Thứ Bảy, 19 tháng 3, 2011

Vì tiền? nhưng không thể bất cứ giá nào!


Căn lều dự  án mọc lên làm xấu cả phố phường
Tấm ảnh trên được chụp mới sáng nay tại con ngõ số 239 Phố Tô Hiệu, Quận Cầu Giấy, Thủ đô Hà Nội, cũng là con ngõ chính nối  Phố Tô Hiệu với Làng Quốc tế Thăng Long nên lúc nào cũng quá “nhộn nhịp” với dầy đặc hàng quán và xe cộ khiến người đi bộ luôn phải đi dưới lòng đường rất nguy hiểm. Đã có không ít vụ tai nạn xảy ra tại đây. Ấy vậy mà người ta đang hối hả xây chen tại đây ít nhất là 2 dự án chung cư nữa. Mảnh đất hẹp chỉ khoảng 400 m2  bên phải tấm ảnh này thuộc một “dự án” gồm 4 biệt thự đang được khởi công. Còn một dự án “khủng” hơn nhiều với gần 100 căn liền kề đang được lăm le khởi động ở phía đầu ngõ trên rẻo đất  hiện đang là hành lang bảo hiểm lưới điện 110KV giữa Làng Quốc tế Thăng Long và Phố Tô Hiệu.

Người viết bài này chỉ là một "phó thường dân" nên không đủ thẩm quyền “để biết” mọi ngóc ngách của hai dự án nói trên, nhưng cũng biết đủ để xin được sử dụng cái quyền “được bàn” như sau.

Người Hà Nội chắc đều biết Làng Quốc tế Thăng Long là một trong số ít khu chung cư cao cấp đầu tiên của Thủ đô. Nó vẫn còn đó dấu tích của những biệt thự mà Lã Thị Kim Oanh “biến hóa” từ một dự án chung cư cao tầng là chính. Mảnh đất nằm ở rìa ngoài nói trên cũng là một dấu vết còn sót lại sau nhiều lần đấu tranh giằng co, quãng năm 2006 nó đã được kết luận là “đất cây xanh…, không được xây nhà ở”.  Nhưng cách đây mấy tháng bỗng dưng có người đục tường  rào  vào trong sân dọn mặt bằng,  ai hỏi chỉ nói úp mở…. Nhưng mới đây đã lộ rõ nguyên hình là sự “hồi sinh” cái ý đồ của 10 năm trước, khác chăng là, trước đây định xây 2 biệt thự thì giờ thành 4 căn liền kề!
Vấn đề chưa rõ là ai cho phép xây và xây cho ai (?). Nhưng điều đã rõ  là dự án này vi phạm các quy tắc xây dựng cơ bản, và ắt hẳn có những khuất tất trong đó cần được làm sáng tổ và kịp thời ngăn chặn.

Trường hợp dự án thứ hai còn lớn hơn rất nhiều với quy mô gần 100 căn liền kề tạo nên một “bức tường” bằng nhà dài gần  ½ km chạy dọc sau phố Tô Hiệu và cũng cắt qua con ngõ nhỏ nói trên (theo sơ đồ thiết kế của công ty chủ quản INDECO).  Dư luận đàm tiếu rằng nếu được thực hiện, nó chắc sẽ là một “kiệt tác” nữa của nền kiến trúc chắp vá của Thủ đô ta. Xấu xí không giống ai là một chuyện. Nhưng chuyện đáng nói ở đây là sự vô lý của một dự án xây chen nhà ở trên diện tích đất lưu không đường điện cao thế (dù đang treo trên cao như hiện tại hoặc sẽ hạ ngầm sau này). Hơn nữa về mật độ dân cư đây là một khu vực đã được quy hoạch với Khu tập thể Nghĩa Tân một bên và Làng QTTL một bên, chẳng có lý gì để “chèn” thêm  một khu dân cư nữa vào giữa.     

Ai cũng biết thủ đoạn “xây chen” là một mánh kiếm tiền của các chủ thầu xây dựng. Nhưng trong hai trường hợp kể trên nó là sự vi phạm có tính toán mà những kẻ vi phạm  tỏ ra rất kiên trì bám đuổi phần lợi nhuận 200% của họ ( như luận điểm thời nào cũng đúng của Karl Max: Nếu đạt lãi xuất 200% thì nhà tư bản dù bị treo cổ cũng không từ bỏ).

Tuy nhiên,  cũng xin thưa, trong một xã hội pháp quyền, thiết nghĩ mọi hoạt động kinh doanh nhất thiết phải tuân thủ pháp luật. Và pháp luật không ngoài mục đích nhằm đảm bảo quyền sống và mọi quyền lợi chính đáng của công dân. Người cầm cân pháp luật không ai khác là các cơ quan chức năng của Nhà nước. Vậy nếu không có sự chấp thuận (dưới mọi hình thức nào đó) của một cơ quan nhà nước thì liệu các công ty xây dựng trên đây có thể liều lĩnh đổ vốn cho những phi vụ làm ăn mà họ biết chắc là không được sự đồng thuận của nhân dân?  

Nhưng qua những gì đang diễn ra cho dân thấy các chủ thầu đã và đang làm việc một cách đầy tự tin. Không rõ vì sao họ có thể đưa ra nhiều công văn giấy tờ có chữ ký và con dấu  của các cơ chức năng cho phép xây dựng nhà ở như vậy.  Nghe nói họ thậm chí đã “bán hết” các lô đất nền…(!). Trong khi đó người dân cảm thấy  rất bức xúc, lo lắng không biết điều gì sẽ xảy ra nếu cái gọi là “dự án” như vậy được tiến hành. Nhiều người cho rằng những kẻ đầu cơ chỉ cần cắm mốc và rào khoanh vùng để “xí phần”, sau đó chưa chắc đến lúc nào sẽ thực hiện, miễn là giá đất sẽ tiếp tục lên!  Suy luận này  hoàn toàn có cơ sở khi mà chưa một cơ quan Nhà nước nào đứng ra chính thức thông báo và giải trình về tính khả thi của dự án “hạ ngầm lưới điện 110 KV” trên phần diện tích đất của dự án nhà liền kề nói trên.   

Dân cư trong khu vực đã nhiều lần làm đơn kiến nghị gửi đến các cấp chính quyền từ Phường đến Thành phố; cũng đã có sự lên tiếng của báo chí. Nhưng cho đến nay tất cả vẫn rơi vào yên lặng. Ngoài một vài cuộc họp do Phường Dịch Vọng tổ chức mà trong đó chỉ để nghe ý kiến tranh cãi giữa người dân với đại diện Công ty có dự án, chưa hề có một văn bản hay một hình thức trả lời chính thức nào của các cấp chính quyền.

