu Phú Quốc. Đi du lịch bụi cần cẩn trọng với những bụi cây trên đá, bởi trong đó có thể có những tổ ong nếu không cẩn thận trẻ em hoặc người lớn đều dễ bị ong đốt.

Phương tiện đi lại: Khởi hành từ TP.HCM có thể đi xe ô tô hoặc chọn máy bay đến Rạch Giá rồi đi tàu ra Phú Quốc. Đi từ Hà Nội thì chọn chặng bay Hà Nội – Phú Quốc./.
Nguồn :  phuonglp | DU Lich Snoop Blogs


Thứ Bảy, 14 tháng 1, 2012

Việt Nam một lần nữa chính thức khẳng định Hoàng Sa là của Việt Nam


Liên quan đến nội dung trả lời trực tuyến mạng Tin tức Trung Quốc về tranh chấp trên Biển Đông  của Phó Vụ trưởng Vụ Biên giới và Biển, Bộ Ngoại giao Trung Quốc Dị Tiên Lương ngày 6/1/2012, Vụ trưởng Vụ Biển - Uỷ ban Biên giới quốc gia, Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Quý Quỳnh đã trả lời phỏng vấn báo VnExpress trong đó nêu rõ tính phi lý của cái gọi là "đường lưỡi bò" đồng thời khẳng định lai Hoàng Sa là của VN . 
Dưới đây là toàn văn nội dung phỏng vấn do PV Mai Trang thực hiện- Nguồn: VN-Express  13/1/2012,


Hỏi:  Trong bài phỏng vấn của mình, ông Dị Tiên Lương có nói: Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc, Trung Quốc đã thu hồi quần đảo “Tây Sa” (cách Trung Quốc gọi Hoàng Sa của Việt Nam) và “Nam Sa” (cách Trung Quốc gọi Trường Sa của Việt Nam) từ tay quân Nhật. Vậy thưa ông, sự thật lịch sử là như thế nào?
 Đáp:  Tại Hội nghị hòa bình San Francisco 1951 - một Hội nghị quốc tế quan trọng giải quyết vấn đề quy thuộc các vùng lãnh thổ sau chiến tranh thế giới thứ II, đại diện của Chính phủ Việt Nam khi đó đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và không có nước nào tham dự Hội nghị phản đối, trong khi Dự thảo Nghị quyết do Liên Xô đưa ra nhằm trao hai quần đảo này cho Trung Quốc đã bị 48/51 phiếu chống. Điều đó cho thấy, đòi hỏi về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã bị bác bỏ; còn chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã được thừa nhận tại một hội nghị quốc tế quan trọng sau chiến tranh thế giới thứ II. Như vậy, ý kiến phát biểu nói trên của ông Dị Tiên Lương là hoàn toàn trái với thực tế lịch sử lúc bấy giờ.

Hỏi:  Ông Dị Tiên Lương nói rằng: Tháng 12/1947, Bộ Nội chính Chính phủ Trung Quốc đã ban hành “Bản đồ vị trí các đảo ở Nam Hải”, vẽ “đường nét đứt” và đặt tên cho một số đảo đá, bãi v.v.... và chính thức công bố ra bên ngoài năm 1948 v.v... Đường nét đứt là để khẳng định chủ quyền lãnh thổ và lợi ích biển liên quan của Trung Quốc. Việc Trung Quốc đưa ra đường yêu sách theo đường đứt khúc 9 đoạn (hay còn gọi là “đường lưỡi bò”) năm 2009 trên Biển Đông đã gây ra rất nhiều phản ứng của các nước trong và ngoài khu vực và đã bị phê phán rất nhiều trong các cuộc hội thảo quốc tế. Xin ông cho biết ý kiến về việc này?
Đáp: Cho tới trước năm 2009, Trung Quốc chưa bao giờ chính thức đưa ra yêu sách này. “Đường lưỡi bò” hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và lịch sử, vì được vẽ ra một cách tùy tiện, không có toạ độ của các điểm cụ thể và không được quốc tế công nhận. Năm 2009, Trung Quốc lần đầu chính thức đưa yêu sách “đường lưỡi bò” ra Liên Hợp Quốc nhưng không có giải thích cụ thể. Ngay sau đó, Việt Nam, và tiếp đến là Indonesia, Philippines đã gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc để phản đối yêu sách phi lý đó của Trung Quốc. Tại các cuộc hội thảo quốc tế gần đây, rất nhiều học giả quốc tế như Pháp, Bỉ, Mỹ, Indonesia đã chỉ ra tính phi lý của yêu sách “đường lưỡi bò”, đồng thời, nhiều học giả còn nhấn mạnh rằng, chính yêu sách “đường lưỡi bò” là nguyên nhân gây ra những căng thẳng, phức tạp trên Biển Đông. Cụ thể là:
- Yêu sách “đường lưỡi bò” hoàn toàn đi ngược lại Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 mà Trung Quốc là một bên tham gia; vùng biển mà “đường lưỡi bò” bao trùm không thể là lãnh hải hay vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của Trung Quốc.
- Cho tới nay, các văn bản pháp luật về biển của Trung Quốc đều không đề cập tới yêu sách “đường lưỡi bò”;
- Thực tiễn các quốc gia ven Biển Đông cũng như các quốc gia ngoài khu vực đều phủ nhận yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc;
- “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc đã xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của năm nước là Việt Nam, Philippines, Indonesia, Malaysia và Brunei.

Hỏi: Ông Dị Tiên Lương khẳng định Trung Quốc có đầy đủ chứng cứ lịch sử và pháp lý đối với chủ quyền ở “Nam Sa” (Trường Sa). Ông có ý kiến gì về vấn đề này?
Đáp: Đối với vấn đề chủ quyền lãnh thổ trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và chứng cứ lịch sử chứng minh rằng Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này ít nhất từ thế kĩ 17 khi nó chưa thuộc chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào. Từ thế kỷ thứ 17 đến thế kỷ 19, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo như cử các đội Hoàng Sa ra quần đảo đo đạc, thể hiện trên bản đồ, dựng bia, lập miếu, quản lý và tổ chức đánh bắt hải sản tại quần đảo Hoàng Sa. Các văn bản pháp lý của Nhà nước phong kiến Việt Nam như Châu bản, Sắc chỉ hiện đang được lưu giữ tại các trung tâm lưu trữ của Việt Nam đã khẳng định rõ chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong thời kỳ Pháp thuộc (cuối thế kỷ 19 nửa đầu thế kỷ 20), Pháp đã nhân danh Việt Nam tiếp tục thực thi quyền quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; từ những năm 30 của Thế kỷ 20 Pháp quy thuộc hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào các tỉnh đất liền của Việt Nam và cho quân đồn trú ở hai quần đảo này; sau đó theo Hiệp định Geneva, Pháp đã chuyển giao hai quần đảo cho chính quyền Sài Gòn - Chính phủ Việt Nam Cộng hoà. Sau năm 1975, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý các đảo ở Trường Sa.
Như vậy, việc thực thi chủ quyền lãnh thổ của các Nhà nước Việt Nam trên 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã được tiến hành một cách thực sự, hoà bình và liên tục, phù hợp với luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, năm 1956 Trung Quốc đã đưa quân đội chiếm các đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa, năm 1974 Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa; và năm 1988, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm một số bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa. Hành động này của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, đi ngược lại tinh thần Hiến Chương của Liên Hợp Quốc và đã bị nhiều quốc gia trên thế giới lên tiếng lên án.

Hỏi: Ông Dị Tiên Lương nói rằng năm 1958, Thủ tướng Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng đã gửi Công thư đến Thủ tướng Chu Ân Lai, công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với đảo “Tây Sa” (Hoàng Sa) và “Nam Sa” (Trường Sa). Ông có thể cho biết ý kiến của mình về việc này?
Đáp: Nội dung của Công thư ngày 14/9/1958 là hết sức rõ ràng: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chỉ ghi nhận, tán thành và tôn trọng Quyết định của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về hải phận 12 hải lý của đất nước Trung Quốc. Công thư không liên quan gì đến vấn đề chủ quyền lãnh thổ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lúc đó nằm phía Nam Vĩ tuyến 17 và theo Hiệp định Geneva thuộc thẩm quyền quản lý của chính quyền miền Nam Việt Nam - Chính phủ Việt Nam Cộng hoà.
Việc cho rằng bản Công thư ngày 14/9/1958 là bằng chứng Chính phủ Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là xuyên tạc lịch sử. Việt Nam từ trước tới nay chưa hề có bất cứ một tuyên bố nào từ bỏ chủ quyền thiêng liêng của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tháng 9 năm 1975, khi tiếp đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam sang thăm Trung Quốc, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã nói: “Giữa hai nước có tranh chấp về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sau này sẽ bàn bạc giải quyết”. Trong Bị vong lục ngày 12/5/1988 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng đã nhắc lại nội dung này. Điều này cho thấy, theo quan điểm của phía Trung Quốc, giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc có tồn tại tranh chấp đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tại các cuộc đàm phán về vấn đề trên biển giữa hai nước, kể cả tại các vòng đàm phán về Thoả thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển vừa qua, hai bên đều nêu rõ quan điểm của mình về vấn đề chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tôi xin khẳng định lại một lần nữa rằng lập trường của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là rõ ràng và nhất quán. Việt Nam là nhà nước đầu tiên và duy nhất đã thực hiện quyền làm chủ của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách hoà bình, ổn định và liên tục. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mặt khác, Việt Nam chủ trương giải quyết mọi tranh chấp ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng Luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 và trên tinh thần của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông năm 2002.

