Chủ Nhật, 29 tháng 5, 2011

Lại nói về người Việt

Thật ra đâu chỉ có Ngô Bảo Châu, Đặng Thái Sơn..., đâu chỉ hiện tại mà cả trong quá khứ , người Việt luôn cho thấy một nguồn gen tài năng ít ra  là không thua kém bất cứ một dân tộc nào khác trên hành tinh Trái đất.

Vậy nhưng cũng có một thực tế đầy nghịch lý là, những nhân tài đó đều chỉ có thể phát huy đầy đủ khi học tập và làm việc trong môi trường ngoại quốc (chứ không phải tại Việt Nam). Không những thế nhiều nhân tài có thể bị thui chột hoặc thậm chí bị bức tử trong các thời đại và triều đại nếu họ chỉ quẩn quanh trong nước. Ngay cả trường hợp cụ Hồ cũng phải bôn ba hải ngoại mấy chục năm về nước mới làm nên sự nghiệp. Vì sao vậy? Câu hỏi này xin nhường đường để có lẽ chỉ các nhà nghiên cứu nhân chủng  học, giáo dục học, xã hội học và các nhà học... cho ta lời lý giải thỏa đáng về thực tế này.

Trong bối cảnh những năm tháng gần đây, khi "Vương triều Phương Bắc" một lần nữa đang tác oai tác quái bắt nạt Việt Nam..., có lẽ mọi người Việt Nam yêu nước đều có một lúc nào đó chọt nhớ về Thánh Gióng hay chiếc nõ thần,...Mẫu tin dưới đây về sáng kiến của của một người Việt ở hải ngoại. Tôi coi đây là một dẫn chứng cho điểu cảm nhân nói trên. Ta hãy xem thông tin đó nói gì và nó khác gì so với người Việt đang ở trong nước.       
    
             Người Việt Giúp Hải Quân Mỹ Diệt Hoả Tiễn Đối Hạm   

Một Khoa Học Gia Gốc Việt, Tiến Sĩ Định Nguyễn, hiện là Trưởng Công Trình Nghiên cứu Chế tạo loại Vũ khí mới mang tên Free Electron Laser (FEL). Đây là loại Vũ khí mới để phá huỷ Hoả Tiễn tấn công của đối phương, kể cả Hoả Tiễn DF-21D của Trung Cộng hiện đang đe doạ các Hàng Không Mẩu Hạm và các Chiến Hạm Hải Quân Hoa Kỳ.
Trong bản Tường Trình trước Quốc Hội Hoa Kỳ { CRS Report for Congress } của Ronald O' Rourke ngảy 21 tháng 1 năm 2011, trang 38 có tường trình về Công trình nghiên cứu và sáng chế Vũ khí mới Free Electron Laser (FEL) program của Tiến Sĩ Định Nguyễn.
Trung Cộng đang ngạo mạn phô trương sức mạnh của Hoả Tiễn DF-21D, đe doạ các Hang Không Mẫu Hạm Hai Quan Hoa Kỳ! Nhưng họ đâu ngờ một loại Vù Khí mới mang tên Free Electron Laser (FEL) cùa TS Dinh Nguyen sè phá huỷ dược DF-21D, làm tiêu tan tham vọng Đại Hán của ho !
Tuy Free Electron Laser đang còn trong giai đoạn nghiên cứu, nhưng rất khả quan. Các Chiến Hạm Hải Quân Hoa Kỳ sẽ được trang bị sau này khi công trình sáng chế loại Vũ khí mới này thành công.


                                          Ảnh minh họa

Và đây là bản gốc tiếng Anh của tin trên.
              Breakthrough in free-electron laser development
                                 Published 10 February 2011/Home Security Newswire 

Breakthroughs in Free-Electron Laser (FEL) technology could mean a virtually impenetrable defense system for Navy ships; the laser weapon has the capability to detect and engage incoming cruise missiles at the speed of light without running out of ammunition

FEL may make the fleet virtually impregnable // Source: foxnews.com

Breakthroughs in Free-Electron Laser (FEL) technology could mean a virtually impenetrable defense system for Navy ships. The laser weapon in development has the capability to detect and engage incoming cruise missiles at the speed of light without running out of ammunition. The Office of Naval Research (ONR) has been developing the anti-aircraft and missile directed-energy weapon since the 1980s with the goal of creating a megawatt (1 million W) laser weapon with continuous power.
The high-powered FEL uses a superconducting electron gun powered by a microwave tube to emit an intense emission of laser light. Last month, scientists at Los Alamos National lab demonstrated their capability to produce the necessary electrons needed to actuate megawatt laser beams. This development placed its researchers nine months ahead of schedule for its 2011 goals. In a news release, Dinh Nguyen, senior project leader for the Free Electron Laser program at the New Mexico lab said, “Until now, we didn’t have the evidence to support our models.”
Asides from its military applications, FEL has also been employed in the medical field. Research by Dr. Glenn Edwards and colleagues at Vanderbilt University’s FEL center in 1994 found that FEL could be used to excise sensitive tissues like skin, cornea, and brain tissue at wavelengths of approximately 6.45 micrometers. The technology is still being researched and improved upon to minimize and ultimately prevent collateral damage to adjacent tissue.
Quentin Saulter, research program officer at ONR said “the FEL is expected to provide future U.S. Naval forces with a near-instantaneous laser ship defense in any maritime environment throughout the world.” In a video produced by the ONR, Saulter mentions that the project’s workforce consists of experts that specialize in projection, accelerators, electron beam dynamics, and photo-optics.
Sarwat Chappell, research program officer at Air Warfare and Naval Weapons Applications described the FEL as versatile because of its ability to be tuned and generate multiple wavelengths the navy will need when encountering various scenarios across the world.