Thiết nghĩ, đất nước đang thực hiện đổi mới, trong đó Thủ đô là tấm gương về mọi mặt không lẽ nào cứ quẩn quanh mãi trong nếp làm xây dựng chắp vá? Một Hà Nội mở rộng với  hơn 3.300 km2 ngày nay không thể thiếu đất để phải cho xây chen,  xây ép các khu dân cư trong vùng nội thành. Cách làm này chỉ có lợi trước mắt cho những kẻ đầu tư bất động sản trục lợi, nhưng sẽ mãi mãi làm nhơ xấu hình ảnh của phố phường Hà Nội. Kiếm tiền ai cũng muốn, nhưng cái giá phải trả mới là vấn đề: Đó là hình ảnh xấu xí, lạc hậu của Thủ đô; đó là lòng tin của người dân vào nơi công quyền bị xói mòn./.           

Trần Kinh Nghị

Cơ hội để HLV nội lên ngôi?


Sự ra đi đột ngột của Huấn luyện viên (HLV) ngoại Calisto dù muốn hay không đã đặt Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) nói riêng và nền bóng đá nước nhà nói chung vào thế khó. Khó vì nhiều lẽ , nhưng có hai lý do chính: đó là thời gian còn quá ít từ nay cho đến khi Tuyển Quốc gia phải ra quân ( trước tiên là trận vòng loại cup châu Á vào tháng 5); và vì tâm lý “sính ngoại” không chỉ trong dân chúng, đặc biệt người  hâm mộ, mà còn cả trong làng bóng đá nước nhà.

Một lần nữa VFF lại đứng trước thế tiến thoái lương nan giữa hai lựa chọn: HLV nội hay ngoại?  HLV ngoại thì đã có nhiều tiền lệ rồi, nội thì hầu như chưa có kể từ thời “mở cửa”. Đối với Tuyển quốc gia, lâu nay HLV nội toàn làm “chân phụ” là chính ! Khó có thể nói dứt khoát vì lý do gì, nhưng có một sự thật  là, người ngoài bảo thì nghe nhưng người đồng chủng, đồng môn, đồng nghiệp, đồng chí bảo thì không “tâm phục khẩu phục”. Có lẽ vì thế mà dù muốn hay không, bàn đi tính lại, rốt cuộc đành phải chọn “của ngoại” cho được việc cái đã. Nhiều lúc đắt giá lắm mà cũng phải bấm bụng mở hầu bao (như trường hợp thuê  ông Lalisto gần đây nhất chẳng hạn- cò kè mãi cũng không dưới 24.000 đô/tháng!). Nhưng khốn nỗi,  đổi lại, rõ ràng ông ta đã đưa lại một kết quả đúng với cái giá của nó: tấm huân chương vàng Suzuki Cup 2008. Và cũng chính cái kết quả này đang “làm khó” thêm cho các nhà lãnh đạo Liên đoàn bóng đá Việt Nam trước tâm lý  “sính ngoại” đã được cũng cố hơn trong dân chúng.

Trên đây là một cách nhìn khách quan. Tuy nhiên người viết bài này lại muốn đưa ra một cách tiếp cận khác nhằm đi tới kiến nghị rằng Việt Nam vào lúc này tốt hơn hết là hãy chọn một HLV nội.  Xin được nêu lý do như sau:

Một là, thời gian đã quá gấp để một HLV ngoại (dù năng lực tốt bao nhiêu) có thể làm quen và nắm vững về mọi điều cần thiết nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ (ngay cả nếu bản thân người được chọn cam kết có thể làm được việc này). Ngược lại, với một HLV nội, việc này không khó khăn gì.  

Hai là, hãy coi đây là một dịp tốt để thử thách năng lực thực sự cũng như các tố chất khác giữa HLV ngoại và HLV nội. Riêng đối với HLV nội đây là một cơ hội để được thể hiện mình, nhất là khi nước ta đang có một thế hệ HLV còn trẻ tuổi nhưng “lớn lên” từ thưc tiễn với những thành tích cao trong quá trình thi đấu khu vực và quốc tế như Lê Huỳnh Đức, Nguyễn Hồng Sơn… 

Ba là, dù thành bại, đây là một cơ hội để trãi nghiệm về tâm lý: nên tự cường hay tự ti mà lâu nay người Việt Nam từng vấp phải trong lĩnh vực bóng đá nói riêng cũng như trong các môn thể thao khác và cả  trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật, v.v…. Nói cách khác, mọi việc đều cần được liên tục thử nghiệm và kiểm nghiệm lại, chứ đừng mãi sống bằng kinh nghiệm của qúa khứ.

Bốn là, (có thể có người không tán thành) nhưng tôi nghĩ nên hy vọng  đây là một cơ hội để đáp lại lối “làm cao” của một số HLV ngoại mỗi khi họ muốn tìm việc làm với bóng đá Việt Nam. Trong chuyện này cá nhân tôi dù rất hâm mộ ông Calisto nhưng cũng không hài lòng với cái cách mà ông đã chọn thời điểm vừa rồi để “ra đi”.

Thiết nghĩ Việt Nam với gần 80 triệu dân hoàn toàn không phải là một nước nhỏ, lại có một truyền thống yêu bóng đá đầy nhiệt huyết và bản sắc riêng; về trí tuệ cũng đã được minh chứng bằng năng lực học tập và tiếp thu kiến thức thuộc loại cao nhất của thế giới. Thể lực và tầm vóc có thể ảnh hưởng ít nhiều đến thành tích thi đấu nhưng chắc chắn không ảnh hưởng đến nghề làm HLV.  Do đó  không có lý do gì để không sản sinh ra những HLV tầm cở quốc tế. Thậm chí về lâu dài ta hoàn toàn có thể “xuất khẩu “ HLV bóng đá ra thế giới./.
                                                  

Thứ Hai, 14 tháng 3, 2011

Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ: Trách nhiệm thuộc về ai?