Hỏi: Ông có bình luận gì về việc ông Dị Tiên Lương nói rằng các hoạt động dầu khí của các nước ở “Nam Hải” (Biển Đông) mà không có sự đồng ý của Trung Quốc là hoạt động phi pháp?
- Là quốc gia đã ký kết và phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, Việt Nam đã và đang thực thi đầy đủ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các hải đảo, vùng biển và thềm lục địa của mình theo các quy định của Công ước. Cụ thể, Việt Nam đã thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát đảm bảo thi hành pháp luật trên các vùng biển và hải đảo; tiến hành thăm dò, khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường biển trong đó có các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí. Các hoạt động dầu khí đều được tiến hành trong vùng đặc quyền và thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam, không có tranh chấp với bất kỳ quốc gia nào.
Chính Trung Quốc cũng là quốc gia đã phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 nên cần phải có nghĩa vụ thực hiện các quy định của Công ước này.
Phát biểu nói trên của ông Dị Tiên Lương là hoàn toàn vô lý, xúc phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của các quốc gia ven biển theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982.

Thứ Tư, 11 tháng 1, 2012

Trống Đồng - Di chỉ nguồn cội Việt


Mới đây xuất hiện một entry trên 5xublog.org về cội nguồn dân tộc Việt Nam khiến dư luận khá xôn xao (Mời xem nội dung đầy đủ tại địa chỉ: http://5xublog.org/) Blog Bách Việt tôi cảm thấy ít nhiều có chút "trách nhiệm" để tham gia thảo luận xung quanh chủ đề thú vị này.
Trước hết xin chân thành bày tỏ sự đồng cảm trước tấm lòng quan tâm đến cội nguồn dân tộc của blog5xu khi đã cất công tìm tòi, lục lọi… và đưa ra một vài "ý tưởng" khá thú vị. Dù sao việc này cũng còn hơn là "ngồi chơi xơi nước" như nhiều vị "thiền sư sử học" trong biên chế lâu nay chỉ quen tụng niệm bài bản đã có và bắt học sinh học thuộc lòng lấy điểm rồi khen/chê giỏi/dở...; ai thắc mắc hay nói trái ý thì cho trượt luôn!
Thứ đến xin có vài nhời bàn như sau:
Entry của 5xublog đã diễn giãi một vài đoạn trong một quyển Giao châu ngoại vực kí của kẻ thống trị phương Bắc để nói rằng lịch sử nguồn cội dân tộc Việt Nam chẳng có gì, kể cả mấy cái tên gọi là Lạc Việt, Hùng Vương,...đều là do người Hán gọi thế kia, rồi người Việt dịch nôm na thành ra thế này...!
Thiết nghĩ nếu cứ suy diễm kiểu blog 5xu thì không thể nào kể ra cho hết mọi sự suy diễn có thể có về nguồn cội người Việt. Nhưng có một điều không nên quên là, mọi sử sách liên quan đến dân tộc Viêt Nam ngày nay đều do kẻ thống trị phương Bắc viết ra hoặc sao chép lại, thậm chí bị xuyên tạc, bịa đặt cho mục đích thống trị,do đó càng về sau càng sai lệch với sự thật. Khoan hãy bàn về nguồn gốc nguyên thủy người Việt từ đâu mà ra, gọi là gì,...nhưng điều đã rõ, họ đã bị người phương Bắc dồn đẩy về phương Nam và đô hộ 1.000 năm liên tục, cộng lại không ít hơn  2.000. Giả sử người Việt đã có chữ viết, thì trong quá trình bị dồn đẩy và thống trị chắc chắn khó mà còn lại dấu vết gì trên con đường ly tán tha hương đó. Cái mà ta còn thấy được trên vùng đất mà kẻ thù đặt tên là "Giao chỉ" thực sự không phải là điểm xuất phát của dân tộc Việt; và người Việt Nam bằng da bằng thịt ngày nay chắc chắn không phải là người Giao chỉ. Cũng không thể có cái gì gọi là "thuần Việt" cả đâu! Lịch sử nhiều nên văn minh nhân loại đã từng bị lãng quên trong các thời kỳ ngắn hơn thế nhiều lần (như người Maya,người Sumer, người Da đỏ, người Chàm...). Cái còn lại chính xác nhất không phải là qua sử sách mà trong các di chỉ khảo cổ và gen di truyền mặc các di tích còn phụ thuộc vào điều kiện thiên nhiên, di truyền đôi khi cũng khó nhận biết rạch ròi.
Theo tôi thiện nghĩ, trong khi còn phải chờ đợi bổ sung của những kết quả nghiên cứu khảo cổ và di truyền, có một cơ sở không chối cãi được của nguồn cội Việt là Trống đồng. Nói cách khác ở đâu có trống đồng, ở đó có thể tìm thấy nguồn cội Việt. Được biết, trong khi VN, vì một số lý do khác nhau, chưa thực sự coi trọng thì thế giới lại có nhiều nghiên cứu dưa trên các di chỉ khảo cỗ Trống Đồng. Ngoài giá trị vật thể của bản thân chiếc trống, các hoa văn trên trống cũng cho thấy những chỉ dấu về nhân văn của người Việt, đặc biệt có biểu tượng Kinh Dịch mà đến nay người TQ đã chính thức thừa nhận không phải của mình. Dưới đây là một trích đoạn nói về Trống Đồng trên Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.

Bắt đầu trích dẫn
Nghiên cứu về nguồn gốc trống đồng
Tại phương Tây, đã có dấu vết rằng người ta đã biết về trống đồng từ năm 1682[6]. Nhưng mãi tới cuối thế kỷ 19 mới có học giả bàn về trống đồng như Hirth (1890), tác giả này cho rằng trống đồng là của Trung Quốc. Rồi De Grooth (1901) cho là của Việt Nam. Trong cuốn Alte Metalltrommeln aus Südost Asien (Trống kim loại cổ Đông Nam Á) năm 1902, Franz Heger, nhà khảo cổ học người Áo khẳng định rằng trống đồng xuất phát từ miền Bắc Việt Nam và trung tâm các cuộc tìm kiếm sau này về trống đồng phải là ở vùng này. Ông Heger phân chia 165 chiếc trống được biết đến lúc ấy thành 4 loại - phân loại Heger. Trước thập niên 1950, một số phân loại khác đã được đề xuất, nhưng không có cách nào được chấp nhận rộng rãi như phân loại của Heger[7].
Các nghiên cứu về trống đồng mãi đến cuối thế kỷ 19 mới được bắt đầu và được bắt đầu bởi người phương Tây. Trước thập niên 1950, hầu hết các nghiên cứu quan trọng đều được viết bởi các học giả phương Tây, đặc biệt nhất là Heger. Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập vào năm 1949 và Việt Nam bị chia cắt vào năm 1954, các học giả Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu chiếm lĩnh lĩnh vực nghiên cứu về trống đồng. Đến cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, đã có những cuộc tranh luận xung quanh việc phân loại trống, ý nghĩa các họa tiết trang trí, niên đại trống..., nhưng chủ đề tranh luận chính yếu là trống đồng xuất phát từ đâu: miền Bắc Việt Nam hay miền Nam Trung Quốc[8]. Các học giả Việt Nam ủng hộ phân loại của Heger và cho rằng trống đồng Đông Sơn (Heger loại I) là loại cổ nhất. Còn các học giả Trung Quốc ban đầu đa số phủ nhận phân loại của Heger, cho rằng kiểu trống tương ứng với Heger loại II mới là cổ nhất. Từ khi trống loại Vạn Gia Bá, loại trống gần giống loại Đông Sơn nhưng hoa văn đơn giản hơn, được tìm thấy ở Vân Nam, các học giả Trung Quốc lại quay về thống nhất với một cách phân loại theo thứ tự phân loại của Hegel nhưng bổ sung một loại xếp thứ tự cổ hơn Heger loại I, đó là loại trống Vạn Gia Bá. Theo cách phân loại của Việt Nam, trống Vạn Gia Bá (trống Thuong Nong tìm thấy ở Việt Nam thập niên 1980 thuộc loại này) được xếp vào loại con của thời kỳ cuối của loại trống Đông Sơn.
Các nhà nghiên cứu Việt Nam và Trung Quốc vẫn chưa đi được đến một kết thống nhất về một xuất xứ Việt Nam hay Trung Quốc của trống đồng - một truyền thống mà có thể đã được chia sẻ giữa tổ tiên của cả hai. Thực tế là tại thời điểm trống đồng được phát minh, không có một đường biên giới giữa Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc. Nhiều nhóm người sống trong vùng đất rộng lớn đó đã có quan hệ với nhau về sinh học hoặc văn hóa hoặc cả hai. Học giả phương Tây Charles Higham, người đứng ngoài cuộc tranh cãi, cho rằng các xu thế dân tộc chủ nghĩa của các nhà khảo cổ học Việt Nam và Trung Quốc đã che lấp tình huống mà khảo cổ học đã khai lộ. Ông đưa ra giả thuyết rằng trống đồng đã được tạo bởi các nghệ sĩ tài hoa của một nhóm các xã hội có tổ chức ngày càng phức tạp với địa bàn trải rộng qua biên giới Việt-Trung hiện đại, để trang bị cho các chiến binh và làm biểu tượng cho vị thế cao của những người lãnh đạo. Ông viết: "Việc tìm kiếm nguồn gốc tại một vùng này hay vùng khác đã bỏ qua điểm quan trọng. Các thay đổi đã được thực hiện suốt từ vùng mà ngày nay là miền Nam Trung Hoa tới đồng bằng sông Hồng bởi các nhóm người mà thời đó đã trao đổi hàng hóa, tư tưởng, và cùng chống lại sự bành trướng từ phía Bắc của một quốc gia hùng mạnh và hiếu chiến"[9]. Quan điểm này tương đồng với sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu Việt Nam, Trung Quốc, hay phương Tây rằng trống đồng là sản phẩm của người Lạc Việt - tộc người Việt cổ được cho là có địa bàn sinh sống trải từ miền Nam Trung Quốc tới miền Bắc Việt Nam.
Hết trích dẫn.(*)

Nói vậy để thâý rằng nếu chỉ "tầm ngôn, trích cú" từ sách sử của phương Bắc thì chưa đủ để kết luận về nguồn gốc người Việt! Hơn nữa nếu trình bày vấn đề một cách phiến diện rất dễ khiến cho bản thân ta mất lòng tin vào chính mình,thậm chí tự chế nhạo mình, thì thật là tai hại!. Dân tộc nào, kể cả người Hán, đều trãi qua thời kỳ mông muội, thô sơ lạc hậu...Chẳng qua nhờ có cơ hội nào đó mà vượt lên hoặc nhỡ cơ mà đi xuống hoặc lụi tàn. Nhưng vạn vật đều có chu kỳ tiến hóa của nó. Khi bàn về cội nguồn dân tộc, người ta không căn cứ vào kết quả mà căn cứ vào quá khứ dù quá khứ đó là huy hoàng rực rỡ hay không. Cái chính là để tìm ra "sợi giây" liên kết hiện tại với quá khứ để làm điểm tựa đi vào tương lai, nếu không sẽ như con diều đứt giây vây!./.

