Thứ Hai, 14 tháng 3, 2011

Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ: Trách nhiệm thuộc về ai?

Dưới đây là trích đoạn chuyện kể lại của một cựu chiến sĩ hải quân đã từng trực tiếp đối mặt với “giặc biển Trung Quốc” trong chiến dịch lẫn chiếm Trường Sa cách nay đúng 23 năm chẵn (đăng trên tuần vietnamanet nhân kỷ niệm lần thứ 23 ngày quân Trung Quốc lấn chiếm Trường Sa)
Trích dẫn:
Buổi sáng sớm ngày 14/3/1988, HQ 505 và HQ 604 đang neo giữ đảo Gạc Ma thì tàu Trung Quốc kéo đến. Anh Dương kể lại một cách lõm bõm: “Họ gọi loa bằng tiếng Việt: “K2 (mật danh của tàu HQ 604) rời đảo ngay. Đây là lãnh thổ của CHND Trung Hoa”. Tôi mới ngủ dậy, mặc độc cái quần đùi. Lúc đầu tôi còn trêu chọc họ cơ. Mình cầm bánh lương khô dứ dứ, họ cũng dứ lại, lương khô của họ còn to hơn! Thế rồi tàu Trung Quốc lùi lại cách đảo chừng hơn 1 hải lý (khoảng 1,8 km) rồi dùng tất cả hỏa lực bắn xối xả vào cả tàu và đảo. Anh Vũ Huy Lễ, thuyền trưởng của HQ 505, bèn lệnh cho tàu lao vào Cô Lin. Đối phương bắn như vãi đạn, đúng khi tàu ta đang đổ bộ…”. Cùng lúc đó ở hướng đảo Len Đao, hải quân Trung Quốc bắn rát vào chiếc tàu thứ ba, HQ 605.
HQ 505 cháy một mảng lớn. HQ 604 chìm dần. (Còn HQ 605 chìm vào ngày hôm sau, 15/3). Anh Dương cùng đồng đội nhảy xuống biển, bơi về phía đảo Gạc Ma. 9 người bị phía Trung Quốc dùng câu liêm kéo lên, bắt được. Riêng anh bị trúng một nhát câu liêm vào đầu, máu chảy loang đỏ nước, choáng tới mức chìm xuống rất sâu nhưng rồi bị sặc, lại cố ngoi lên, bơi vào bờ. Tới nơi thì do kiệt sức, mất máu, anh ngất đi, được đồng đội sơ cứu rồi dùng xuồng nhôm rút khỏi đảo.
Nguyễn Duy Dương may mắn chỉ bị thương nhẹ. Khi tỉnh dậy, anh mới biết không còn đồng đội nào trên tàu HQ 604 ở bên mình nữa. Người tử thương vì đạn, người chìm theo tàu, người bị bắt.
…….
Nghĩ lại về ngày 14/3 cách đây 23 năm, anh Dương trầm ngâm: “Nói rằng chúng tôi hồi đó hơi chủ quan thì không biết có đúng không, nhưng chẳng ai nghĩ là bên kia sẽ nổ súng, nã pháo, tấn công trên biển cả, cứ tưởng chỉ gây hấn thế thôi. Mỗi người được trang bị một khẩu AK nhưng lúc đó không ai mang súng theo người, để hết ở khoang hàng. Cuối cùng khi chiến sự xảy ra, bên tàu mình tay không, không một tấc sắt. Mà kể cả có vũ khí thì nói chung cũng không tốt, sự phòng bị về căn bản không đáng kể. Trang thiết bị của ta lúc đó đã quá cũ rồi. Tàu ta là tàu 400 tấn, nhập của Trung Quốc từ thời chiến tranh. Tàu đối phương khi ấy lớn gấp cả chục lần ta”.