Dưới đây là trích đoạn chuyện kể lại của một cựu chiến sĩ hải quân đã từng trực tiếp đối mặt với “giặc biển Trung Quốc” trong chiến dịch lẫn chiếm Trường Sa cách nay đúng 23 năm chẵn (đăng trên tuần vietnamanet nhân kỷ niệm lần thứ 23 ngày quân Trung Quốc lấn chiếm Trường Sa)
Trích dẫn:
Buổi sáng sớm ngày 14/3/1988, HQ 505 và HQ 604 đang neo giữ đảo Gạc Ma thì tàu Trung Quốc kéo đến. Anh Dương kể lại một cách lõm bõm: “Họ gọi loa bằng tiếng Việt: “K2 (mật danh của tàu HQ 604) rời đảo ngay. Đây là lãnh thổ của CHND Trung Hoa”. Tôi mới ngủ dậy, mặc độc cái quần đùi. Lúc đầu tôi còn trêu chọc họ cơ. Mình cầm bánh lương khô dứ dứ, họ cũng dứ lại, lương khô của họ còn to hơn! Thế rồi tàu Trung Quốc lùi lại cách đảo chừng hơn 1 hải lý (khoảng 1,8 km) rồi dùng tất cả hỏa lực bắn xối xả vào cả tàu và đảo. Anh Vũ Huy Lễ, thuyền trưởng của HQ 505, bèn lệnh cho tàu lao vào Cô Lin. Đối phương bắn như vãi đạn, đúng khi tàu ta đang đổ bộ…”. Cùng lúc đó ở hướng đảo Len Đao, hải quân Trung Quốc bắn rát vào chiếc tàu thứ ba, HQ 605.
HQ 505 cháy một mảng lớn. HQ 604 chìm dần. (Còn HQ 605 chìm vào ngày hôm sau, 15/3). Anh Dương cùng đồng đội nhảy xuống biển, bơi về phía đảo Gạc Ma. 9 người bị phía Trung Quốc dùng câu liêm kéo lên, bắt được. Riêng anh bị trúng một nhát câu liêm vào đầu, máu chảy loang đỏ nước, choáng tới mức chìm xuống rất sâu nhưng rồi bị sặc, lại cố ngoi lên, bơi vào bờ. Tới nơi thì do kiệt sức, mất máu, anh ngất đi, được đồng đội sơ cứu rồi dùng xuồng nhôm rút khỏi đảo.
Nguyễn Duy Dương may mắn chỉ bị thương nhẹ. Khi tỉnh dậy, anh mới biết không còn đồng đội nào trên tàu HQ 604 ở bên mình nữa. Người tử thương vì đạn, người chìm theo tàu, người bị bắt.
…….
Nghĩ lại về ngày 14/3 cách đây 23 năm, anh Dương trầm ngâm: “Nói rằng chúng tôi hồi đó hơi chủ quan thì không biết có đúng không, nhưng chẳng ai nghĩ là bên kia sẽ nổ súng, nã pháo, tấn công trên biển cả, cứ tưởng chỉ gây hấn thế thôi. Mỗi người được trang bị một khẩu AK nhưng lúc đó không ai mang súng theo người, để hết ở khoang hàng. Cuối cùng khi chiến sự xảy ra, bên tàu mình tay không, không một tấc sắt. Mà kể cả có vũ khí thì nói chung cũng không tốt, sự phòng bị về căn bản không đáng kể. Trang thiết bị của ta lúc đó đã quá cũ rồi. Tàu ta là tàu 400 tấn, nhập của Trung Quốc từ thời chiến tranh. Tàu đối phương khi ấy lớn gấp cả chục lần ta”.
Anh Dương thổ lộ: “Anh em chúng tôi mong bằng cách nào đó, Việt Nam phát triển tiềm lực quân sự, hải quân, chứ chiều dài đất nước hơn 3.200 km bờ biển mà lực lượng mỏng, trang thiết bị cũ kỹ thì nếu chẳng may có sự cố gì, sẽ ứng phó rất chậm”.
Hết trích dẫn
Trên đây chỉ là môt trong hàng trăn nhân chứng sống nói về các trận chiến không cân sức  giữa ta và địch Trung Quốc, không chỉ trên biển mà cả trên bộ, kể từ  sau ngày giải phóng miền Nam năm 1975. Qua đó toát lên một “thông điệp” chung nhất là sự yếu thế về quân số và hỏa lực là một chuyện, nhưng yếu do bị đánh bất ngờ mới là điều nguy hại hơn nhiều.
Hoàn toàn không thể trách cứ những người lính mà phải trách những người mang sứ mệnh chèo lái con thuyền đất nước. Không còn nghi ngờ gì nữa, bằng thực tiễn mấy chục năm nay đã cho thấy có sai lầm về đường lối trong cách ứng phó với chủ nghĩa bành trướng Phương Bắc, kẻ ngoài miệng luôn nói lời vàng, viết chữ son": đồng chí tốt, láng giềng tốt ... , nhưng trong lòng  lúc nào cũng coi ta là vật cản trên con đường bành trướng của họ. Họ sử dụng ta để đánh kẻ thù ...rồi lại bán đứng ta, chiếm đất và biển đảo của ta lúc nào họ muốn. Chỉ tiếc sao  ta quá chậm nhận ra điều này? Hay nhận ra rồi mà vẫn ảo tưởng vào lòng “từ bi” của họ? Hay nhận ra tất cả rồi nhưng chỉ vì  lơị ích cá nhân thiển cận nên đành chủ trương “dĩ hòa vi quý” một cách ươn hèn bất chấp lợi ích lâu dài của dân tộc? Vì ươn hèn mà nghĩ ra đủ cách để tránh né đối đầu với địch, thậm chí còn "dạy khôn" nhân dân rằng “phải mềm mỏng, khôn khéo với... kẻ thù! ”. Rõ là khôn quá hóa dại! Một khi đường lối không rõ, thái độ không dứt khoát  thì làm sao chỉ đạo cấp dưới sẵn sàng và kiên quyết chiến đấu (?). Còn nhớ bao lần bị quân Trung Quốc đánh, quân ta đều trong trạng thái bất ngờ. Ngay trước cuộc chiến tranh biên giới đầu năm 1979 Đặng Tiểu Bình đi Mỹ đã cố ý công khai ý đồ "đánh Việt Nam..." để thăm dò dư luận. vậy mà ta chẳng tin (?) Đến khi quân địch tràn qua biên giới,  quân ta vẫn trong tư thế như ngày thường, dân không kịp sơ tán… Mấy lần địch tấn công lấn chiếm Trường Sa cũng vậy. Câu chuyện của người Lính trên đây cho thấy rõ điều đó: Đi làm nhiệm vụ mà không mang theo vũ khí;  địch sắp bắn vào ta mà lính ta vẫn đùa với chúng…  Thật đau đớn!!!
Liệu quân dân ta còn bị bất ngờ đến bao giờ? 
                                                                                                         Hà Nội, ngày 14/3/2011

*****

Thứ Tư, 9 tháng 3, 2011

Sự khiếp nhược được che đậy bằng cái gọi là khôn khéo(*)

(*) Thấy bài này trên mạng hay... lôi về, nhưng xin lỗi tác giả
Nguyễn Quang Lập
được đề lại cái tiêu đề bằng câu kết (vì thấy nó đúng sự thật hơn chằng?)