Góc nhìn pháp lý về vụ xâm phạm lãnh hải Việt Nam của Trung Quốc


Bài đăng trênTuần báo Vietnam ngày Chủ nhật, 29 tháng 05 năm 2011 | 07:58 (GMT+7)
Cắt cáp dầu khí của Việt Nam, Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng Công ước Luật Biển

Lô 148 hoàn toàn nằm trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam. Vị trí cáp thăm dò bị phía Trung Quốc cắt chỉ cách mũi Đại Lãnh, tỉnh Phú Yên khoảng 120 hải lý, tức là còn 80 hải lý nữa mới đến ranh giới 200 hải lý. Khác với tình hình trong Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan, ở khu vực miền Trung vào phía Nam, trong đó có lô 148, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hoàn toàn không chồng lấn với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của bất cứ quốc gia nào, kể cả Trung Quốc. Xin lưu ý là địa điểm tàu Bình Minh 02 bị cắt cáp ngày 26-5-2011 cách bờ biển đảo Hải Nam của Trung Quốc khoảng 340 hải lý.
Do đó, việc Trung Quốc cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 của Tập đoàn dầu khí Việt Nam vào sáng ngày 26-5-2011 đã xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền  của Việt Nam đối với thềm lục địa của mình. Là một thành viên của Công ước Luật Biển năm 1982 nhưng hành động này của Trung Quốc lại hoàn toàn trái với nghĩa vụ của mình theo Công ước này.
Vị trí tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02 của Việt Nam thể hiện rõ Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam đối với thềm lục địa của mình.
Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc đã quy định rõ phạm vi, quy chế pháp lý của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển cũng như vùng biển quốc tế. Theo Điều 76 của Công ước, thềm lục địa của quốc gia ven biển có chiều rộng tối thiểu 200 hải lý (mỗi hải lý bằng 1852m). Chiều rộng này được bảo đảm tuyệt đối kể cả khi ở trên thực tế rìa ngoài của thềm lục địa của quốc gia ven biển hẹp hơn 200 hải lý. Còn nếu rìa ngoài của thềm lục địa thực tế của quốc gia ven biển rộng hơn 200 hải lý thì quốc gia đó có quyền mở rộng phạm vi thềm lục địa đến 350 hải lý theo đúng các quy định của Công ước (cụ thể là các quốc gia liên quan phải gửi Báo cáo quốc gia đến Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên hợp quốc để Ủy ban này xem xét và ra khuyến nghị).
Về quy chế pháp lý của thềm lục địa, Điều 77 của Công ước Luật Biển năm 1982 quy định quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với thềm lục địa của mình. Họ có quyền thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên ở trong thềm lục địa của mình. Các tài nguyên thiên nhiên này bao gồm tài nguyên khoáng sản và tài nguyên phi sinh vật khác ở đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Các quốc gia ven biển cũng có quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình ở thềm lục địa của mình. Cách thức thực hiện quyền chủ quyền này hoàn toàn do các quốc gia ven biển quyết định. Có khi các quốc gia này tự mình tiến hành thăm dò và khai thác tài nguyên ở thềm lục địa. Có khi các quốc gia ven biển cấp phép cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài thăm dò và khai thác.
Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc là một điều ước quốc tế nên một khi đã tham gia Công ước này, các quốc gia ven biển phải chấp nhận sự ràng buộc của Công ước. Điều này có nghĩa là đồng thời với việc hưởng các quyền chủ quyền đôí với thềm lục địa của mình, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tôn trọng các quyền chủ quyền của các quốc gia thành viên khác đối với thềm lục địa của họ. Quyền và nghĩa vụ phải song hành với nhau. Không thể chỉ hưởng thụ các quyền mà bỏ qua nghĩa vụ tương ứng. Đó cũng là lẽ thường tình trong cuộc sống.
Yêu cầu thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế không phải là ngoại lệ của Công ước Luật Biển năm 1982 mà chính là một trong các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế hiện đại. Đó là nguyên tắc "pacta sun servanda" đã được pháp điển hóa trong Công ước năm 1969 của Liên hợp quốc về Luật Điều ước quốc tế giữa các quốc gia. Yêu cầu này cũng chính là một nghĩa vụ của 192 thành viên Liên hợp quốc theo Hiến chương của tổ chức này.
Căn cứ vào các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, Việt Nam có quyền chủ quyền đối với thềm lục địa tối thiểu 200 hải lý của mình. Đoạn 4 trong Tuyên bố ngày 12-5-1977 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đã tái khẳng định điều này. Thực hiện quyền chủ quyền theo đúng Công ước Luật Biển năm 1982, từ những năm 80 của thế kỷ XX Nhà nước Việt Nam đã triển khai các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của mình. Hiện nay, hàng chục công ty dầu khí từ nhiều nước khác nhau trên thế giới (Nga, Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Canada, Úc, Singapore v.v...) đang hợp tác với Tập đoàn dầu khí Việt Nam để thăm dò, khai thác tại các lô dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam. Việc làm này của Việt Nam là hết sức bình thường. Các quốc gia khác ven Biển Đông như Trung Quốc, Phillippines, Indonesia, Brunei, Campuchia, Thái Lan, Malaysia cũng đang thăm dò, khai thác thềm lục địa của mình.
Năm 2002, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc đã long trọng ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (gọi tắt là DOC). Việc Trung Quốc cho tàu vũ trang cắt cáp thăm dò địa chấn của tàu Bình Minh 02, phá hoại hoạt động kinh tế bình thường của Việt Nam ngay trong thềm lục địa Việt Nam cũng đã vi phạm nghiêm trọng Tuyên bố này. Theo DOC, ASEAN và Trung Quốc đã cam kết không làm phức tạp thêm tình hình ở Biển Đông, không sử dụng vũ lực. Trong nhiều Tuyên bố chung giữa ASEAN và Trung Quốc, Lãnh đạo cao cấp của ASEAN và Trung Quốc đều tái khẳng định tuân thủ tăng cường nỗ lực để thực hiện toàn diện DOC, tiến tới xây dựng một văn kiện pháp lý cao hơn là Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (Code of Conduct, gọi tắt là COC).
Tóm lại, xét từ góc độ pháp lý quốc tế, đến góc độ chính trị cũng như góc độ quan hệ láng giềng thân thiện, việc tàu Trung Quốc cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 ngày 26-5-2011 hoàn toàn không thể biện minh được. Điều rõ ràng là, dù vì bất kỳ lý do gì và với bất kỳ động cơ gì, thì việc làm nói trên của Trung Quốc cũng hoàn toàn không có lợi cho quan hệ hữu nghị và hợp tác đang phát triển tốt đẹp giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc, không đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước, không phù hợp với nỗ lực thúc đẩy thực hiện toàn bộ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông năm 2002 giữa ASEAN và Trung Quốc, và cũng không có lợi cho việc duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và khu vực.
*****

Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2011

Trung Quốc không thể mãi hành xử như một kẻ khổng lồ vô trách nhiệm


Nếu tôi không nhầm thì TVT1 là cơ quan đầu tiên phát ra thông tin về tàu Trung Quốc viphạm lãnh hải và phá hoại cơ sở vật chất của ngành dầu khí Việt Nam. Đó là quảng 12 giời trưa ngày 26/5 vào đúng giời ăn trưa của các gia đình Việt Nam. Sau đó nhiều người đã gọi điện thoại hỏi nhau…như sắp có "giặc đến nhà" vậy!
Quả vậy, nếu so sánh các vụ việc vi phạm của phía Trung Quốc từ sau cuộc xâm lược Trường Sa năm 1988 thì có thể nói, đây là sự kiện nghiêm trong nhất, bởi nó không chỉ diễn ra rất sâu trong lãnh hải Việt Nam mà còn với một cách thức rất ngang ngược trắng trợn bất chấp nguy cơ xung đột song phương và đa phương có thể nỗ ra. Và hành động này đã được tính toán trước với một đội hình 3 chiếc tàu- 1 tiến vào trước, 2 hộ tống phía sau. Dù là "tàu hải giám" nhưng cuộc tấn công được tiến hành theo chiến thuật hải chiến hẵn hoi.

Tôi tin rằng các lực lượng vũ trang Việt Nam đã biết rõ về sự kiện này nhưng đã kiềm chế(!?) Cũng không khó để hiểu tại sao họ phải kiềm chế. Điều gì đã xảy ra nếu các lực lượng vũ trang Việt Nam đã sử dụng quyền can thiệp để bảo vệ tài sản quốc gia một cách bình thường và hoàn toàn đúng luật pháp quốc tế? Nhật Bản, Philippine đều đã làm như vây. Việc này thiết nghĩ nên để các cơ quan chức trách Việt Nam liệu tính.

Nhưng riêng tôi nghĩ rằng với "sự đã rồi" như hiện nay, Công ty Dầu khí Việt Nam cần đứng ra kiện phía Trung Quốc và đòi bồi thường cho những thiệt hại mà tàu hải giám của Trung Quốc vừa gây ra. Đồng thời Chính phủ ta chính thức tố cáo nhà cầm quyền Trung Quốc trước cộng đồng quốc tế, cụ thể qua các tổ chức như ASEAN, LHQ, APEC… Đã đến lúc cộng đồng quốc tế, đặc biệt các nước lớn có trách nhiệm và cộng đồng các nước ASEAN không thể đứng khoanh tay nhìn Trung Quốc tiếp tục hành xử như một tên khổng lồ vô trách nhiệm.