Anh Dương thổ lộ: “Anh em chúng tôi mong bằng cách nào đó, Việt Nam phát triển tiềm lực quân sự, hải quân, chứ chiều dài đất nước hơn 3.200 km bờ biển mà lực lượng mỏng, trang thiết bị cũ kỹ thì nếu chẳng may có sự cố gì, sẽ ứng phó rất chậm”.
Hết trích dẫn
Trên đây chỉ là môt trong hàng trăn nhân chứng sống nói về các trận chiến không cân sức  giữa ta và địch Trung Quốc, không chỉ trên biển mà cả trên bộ, kể từ  sau ngày giải phóng miền Nam năm 1975. Qua đó toát lên một “thông điệp” chung nhất là sự yếu thế về quân số và hỏa lực là một chuyện, nhưng yếu do bị đánh bất ngờ mới là điều nguy hại hơn nhiều.
Hoàn toàn không thể trách cứ những người lính mà phải trách những người mang sứ mệnh chèo lái con thuyền đất nước. Không còn nghi ngờ gì nữa, bằng thực tiễn mấy chục năm nay đã cho thấy có sai lầm về đường lối trong cách ứng phó với chủ nghĩa bành trướng Phương Bắc, kẻ ngoài miệng luôn nói lời vàng, viết chữ son": đồng chí tốt, láng giềng tốt ... , nhưng trong lòng  lúc nào cũng coi ta là vật cản trên con đường bành trướng của họ. Họ sử dụng ta để đánh kẻ thù ...rồi lại bán đứng ta, chiếm đất và biển đảo của ta lúc nào họ muốn. Chỉ tiếc sao  ta quá chậm nhận ra điều này? Hay nhận ra rồi mà vẫn ảo tưởng vào lòng “từ bi” của họ? Hay nhận ra tất cả rồi nhưng chỉ vì  lơị ích cá nhân thiển cận nên đành chủ trương “dĩ hòa vi quý” một cách ươn hèn bất chấp lợi ích lâu dài của dân tộc? Vì ươn hèn mà nghĩ ra đủ cách để tránh né đối đầu với địch, thậm chí còn "dạy khôn" nhân dân rằng “phải mềm mỏng, khôn khéo với... kẻ thù! ”. Rõ là khôn quá hóa dại! Một khi đường lối không rõ, thái độ không dứt khoát  thì làm sao chỉ đạo cấp dưới sẵn sàng và kiên quyết chiến đấu (?). Còn nhớ bao lần bị quân Trung Quốc đánh, quân ta đều trong trạng thái bất ngờ. Ngay trước cuộc chiến tranh biên giới đầu năm 1979 Đặng Tiểu Bình đi Mỹ đã cố ý công khai ý đồ "đánh Việt Nam..." để thăm dò dư luận. vậy mà ta chẳng tin (?) Đến khi quân địch tràn qua biên giới,  quân ta vẫn trong tư thế như ngày thường, dân không kịp sơ tán… Mấy lần địch tấn công lấn chiếm Trường Sa cũng vậy. Câu chuyện của người Lính trên đây cho thấy rõ điều đó: Đi làm nhiệm vụ mà không mang theo vũ khí;  địch sắp bắn vào ta mà lính ta vẫn đùa với chúng…  Thật đau đớn!!!
Liệu quân dân ta còn bị bất ngờ đến bao giờ? 
                                                                                                         Hà Nội, ngày 14/3/2011