Ai đục bỏ lòng yêu nước?



clip_image001
Hôm qua, báo Thanh Niên cho đăng bài “Lạng Sơn, những ngày tháng hai”, một ghi chép (không phải phóng sự) rất hay. “Đây là lần đầu tiên lễ kỷ niệm được tổ chức tại chính Lạng Sơn, mảnh đất tiền tiêu mà 32 năm trước đã diễn ra những trận đánh ác liệt nhất của quân và dân ta để giữ vững từng tấc đất biên cương Tổ quốc… Với nhiều đồng đội cũ, đây là cuộc gặp gỡ sau hàng chục năm xa cách. Người đã chuyển ngành, người vẫn phục vụ trong quân đội nhưng dường như mọi ký ức, tình cảm của những người lính Quân đoàn 14 vẫn còn vẹn nguyên như ngày nào”. Từng là người lính nhập ngũ trong thời kì “Chống Trung Quốc xâm lược”, tui rất cảm động. Nhiều đoạn rưng rưng nước mắt.
Đến khi nhìn thấy bức ảnh:”Tấm bia kỷ niệm chiến thắng tại đầu cầu Khánh Khê” thì sững sờ, rực lên một nỗi đắng cay.
Tấm bia kỉ niệm chiến thắng mà tan nát thế này a? Bốn chữ “Trung Quốc xâm lược” đã bị đục bỏ trắng trợn. Đỗ Hùng (báo Thanh Niên) đã viết trong blog của anh: “Từ “Trung Quốc” đã bị xóa gần như hoàn toàn, từ “xâm lược” cũng thế. Tấm bia ghi chiến tích đánh Trung Quốc của quân đội Việt Nam trong cuộc chiến tranh biên giới 1979 đã bị đục nát như là bằng chứng cho sự khiếp nhược đã tới mức không thể diễn tả bằng lời“. (Ở TP.HCM, tôi thấy những tấm bia ghi chiến tích đánh Mỹ đặt trước Lãnh sự quán Mỹ, khách sạn Park Hyatt vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt).”
Ai đục bỏ mấy chữ kia? Đỗ Hùng không nói, báo Thanh Niên cũng không nói, chỉ than thở nhẹ nhàng: “Những dấu tích của thời gian và con người đã xóa mờ một vài chỗ trên tấm bia”. Cái “con người” mà báo Thanh Niên nói,  đó là ai? Tại sao lại phải đục bỏ mấy chữ kia? Bởi vì một khi chủ trương đục bỏ bốn chữ  “Trung Quốc xâm lược”  trên tấm bia kỉ niệm chiến thắng tức là tự mình đục bỏ lòng yêu nước. Đỗ Hùng gọi đấy là sự khiếp nhược, quá đúng, sự khiếp nhược được che đậy bằng cái gọi là khôn khéo. Thảm hại thay!
N. Q. L.


08-03-2011

Thử tìm bài học từ lịch sử

Lịch sử cần lắm vai trò của Cơ quan chức năng
Cuối năm ngoái tôi có viết một bài báo nhan đề “Lịch sử cần Sự thật” đăng trên TuầnVietnam (xem http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-12-27-lich-su-can-su-that )  nêu lên một số ý kiến về lịch sử và cội nguồn dân tộc Việt Nam. Nhưng không ngờ bài báo đã thu hút sự quan tâm sâu rộng từ cộng đồng với nhiều ý kiến đóng góp rất đáng lưu tâm. Qua đó cho thấy đúng là có một tình trạng hiểu biết sơ sài và không đồng nhất về lịch sử và cội nguồn dân tộc đồng thời với một xu hướng tâm lý tự ti,  hoài nghi về sự thật lịch sử và các giá trị nhân văn của dân tộc mình ; và điều này diễn ra trong mọi tầng lớp, kể cá trí thức và người trẻ tuổi. Có thể nói lời cảnh báo “dân ta không biết sử ta” từ nhiều năm trước nay đã trở thành sự thực. Cảm nhận này  thôi thúc tôi muốn nói thêm đôi điều sau đây.   
Tìm hiểu kỹ hơn, ta nhận thấy nguyên nhân chính nằm ở sự bất cập của bộ sách giáo khoa và các tài liệu lịch sử nói chung vốn quá nặng về truyền thuyết và những khái niệm mơ hồ không được chứng minh bằng sử liệu và chứng cứ đủ sức thuyết phục. Đáng lẽ tập trung giải mã những “điểm khuất” thì người ta cứ tiếp tục “tô son trát phấn” cho những huyền thoại hoặc những quan điểm mơ hồ thiếu cơ sở khoa học khách quan.  Hậu quả là sự thất truyền, mai một của những sử liệu thật và  thay vào đó bằng những “sử liệu ảo”.
Khi mà người học, người đọc và người dân nói chung đều cảm thấy nhàm chán với bộ sách giáo khoa sử học và các tài liệu lịch sử cũ kỹ thì họ lại càng dễ  bị tác động bởi các văn hóa phẩm ngoại lai và bầu không khí lễ hội xô bồ, lệch lạc; và  do đó trở nên “mù mờ” về lịch sử và cội nguồn dân tộc mình.  Xin đơn cử một vài ví dụ: Có không ít người Việt Nam ngày nay dần tin rằng cội nguồn dân tộc ta phát từ Phú Thọ (vì ở đó có Đền Hùng) và
Bản đồ thời Nhà Hạ-nhà nước đầu tiên của TQ (2205-1767 TCN-
chỉ là một giọt dầu so với bản đồ TQ ngày nay (Nguồn: Wikipedia)