Mời xem chi tiết tại Tuổi Trẻ:
Ngày 27-5, trong cuộc trả lời phỏng vấn báo chí tại Hà Nội, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) Đỗ Văn Hậu đã thông báo việc sáng ngày 26-5, các tàu hải giám Trung Quốc đã vi phạm lãnh hải thuộc chủ quyền của Việt Nam, gây thiệt hại lớn về kinh tế và cản trở hoạt động của PVN.

Thực hiện kế hoạch PVN đã phê duyệt chương trình thăm dò khai thác dầu khí năm 2011, Tổng công ty cổ phần Dịch vụ kỹ thuật dầu khí, một thành viên của PVN, đã cử tàu địa chấn Bình Minh 02 triển khai khảo sát địa chấn tại khu vực lô 125, 126, 148, 149 ở thềm lục địa miền Trung của Việt Nam.

Cả 4 lô này đều nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Tàu địa chấn Bình Minh 02 đã khảo sát 2 đợt tại đây, đợt 1 vào năm 2010 và đợt 2 bắt đầu từ ngày 17-3-2011. Quá trình khảo sát những ngày vừa qua được tiến hành trôi chảy và tàu Bình Minh đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.

Tuy nhiên, vào lúc 5g5 ngày 26-5, ra-đa tàu địa chấn Bình Minh 02 đã phát hiện có tàu lạ đang chuyển động rất nhanh về phía khu vực khảo sát và sau đó 5 phút thì phát hiện tiếp 2 tàu nữa đi từ phía ngoài vào.

Đó là ba tàu hải giám của Trung Quốc chạy thẳng vào khu vực khảo sát mà không có cảnh báo. Trên cơ sở tốc độ di chuyển của tàu hải giám Trung Quốc, tàu Bình Minh thấy có khả năng sẽ ảnh hưởng đến thiết bị của tàu, nên đã quyết định hạ thấp thiết bị để tránh thiệt hại.

Vào lúc 5g58, tàu hải giám Trung Quốc đã chủ động chạy qua khu vực thả dây cáp, cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02. Vị trí mà ba tàu hải giám Trung Quốc phá hoại thiết bị của tàu Bình Minh 02 của PVN, chỉ cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên) khoảng 120 hải lý, nằm hoàn toàn trong vùng lãnh hải thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Phó Tổng Giám đốc PVN cho biết thêm: Ba tàu Hải giám Trung Quốc đã làm ảnh hưởng, cản trở hoạt động bình thường của tàu địa chấn Bình Minh 02, sau đó tiếp tục uy hiếp tàu Bình Minh 02, thông báo là tàu Bình Minh đã vi phạm chủ quyền của Trung Quốc.

Nhưng tàu Bình Minh của PVN cương quyết bác bỏ luận điệu của tàu hải giám Trung Quốc và khẳng định rằng tàu Bình Minh đang nằm trong vùng lãnh hải thuộc chủ quyền của Việt Nam. Tuy nhiên, việc tiếp tục công việc ngay lúc đó của tàu Bình Minh 02 vẫn bị ba tàu Hải giám Trung Quốc cản trở cho tới 9g sáng 26-5 khi 3 tàu này rời khỏi khu vực khảo sát.

Tàu Bình Minh 02 và các tàu bảo vệ đã phải dừng công việc trong ngày 26-5 và thu lại các thiết bị bị hỏng để sửa chữa. Dưới sự chỉ đạo của PVN và Tổng công ty dịch vụ kỹ thuật dầu khí, tàu Bình Minh 02 đã sửa chữa thiết bị tại chỗ và tới 6g sáng 27-5, tàu Bình Minh 02 đã trở lại hoạt động.

Phó Tổng Giám đốc PVN khẳng định: Việc các tàu hải giám Trung Quốc vào rất sâu trong lãnh hải của Việt Nam để phá hoại, cản trở các hoạt động thăm dò khảo sát bình thường của PVN là một hành động hết sức ngang ngược, vi phạm trắng trợn đối với quyền chủ quyền của Việt Nam, gây thiệt hại lớn về kinh tế và cản trở hoạt động của PVN.

PVN đã báo cáo và đề nghị Chính phủ, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có các biện pháp phản đối mạnh mẽ nhất có thể đối với phía Trung Quốc, yêu cầu phía Trung Quốc dừng ngay các hành động cản trở hoạt động của PVN, đồng thời hỗ trợ PVN thực hiện nhiệm vụ thăm dò, khai thác của mình.

PVN khẳng định các công việc khảo sát địa chấn ở khu vực này sẽ được tiến hành bình thường vì đây là khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam. PVN sẽ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan để bảo đảm cho hoạt động của tàu Bình Minh 02 được hiệu quả, an toàn.

Tàu địa chấn Bình Minh 02 được PVN đầu tư trang bị từ năm 2008 và đã tiến hành các đợt khảo sát trên vùng thềm lục địa thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Không thể để tái diễn cuộc thảm sát Trường Sa năm 1988! /Noway letting the 1988 Spratley massacre to repeat!