 (*) Nguồn:Wikipedia song ngữ Việt và Anh.


Thứ Hai, 9 tháng 1, 2012

Chán quá!



Gần tuần lễ nay blogger tôi không thể nào vào được "nhà" của mình. Thử vào blog khác thấy một số như Lều Thăng sắc, Tuanvn, v.v...cũng không được,nhưng vào Quechoa,Bauxitvn, Basam... vẫn bình thường.Hỏi tranhung09 bảo đó là do "trùng" với đợt chặn của nguồn cung cấp dịch vụ gì đấy..., và bày cho cách "vượt rào". Thế là hôm nay mới vào được... Nhưng thấy nhà trống vắng hẳn, chỉ có vài trăm readers cả tuần qua!

Từ ngày chuyển sang blogspot (tháng 3/2011) đây là lần "bị chặn" tệ hại nhất.Đáng lẽ không sốt ruột lắm nếu không có tâm trạng chờ đợi số reader 99.999!, và cũng lo bị ai đó "phá nhà"... Hiện giờ tạm thời "vượt rào", nhưng tốc độ rất chậm chạp và khó làm việc, cũng chẳng thấy mấy reader vào đọc. Nói chung là chán và nản với cái trò "ngăn sông cấm chợ"!

Nguồn lực CNTT của Việt Nam chỉ thiếu...một người



Đó là tiêu đề của một mẫu tin đăng trên Vietnamnet sáng nay (9/01/2012)
Tin cho hay tại cuộc Hội thảo Quốc gia về Công nghệ Thông tin & Truyền thông Việt Nam 2011 diễn ra ngày 7/1 tại Hà Nội, Ông Quách Tuấn Ngọc, Cục trưởng Cục CNTT (Bộ Giáo dục - Đào tạo khẳng định, nguồn nhân lực CNTT chỉ thiếu… “một người”.Tuy nhiên, đó lại là người quan trọng nhất: thủ trưởng, người đứng đầu, nhà lãnh đạo. Còn nhân lực số đông để thực hiện và triển khai, theo ông Ngọc, thì Việt Nam không hề thiếu.

Trước đây, một số báo có đưa tin về việc doanh nghiệp nước ngoài phàn nàn về chất lượng nhân lực Việt Nam. Trên thực tế, sau đó chính doanh nghiệp này phải gửi đi văn bản khẳng định lại là sinh viên VN sang Mỹ học rất giỏi, giành nhiều giải thưởng và có thành tích nghiên cứu xuất sắc. Như vậy rõ ràng là người VN không yếu về tố chất. Cái chúng ta yếu là phương pháp đào tạo, cách thức đào tạo, ông Ngọc chia sẻ

Hiện tại, theo thống kê, VN hiện có khoảng 10 triệu học sinh trung học, 2 triệu sinh viên và hơn một triệu sinh viên học nghề. Phát biểu tại Hội thảo, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân khẳng định đây chính là lực lượng nòng cốt để hình thành nên 16-20 triệu công dân điện tử trong giai đoạn 2015-2020, với các kỹ năng công nghệ thành thạo và nền tảng tri thức mạnh để kéo xã hội đi theo.

Phát triển nguồn nhân lực CNTT cũng chính là một trong bốn trụ cột chính của đề án “Sớm đưa Việt Nam trở thành nước mạnh về CNTT”. Bên cạnh đó, một đề án lớn, độc lập là “Chương trình Máy tính nối mạng tri thức” cũng đang được Bộ Thông tin & Truyền thông soạn thảo, với mục tiêu đẩy mạnh, nâng cao trình độ sử dụng và nghiên cứu CNTT trong sinh viên, học sinh, thanh thiếu niên, giáo viên và cộng đồng nói chung.

Trả lời báo giới, ông Nguyễn Trọng Đường, Vụ trưởng Vụ CNTT (Bộ TT&TT) cho biết để phát triển nguồn nhân lực thì Nhà nước cần ưu tiên đầu tư và có cơ chế đặc thù để phát huy quyền tự chủ cho một số cơ sở đào tạo, nghiên cứu trọng điểm về CNTT, tạo điều kiện cho những cơ sở này đạt đến trình độ quốc tế.

Ý kiến này cũng nhận được sự đồng tình từ phía các chuyên gia tham dự hội thảo. Ông Mai Sean Cang, Tổng Giám đốc Intel Việt Nam khuyến nghị rằng đầu tư cho nguồn nhân lực nên tiến hành một cách có trọng điểm. Các chương trình phát triển giáo dục nên được đẩy mạnh đầu tư và đội ngũ Giáo viên thành thạo, có chất lượng cao về CNTT cần được hình thành trước tiên. “Bộ TT&TT có thể xem xét quỹ Viễn thông công ích để đầu tư, xây dựng lực lượng giáo viên và các cơ sở đào tạo đẳng cấp, từ đó mới lan tỏa, phát triển được đội ngũ nhân lực số lượng lớn là các sinh viên, học sinh”, ông Cang phân tích.

Bình luận về vấn đề này, ông Đường cho biết Bộ TT&TT đã nhận được ý kiến đóng góp từ nhiều phía. Chính vì vậy, sau một năm triển khai, một nhiệm vụ trọng tâm của Đề án “Sớm đưa VN trở thành nước mạnh về CNTT” trong giai đoạn tiếp theo sẽ là xây dựng các cơ chế, chính sách mới hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực CNTT và có những chương trình đào tạo “Kỹ năng thế kỷ 21” cụ thể, với kỹ năng sử dụng CNTT là yêu cầu bắt buộc.
Phóng viên:Y Lam

Thứ Tư, 4 tháng 1, 2012

Cái nút áo

Câu chuyện dưới đây tôi đã đọc trên mạng, nhưng không hiểu sao lúc đó thấy cũng bình thường. Mới đây nhân năm mới bạn bè lại chuyển cho bằng e-mail, đọc lại thấy câu chuyện như hay hơn rất nhiều lần... Hóa ra đó là do tâm trạng - yếu tố vô cùng quan trọng khi ta làm bất cứ việc gì... Và tôi thấy phải lưu lại câu chuyện này cho chính mình và con cháu , sau đó là bạn bè cùng chia sẻ.