*****

Thứ Tư, 9 tháng 3, 2011

Sự khiếp nhược được che đậy bằng cái gọi là khôn khéo(*)

(*) Thấy bài này trên mạng hay... lôi về, nhưng xin lỗi tác giả
Nguyễn Quang Lập
được đề lại cái tiêu đề bằng câu kết (vì thấy nó đúng sự thật hơn chằng?)




Ai đục bỏ lòng yêu nước?



clip_image001
Hôm qua, báo Thanh Niên cho đăng bài “Lạng Sơn, những ngày tháng hai”, một ghi chép (không phải phóng sự) rất hay. “Đây là lần đầu tiên lễ kỷ niệm được tổ chức tại chính Lạng Sơn, mảnh đất tiền tiêu mà 32 năm trước đã diễn ra những trận đánh ác liệt nhất của quân và dân ta để giữ vững từng tấc đất biên cương Tổ quốc… Với nhiều đồng đội cũ, đây là cuộc gặp gỡ sau hàng chục năm xa cách. Người đã chuyển ngành, người vẫn phục vụ trong quân đội nhưng dường như mọi ký ức, tình cảm của những người lính Quân đoàn 14 vẫn còn vẹn nguyên như ngày nào”. Từng là người lính nhập ngũ trong thời kì “Chống Trung Quốc xâm lược”, tui rất cảm động. Nhiều đoạn rưng rưng nước mắt.
Đến khi nhìn thấy bức ảnh:”Tấm bia kỷ niệm chiến thắng tại đầu cầu Khánh Khê” thì sững sờ, rực lên một nỗi đắng cay.
Tấm bia kỉ niệm chiến thắng mà tan nát thế này a? Bốn chữ “Trung Quốc xâm lược” đã bị đục bỏ trắng trợn. Đỗ Hùng (báo Thanh Niên) đã viết trong blog của anh: “Từ “Trung Quốc” đã bị xóa gần như hoàn toàn, từ “xâm lược” cũng thế. Tấm bia ghi chiến tích đánh Trung Quốc của quân đội Việt Nam trong cuộc chiến tranh biên giới 1979 đã bị đục nát như là bằng chứng cho sự khiếp nhược đã tới mức không thể diễn tả bằng lời“. (Ở TP.HCM, tôi thấy những tấm bia ghi chiến tích đánh Mỹ đặt trước Lãnh sự quán Mỹ, khách sạn Park Hyatt vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt).”
Ai đục bỏ mấy chữ kia? Đỗ Hùng không nói, báo Thanh Niên cũng không nói, chỉ than thở nhẹ nhàng: “Những dấu tích của thời gian và con người đã xóa mờ một vài chỗ trên tấm bia”. Cái “con người” mà báo Thanh Niên nói,  đó là ai? Tại sao lại phải đục bỏ mấy chữ kia? Bởi vì một khi chủ trương đục bỏ bốn chữ  “Trung Quốc xâm lược”  trên tấm bia kỉ niệm chiến thắng tức là tự mình đục bỏ lòng yêu nước. Đỗ Hùng gọi đấy là sự khiếp nhược, quá đúng, sự khiếp nhược được che đậy bằng cái gọi là khôn khéo. Thảm hại thay!
N. Q. L.


08-03-2011

Thử tìm bài học từ lịch sử

Lịch sử cần lắm vai trò của Cơ quan chức năng
Cuối năm ngoái tôi có viết một bài báo nhan đề “Lịch sử cần Sự thật” đăng trên TuầnVietnam (xem http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-12-27-lich-su-can-su-that )  nêu lên một số ý kiến về lịch sử và cội nguồn dân tộc Việt Nam. Nhưng không ngờ bài báo đã thu hút sự quan tâm sâu rộng từ cộng đồng với nhiều ý kiến đóng góp rất đáng lưu tâm. Qua đó cho thấy đúng là có một tình trạng hiểu biết sơ sài và không đồng nhất về lịch sử và cội nguồn dân tộc đồng thời với một xu hướng tâm lý tự ti,  hoài nghi về sự thật lịch sử và các giá trị nhân văn của dân tộc mình ; và điều này diễn ra trong mọi tầng lớp, kể cá trí thức và người trẻ tuổi. Có thể nói lời cảnh báo “dân ta không biết sử ta” từ nhiều năm trước nay đã trở thành sự thực. Cảm nhận này  thôi thúc tôi muốn nói thêm đôi điều sau đây.   
Tìm hiểu kỹ hơn, ta nhận thấy nguyên nhân chính nằm ở sự bất cập của bộ sách giáo khoa và các tài liệu lịch sử nói chung vốn quá nặng về truyền thuyết và những khái niệm mơ hồ không được chứng minh bằng sử liệu và chứng cứ đủ sức thuyết phục. Đáng lẽ tập trung giải mã những “điểm khuất” thì người ta cứ tiếp tục “tô son trát phấn” cho những huyền thoại hoặc những quan điểm mơ hồ thiếu cơ sở khoa học khách quan.  Hậu quả là sự thất truyền, mai một của những sử liệu thật và  thay vào đó bằng những “sử liệu ảo”.
Khi mà người học, người đọc và người dân nói chung đều cảm thấy nhàm chán với bộ sách giáo khoa sử học và các tài liệu lịch sử cũ kỹ thì họ lại càng dễ  bị tác động bởi các văn hóa phẩm ngoại lai và bầu không khí lễ hội xô bồ, lệch lạc; và  do đó trở nên “mù mờ” về lịch sử và cội nguồn dân tộc mình.  Xin đơn cử một vài ví dụ: Có không ít người Việt Nam ngày nay dần tin rằng cội nguồn dân tộc ta phát từ Phú Thọ (vì ở đó có Đền Hùng) và
Bản đồ thời Nhà Hạ-nhà nước đầu tiên của TQ (2205-1767 TCN-
chỉ là một giọt dầu so với bản đồ TQ ngày nay (Nguồn: Wikipedia)