quên mất gốc tích Hồ Động Đình (vì nó ở xa bên Trung Quốc). Những nhầm lẫn  tương tự cũng đang diễn ra với trường hợp Thánh Gióng, An Dương Vương, Hai Bà Trưng, và cả trường hợp Tiệu Đà* … Cứ đà này thì không thể nào tránh được sự nhầm lẫn cơ bản  rằng nước Văn Lang xưa chỉ bao gồm vùng châu thổ Sông Hồng và lâu lắm cũng chỉ từ thế kỷ thứ 7 TCN (như một trường phái lập luận đang khá thịnh hành gần đây). Nói về nguồn gốc dân tộc, thì ngoài khái niệm chung chung  “ cùng là con cháu của các Vua Hùng” thì mỗi người hiểu một cách khác nhau, người thì cho là ta “giống  Tàu”, người thì cho là ta “từ người Hán mà ra” hoặc “bị Hán hóa hết rồi còn đâu!”, v.v…, nghĩa là không còn biết mình là ai nữa. Từ đó sinh ra tâm lý hoài nghi về nguồn cội cũng như các giá trị nhân văn của chính dân tộc mình, thấy mình nhỏ bé, yếu kém, sợ hải và bị thuần phục …Thậm chí có người quan niệm rằng bị đô họ, bị ảnh hưởng của nước lớn láng giềng Phương Bắc là lẽ đương nhiên (!?)    
Nhưng đó cũng chưa phải là hậu quả cuối cùng; hậu quả tiếp theo sẽ là tương lai tồn vong của cả dân tộc. Bởi lẽ, sự hiểu biết đúng đắn về lịch sử và cội nguồn dân tộc không chỉ đơn thuần là sự hiểu biết về quá khứ mà còn là vốn quý báu nhất để từ đó dân tộc rút ra những bài học thiết thực trong suốt cuộc  hành trình vào tương lại.  Không biết hoặc biết sai lệch về lịch sử và cội nguồn dân tộc ắt sẽ khó tránh được những sai lầm trên con đường bảo vệ độc lập-chủ quyền và mưu cầu ấm no hạnh phúc cho dân tộc.       
Thực ra đã có nhiều ý kiến bày tỏ mối lo lắng trước thực trạng bất cập của nền sử học nước nhà; và đang có nhiều nhà nghiên cứu tư nhân hoặc các tổ chức phi chính phủ đã và thầm lặng tiến hành các công trình nghiên cứu nhằm góp phần bổ sung, bổ khuyết cho kho tàng sử liệu dân tộc mà họ quý trọng. gìn giữ. Nhưng đáng tiếc là những kết quả nghiên cứu của họ chưa thể phát huy hết tác dụng do thiếu  vai trò chủ đạo và sự ủng hộ thực chất của các cơ quan nhà nước chuyên trách. Thiết nghĩ, để giải quyết rốt ráo vấn đề này, không ai khác mà chính là các cơ quan chức năng các cấp phải tích cực chủ động “vào cuộc”. 
Cũng nên thống nhất quan niệm rằng đối với những người làm công tác nghiên cứu lịch sử, mọi sử liệu, kể cả truyền thuyết, ca giao tục ngữ, cho đến di tích khảo cổ, khoa học sinh học và gien di truyền, v.v… đều có giá trị nghiên cứu như nhau, và không thể bị coi thường, coi nhẹ cái nào. Vấn đề là cách thức kết hợp chúng với nhau như thế nào và vận dụng phương pháp luận nào để đi tới những kết quả khách quan và chính xác nhất. Thật là sai lầm nếu ai đó chỉ vì một vài phát minh mới mà đã vội từ bỏ những sử liệu hoặc luận điểm đã có từ trước. Ngược lại cũng không ổn nếu chỉ mãi hài lòng với truyền thuyết và những gì đã được ghi chép lại trong sử sách cũ (bới chúng dù sao cũng là do con người sao chép lại nên không thể không có sai sót do vô tình hay cố ý trong quá trình biến thiên hàng ngàn năm của lịch sử).
Liên quan đến công tác này, được biết Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tại buổi gặp mặt đầu năm Tân Mão với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã có ý kiến chỉ đạo rất kịp thời: “Tiếp tục những nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu những di sản, lịch sử còn ẩn chứa trong tâm hồn, nguồn cội của dân tộc Việt Nam để quảng bá, giới thiệu cho các thế hệ tiếp theo, nếu việc này bị xem nhẹ là sẽ tạo ra nguy cơ đối với sự tồn vong của dân tộc”. Chủ tịch nước cũng nhấn mạnh: “Đã là lịch sử thì phải đúng sự thật, trung thực và chính xác. Đối với những vấn đề trước đây công bố chưa chính xác thì khi đã có đủ tư liệu, cần có bước đi thích hợp để đính chính lại lịch sử” **

Bài học nào từ lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam?
Nếu  mỗi quốc gia dân tộc cũng có “số mệnh”, thì phải chăng số mệnh của dân tộc Việt Nam là phải chiến đấu chống ngoại xâm? Cái mệnh này gắn chặt đến nỗi mỗi con người Việt Nam sinh ra đều biết mình “có hơn 4.000 năm lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước” và thuộc lòng các niên đại bị ngoại xâm ở các thời Tần, Hán, Đường, Nguyên-Mông, Pháp, Nhật, Tàu Tưởng, Mỹ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.   
Trong số các kẻ thù xâm lược, có một kẻ mà dù muốn hay không, người Việt Nam vẫn phải chấp nhận chung sống cận kề đời đời kiếp kiếp, đó là nước Trung Quốc vĩ đại với dân số đông nhất thế giới vẫn tự phong là “vương triều” giữa thiên hạ. Lịch sử cho thấy, trong quá trình mở mang bờ cõi, nước láng giềng Phương Bắc này đã rất  thành công về hướng Nam nơi vốn đã là thánh địa của hàng trăm tộc người Bách Việt, trong đó có nước Văn Lang xưa và trở thành Việt Nam ngày nay. Nhân loại chứng kiến rất nhiều  trường hợp xâm lược và thôn tính lẫn nhau, nhưng trường hợp Hán tộc thôn tính các Việt tộc có lẽ là một trường hợp độc đáo cả về  quy mô, cung cách và tính triệt để của nó. Trong quá trình kéo dài hàng ngàn năm từ trước đến sau CN, các bộ tộc hoặc vương quốc Bách Việt đã lần lượt bị Hán tộc thôn tính và đồng hóa, chỉ còn lại Việt Nam . Tuy không bị đồng hóa nhưng Việt Nam đã bị dồn đẩy về phía Nam và bị các triều đại phong kiến Phương Bắc thay nhau đô hộ trong thời gian rất dài (được sử sách ghi là “hơn 1.000 năm”). Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng hận thù sâu sắc giữa hai quốc gia dân tộc mà trong đó người Trung Quốc thường nhìn người Việt Nam bằng con mắt miệt thị trong khi người Việt Nam luôn cảm thấy lo lắng, bất an trước sự khôn ngoan, lắm mưu sâu, kế hiểm của đối phương.  Quá trình đó cho ta ít nhất là 3 kinh nghiệm dưới đây:
Một là, mỗi khi Vương triều Phương Bắc thống nhất và mạnh lên thì họ đem quân sang chinh phạt Việt Nam. Cuộc xâm lược quy mô lớn đầu tiên diễn ra năm 218-208 TCN giữa thời kỳ hoàng kim của Nhà Tần. Hầu hết các cuộc xâm lược sau này cũng đều diễn ra vào những thời cực thịnh của các vương triều Phương Bắc. Đôi khi trong những cơn giận dữ, họ cũng mang quân “đánh hàng xóm”, như trường hợp chiến tranh biên giới năm 1979 mà nhà Lãnh đạo Đặng Tiểu Bình tuyên bố “để dạy cho Việt Nam một bài học”. Trong mấy chục năm gần đây, hễ có cơ hội là họ “đánh lớn, đánh nhỏ” nhằm lấn chiếm biên giới và biển đảo của Việt Nam.
Lịch sử cho thấy dẫu thắng thua thì bờ cõi nước Việt Nam cũng bị dồn đẩy về phía Nam. Và  cho đến ngày hôm nay chưa có cơ sở gì để khẳng định rằng điều này sẽ không lặp lại.
 