Cái nút áo

Tác giả: Không tên
Nguồn:http://songdep.xitrum.net/nghethuatsong/532.html

Cảm thấy khát khô ở cổ, tôi lồm cồm ngồi dậy mở tủ lạnh nốc một hơi. Nước lạnh làm tôi tỉnh người. Nhìn đồng hồ đã hơn 4g sáng. Tôi đến bên máy vi tính bật máy lên. Mở chương trình Nhật Ký định nhập vào những việc mình đã làm hoặc những suy nghĩ về một ngày đã qua. Nhưng chương trình lại bật lên thông báo nhấp nháy màu đỏ chói: "Tuần sau là đến ngày đầu tiên quen M". Tôi chỉnh chương trình để xem lại cái ngày đầu tiên đó và mỉm cười khi thấy lúc đó mình trẻ con hết sức.Tôi quyết định sẽ lục tung hết Internet để tìm ra một cái thiệp độc chiêu gửi nàng. Cuối cùng tôi cũng mãn nguyện với một cái thiệp nhiều ý nghĩa. Tôi kéo ngăn tủ ra để lấy cái đĩa CD hình mình để ghép vào thiệp, nhưng chợt nhìn thấy trong đó có một gói quà xinh xắn. Biết là của M tôi hồi hộp mở gói quà. Bên trên là một tấm thiệp to, còn bên dưới là một chiếc đồng hồ để bàn rất dễ thương và một cái nút áo. Hơi ngạc nhiên khi nhìn cái nút áo, tôi vội mở thiệp ra xem. "Anh thân mến! Thế là chúng mình quen nhau đã 3 năm rồi. Trong 3 năm qua em rất vui vì đã quen được anh. Em đã học được rất nhiều điều từ anh. Anh là người rất giỏi, làm được rất nhiều việc lại sống rất tốt với mọi người. Anh sống hết sức chan hoà không câu nệ giàu nghèo, chức vị. Anh hết lòng với mọi người và được rất nhiều anh em bè bạn mến yêu, kính nể. Tối nay, cũng như bao ngày em đến nhà anh, đã 9g tối anh vẫn chưa về nhà. Khi đến nhà anh, em nhìn thấy mẹ đang khâu lại chiếc áo bị bỏng thuốc lá của anh. Nhìn mẹ chợt em nhớ đến anh, rồi nhớ đến những gì em đã thấy ở nhà anh. Em xin phép được tặng cho anh cái đồng hồ với lời nhắn: "Thời gian luôn trôi đi lạnh lùng. Có những thứ ngày mai làm được, nhưng có những thứ ngày mai không thể nào làm được". Và một cái nút áo với lời nhắn chân tình: "Đôi khi người ta biết được rất nhiều điều nhưng lại không biết một điều đơn giản là áo mình đang mặc có bao nhiêu cái nút!". Anh đã sống vì mọi người nhưng trong mọi người lại thiếu một người quan trọng nhất. Anh hãy xem tờ giấy bên dưới. Chúc anh luôn vui vẻ và thành đạt". Tôi cầm đồng hồ và cái nút lên, bên dưới có một tờ giấy xếp làm tư nằm ngay ngắn, tôi mở ra xem và thấy ngẩn ngơ với những dòng chữ dưới đây: Em thấy anh rủ bạn về nhà cùng vui vẻ, làm xả láng mấy thùng Ken, anh em bàn tán chuyện đời, chuyện cơ quan, chuyện nhà sếp, chuyện quan trường, đủ thứ chuyện nhậu hoài bàn hổng hết. Em thấy mẹ cặm cụi dọn dẹp thức ăn dư, lom khom nhặt từng vỏ lon xếp lại, sáng mai ra chợ đổi lấy chục chanh pha nước, cho thằng con tỉnh rượu mỗi khi say. Em thấy anh sáng ra sạp gom gần hết báo, đọc ngấu nghiến từng bài từng mục. Ngẫm chuyện đời, chuyện quan liêu, chuyện cửa quyền, chuyện Mỹ, chuyện I rắc, chuyện SEA Games... Em thấy mẹ cẩn thận sắp từng tờ báo, lựa riêng ra những phần quảng cáo rồi ngập ngừng hỏi cái này cân ký bán được hông con? Em thấy anh chơi hết lòng với bạn, chẳng bỏ về dù tăng 4 hay tăng 3... Em thấy mẹ cứ trằn trọc ra vô mãi, 2g rồi mà phòng nó vắng tanh Em thấy anh sau một ngày làm mệt mỏi, về nhà bật máy lạnh, bật quạt, ngã lưng nằm thẳng chân, chẳng muộn phiền. Em thấy mẹ ra hiên nằm những ngày trời nóng, rồi lẩm bẩm xem điện tháng này có quá định mức chưa. Em thấy anh ghiền chơi vi tính, cứ băn khoăn hoài chuyện nâng cấp CPU lên 2 hay 3 Gb. Em thấy mẹ rất ghiền xem cải lương, cứ chặm nước mắt, cứ cười vui thoải mái khi xem hoài cái tivi cà giật, cái Tivi từ lúc anh tắm mưa. Em thấy anh chuyên viên vi tính, viết phần mềm để quản lý công ty, xem công nợ, lãi lỗ, bấm một phát là có ngay. Thế mà chẳng thể nào tính đúng được tình thương của người mẹ. Em thấy mẹ chẳng cần vi tính, vẫn âm thầm lập trình cá, cơm, rau. Biết chị Hai cái áo ủi không ngay, còn anh nữa đôi giày cả tuần chưa chịu đánh! Em thấy anh chuyện làm chuyện lớn mà quên đi những chuyện nhỏ xung quanh. Em thấy mẹ suốt đời vụn vặt mà dạy con mình những bài học lớn lao... Có bao giờ các bạn nghĩ rằng mình đã thật sự quan tâm đến ai đó chưa?Có bao giờ các bạn đã quan tâm đến những chuyện dù chỉ là nhỏ nhặt?Có bao giờ các bạn tự đặt mình vào hoàn cảnh của người khác?Hi vọng qua câu chuyện này tôi và các bạn có thể tìm lại được những bài học về sự quan tâm mà các bạn đã lỡ đánh mất.Hãy dành những lời chúc tốt đẹp nhất cho những người người mẹ, người cha, những người luôn ở bên các bạn, luôn hướng sự quan tâm về phía các bạn mà không cần đòi hỏi điều đó từ các bạn !
*****

Thứ Ba, 3 tháng 1, 2012

Khi người đứng đầu nói mà không làm

Tại HN TW VI, khóa XI (từ 26-31/12/2011) đã đưa ra NQ về củng cố, chỉnh đốn Đảng,  Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài phát biểu vạch ra nhiều vấn đề yếu kém tồn tại..., coi đây là "vấn đề sống còn của Đảng ta, chế độ ta".

Nếu đọc kĩ, có thể thấy hầu hết nội dung bài phát biểu, kể cả cụm từ "vấn đề sống còn của Đảng, chế độ", đều đã được các vị lãnh đạo đảng và nhà nước cũng như nhân dân đã nói đến trong các dịp khác nhau với mức độ và cách thức khác nhau. Tuy nhiên bài của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lần này mang tính tổng kết súc tích, rõ ràng hơn cả. Nó lại được đưa ra tại một thời điểm "bức xúc" nhất của dư luận trước tình trạng suy thoái về tư tưởng trong bộ máy công quyền và trong Đảng . Có lẽ đây là lý do chính để ông nhận được sự hoan nghênh và cả niềm hy vọng từ công chúng.

Tuy nhiên, ngay cả những người lạc quan tin tưởng nhất vẫn không tránh khỏi tâm trạng hoài nghi về tính khả thi của nó. Nhân dân cần nhiều hơn và cụ thể hơn thế. Còn nhớ thời ông Lê Khả Phiêu đã từng nói rất mạnh về chống tham nhũng khi mới nhậm chức năm 1997 để rồi bị "thay ngựa giữa dòng" giữa nhiệm kỳ . Thời ông Nông Đức Mạnh khi mới lên cũng đã nói đến chống tham nhưng sau đó giống như "mất điện" và chỉ có thể tồn tại cho đến hết nhiệm kỳ mà chẳng làm được gì. Liệu ông Trọng có đi theo vết xe của các người tiền nhiệm?

Nếu được phép đưa ra lời khuyên, nhân dân mong rằng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, với lợi thế đang ở thời kỳ chín mùi nhất của "nguy cơ tồn vong của đảng và chế độ" như ông nhận định, hãy hành động trước khi quá muôn. Và hành động nếu có của ông, trước hết nên bắt đầu từ những việc cụ thể của bản thân và nơi ông trực tiếp điều hành, ví dụ, cắt giảm và tinh giản biên chế của các cơ quan chuyên trách Đảng, tách quỹ lương khỏi hệ thống hành chính công, bãi bỏ một số chế độ đãi ngộ vô lý, v.v... Từ đó chắc chắn ông sẽ tạo nên những tác động có tính lan tỏa được đông đảo nhân dân ủng hộ và không thế lực nào có thể ngăn cản . Thực tiễn Việt Nam cho thấy nếu thực hiện quy trình ngược lại, tức là người đứng đầu chỉ nói và ra chỉ thị cho các ngành các cấp...thì hãy đợi đấy!!!, họ sẽ bị các nhóm lợi ích tìm mọi cách chống trả làm vô hiệu hóa mọi quyết định dù là rất đúng đắn và chân thành của người đứng đầu. Trong trường hợp đó, hậu quả đối với xã hội còn tệ hại hơn; nó giống như mở banh một khối ung nhọt nhưng không có cách cứu chữa vậy!

Trần Kinh Nghị


Thứ Hai, 2 tháng 1, 2012

Uống rượu ngày Tết

Ngày đầu năm một người bạn chuyển cho câu chuyện vui ngắn gọn, dí dõm...xin đăng lại để thêm nhiều người cùng đọc.



Thi hào Goethe pha rượu

J.W.Goethe là thi hào của nước Đức giai đoạn cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Ông nổi tiếng với cuốn tiểu thuyết "Nỗi đau khổ của chàng Werther", với truyện thơ "Faust"(đều được dịch in ở Việt Nam ta) và nhiều câu thơ mang hàm ý triết lý sâu sắc. Nhiều bạn đọc chúng ta hẳn còn nhớ hai câu thơ có tính châm ngôn nổi tiếng của ông: Mọi lý thuyết đều màu xám/ Chỉ cây đời mãi mãi xanh tươi.
Đây là câu chuyện xảy ra thời thanh niên của ông, chúng cho thấy ở nhà thi sĩ bậc nhất này khả năng châm biếm sắc sảo.
Lần ấy, Goethe đến một cửa hàng ăn uống. Quanh bàn ăn của ông là một đám thanh niên đang nhậu nhẹt, cười đùa một cách khả ố. Thấy vậy, Goethe vẫy người hầu bàn đến, gọi một ly rượu và nhắc thêm anh ta đưa kèm cho ông một ly nước lọc. Xong đâu đấy, ông lặng lẽ bình thản đổ lẫn hai thứ đó vào với nhau, uống từng ngụm một cách thản nhiên.
Thấy điệu bộ khác thường, cách uống rượu "kỳ quặc" của ông, đám thanh niên bất lịch sự kia đổ ra những tràng cười giễu cợt. Thậm chí, một người trong đám họ còn khệnh khạng bước lại bên nhà thơ, hỏi một cách thô bạo:
- Uống kiểu gì lạ vậy? Tại sao lại là rượu trộn lẫn với nước?
Hết sức bình tĩnh, Goethe trả lời:
Chỉ uống riêng nước, người ta sẽ trở thành câm lặng. Chính tôm cá dưới ao hồ đã chứng minh điều đó. Chỉ uống riêng rượu sẽ làm cho người ta trở nên thiếu văn hóa và thừa lố bịch. Chính các anh đã chứng minh điều đó. Vì không muốn thiếu văn hóa và thừa lố bịch như các anh, nên tôi uống rượu trộn lẫn nước như các anh thấy đó!