quên mất gốc tích Hồ Động Đình (vì nó ở xa bên Trung Quốc). Những nhầm lẫn  tương tự cũng đang diễn ra với trường hợp Thánh Gióng, An Dương Vương, Hai Bà Trưng, và cả trường hợp Tiệu Đà* … Cứ đà này thì không thể nào tránh được sự nhầm lẫn cơ bản  rằng nước Văn Lang xưa chỉ bao gồm vùng châu thổ Sông Hồng và lâu lắm cũng chỉ từ thế kỷ thứ 7 TCN (như một trường phái lập luận đang khá thịnh hành gần đây). Nói về nguồn gốc dân tộc, thì ngoài khái niệm chung chung  “ cùng là con cháu của các Vua Hùng” thì mỗi người hiểu một cách khác nhau, người thì cho là ta “giống  Tàu”, người thì cho là ta “từ người Hán mà ra” hoặc “bị Hán hóa hết rồi còn đâu!”, v.v…, nghĩa là không còn biết mình là ai nữa. Từ đó sinh ra tâm lý hoài nghi về nguồn cội cũng như các giá trị nhân văn của chính dân tộc mình, thấy mình nhỏ bé, yếu kém, sợ hải và bị thuần phục …Thậm chí có người quan niệm rằng bị đô họ, bị ảnh hưởng của nước lớn láng giềng Phương Bắc là lẽ đương nhiên (!?)    
Nhưng đó cũng chưa phải là hậu quả cuối cùng; hậu quả tiếp theo sẽ là tương lai tồn vong của cả dân tộc. Bởi lẽ, sự hiểu biết đúng đắn về lịch sử và cội nguồn dân tộc không chỉ đơn thuần là sự hiểu biết về quá khứ mà còn là vốn quý báu nhất để từ đó dân tộc rút ra những bài học thiết thực trong suốt cuộc  hành trình vào tương lại.  Không biết hoặc biết sai lệch về lịch sử và cội nguồn dân tộc ắt sẽ khó tránh được những sai lầm trên con đường bảo vệ độc lập-chủ quyền và mưu cầu ấm no hạnh phúc cho dân tộc.       
Thực ra đã có nhiều ý kiến bày tỏ mối lo lắng trước thực trạng bất cập của nền sử học nước nhà; và đang có nhiều nhà nghiên cứu tư nhân hoặc các tổ chức phi chính phủ đã và thầm lặng tiến hành các công trình nghiên cứu nhằm góp phần bổ sung, bổ khuyết cho kho tàng sử liệu dân tộc mà họ quý trọng. gìn giữ. Nhưng đáng tiếc là những kết quả nghiên cứu của họ chưa thể phát huy hết tác dụng do thiếu  vai trò chủ đạo và sự ủng hộ thực chất của các cơ quan nhà nước chuyên trách. Thiết nghĩ, để giải quyết rốt ráo vấn đề này, không ai khác mà chính là các cơ quan chức năng các cấp phải tích cực chủ động “vào cuộc”. 
Cũng nên thống nhất quan niệm rằng đối với những người làm công tác nghiên cứu lịch sử, mọi sử liệu, kể cả truyền thuyết, ca giao tục ngữ, cho đến di tích khảo cổ, khoa học sinh học và gien di truyền, v.v… đều có giá trị nghiên cứu như nhau, và không thể bị coi thường, coi nhẹ cái nào. Vấn đề là cách thức kết hợp chúng với nhau như thế nào và vận dụng phương pháp luận nào để đi tới những kết quả khách quan và chính xác nhất. Thật là sai lầm nếu ai đó chỉ vì một vài phát minh mới mà đã vội từ bỏ những sử liệu hoặc luận điểm đã có từ trước. Ngược lại cũng không ổn nếu chỉ mãi hài lòng với truyền thuyết và những gì đã được ghi chép lại trong sử sách cũ (bới chúng dù sao cũng là do con người sao chép lại nên không thể không có sai sót do vô tình hay cố ý trong quá trình biến thiên hàng ngàn năm của lịch sử).
Liên quan đến công tác này, được biết Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tại buổi gặp mặt đầu năm Tân Mão với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã có ý kiến chỉ đạo rất kịp thời: “Tiếp tục những nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu những di sản, lịch sử còn ẩn chứa trong tâm hồn, nguồn cội của dân tộc Việt Nam để quảng bá, giới thiệu cho các thế hệ tiếp theo, nếu việc này bị xem nhẹ là sẽ tạo ra nguy cơ đối với sự tồn vong của dân tộc”. Chủ tịch nước cũng nhấn mạnh: “Đã là lịch sử thì phải đúng sự thật, trung thực và chính xác. Đối với những vấn đề trước đây công bố chưa chính xác thì khi đã có đủ tư liệu, cần có bước đi thích hợp để đính chính lại lịch sử” **