Hai là, kẻ thù thường triệt để “khai thác”những thời điểm có bất hòa, bất ổn trong nội bộ Việt Nam để khởi binh xâm lược. Nhưng hễ khi nào bị xâm lược, người Việt Nam đều gác lại những bất hòa bất ổn trong nội bộ để tập trung chống kẻ thù chung.
Bản đồ  minh họa cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc
qua biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979- nguồn  Wikipedia

 
Thiết nghĩ, là dân nước Việt không ai có quyền phủ nhận truyền thống anh hùng chống ngoại xâm. Nhưng cũng nên nhận ra rằng phải kháng chiến là một sự lựa chọn bất đắc dĩ không nên có, bởi lẽ các chu kỳ chiến tranh lặp đi lặp lại quá nhiều ắt để lại những thiệt thòi truyền kiếp đối với cả dân tộc.   
Vậy nên có một lựa chọn tốt hơn là phải chủ động thực hiện “phòng ngừa từ xa” bằng cách không tạo ra cơ hội hấp dẫn đối với giặc ngoại xâm. Đó là tập trung xây dựng hệ thống chính quyền trong sạch vững mạnh, bài trừ tệ nạn quan liêu, tham nhũng, bè phái, tranh chức, tranh quyền và mọi  thói hư tật xấu trong hệ thống công 
quyền, trên cơ sở đó sẽ luôn giữ vững khối đoàn kết toàn dân và phát triển đất nước giàu mạnh.  Đó là phương sách thích hợp và cần thiết đối với một nước ở vị thế như nước ta
Ba là, dù thắng, bại các nhà nước Việt Nam chưa bao giờ thực sự tách khỏi “vòng cương tỏa” của cường quốc láng giềng Phương Bắc.
Lịch sử cho thấy không chỉ lúc thua mà cả lúc thắng các triều đại Việt Nam vẫn thực hiện  nghĩa vụ triều cống đối với nước láng giềng Phương Bắc, coi đó như một cử chỉ cầu hòa và chấp nhận chung sống lâu dài với họ. Có thể nói điều này đã trở thành một “quốc sách” của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên có điều trớ trêu là, phía đối phương chưa hề tỏ ra biết trân trọng quốc sách hòa hảo, phục thiện đó của dân tộc ta, trái lại còn coi đó là cử chỉ yếu hèn, nhu nhược***.
Thiết nghĩ, trong hoàn cảnh khu vực và quốc tế ngày nay, người Việt Nam cần suy ngẫm lại về cái triết lý bạn/ thù và đồng minh, để từ đó có sự điều chỉnh hợp lý nhằm thay đổi cục diện bất lợi cho mình, trong đó cũng nên tính đến cả câu ngụ ngôn xuất xứ từ Trung Quốc: “Người không thay đổi thì ta phải thay đổi”.    
Đồng thời hãy suy ngẫm về ba điều thực tiễn: a) Dân tộc Việt Nam được và mất gì nếu cứ quẩn quanh trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc?; b) Tại sao người Việt học tập và làm việc trong môi trường Âu - Mỹ thì năng lực bao giờ cũng được phát huy tốt hơn ? c) Vẫn biết mọi sự so sánh đều khập khiễng, nhưng Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản đều có thể tồn tại độc lập và phát triển vượt bậc; tại sao Việt Nam chưa làm được điều đó? 
Đây cũng chính là vấn đề mà các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các thế hệ đi trước đã đặt ra nhưng chưa giả quyết rốt ráo được. Phải chăng là do não trạng người Việt lúc nào cũng ám ảnh nỗi mặc cảm của ngàn năm Bắc thuộc, cho "mình từ họ mà ra" và  lúc nào cũng chờ đợi xem họ làm gì mà không dám chủ động vượt lên trước họ? 
Dù sao giờ đây người Việt lại một lần nữa có quyền hy vọng dân tộc sẽ bứt phá để làm được điều mà bao thế hệ chưa làm được. /.  
Tài liệu tham khảo:
- Bách khoa toàn thư mở-Wikipedia với nhiều kiên kết dẫn đến các nguồn khác nhau
- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
- Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim
- Bộ sách giáo khoa môn sử học phổ thông của Nhà XB Giáo Dục Việt Nam.
- Các website và blog có đăng bài viết “Lịch sử cần sự thật”trên Google
Ghi chú:
*(Trích đoạn trả lời của Hưng Đạo Vương : "Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam (thuộc lãnh thổ Trung Quốc ngày nay), còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời.”…. (Xem thêm tại  Wikipedia phần nói về Trần Hưng Đạo)
**Xem thêm tại Website Dòng họ Đỗ Viêt Nam, bản tin ngày 9/2/2011
*** tham khảo các bài viết của nhà nghiên cứu  Dương Danh Di, của cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh,  phát biểu của cựu lãnh tụ Đặng Tiểu Bình, phát biểu của Giáo sư Vương Hành Lĩnh.  Tham khảo Chuyện cổ Việt Nam; một số bài viết của các tác giả nước ngoài;câu chuyện sử liệu nói Tôn Trung Sơn là người Bách Việt.

22-02-2011

Có không tình trạng “dân ta không biết sử ta”?

Cuối năm ngoái tôi có viết một bài ngắn về công tác nghiên cứu và giáo dục lịch sử và cội nguồn dân tộc ở nước ta (xem http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-12-27-lich-su-can-su-that ) . Không ngờ bài báo đã nhận được sự quan tâm sâu rộng từ cộng đồng với nhiều ý kiến tranh luận rất đáng lưu tâm. Qua đó cho thấy đúng là có một tình trạng hiểu biết sơ sài và không đồng nhất về lịch sử và cội nguồn dân tộc đồng thời với xu hướng tâm lý tự ti và hoài nghi về sự thật lịch sử cũng như các giá trị nhân văn của chính dân tộc mình; và điều này diễn ra trong mọi tầng lớp, kể cá trí thức và người trẻ tuổi*. Có thể nói, lời cảnh báo “dân ta không biết sử ta” từ nhiều năm trước giờ đây đã thành sự thật. 