Còn đây là chuyện pha rượu ở VN
Tại một làng nọ, có ba anh chàng rủ nhau đi nhậu. Cả ba người đều nhắc nhở nhau rằng mỗi người nhớ đem theo phần rượu của mình để trộn chung vào uống cho đậm tình bằng hữu. Đến hẹn, anh thứ nhất tự bảo: “Mình đem chai nước lạnh này đi, trộn vào rượu của hai thằng kia, ai mà biết!” Anh thứ hai cũng mang theo chai nước vì nghĩ rằng chắc hai ông bạn mình đem rượu mạnh, pha loãng cho vơi. Đến lượt anh thứ ba cũng đem chai nước thay vì rượu như đã hứa vì nghĩ chắc rằng hai anh kia đã đem rượu theo. Tại quán rượu, cả ba anh hồ hởi pha chung ba chai lại với nhau.
Khai tiệc, ba anh cụng ly, khà một tiếng, và…đều khen “rượu chúng ta ngon thật”!
Nguồn: internet






Chủ Nhật, 1 tháng 1, 2012

Ông Vũ Khoan nói về hai "cặp quan hệ": Việt-Trung, Việt-Mỹ

Vẫn biết tài liệu này đã được nhiều blog đăng tải, nhưng chủ blog tôi vẫn đăng lại vì nhận thấy giá trị nghiên cứu đặc biệt từ ý kiến của ông Vũ Khoan, nhất là vào dịp này. Do bài viết dài và dưới 2 tiêu đề khác nhau chủ blog xin đặt cả hai trong một tiêu đề chung để tiện tham chiếu.Quan hệ Việt - Trung 2011 qua góc nhìn ông Vũ Khoan
Có người không hiểu cho cái đó (giữ cầu đối thoại), có người trái tim nóng nhưng đầu không lạnh, thậm chí một số ít người lợi dụng để kích động, vì những tính toán riêng..., còn công tác tuyên truyền lại không kịp thời. Nên nhìn sự việc một cách thấu đáo, toàn diện chứ cứ trách cứ nhau. Điều đó chỉ có lợi cho những người muốn "tọa sơn quan hổ đấu", đứng xem chúng ta tranh luận, oán trách nhau. - nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan
LTS: Nhân kết thúc một năm với những sự kiện đối ngoại đáng chú ý, mục Gặp gỡ & Đối thoại tuần này xin được giới thiệu cuộc trao đổi của phóng viên Tuần Việt Nam với Cựu Phó Thủ tướng Vũ Khoan xung quanh Năm Đối ngoại 2011.
Ông Vũ Khoan là nhà ngoại giao hiếm hoi tham gia quá trình bình thường hoá và phát triển quan hệ của Việt Nam với cả Trung Quốc, Mỹ và ASEAN - ba nội dung chính của cuộc trao đổi này.
Quan trọng hơn, ông là một trong số không nhiều những vị lãnh đạo đã nghỉ hưu mà vẫn dõi theo những tiến triển của thời cuộc, và đưa ra cho những người kế nhiệm, nhất là trong lĩnh vực đối ngoại, những gợi mở quan trọng cho công tác hoạch định chính sách. Hay như nhận xét của một quan chức ngoại giao đã tham dự Hội nghị Ngoại giao vừa rồi tại Hà Nội, ông là một "forward thinker".
Cam kết bằng giấy trắng mực đen
Theo đánh giá của ông, sự kiện đối ngoại nào của Việt Nam được coi là quan trọng?
Năm vừa rồi, mặc dầu ta tổ chức Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội song hoạt động đối ngoại vẫn rất sôi động. Xét về trao đổi cấp cao thì nhiều đoàn đã đến thăm nước ta và cũng không ít đoàn cấp cao của nước ta đi thăm nước ngoài. Mỗi đoàn đều có ý nghĩa riêng.
Song, theo tôi, sự kiện đáng chú ý nhất trong năm là việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đi thăm Trung Quốc.
Tại sao, thưa ông?
Kết quả mấu chốt của chuyến thăm là hai bên đã thỏa thuận và ký bản Thoả thuận 6 điểm về những nguyên tắc chỉ đạo cuộc đàm phán về những vấn đề trên biển.
Nếu ta nhớ lại năm 2010, tình hình trên Biển Đông khá căng thẳng. Với cái thoả thuận này, dù sao đi nữa cuộc tranh chấp cũng đã được đưa vào kênh đàm phán. Mà đàm phán bao giờ cũng tốt hơn là xung đột, nó có lợi cho Việt Nam, có lợi cho Trung Quốc, có lợi cho khu vực.
Trong thời đại ngày nay, bất cứ vấn đề gì cũng nên tìm mọi cách giải quyết thông qua thương lượng.
Một vấn đề phức tạp như tranh chấp trên Biển Đông đã được đưa vào kênh thương lượng là điều đáng ghi nhận.
Tại sao ngay sau khi hai bên thoả thuận, lại đã gây ra một số hiểu lầm trong khu vực. Chẳng hạn, Philippines lên tiếng đòi giải thích. Liệu có phải do cách diễn giải có chủ ý của truyền thông Trung Quốc, chẳng hạn như CCTV4, nói rằng Trung Quốc và Việt Nam thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng đàm phán song phương?
Đây là sự xuyên tạc thôi. Trong thoả thuận 6 điểm đã nói rõ cái gì liên quan đến song phương thì giải quyết song phương, còn cái gì liên quan tới nhiều bên thì giải quyết với các bên liên quan.
Đó là vấn đề nguyên tắc và chúng ta luôn kiên trì ngay từ đầu, và cuối cùng đã được đưa vào văn bản, được cam kết bằng giấy trắng mực đen đàng hoàng, chứ không phải nói miệng, và được ký trước sự chứng kiến của lãnh đạo cấp cao nhất của hai nước.
Theo tôi được biết, sau chuyến thăm ta đã thông báo rõ ràng cho các nước hữu quan. Là một nước đã từng bị thiên hạ dàn xếp sau lưng những vấn đề của mình không phải một lần, chúng ta không bao giờ chấp nhận việc bàn thảo sau lưng các nước khác những vấn đề liên quan tới họ.
Trước đây, (tất nhiên gần đây có gián đoạn) cứ năm nay lãnh đạo cao cấp Việt Nam sang thăm, thì sang năm sau lãnh đạo cấp cao Trung Quốc sang thăm lại. Tại sao TBT Nguyễn Phú Trọng vừa thăm Trung Quốc vào tháng 9.2011, thì đến tháng 12.2011, Trung Quốc lại cử ngay ông Tập Cận Bình - người được coi là sẽ kế nhiệm chức vụ đứng đầu Đảng và Nhà nước, sang thăm Việt Nam?
Thường xuyên gặp cấp cao đã trở thành truyền thống, không chỉ giữa hai nước Việt - Trung mà là giữa nhiều nước trên thế giới. Dù sao đi nữa những cuộc gặp như vậy là dịp các nhà lãnh đạo cao nhất trao đổi ý kiến, vạch ra phương hướng và biện pháp lớn phát triển quan hệ, đồng thời trang trải khúc mắc, nếu có.
Các cuộc gập cấp cao giữa ta và Trung Quốc cũng nằm trong thông lệ đó. Giữa lúc quan hệ có trục trặc thì những cuộc trao đổi như vậy càng cần thiết.
Quan hệ giữa hai nước có lịch sử rất lâu dài và không đơn giản, lúc thăng lúc trầm. Trong khi mọi chuyện diễn ra phức tạp, chúng ta càng nên bình tĩnh, tỉnh táo theo phương châm "trái tim phải nóng, nhưng đầu phải rất lạnh".
Với cái đầu lạnh và với truyền thống nghĩa tình trọn vẹn, chúng ta không quên sự giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc trước đây trong các cuộc kháng chiến cứu nước, đồng thời cũng nên thấy rằng, kể từ khi bình thường hóa quan hệ tới nay về tổng thế mối quan hệ giữa hai nước đã phát triển mạnh mẽ về nhiều mặt, những vấn đề hắc búa như biên giới trên bộ, phân định vịnh Bắc bộ đã được giải quyết. Điều này có lợi cho môi trường quốc tế của nước ta, có lợi cho vị thế của ta.