Bài học nào từ lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam?
Nếu  mỗi quốc gia dân tộc cũng có “số mệnh”, thì phải chăng số mệnh của dân tộc Việt Nam là phải chiến đấu chống ngoại xâm? Cái mệnh này gắn chặt đến nỗi mỗi con người Việt Nam sinh ra đều biết mình “có hơn 4.000 năm lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước” và thuộc lòng các niên đại bị ngoại xâm ở các thời Tần, Hán, Đường, Nguyên-Mông, Pháp, Nhật, Tàu Tưởng, Mỹ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.   
Trong số các kẻ thù xâm lược, có một kẻ mà dù muốn hay không, người Việt Nam vẫn phải chấp nhận chung sống cận kề đời đời kiếp kiếp, đó là nước Trung Quốc vĩ đại với dân số đông nhất thế giới vẫn tự phong là “vương triều” giữa thiên hạ. Lịch sử cho thấy, trong quá trình mở mang bờ cõi, nước láng giềng Phương Bắc này đã rất  thành công về hướng Nam nơi vốn đã là thánh địa của hàng trăm tộc người Bách Việt, trong đó có nước Văn Lang xưa và trở thành Việt Nam ngày nay. Nhân loại chứng kiến rất nhiều  trường hợp xâm lược và thôn tính lẫn nhau, nhưng trường hợp Hán tộc thôn tính các Việt tộc có lẽ là một trường hợp độc đáo cả về  quy mô, cung cách và tính triệt để của nó. Trong quá trình kéo dài hàng ngàn năm từ trước đến sau CN, các bộ tộc hoặc vương quốc Bách Việt đã lần lượt bị Hán tộc thôn tính và đồng hóa, chỉ còn lại Việt Nam . Tuy không bị đồng hóa nhưng Việt Nam đã bị dồn đẩy về phía Nam và bị các triều đại phong kiến Phương Bắc thay nhau đô hộ trong thời gian rất dài (được sử sách ghi là “hơn 1.000 năm”). Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng hận thù sâu sắc giữa hai quốc gia dân tộc mà trong đó người Trung Quốc thường nhìn người Việt Nam bằng con mắt miệt thị trong khi người Việt Nam luôn cảm thấy lo lắng, bất an trước sự khôn ngoan, lắm mưu sâu, kế hiểm của đối phương.  Quá trình đó cho ta ít nhất là 3 kinh nghiệm dưới đây:
Một là, mỗi khi Vương triều Phương Bắc thống nhất và mạnh lên thì họ đem quân sang chinh phạt Việt Nam. Cuộc xâm lược quy mô lớn đầu tiên diễn ra năm 218-208 TCN giữa thời kỳ hoàng kim của Nhà Tần. Hầu hết các cuộc xâm lược sau này cũng đều diễn ra vào những thời cực thịnh của các vương triều Phương Bắc. Đôi khi trong những cơn giận dữ, họ cũng mang quân “đánh hàng xóm”, như trường hợp chiến tranh biên giới năm 1979 mà nhà Lãnh đạo Đặng Tiểu Bình tuyên bố “để dạy cho Việt Nam một bài học”. Trong mấy chục năm gần đây, hễ có cơ hội là họ “đánh lớn, đánh nhỏ” nhằm lấn chiếm biên giới và biển đảo của Việt Nam.
Lịch sử cho thấy dẫu thắng thua thì bờ cõi nước Việt Nam cũng bị dồn đẩy về phía Nam. Và  cho đến ngày hôm nay chưa có cơ sở gì để khẳng định rằng điều này sẽ không lặp lại.
 