Đúng tại vị trí diễn ra vụ thảm sát năm 1988 đã mọc lên một căn cứ của bành trướng Trung Quốc

Còn ai ngang ngược và tàn bạo hơn bọn bành trướng Trung Quốc?/ Whoelse could be more arrogant and barbarous than the Chinese expansionists?
http://www.youtube.com/watch?v=Uy2ZrFphSmc&feature=related

Nguồn: YouTube

Thứ Hai, 23 tháng 5, 2011

Đôi điều về quan hệ Trung-Mỹ có liên quan đến thế trận Việt Nam tại Biển Đông


Bản đồ do TQ tự phát hành trên Wikipedia cố ý bôi màu tím và vàng toàn bọ 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa    

Quan hệ quốc tế là một lĩnh vực ngaỳ cảng trở nên phổ cập trong "thời đại internet".  Trong bối cảnh những ngày gần đây khi tình hình Biển Đông dường như đang dậy sóng, lôi cuốn không chỉ các giới ngoại giao, chính khách và báo chí mà cả người dân bình thường. Đó cũng là tâm trạng và lý do để người  viết bài này muốn tham gia bình luận đôi điều liên quan chủ đề tranh chấp Biển Đông.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng có hai thực tiễn mang tính luận cứ không thể không xem xét khi nghiên cứu về  tranh chấp biển Đông để từ đó xác định thế ứng xử của Việt Nam.
Một là, nếu như  trong  thời kỳ chiến tranh lanh quan hệ quốc tế phụ thuộc chính vào cặp quan hệ Mỹ-Xô thì giờ đây  đó là cặp quan hệ Mỹ-Trung. Quan hệ Mỹ-Xô về bản chất là quan hệ giữa "hai phe"; quan hệ Mỹ-Trung chỉ là quan hệ cạnh tranh giữa hai cường quốc.   Hai là,  trong thời chiến tranh lanh  thường xảy ra  các “quan hệ nóng”, trong đó bao giờ cũng phản ánh sự đối đầu giữa giữa các cường quốc  (như cuộc chiến tranh Việt Nam, vụ khủng hoảng hai bờ eo biển Đài Loan ; khủng hoảng tên lửa Caribe,  v.v…) Nhưng trong thời hậu chiến tranh lạnh chưa thấy có tình trạng "đối đầu" giữa các cường quốc mà chỉ thấy  sự thỏa hiệp  giữa họ với nhau để đối phó với các lực lượng nhỏ yếu hơn, bất kể  là khủng bố Bin Laden hay các quốc gia dân tộc có chủ quyền đàng hoàn như I-rắc, Lybia, Tunisia…  
Tuy nhiên, thời gian gần đây, trong bối cảnh trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc và tình hình suy thoái  kinh tế của nước Mỹ  và Châu Âu, có một số giả thuyết cho rằng Mỹ sẽ sử dụng phương thức chiến tranh như "một mũi tên bắn hai mục đích": vừa ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc,vừa làm động lực phục hồi kinh tế của nước Mỹ và phương Tây. Xem ra giả thuyết  này không mấy phù hợp với thực tiễn quan hệ quốc tế truyền thống và càng không đủ sức thuyết phục trong một thế giới không còn phân cực đối đầu. Hơn nữa chắc ai cũng biết, một  cuộc chiến như vậy nếu xảy ra, sẽ không bên nào thắng ... Nói cách khác, một cuộc chiến như vậy chỉ có thể xảy ra  khi nào có sự sai lầm nào đó trong giới lãnh đạo của hai nước này. Do đó có thể nói, xu hướng hòa hoãn vẫn là chủ đạo trong quan hệ Mỹ-Trung. 
Gần đây dư luận Việt Nam xôn xao lo lắng Trung Quốc sẽ "đánh" Việt Nam một lần nữa... Bối cảnh đó đã hình thành ngày càng rõ sự khác biệt trong tư duy của người Việt liên quan đến quan hệ Việt-Trung. Trong khi trào lưu chính thống vẫn là "dĩ hòa vi quý" với ông bạn láng giềng, thậm chí vẫn còn tin vào "ý thức hệ" thì một bộ phận khác muốn độc lập hơn và độc lập thực sự với Trung Quốc, thậm chí kêu gọi "đi với Mỹ" để phòng nguy cơ bị Trung Quốc xâm lược... 
Tình hình mới đang đặt những người lãnh đạo đất nước vào thế khó xử. Đâu là thế trận của Việt Nam trong bối cảnh mà cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo tại Biển Đông đã trở thành tâm điểm trong quan hệ Việt-Trung cũng như trong các mối quan hệ khu vực và quốc tế. Để không phải nói dài về điểm này, xin mạn phép dẫn  ra đây đường link đến một bài viết của cùng tác giả cách đây không lâu:   http://trankinhnghi.blogspot.com/2011/04/tran-viet-nam-can-mot-tu-duy-moi