Chỉ còn vấn đề biển Đông, ta cần nỗ lực giải quyết thông qua thương lượng ngoại giao. Thực ra chuyện này không mới, nó tồn tại từ lâu và đã từng nổ ra xung đột quân sự năm 1974, 1988..., sau đó không ít lần xẩy ra căng thẳng. Chẳng thế mà ASEAN có tuyên bố năm 1992 mà ta cũng tham gia (lúc đó mới là quan sát viên), rồi DOC giữa ASEAN và Trung Quốc...
Nhưng liệu người Việt Nam có thực sự là người mau quên ơn không, khi tình nghĩa với người Nga ngày xưa vẫn được giữ gìn khá trọn vẹn? Buổi gặp gỡ thầy trò Nga - Việt đầu năm ngoái, mà ông đã tham dự, chẳng hạn, đã thể hiện phần nào điều đó.
Hay là do, như có người nhận xét (nhà sử học Dương Trung Quốc) rằng chúng ta chưa được sòng phẳng lắm với lịch sử, cả lúc thăng và lúc trầm trong quan hệ?
Tôi không biết anh Dương Trung Quốc nói thế nào và có ý gì. Nhưng, cũng với cái đầu lạnh, ta cũng phải thừa nhận một thực tế nữa là trong quan hệ giữa hai nước từ giữa những năm '70 của thế kỷ trước đã xấu đi và năm 1979 đã xẩy ra chiến tranh biên giới. Đó là một thực tế.
Chỉ có điều mình chủ trương khép lại quá khứ, hướng tới tương lai như mình cũng đã từng ứng xử như vậy với Pháp, với Mỹ, với Nhật, Hàn quốc.... Khổ nỗi nước ta bị nhiều nước xâm lấn quá, cứ nuôi hận thù trong tim thì làm sao sống được?
Tuy nhiên, những chuyện lịch sử như vậy không dễ gì xóa hết, nhất là lúc này lúc khác lại nẩy sinh phức tạp gợi lại nỗi niềm quá khứ. Do vậy ta mong các nước "có vấn đề" với ta tránh để xẩy ra những việc gợi lại quá khứ mà làm mọi việc vì tương lai hợp tác hữu nghị bình đẳng.
Liên quan đến tranh chấp Biển Đông, có ý kiến cho rằng nói đến (tranh chấp) Biển Đông là nói đến (tranh chấp) hai quần đảo. Trong khi đó, nhiều ý kiến cho rằng vấn đề vùng nước mới là điều đáng lưu tâm, ít nhất là trước mắt. Ý kiến của ông?
Có ba câu chuyện ở Biển Đông và chúng đều quan trọng cả.
Thứ nhất là Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, người mình đã ở đó bao nhiêu năm rồi, nhưng bây giờ không còn trong tay mình nữa.
Thứ hai là Trường Sa, mình đã hiện diện từ trước ở đó rồi, nhưng đến năm 1988 lại xảy ra cuộc đánh chiếm một số điểm thuộc quần đảo này.
Thứ ba là thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của mình đúng theo luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật biển năm 1982 mà cả mình và Trung Quốc đều đặt bút ký, nhưng Trung Quốc đã khoanh thành cái lưỡi bò choán vào khá sâu, kể cả vùng thuộc các nước khác theo luật quốc tế.
Chuyện chủ quyền lãnh thổ chẳng có gì ít quan trọng cả.
Tôi vẫn nói với phía Trung Quốc là xử lý nó phải có lý, có tình. Tình ở đây là tình hàng xóm láng giềng, tối lửa tắt đèn có nhau. Còn cái lý là luật pháp quốc tế, nhất là Luật biển 1982. Hai nước có quan điểm khác nhau mà không lấy một cái chuẩn chung làm thước đo thì làm sao được? Cái thước đo duy nhất là luật pháp quốc tế thôi - tức là Công ước Quốc tế về Luật Biển.
Anh cũng ký, tôi cũng ký, đều là thành viên rồi. Cứ lấy chuẩn đó mà "cò cưa" với nhau để làm rõ trắng đen, phải trái.
Có một thực tế là ở Việt Nam, và cả ở Trung Quốc, đều có một xu thế đề cao chủ nghĩa dân tộc dường như hơi thái quá. Vậy, theo quan điểm của ông, chúng ta nên giải quyết như thế nào?
Chẳng hạn, nói về thông tin. Tôi có cảm giác, có thể là sai, rằng giữa người lãnh đạo với người dân dường như chưa có sự tin tưởng lẫn nhau. Dân thì cũng nghi hoặc chuyện nọ chuyện kia, còn lãnh đạo thì dường như chưa hẳn đã tin dân?
Cũng không phải thế. Bảo lãnh đạo không tin dân thì tin ai, làm sao lãnh đạo, điều hành đất nước được? Làm gì có chuyện đó, nói thế thì "oan" quá. Lãnh đạo mà có được người dân nhiệt tình yêu nước thì còn gì hơn!
Chỉ có điều cách thể hiện lòng yêu nước sao cho có lợi nhất cho đất nước. Những người thể hiện lòng yêu nước cao đẹp nhất là các chiến sỹ ở hải đảo không quản ngại gian nan, giữ vững chủ quyền.
Tôi vô cùng khâm phục họ, nhất là các chiến sỹ ở những điểm DK nhỏ xíu giữa biển khơi mênh mông, sóng bão bịt bùng mà vẫn kiên định. Tôi cứ trộm nghĩ phong tặng danh hiệu Anh hùng cho tất cả những người đó cũng xứng đáng!
Còn một chuyện khác cũng cần có sự thông hiểu.Thực ra, trong quan hệ đối ngoại có cái khó là không phải mọi chuyện đều có thể lên truyền hình bảo rằng chúng ta đánh giá (thực chất) thế này, chủ trương thế kia. Làm sao làm thế được! Nói một cách dân dã thì làm sao hành động theo kiểu "thưa ông tôi ở bụi này" được?
Còn làm thế nào để người dân hiểu rõ vấn đề thì có nhiều cách, nhưng chưa được sử dụng kịp thời, sâu rộng.
Đặc điểm của đối ngoại là có những chuyện phải giữ kín chứ không phải là dát, hay sợ đâu. Vấn đề là phải khôn. Đừng lẫn lộn cái khôn với cái sợ. Không phải với Trung Quốc đâu, với nước nào cũng vậy.
Do đó cũng phải hiểu cho cái người lãnh đạo, người ta phải giữ cái gì đó để còn có chỗ nói chuyện, chứ cắt cầu thì rất dễ. Bởi muốn gì thì gì mình vẫn phải cố gắng giải quyết bằng đối thoại, nên phải giữ cầu đối thoại chứ.
Có người không hiểu cho cái đó, có người trái tim nóng nhưng đầu không lạnh. Thậm chí một số ít người lợi dụng để kích động, vì những tính toán riêng... Còn công tác tuyên truyền lại không kịp thời.
Do vậy, nên nhìn sự việc một cách thấu đáo, toàn diện chứ cứ trách cứ nhau. Điều đó chỉ có lợi cho những người muốn "tọa sơn quan hổ đấu", đứng xem chúng ta tranh luận, oán trách nhau.
Vâng, quả là một phần cũng một phần do lỗi của những phóng viên như chúng tôi. Nhiều khi chuyện chẳng có gì mà một số báo chí ở Trung Quốc, hay đâu đấy, lại đưa tin theo hướng lệch đi, hoặc theo kiểu mập mờ, có lợi cho phía họ, thế mà anh em chúng tôi lại không kịp thời cải chính lại cho mọi người hiểu.
Sự phối hợp giữa các cơ quan báo chí và cơ quan quản lý báo chí cũng chưa được nhịp nhàng, nên đúng là ta thường thông tin chậm hơn họ. Tôi cũng đã không ít lần góp ý kiến rồi.
Vả lại, ta nên tỏ ra đàng hoàng, chẳng nên để bị khiêu khích. Hơn nữa, rất nên tránh vơ đũa cả nắm, gây hận thù dân tộc vì nhân dân là nhân dân.
Trong công tác tuyên truyền, đấu tranh dư luận, phải rất nhanh nhạy, phân biệt phải trái. Ngay khi chống Pháp, chống Mỹ cứu nước, ta cũng luôn phân biệt giới cầm quyền và nhân dân cơ mà.
Giáo sư Carl Thayer, một chuyên gia về Đông Nam Á và Biển Đông, cũng từng nhận xét rằng việc chậm trễ cung cấp thông tin chính thức và chính xác sẽ tạo cơ hội cho những suy đoán, tin đồn lan ra trong dư luận.
Đúng vậy. Các loại tin đồn thất thiệt cứ thế mà chen vào thôi. Anh không chiếm chỗ trước, thì người khác người ta chiếm thôi.