Tìm hiểu kỹ hơn ta nhận thấy nguyên nhân chính nằm ở sự bất cập của sách giáo khoa và các tài liệu lịch sử nói chung vốn nặng về truyền thuyết và những khái niệm mơ hồ không được chứng minh bằng sử liệu và chứng cứ đủ sức thuyết phục. Đáng lẽ tập trung giải mã những “điểm khuất” trong các quyến sử sao chép lại từ thời Bắc thuộc thì người ta cứ tiếp tục “tô son trát phấn” cho những huyền thoại hoặc những quan điểm mơ hồ thiếu cơ sở khoa học khách quan. Đó là chưa nói tệ nạn vận dụng lịch sử cho mục đích chính trị trước mắt mà không tính đến hậu quả lâu dài. Tất cả dẫn đến sự mai một hoặc thất truyền của những sử liệu thật và  thay vào đó bằng những “sử liệu ảo”.

Xin đơn cử một vài ví dụ: Có không ít người Việt Nam ngày nay tin rằng Vua Hùng xuất phát từ Phú Thọ (vì ở đó có Đền Hùng) và quên mất gốc tích Hồ Động Đình (vì nó ở bên Trung Quốc). Điều tương tự cũng đang diễn ra với trường hợp  Thánh Gióng, An Dương Vương, Hai Bà Trưng,… Thử hỏi, nếu có thật một Thánh Gióng đánh giặc Ân, tức thời  Nhà Thương của Trung Quốc (năm 1766 - 1122 trước CN) thì địa bàn trận đánh phải là vùng miền Nam Trung Quốc bây giờ (chứ không thể dưới tận Bắc Ninh cách Hà Nội 40 km(!?)...  Thiết nghĩ, rất cần tái nhìn nhận vai trò của Triệu Đà là một triều đại phong kiến Việt Nam như đã được chính Hưng Đạo Vương xác định, và sử Trung Quốc cũng không coi Triệu Đà là vua của họ.

Nếu ta thử hỏi và trả lời các câu hỏi tương tự sẽ thấy toàn là “kiến thức ảo” hoặc ngộ nhận ngây ngô, vô thức . Cứ đà này thì không thể nào tránh được sự nhầm lẫn "chết người" rằng nước Văn Lang xưa chỉ bao gồm vùng châu thổ Sông Hồng, và có lâu nhất cũng chỉ từ thế kỷ thứ 7 TCN trong khi ngày càng sinh ra nhiều nghi ngờ về 18 đời Hùng Vương. Ngoài khái niệm chung chung “cùng là con cháu của Vua Hùng”, còn lại đều là những dấu hỏi to tướng luôn gây tranh cãi mà người Việt thật sự vẫn chưa biết mình là ai**.   

Thực tế cho thấy, khi người học, người đọc và nhân dân nói chung đều cảm thấy nhàm chán với bộ sách giáo khoa sử học và các tài liệu lịch sử cũ kỹ thì họ lại càng dễ bị tác động bởi các văn hóa phẩm ngoại lai và bầu không khí lễ hội xô bồ, lệch lạc; và  do đó trở nên “mù mờ” về lịch sử và cội nguồn dân tộc mình là điều khó tránh khỏi. Nhưng đây cũng chưa phải là hậu quả cuối cùng; hậu quả tiếp theo sẽ là tương lai tồn vong của cả dân tộc. Bởi lẽ, sự hiểu biết đúng đắn về lịch sử và cội nguồn dân tộc không chỉ là sự hiểu biết về quá khứ mà chính là vốn quý để từ đó dân tộc rút ra những bài học thiết thực trong suốt cuộc  hành trình vào tương lại.  Nếu không biết hoặc biết sai lệch về lịch sử và cội nguồn dân tộc ắt sẽ khó tránh được những sai lầm trên con đường bảo vệ độc lập-chủ quyền và mưu cầu ấm no hạnh phúc cho dân tộc. 

Nếu  mỗi quốc gia dân tộc có “số mệnh”, thì phải chăng số mệnh của dân tộc Việt Nam là phải chiến đấu chống lại sự lấn át của cường quốc láng giềng Phương Bắc? Cái mệnh này gắn chặt đến nỗi mỗi con người Việt Nam sinh ra đều nghe nói “có hơn 4.000 năm lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước”. Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu rồi đây dân ta lại được dạy rằng rằng dân tộc chỉ có hơn 2.000 năm lịch sử và nước Văn Lang  xưa chỉ bao gồm lưu vực Sông Hồng? Nếu cứ tuyên truyền rằng  bờ cõi nước Văn Lang luôn "bất khả xâm phạm", rằng ta không để mất tất đất nào  cho giặc ngoại xâm..., thì vô tình bưng bít sự thật của thời tiền sử. Chẳng lẽ ông cha ta bịa ra truyền thuyết Âu Cơ -Lạc Long Quân và các Vua Hùng với lịch sử với niên đại là năm 2879 TCM..., để  giờ đây con cháu lại nghi ngờ và  "khiêm tốn" chỉ nhận có hơn 2.000 năm lich sử ?  
Thiết nghĩ còn nhiều câu hỏi tương tự mà dân ta, trước tiên  là các nhà chức trách, nhà nghiên cứu và giáo dục bộ môn lịch sử, hãy suy ngẫm để có biện pháp khắc phục tình hình trước khi quá muộn./.

Tài liệu tham khảo:
- Bách khoa toàn thư mở-Wikipedia với nhiều kiên kết dẫn đến các nguồn khác nhau
- Bộ sách giáo khoa môn sử học phổ thông của Nhà XB Giáo Dục Việt Nam
-(*) tham khảo một số trang thảo luận có cụm từ “lịch sử cần sự thật” trên Google .
-(**)nguyenthaihocfoundation  

Bài này đãđược đăng trong Tuần báoThế giới &Việt Nam

http://www.tgvn.com.vn/Item/VN/toasoandocgia/2011/3/5437C0ADD71200F1/

Điều gì khó nhất?