Từ đó đến nay có thêm một số động thái đáng lưu ý: Đó là cuộc thăm làm việc  của  Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân giải phóng Trung Quốc Trần Bỉnh Đức đến Mỹ ngày 17/5 vừa qua. Chuyến thăm đã được phía Mỹ coi trọng hơn so với mức bình thường. Bằng sự kiện này hai bên đã tháo bỏ việc Trung Quốc đơn phương tuyên bố  “ngưng” quan hệ song phương  với Mỹ từ đầu năm 2010 khi Mỹ quyết định tăng cường bán vũ khí tối tân cho Đài Loan. Có thể coi đây là một dấu hiệu"tan băng" nho nhỏ trong quanhệ Trung Mỹ. Sự kiện thứ hai là, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN lần thứ 5 (ADMM-5) đã diễn ra tại Thủ đô Jakarta của Indonesia từ 19-20/5/2011, qua đó khẳng định lại lập trường giải quyểt tranh chấp Biển Đông bằng phương pháp hòa bình, nhưng chưa đi đến một biện pháp cụ thể có ý nghĩa thiết thực nào. Trong khi đó,  cùng  với hàng loạt các hoạt động phô diễn lực lượng quân sự của phía Trung Quốc, đáng chú đã xảy ra mấy vụ đụng độ với Philippine. Với Việt Nam phía Trung Quốc dường như đang cho thấy một dấu hiệu thay đổi chiến thuật: tỏ thái độ đấu diệu  trong tiếp xúc, nhưng  vẫn xúc tiến mạnh mẽ các hành động lấn lướt trên biển đảo và tăng cường hoạt động xuống vùng Trường Sa.  Gần đây báo mạng Trung Quốc rêu rao Trung Quốc có đầy đủ lực lượng để “giải quyết rốt ráo” bằng vũ lực nếu muốn đánh chiếm các đảo Trường Sa và Biển Đông…, nhưng không  làm như vậy(!?) - một bộ phận "dân luận" TQ cho đó là nhu nhược, số khác lại lo sợ Mỹ can thiệp hoặc “ mắc mưu” Mỹ !...
Có thể nói, đây là thời kỳ “thú vị” đối với những người nghiên cứu tình hình Biển Đông, nhưng cũng là thời kỳ đáng cảnh giác nhất của các bên nước nhỏ yếu. Đối với Việt Nam tình hình nhắc ta nhớ lại những gì đã từng xảy ra trước tháng 2/1979 và  năm 1988 -khi cũng đã từng diễn ra  sự “đi lại nhộn nhịp” giữa Bắc Kinh và Washington hoặc giữa Hà Nôi và Bắc Kinh.  
Mặc dù bối cảnh và tương quan lực lương hiện nay không hoàn toàn giống với các thời kỳ trước, nhưng không khí đang phảng phất  “mùi vị” của những thời kỳ  đó. Thiết nghĩ không nên úp mở gì, ngoài  Trung Quốc mạnh vượt trội, chỉ có 3 bên tranh chấp đáng kể là Việt Nam,  Đài Loan và Phiilippine, trong đó Đài Loan và Philippine đã chính thức là đồng minh của Mỹ. Việt Nam vẫn trơ trọi một mình, lại bị giới “quân luận” Trung Quốc cho là “yếu” và "không có khả năng tổ chức chiến tranh…"; "nếu Trung Quốc đánh là chắc thắng!...". ̣ 
Có thể nói,  trong bối cảnh tình hình như hiện nay, Việt Nam không thể trông chờ vào sự tốt bụng của ông bạn “bốn tốt” và cũng không thể ảo tưởng vào sự giúp đỡ vô tư và kịp thời của Mỹ hoặc Nga hoặc tập thể ASEAN. Do đó, ngoài việc cần khẩn trương tìm kiếm các mối quan hệ bạn bè, đồng minh và tranh thủ dư luận quốc tế,  Việt Nam KHÔNG CÓ CÁCH NÀO KHÁC là phải tăng cường sức đề kháng của bản thân với những phương thức truyền thống trên cơ sở tự lực, tự cường. Muốn vậy, giới lãnh đạo  hãy tĩnh táo với những bài học cay đắng của quá khứ gần đây và coi đây là một dịp tốt để sửa sai  bằng cách kịp thời xác định một chiến lược, chiến thuật phù hợp  cho trước mắt và tương lai. Nhưng điều kiện tiên quyết là phải đảm bảo khối đoàn kết toàn dân trên dưới một lòng; và chớ để khi có giặc mới đoàn kết thì e sẽ không còn cơ hội nào nữa./. 