Khôn khéo tận dụng vị thế ASEAN
Thường tâm lý của mấy ông nước lớn là thường muốn bắt nạt mấy anh nhỏ, lẻ, và trong câu chuyện lãnh thổ và kinh doanh là rõ nhất. Quay lại câu chuyện tranh chấp Biển Đông, nhưng mà mấy anh nhỏ đó không còn lẻ nữa, mà cùng nhau góp tiếng nói cho đàng hoàng, chắc ông lớn kia cũng phải hạ giọng.
Thế giới bây giờ là tuỳ thuộc lẫn nhau, chứ không phải là lớn với nhỏ đâu. Tất nhiên anh lớn có tư duy của anh lớn, cách hành xử của anh lớn. Nhưng anh chả sống một mình được, anh vẫn phải đối xử với những anh lớn khác. Mà muốn thế phải có bạn.
Như vậy, cái mạnh của anh nhỏ là có thể trở thành đối trọng trong quan hệ của các nước lớn. ASEAN đâu phải là đối trọng nhỏ. Cũng hơn 500 triệu dân, cũng là một khu vực phát triển kinh tế năng động, cũng có uy tín quốc tế lớn.Có tổ chức khu vực nào mà cả gần chục nguyên thủ các nước lớn phải xách cặp đến họp không, trừ ASEAN? Liên đoàn Ả Rập, hay Mecosur ở Mỹ La tinh có chuyện đó không? Thậm chí là EU cũng làm gì có chuyện mỗi lần họp là Tổng thống Nga, hay Chủ tịch Trung Quốc phải sang.
Trên bàn cờ quốc tế, trong các mối quan hệ giao lưu, họ cần có bạn đồng hành. Và các nước nhỏ có vai trò đó, nếu anh biết ứng khôn khéo. Và ASEAN là một điển hình.
Về vấn đề giải quyết tranh chấp Biển Đông, tuy là lâu dài, thậm chí rất lâu dài, nhưng vẫn phải có cái hướng đi từ đầu để vượt qua chặng đường dài đó để đến cái đích cuối cùng. Trong ASEAN chỉ những quốc gia biển là hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, dính dáng đến tranh chấp, chứ còn mấy quốc gia đất liền thì không có lợi ích gì.
Ông nhìn nhận gì trong sự gắn kết gần đây giữa họ, chẳng hạn như giữa Việt Nam với Malaysia, hay gần đây là Việt Nam với Philippines, trong lập trường giải quyết tranh chấp Biển Đông?
Trong quan hệ quốc tế lợi ích là quan trọng nhất. Trong điều kiện khách quan, các nước ASEAN buộc phải chia sẻ lợi ích với nhau. Mặc dù, trên vấn đề này thì nhóm nước này có lợi ích này, nhóm khác có lợi ích khác. Nhưng lợi ích lồng ghép nhau chứ không rành rọt như cái bánh cắt được.
Như vậy, không thể nói chỉ có trên Biển Đông mới thể hiện lợi ích đâu. Còn bao nhiêu lợi ích nhằng nhịt khác nữa. Biển Đông chỉ là một khía cạnh của quan hệ ASEAN thôi.
Ý tôi muốn hỏi là trong mỗi lợi ích mình phải tìm những người bạn, những người cùng có lợi ích với mình, khi nói tới các mối quan hệ của Việt Nam với các quốc gia khác trong ASEAN.
Mình có lợi ích của mình thì cũng đừng bắt người ta bỏ lợi ích của người ta. Phải biết người biết ta, chứ chỉ biết ta, thì không có quan hệ quốc tế.
Cuối năm ngoái, một quan chức phụ trách ASEAN của Bộ Ngoại giao, có nói với tôi rằng cái nét mới của năm ASEAN 2010 so với những năm trước đó là bình thường hoá khái nhạy cảm. Tức là vấn đề tranh chấp Biển Đông được đưa ra bàn thảo các hội nghị lớn như Thượng đỉnh ASEAN, Diễn đàn An ninh Khu vực (ARF), hay Thượng đỉnh ASEAN - Trung Quốc...
Trước đó, khi đưa vấn đề Biển Đông ở những diễn đàn như vậy, có cảm giác là mình thấy nó nặng nề, nhạy cảm thế nào đó...
Cũng không hẳn đâu. Thời tôi làm cũng đã vật lộn với vấn đề Biển Đông bao nhiêu lâu rồi, chứ có phải không đặt lên bàn quốc tế đâu.
Năm 1995, khi mình vào ASEAN đúng lúc ARF ra đời, nên tôi đã dự ARF ngay từ đầu. Câu chuyện Biển Đông cũng đã được đặt lên bàn rồi. Năm nào cũng bàn để từ đó dẫn đến DOC năm 2002.
Còn khi có tuyên bố Manila năm 1992, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm tham dự với tư cách quan sát viên đã tuyên bố ủng hộ.
Có lẽ lúc đó mình là chủ nhà của ARF và các hội nghị cấp cao nên câu chuyện được nhấn mạnh đặc biệt, đúng không ạ?
Đúng vậy. Chứ mình lẽo đẽo vấn đề Biển Đông từ lâu rồi, vì nó là một vấn đề có thể gây mất ổn định trong khu vực.
Thế còn câu chuyện trùng lặp về thời gian giữa chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sang Trung Quốc để đạt thoả thuận 6 điểm về nguyên tắc giải quyết tranh chấp, và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến Ấn Độ, mời họ vào hợp tác thăm dò khai thác dầu khí ở Biển Đông, hay hợp tác quốc phòng. Trong khi đó, Trung Quốc nói gần nói xa nọ kia, ông đánh giá thế nào?
Điều đó có được coi là bình thường hoá khái niệm nhạy cảm không?
(Bật cười) Theo tôi hiểu, chuyện sắp xếp qua kênh ngoại giao là hoàn toàn ngẫu nhiên thôi, chứ có phải mình bầy binh bố trận gì đâu. Ầm ỹ là do suy diễn thôi.
Mình hiểu rõ chẳng ai muốn làm "con bài" của ai, và mình cũng không chủ trương đi với bên này chống bên kia.Trong đối ngoại, anh làm cái gì "phô" quá cũng không được đâu, người ta cười cho. Phải nhớ rằng không chỉ có mình là "khôn" đâu.