Ngày Tết “nhàn cư vi bất thiện” thành ra suy ngẫm lung tung…dẫn đến cái chủ đề tưởng như đã quá quen nhưng không tự giải đáp được, đành đưa ra tranh thủ ý kiến mọi người: Theo bạn điều gì là khó nhất trong cuộc đời?
Tôi tin sẽ có ít nhất không dưới 1 tá câu trả lời với nội dung trái ngược nhau đối với cùng một câu hỏi này.  Dù sao xin mọi người hãy suy nghĩ thật kỹ rồi hãy trả lời nhé!
Tôi cũng  tin rằng ai rồi cũng sẽ rất đắc chí với câu trả lời của mình, đồng thời cũng sẽ có đủ lý lẽ để bác bỏ những câu trả lời khác. Phải chăng đó là vì tất cả chúng ta đều là con người với một thói xấu muôn thuở: luôn tự cho mình là đúng?
Về phần tôi, câu trả lời là: Điều khó nhất trong đời người là đảm bảo công bằng và hợp lý. Xin nhắc lại CÔNG BẰNG, HỢP LÝ (fair and reasonable).
Tôi tin chắc rằng sẽ có khá nhiều người không đồng ý với câu trả lời của tôi. Nhưng dẫu sao xin hãy cho tôi một cơ hội được giải thích như sau.
Ta hãy thử suy xét điều này với các dạng đối tượng sau đây theo thứ tự a,b,c… nhé: a) bạn và thế giới tự nhiên (tức là tất cả các vật thể không phải  con người); b) bạn và những người xa lạ; và c) bạn và bạn bè (như bạn học, đồng nghiệp, …);  d) bạn và người thân (vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị em, bà con họ tộc); và e) với bản thân mình (chỉ có bạn mà thôi).
Với loại a), thoạt nhìn tưởng sẽ không khó gì để mà công bằng, hợp lý với những đối tượng vô tri vô giác…Nhưng thưc ra, nó vô cùng khó vì nhiều lý do, và vì thiên nhiên không thể tự cãi lại con người!  Xin đơn cử một ví dụ: Ngày Tết mua được một cái cây cảnh về nhà bạn sẽ tha hồ mà cắt tỉa, uốn nắn…, rồi xoay xở đặt nó ở nơi này nơi kia,… Và khi bổng dưng không thích nó nữa, bạn liền vứt nó ra ngoài phố bất cần biết số phận của nó sẽ ra sao. Thử hỏi bạn làm như vậy có công bằng và hợp lý chưa?  Bạn không những không công bằng với cái cây mà còn không công bằng với môi trường sống và với cả cộng đồng… Rất nhiều hậu quả khác sẽ xảy ra liên quan đến cái cây vô tri giác như vậy mà tôi không tiện nói hết cả ra đây.
Với lọa b), khi ra đường gặp ai đó, bạn có xu hướng cho đó là “người lạ”, chẳng bà con chi, nên có biết gì về mình đâu, nói chung chẳng liên quan gì…. Có chăng, bạn sẽ căn cứ  vẻ bề ngoài hoặc cử chỉ, thái độ nào đó của đối phương, để mau chóng tính xem có cần đề phòng hoặc phớt lờ đi cho khỏe… hoặc ngược lại. Nếu tôi không nhầm thì cái gọi là “tình yêu sét đánh” đều bắt đầu từ “người xa lạ” như thế (?). Thôi thì dù là gì, đối tượng này chính là sự bắt đầu của những câu chuyện dài kỳ về cái sự vô tình vô lý của bạn. Hãy nghĩ đi, điều gì sẽ xảy ra với một trong những tình huống nói trên, và bạn sẽ thấy đó là một núi những bài toán khó về sự bất công, vô lý.
Với loại c)  Bạn bè ư? Đây là đối tượng mà bạn cho là không thể thiếu được. Thời thơ ấu mà không có bạn chắc bạn sẽ chết vì buồn; khi trưởng thành mà không có bạn bè, bạn sẽ chẵng làm nên trò trống gì; khi về già không có bạn, chắc điều ước duy nhất của bạn là có bạn. Thế mới biết bạn bè quan trọng nhường nào. Thế nhưng, cũng chính với loại đối tuợng này, bạn sẽ luôn rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan trong cách ứng xử hàng ngày để không mất họ, hoặc ngược lại, để biến họ thành kẻ thù. Nhiều người phải ân hận suốt đời chỉ vì một lần cư xử không công bằng, không hợp lý với bạn.
Với loại d (những người thân thích), Bạn nghĩ sao: dễ hay khó  để mà cư xử công bằng và hợp lý? Riêng tôi nghĩ đây là đối tượng khó nhất (mặc dù không thể chỉ ra cái lý do đích thực của nó). Phải chăng là do thói hay nhầm tưởng là “người của ta” thì muốn cư xử thế nào cũng xong? Nghĩ như vậy là thất bại ít nhất là 90% rồi!  
Dĩ nhiên  tôi có suy nghĩ của tôi, nhưng có lẽ riêng về dạng đối tượng này, tôi nên để dành lại cho mỗi người tự suy ngẫm thì mới đúng phương châm công bằng và hợp lý, đúng không ạ?
Cuối cùng loại d)- với bản thân mỗi người. Có thể có người quả quyết rằng không có vấn đề gì về chuyện công bằng hợp lý với bản thân. Nhưng chính đây mới là đối tượng khó đấy, thậm chí còn quá khó!. Thủ hỏi bạn có công bằng, hợp lý không, khi nếu bạn có bệnh tiểu đường mà vẫn tự cho phép mình ăn uống xả láng mỗi ngày? Bạn có hợp lý không khi cả ngày ngũ dài dài, ban đêm thì ngồi vi tính? v.v…và v.v… Càng nghĩ sẽ càng thấy cái sự thiếu công bằng hợp lý thường xảy ra một cách thầm lặng trong bản thân mỗi người chúng ta. Chính vì thế nó rất khó để loại trừ.
Bạn thấy đấy, chỉ đơn cử một số dạng đối tượng như trên mà ta đã thấy quả thật khó để đảm bảo thực hiện nguyên tắc công bằng hợp lý. Nếu ta  gọp lại nhiều dạng đối tượng với nhau sẽ còn phức tạp và khó hơn nhiều. Đó là khi bạn ở vào vị trí cha mẹ, ông bà đối với gia đình, hay bạn là thủ trưởng một cơ quan, tổng thống của một quốc gia thì sẽ khó biết nhường nào.    
Trên đây chỉ là vài câu trả lời ngắn gọn của cá nhân tôi. Có lẽ bây giờ tôi sẽ nên cố gắng  giữa một tâm trạng công bằng hợp lý để được lắng nghe ý kiến của mọi người. Xin chân thành cảm ơn/.
                                                                                                               Hà Nội, mùng 3 Tết Tân Mão (2011) 

 

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này