Trần Kinh Nghị       
     

Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2011

Làm khai sinh cũng nhiêu khê

Chắc không mấy ai lại chưa một lần có việc phải cậy nhờ  nơi cơ quan hành chính nhà nước. Tôi thì đã khá nhiều lần, nhưng lần này tôi buộc phải  giơ tay xin “cho em ý kiến”. Không phải vì oan ức, mà vì nó như một “giọt nước tràn ly” khiến  tôi thấy cần góp thêm một tiếng nói vì một nền hành chính nước nhà tốt đẹp hơn; ngoài ra không có dụng ý gì khác.
Cách đây vài tuần lễ tôi có đến Phòng Hành chính Phường tôi ở giữa thủ đô Hà Nội để làm giấy khai sinh cho đứa cháu ngoại, một việc mà cả hai nhà nôi-ngoại đều rất coi trọng.
 Qua tìm hiểu sơ bộ và qua kinh nghiệm không mấy khi lặp lại, tôi đã  soạn sẵn một bộ giấy tờ gồm  giấy Kết hôn của hai con, giấy chứng sinh của cháu, hộ khẩu của mẹ cháu (lâu nay vẫn để cùng sổ với nhà ngoại và cũng là nơi mẹ con đang ở ), giấy CMND của bố và mẹ cháu; và không quên mang theo CMND của bản thân. Những tưởng như vậy là đủ.
Nhưng khi tôi vừa chìa tập hồ sơ qua  ô kính, một nhân viên xem qua và nói:  “Thiếu sổ hộ khẩu của bố ” đồng thời đẩy bộ hồ sơ trả lại tôi và  quay sang tiếp người khác.  Tôi hơi chưng hửng, nhưng cảm thấy mình đã “ra rìa” nên đành gấp hồ sơ trở về nhà.
Chẳng may, đúng vào tuần lễ đó người con rể  đi công tác nên  tôi phải đợi gần 10 ngày  sau mới lấy đựợc hộ khẩu để quay lại Phòng hành chính Phường.  Lúc này một nhân viên khác xem hồ sơ và nói : “Cần bản phô tô  hộ khẩu và CMND…” Thú thật lúc đó tôi chỉ nghe rõ phần đầu, không rõ phần cuối.  Nhưng thấy thái độ “phớt ăng-lê” cùng  vẻ mặt không mấy thiện cảm của người nhân viên nên tôi không hỏi thêm đành  “rút lui có trật tự”, định bụng sẽ sao chụp hết tất cả mọi thứ giấy tờ đang có trong cặp là được.
Tôi quay xe đi tìm hiệu phô tô cóp pi và in tất cả những thứ có trong cặp hồ sơ, mỗi thứ 2 bản cho chắc ăn,  rồi nhanh chóng  quay lại Phòng hành chính để khỏi nhỡ một ngày nữa. Tuy nhiên, những trắc trở  vẫn đang chờ tôi tại đó.  
Lúc này một  nhân viên khác tiếp nhận tập hồ sơ, dường như  không cần biết phần trước  thế nào cũng chỉ soạn ra chọn lấy bản phô tô hộ khẩu cùng tờ Chứng sinh nhưng trả lai tất cả các thứ khác, kể cả 2 CMND của bố mẹ cháu bé, rồi lại yêu cầu bản phô tô  CMND của tôi! Thú thật lúc này tôi bắt đầu thấy nản , liền nói: “Thì tôi đã phô tô hết mọi giấy tờ trong cặp rồi đó, giờ lại bảo phô tô cả CMND của tôi nữa… Sao lúc nãy không bảo?” Tôi liền rút ví lấy CMND  ra và nói:  “Nếu cần thì cứ giữ lại CMND của tôi, khi làm xong cho tôi xin lại”. Người nhân viên  nói  cần bản phô tô của tôi để lưu hồ sơ, chứ  không cần bản chính. Tôi giợi ý nhờ phô tô bằng chiếc máy của cơ quan (đang đặt ở góc phòng), nhưng người nhân viên  lắc đầu dứt khoát  rằng tôi phải ra phố mà làm lấy! . Thú thật một lão già về hưu như tôi cũng đã nhiều phen xử lý giấy tờ các loại tại nhiều địa bàn trong và ngoài nước, nhưng chưa bao giờ tôi thấy nhiêu khê  như  lần này chỉ vì  mấy cái giấy phô tô! Do đó tôi bắt đầu  bực mình và giở giọng lý sự: “Tên tôi có trong bản sao Hộ khẩu lại có cả CMND gốc kèm theo là quá đủ.  Tại sao người thực việc thực mà không tin lại đi tin vào mấy tờ giấy sao chụp ? Có máy móc sắm ra để đấy mà không giúp dân thì để làm gì?…  Rồi tôi kết luận:  Hành chính mà làm thế này  thì đúng là “hành dân là chính!”
Nói vậy, nhưng  rồi  tôi cũng đã phải lộn lại vòng nữa để sao chụp cái CMND chết tiệt đó chỉ mong sao được việc của đứa cháu mới chào đời.
Nhưng chưa hết. Khi tôi quay lại với bản bản sao CMND, và bộ hồ sơ coi như đã đủ thì người nhân viên lại “cảnh báo” rằng trong cái giấy khai sinh của đứa cháu  sẽ phải bị đóng dấu “đăng ký quá hạn”. Nghe lạ tai, tôi thắc mắc : Tại sao? Tôi đâu có chậm nếu biết rõ ngay từ đầu phải mang theo giấy tờ gì! Và nếu có chậm thì đâu đến nỗi phải đóng cái dấu như tội lỗi ấy vào Giấy khai sinh của một đứa trẻ vô tội? …Thấy tôi tỏ bức xúc, người nhân viên giả thích rằng đó chỉ là nguyên tắc đối với trường hợp khai báo chậm hơn 60 ngày,…nhưng “sẽ không ảnh hưởng gì đâu”!. Tôi cãi: Không ảnh hưởng thì đóng dấu làm gì, ngày tháng trong giấy đã nói lên điều đó rồi; đóng thế chỉ tổ gây hiểu nhầm không cần thiết?. Rốt cuộc, có lẽ vì đã là “nguyên tắc” nên dẫu tôi có nói gì họ cũng không nghe. Tôi đành cầm tờ giấy hẹn ra về mà không có được niềm vui nhỏ nhoi của người ông đi làm chứng sinh cho đứa cháu.