Cái khác của quan hệ Mỹ - Việt trong mắt ông Vũ Khoan
Ngày xưa Mỹ là kẻ thù. Còn bây giờ, tuy vẫn còn những khác biệt, nhưng vẫn là một đối tác. Thế của mình cũng khác, lực mình cũng khác. Ngày xưa mình bị bao vây cô lập, bây giờ mình có chân khắp nơi, được tôn trọng ở khắp nơi. Vì vậy, thái độ và cách tiếp cận mà hai bên dành cho nhau khác nhiều.
Ông đánh giá thế nào về sự can dự của Mỹ tại khu vực này?
Chẳng hạn, năm ngoái tại Thượng đỉnh Đông Á tại Hà Nội, mới có Ngoại trưởng Hilary Clinton tham dự, nhưng đến năm nay ở Bali cấp tham dự là Tổng thống Barrack Obama, người đã có những tuyên bố khá mạnh mẽ về vai trò của sự can dự của Mỹ đối với việc đảm bảo an ninh khu vực.
Thực ra, chuyện Mỹ can dự vào châu Á - Thái bình dương không phải mới. Có điều, vị trí của châu Á - Thái bình dương đã nổi lên vào cuối thế kỷ trước, vào những năm '90 đã lộ rõ rồi, và trong bối cảnh hiện nay càng nổi bật hơn nữa.
Vì sao?
Thứ nhất, kinh tế cả thế giới đều khó khăn, riêng châu Á - Thái bình dương vẫn giữ được mức tăng trưởng ổn định, tuy có giảm đôi chút.
Thứ hai, những nền kinh tế mới nổi tập trung ở đây. Vào những năm '80-90' của thế kỷ trước, đó là những "con rồng", "con hổ" châu Á. Như Hàn Quốc, Hồng Công, Singapore, hay Malaysia, Thái Lan.
Và đặc biệt có con rồng to là Trung Quốc. Rồi bây giờ lại đến Ấn Độ. Hay Indonesia cũng được xếp vào loại cường quốc bậc trung, có trong nhóm G20. Việt Nam ta cũng được đánh giá là nước có tiềm năng.
Cái thứ hai đã làm rõ nét cái thứ nhất về tiềm năng kinh tế.
Thứ ba, nhiều nước lớn đều qui tụ ở đây. Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, Ấn Độ, còn Tây Âu mới hiện diện ít thôi. Khi mấy ông lớn tụm lại với nhau thì thành quan trọng thôi. Đó là địa chính trị.
Còn địa kinh tế, thì ngoài chuyện đã nói ở trên, đây là ngã ba đường của vận chuyển quốc tế, qua eo Malacca. Trong tình hình phát triển kinh tế thế này, vấn đề nguyên liệu và năng lượng trở thành vấn đề rất lớn.
Bây giờ, người ta mới nhấn mạnh chuyện Mỹ quay lại, chứ thực ra người Mỹ chưa bao giờ rời bỏ khu vực này. Không phải ngẫu nhiên mà Mỹ đã tiến hành 3 cuộc chiến tranh ở đây: chiến tranh Thái Bình Dương; chiến tranh Triều tiên và chiến tranh Việt Nam - Đông Dương.
Nhưng có một thời gian họ xao lãng...
Bởi họ sa lầy vào những chuyện khác. Họ thất bại ở Việt Nam nên phải rút ra, rồi sa lầy ở Trung Cận Đông trong một thời gian rất dài. Rồi những biến động ở châu Âu cũng thu hút sự quan tâm của Mỹ. Nên nói theo cách nói của ta là Mỹ đã "lực bất tòng tâm", muốn quay lại cũng chẳng quay lại được.
Nay tình hình thay đổi, trong đó có nhân tố Trung Quốc nổi lên mà người Mỹ cho rằng có thể cạnh tranh với họ. Chính vì vậy họ phải rút dần chân khỏi những chỗ khác, xác định châu Á - Thái bình dương là hướng chiến lược của họ.
Như vậy, cái mới ở đây là sự nhấn mạnh của họ thôi, chứ không phải là sự bắt đầu.
Nhưng sự hiện diện của họ hiện nay khác với ngày xưa như thế nào?
Ngày xưa, sự hiện diện lớn hơn. Hai cuộc chiến tranh lớn đều tiến hành ở đây là Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam. Bao nhiêu căn cứ quân sự, rồi hạm đội 7 tập trung ở đây. Suốt từ Nhật Bản, Hàn Quốc, xuống tới Thái Lan, Philippines...
Sau chiến tranh Việt Nam họ đã giảm đi rất nhiều. Chính vì vậy tôi muốn nói là sự quay lại của họ chưa trở lại được mức cũ đâu.
Nhưng cái nét mới là sự can dự của họ ở đây không chỉ bằng quân sự, mà can dự bằng quan hệ chính trị, bằng quan hệ kinh tế. Chẳng hạn, Hiệp định Đối tác xuyên Thái bình dương (TPP) chính là một sáng kiến nằm trong chiến lược can dự trở lại này.
Nói tóm lại, sự can dự lần này toàn diện hơn.
Thế cách tiếp cận của họ có gì khác không? Cách đối xử với khu vực này có khác hơn không, tôn trọng hơn không?
Chẳng hạn, TNS Jim Webb, Chủ tịch tiểu ban Đông Á, thuộc Uỷ ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ, sau chuyến đi 5 nước Đông Nam Á, trong đó có cả Myanmar và Việt Nam, vào tháng 8.2009, đã nói rằng mỗi nước Đông Nam Á có một lịch sử riêng, và họ cũng có một lịch sử riêng trong quan hệ với Mỹ, và mục đích của chuyến đi của ông cũng là lắng nghe quan điểm của lãnh đạo các nước Đông Nam Á.
Cái khác lớn nhất là vị thế khu vực này đã khác trước.
Ngày xưa Việt Nam bị chia cắt, nay đã là nước thống nhất. Các nước ASEAN ngày xưa còn yếu, nay đã cứng cáp rồi. Hay Trung Quốc trước kia còn yếu, bị xâu xé bởi những bất ổn nội bộ, nay đã trở thành một cường quốc thứ hai trên thế giới về kinh tế rồi.
Các nước trong khu vực có vị thế cao hơn hẳn, trong khi Mỹ lại khó hơn trước. Sau khi Liên Xô sụp đổ, họ tưởng có thể làm mưa làm gió, cái gì cũng quyết định đơn phương. Nhưng cũng chỉ được một thời gian rất ngắn. Bây giờ họ cũng phải tìm cách tiếp cận đa phương. Chẳng hạn, ký TAC (Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác) với ASEAN, hay tham gia EAS (Cấp cao Đông Á).
Thế khác, lực khác, nên thái độ cũng phải khác là đúng thôi. Không phải đến để dạy bảo người ta nữa mà đến để tìm bạn, tranh thủ tìm đối tác.
Liệu sự thay đổi thái độ và cách tiếp cận của Mỹ với khu vực này cũng tác động đến thái độ và cách tiếp cận của Việt Nam với Mỹ?
Ngày xưa Mỹ là kẻ thù. Còn bây giờ, tuy vẫn còn những khác biệt, nhưng vẫn là một đối tác.
Thế của mình cũng khác, lực mình cũng khác. Ngày xưa mình bị bao vây cô lập, bây giờ mình có chân khắp nơi, được tôn trọng ở mọi chốn.
Vì vậy, thái độ và cách tiếp cận mà hai bên dành cho nhau khác nhiều.
Ông nhìn nhận mối quan hệ đối tác chiến lược mà hai bên đang hướng tới như thế nào?
Qua thông tin báo chí tôi thấy hai bên còn đang bàn bạc. Nhưng cũng phải nhìn nhận là mối quan hệ giữa hai nước, so với thời tôi còn làm việc, phát triển một trời một vực. Từ chỗ buôn bán chẳng có gì, đến chỗ Mỹ là thị trường lớn nhất của Việt Nam. Tôi không ngờ trước khi ký BTA, xuất khẩu dệt may có 50 triệu USD, nay đã lên 6-7 tỷ USD, tạo ra bao công ăn việc làm.
Còn quan hệ chính trị trước đây làm gì có tiếp xúc cấp cao. Tôi là quan chức Việt Nam đầu tiên vào Nhà Trắng (tháng 7.2000), nhưng sau đó có biết bao nhiêu người vào Nhà Trắng nữa.
Rồi ngày trước làm gì tưởng tượng được Tổng thống Mỹ sẽ sang thăm Việt Nam. Thế mà ông Bill Clinton, rồi ông George Bush đều sang. Còn các ngoại trưởng Mỹ, người nào cũng đều sang thăm Việt Nam cả.
Hai bên còn đối thoại với nhau cả về chiến lược nữa, quan hệ an ninh- quốc phòng cũng đã có.
Cựu Thứ trưởng Ngoại giao Lê Văn Bàng có kể rằng Đại sứ Mỹ David Shear, khi mời cơm ông, đã nói rằng câu chuyện của Mỹ và Việt Nam bây giờ không phải là câu chuyện ca basa mà là câu chuyện chiến lược.
Tuy hai nước chưa chính thức thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, nhưng trong sự trao đổi ý kiến giữa ta với Mỹ chắc có nhiều chuyện mang tính chiến lược. Nhưng tôi thiết nghĩ phạm vi, mức độ và tính chất của quan hệ Việt - Mỹ không thể nào bằng quan hệ Trung - Mỹ được.
Tôi có nghe là sau khi Quốc hội hai bên phê chuẩn BTA, vào cuối 2001, Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang Mỹ trao đổi thư phê chuẩn. Trong cuộc nói chuyện với Cố vấn An ninh Quốc gia Condoleeza Rice, Phó Thủ tướng đã nêu vấn đề vụ kiện chống bán phá giá đối với cá basa Việt Nam tại thị trường Mỹ. Trong khi đó, bà này chỉ muốn bàn tới chuyện chiến lược, câu chuyện khu vực và toàn cầu.
Sau 10 năm, câu chuyện đã hoàn toàn khác, đúng không, thưa ông?
Lúc đó, tôi là Bộ trưởng Thương mại, từ trong nước sang để ký văn bản phê chuẩn, còn Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từ Mexico sang chứng kiến và thăm Mỹ.
Mỗi thời nó một khác chứ. Quan hệ sau 10 năm thay đổi nhiều rồi.
Ngày xưa chỉ nói song phương, mà song phương cũng chủ yếu nói về kinh tế. Rồi tiến thêm là song phương nói cả chuyện chính trị, chuyện an ninh... Thế rồi, bên cạnh chuyện song phương thì nói thêm chuyện đa phương, chuyện khu vực, chuyện toàn cầu.
Hay nói theo thuật ngữ thời chiến tranh là "leo thang", nhưng có cái khác là "leo thang hoà bình", hay "leo thang đối thoại". Tức là từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, với nước nào cũng vậy thôi. Nhưng nhất là với những nước là từng là thù địch, việc chuyển hoá quan hệ là cả một quá trình, nhiều khi chật vật.
Ngay cả ở Mỹ cũng có những vấn đề của họ. Chẳng hạn, khi năm ngoái Ngoại trưởng Hilary Clinton sang Việt Nam có nêu vấn đề nhân quyền.
Thực ra, ngoài việc Mỹ giương cao ngọn cờ nhân quyền trong quan hệ với các nước khác, thì bản thân bà Clinton cũng chịu sức ép của Quốc hội. Vì vậy, việc hiểu rõ chính trị nội bộ của nước Mỹ, để tránh việc quá định kiến với một nhân vật nào đó, cho người ta là "bad guy", là không thể chơi được... Ông nghĩ sao ạ?
Nhiều người chúng ta không hiểu cái thể chế của Mỹ. Thể chế của họ khác thể chế của ta. Nếu chúng ta áp dụng cái thể chế của ta để đánh giá họ thì không ổn. Và, ngược lại, nếu họ làm vậy cũng không trúng.
Theo tôi, điều quan trọng nhất là phải hiểu nhau. Nói chuyện với họ, anh phải biết đang nói chuyện với ai, là người như thế nào, gia đình, hoàn cảnh ra sao...
Thể chế Mỹ có nhiều phe phái, nhiều lực lượng có tiếng nói như nhau. Bên hành pháp khác, lập pháp khác, tư pháp khác, tam quyền phân lập rõ ràng. Chính vì vậy bên hành pháp nhiều khi phải tranh thủ bên lập pháp, hay bên lập pháp có thể áp đặt rất nhiều cho bên hành pháp.
Bên tư pháp thì hoàn toàn độc lập. Trong các vụ kiện bên hành pháp và lập pháp không thể can thiệp.
Hay tiếng nói của truyền thông của họ rất lớn, thậm chí được coi là quyền lực thứ tư.
Mình không hiểu rõ hệ thống của họ thì làm sao mà nói chuyện được.
Chơi với các nước phải hiểu, mỗi nước có một thể chế khác, thậm chí văn hoá khác. Làm đối ngoại, hay thông tin đối ngoại, mà mang văn hoá Việt Nam áp dụng vào Mỹ thì không vào đầu người ta. Trái lại, họ mang cái văn hoá của họ áp vào mình, mình cũng không hiểu nổi.
Vừa rồi, tôi có dịp nói chuyện với Đại sứ Mỹ David Shear, khi tôi hỏi về sự khác nhau của ngươi phương Đông và người phương Tây, ông ấy có nói rằng bất chấp những khác biệt trong lối sống và tư duy, trong sâu thẳm con người hai bên vẫn có thể có những cái chung để nói chuyện với nhau. Ông còn nói nếu hai bên muốn hiểu nhau, cố tìm cách để hiểu nhau, thì nhất định sẽ hiểu. Ông có chia sẻ nhận định này không?
Tôi thì nói đơn giản hơn: Người Mỹ thích rượu Gin, người Anh thích Whisky, người Pháp thích rượu Cognac, còn người Việt lại thích rượu nút lá chuối.
Khác nhau thật đấy, nhưng vẫn cùng là rượu, và mọi người đều muốn uống rượu hết, chả trừ dân tộc nào cả.
Giá trị chung thì vẫn có, nhưng bản sắc lại rất riêng.
Bây giờ người ta nói nhiều đến tương lai chung. Chẳng hạn, từ chuyện chống biến đổi khí hậu, đến câu chuyện xây dựng một môi trường hoà bình ổn định để phát triển...
Thực ra, lịch sử loài người có cái chung, rồi mỗi anh thêm cái bản sắc riêng của mình. Nhưng cái chung vẫn là chung. Chẳng hạn, cái nhà về cơ bản vẫn giống nhau trên khắp thế giới, vẫn là mái với bốn bức tường, chỉ khác nhau kiểu kiến trúc, vật liệu xây dựng sao cho phù hợp với khí hậu, lối sống mà thôi.
Vẫn có cái chung, nhưng vẫn tồn tại cái bản sắc. Cái riêng không thể quyết định cái chung. Nhưng nếu cái chung mà không tính đến cái riêng thì cũng không ổn, bởi cái riêng nó vẫn cứ âm ỷ rồi bung ra chỗ này, phình ra chỗ kia...
Xin cám ơn ông, và chúc ông cùng gia đình một năm mới mạnh khoẻ và hạnh phúc.
Tácgiả:Huỳnh Phan
Tuần ViệtNam số ra ngày 30 và31/12/2011
--------------





Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này