Nhưng đâu đã hết chuyện.  Hôm đến hẹn tôi ra nhận giấy khai sinh, hí hửng mang về  khoe với cả nhà. Không ngờ  lại phát hiện ít nhất có  3 vấn đề khiến cả hai nhà nôi - ngoại đều chỉ muốn làm lại cái giấy khai sinh đó. Một là, không chỉ trên tờ Khai sinh chính mà cả các bản  sao  đều đóng dấu đỏ choét ô chữ “ĐĂNG KÝ QUÁ HẠN”  nỗi bật giữa tờ Giấy khai sinh trông rất phản cảm.  Hai là, tại phần ghi địa chỉ,  chữ Hà Nội bị tách đôi: chữ “Hà” nằm cuối dòng trên, chữ “Nội” một mình chiếm cả dòng dưới,  không hợp lệ về cách viết địa danh;   trong khi hàng trên chữ dày chi chít mà vẫn  thiếu chữ "phường" và "quận". Tất cả  tạo nên một sự mất cân đối và không phù hợp quy cách của một văn bản hành chính nhà nước.   Vấn đề thứ 3, tên của cháu bị nhầm chữ y với chữ i. Lỗi này chủ yếu là do tôi trong lúc đang tranh cãi thiếu bình tĩnh đã chép sai so với   Giấy Chứng sinh, nên tôi đã nhận lỗi).  
Với 3 “vấn đề” nói trên, tôi quyết định lập tức quay lại phòng Hành chính Phường để xin được làm lại giấy khai sinh nhằm  kết hợp chỉnh sửa để  có một Giấy khai sinh tốt đẹp cho đứa cháu. Tôi cũng nói rõ sẵn sàng trả mọi chi phí cho việc làm lại như vậy.
Lúc đầu một nhân viên bảo tôi chờ sẽ cho làm thủ tục làm lại. Nhưng sau đó một nhân viên khác nói  không được làm lại. Người đó cũng quả quyết rằng   không thể bỏ  ô chữ  “ĐĂNG KÝ CHẬM”, cũng không thể chỉnh sửa phần ghi địa chỉ  “vì máy tính đã lập trình như vậy”(!?)  
Tất cả tưởng như bế tắc cho đến khi tôi trực tiếp trao đổi sự việc với cấp cao hơn của họ và được “thông cảm” cho làm lại. Nhưng vị cán bộ cấp trên đó cũng không quên nhắc tôi hãy xin lỗi mấy người nhân viên hành chính về thái độ nóng nảy của tôi…"cho được việc"! Vậy ra, phải chăng thái độ của nhân dân là cần thiết, còn thái độ của công chức thì sao cũng được?; và chỉ có người dân có lỗi, còn cán bộ nhân viên nhà nước thì không bao giờ có lỗi?, và nếu có lỗi thì cũng không cần xin lỗi?    
Hôm qua tôi ra Phường nhân tờ  Giấy khai sinh làm lại nhưng vẫn thấy  ô chữ “ĐĂNG KÝ QUÁ HẠN” màu đỏ nỗi bật trong bản chính. Chữ i được đổi thành chữ y, nhưng chữ Hà Nội vẫn bị “chia tách” ở hai dòng như cũ.
Trên đây  chỉ là một việc rất nhỏ trong toàn bộ công việc của ngành hành chính  nước ta. Nhưng nó cho thấy lề lối làm việc ngày càng rườm ra, thái độ quan cách khiến người dân luôn thấy mình bỡ ngỡ, phiền toái ngay tại chính quê hưqơng của mình. Không hiểu vì lý do gì các cơ quan hành chính ngày càng lạm dụng hình thức chứng từ sao chép  mà ai cũng biết rất dễ bị lợi dụng để tẩy sửa, thay đổi hoặc làm giả. Vậy mà hễ cần làm thủ tục giấy tờ gì đều đượcyêu cầu nọp  bản sao (cóp-pi),  thậm chí không cần đối chiếu với bản chính!  Thiết nghĩ, tục ngữ xưa đã có câu “tam sao thất bản” chí lý thế, mà nay ngành hành chính của ta dường như chưa nhân thức được nên đã có không ít những hậu quả tầy trời chỉ vì “bản sao dỡm”.
Vi tính là một công cụ hiện đại đáng lẽ giúp làm ra các văn bản đẹp và đúng quy cách hơn, nhưng lại bị vận dụng sai lệch để biện bạch cho cách làm việc tắc trách hoặc lấp liếm cho trình độ yếu kém của người thi hành công vụ. Bất cứ ai có chút hiểu biết về vi tính đều biết cái gọi là “lập trình” đều do con người làm ra, cớ sao không thể chỉnh lại , nhất là trường hợp  sai cả ngữ nghĩa lẫn hình thức của một văn bản. Theo sự giải thích của các nhân viên phòng hành chính nói trên,  thì chắc chắn đã, đang và sẽ có hàng loạt những văn bản nhà nước với những lỗi “lập trình” ngớ ngẫn như vậy trên khắp đất nước này./.  

Tư liệu Chiến tranh VN

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này