Hai là, kẻ thù thường triệt để “khai thác”những thời điểm có bất hòa, bất ổn trong nội bộ Việt Nam để khởi binh xâm lược. Nhưng hễ khi nào bị xâm lược, người Việt Nam đều gác lại những bất hòa bất ổn trong nội bộ để tập trung chống kẻ thù chung.
Bản đồ  minh họa cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc
qua biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979- nguồn  Wikipedia

 
Thiết nghĩ, là dân nước Việt không ai có quyền phủ nhận truyền thống anh hùng chống ngoại xâm. Nhưng cũng nên nhận ra rằng phải kháng chiến là một sự lựa chọn bất đắc dĩ không nên có, bởi lẽ các chu kỳ chiến tranh lặp đi lặp lại quá nhiều ắt để lại những thiệt thòi truyền kiếp đối với cả dân tộc.   
Vậy nên có một lựa chọn tốt hơn là phải chủ động thực hiện “phòng ngừa từ xa” bằng cách không tạo ra cơ hội hấp dẫn đối với giặc ngoại xâm. Đó là tập trung xây dựng hệ thống chính quyền trong sạch vững mạnh, bài trừ tệ nạn quan liêu, tham nhũng, bè phái, tranh chức, tranh quyền và mọi  thói hư tật xấu trong hệ thống công 
quyền, trên cơ sở đó sẽ luôn giữ vững khối đoàn kết toàn dân và phát triển đất nước giàu mạnh.  Đó là phương sách thích hợp và cần thiết đối với một nước ở vị thế như nước ta
Ba là, dù thắng, bại các nhà nước Việt Nam chưa bao giờ thực sự tách khỏi “vòng cương tỏa” của cường quốc láng giềng Phương Bắc.
Lịch sử cho thấy không chỉ lúc thua mà cả lúc thắng các triều đại Việt Nam vẫn thực hiện  nghĩa vụ triều cống đối với nước láng giềng Phương Bắc, coi đó như một cử chỉ cầu hòa và chấp nhận chung sống lâu dài với họ. Có thể nói điều này đã trở thành một “quốc sách” của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên có điều trớ trêu là, phía đối phương chưa hề tỏ ra biết trân trọng quốc sách hòa hảo, phục thiện đó của dân tộc ta, trái lại còn coi đó là cử chỉ yếu hèn, nhu nhược***.
Thiết nghĩ, trong hoàn cảnh khu vực và quốc tế ngày nay, người Việt Nam cần suy ngẫm lại về cái triết lý bạn/ thù và đồng minh, để từ đó có sự điều chỉnh hợp lý nhằm thay đổi cục diện bất lợi cho mình, trong đó cũng nên tính đến cả câu ngụ ngôn xuất xứ từ Trung Quốc: “Người không thay đổi thì ta phải thay đổi”.    
Đồng thời hãy suy ngẫm về ba điều thực tiễn: a) Dân tộc Việt Nam được và mất gì nếu cứ quẩn quanh trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc?; b) Tại sao người Việt học tập và làm việc trong môi trường Âu - Mỹ thì năng lực bao giờ cũng được phát huy tốt hơn ? c) Vẫn biết mọi sự so sánh đều khập khiễng, nhưng Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản đều có thể tồn tại độc lập và phát triển vượt bậc; tại sao Việt Nam chưa làm được điều đó? 
Đây cũng chính là vấn đề mà các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các thế hệ đi trước đã đặt ra nhưng chưa giả quyết rốt ráo được. Phải chăng là do não trạng người Việt lúc nào cũng ám ảnh nỗi mặc cảm của ngàn năm Bắc thuộc, cho "mình từ họ mà ra" và  lúc nào cũng chờ đợi xem họ làm gì mà không dám chủ động vượt lên trước họ? 
Dù sao giờ đây người Việt lại một lần nữa có quyền hy vọng dân tộc sẽ bứt phá để làm được điều mà bao thế hệ chưa làm được. /.  
Tài liệu tham khảo:
- Bách khoa toàn thư mở-Wikipedia với nhiều kiên kết dẫn đến các nguồn khác nhau
- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
- Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim
- Bộ sách giáo khoa môn sử học phổ thông của Nhà XB Giáo Dục Việt Nam.
- Các website và blog có đăng bài viết “Lịch sử cần sự thật”trên Google
Ghi chú:
*(Trích đoạn trả lời của Hưng Đạo Vương : "Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam (thuộc lãnh thổ Trung Quốc ngày nay), còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời.”…. (Xem thêm tại  Wikipedia phần nói về Trần Hưng Đạo)
**Xem thêm tại Website Dòng họ Đỗ Viêt Nam, bản tin ngày 9/2/2011
*** tham khảo các bài viết của nhà nghiên cứu  Dương Danh Di, của cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh,  phát biểu của cựu lãnh tụ Đặng Tiểu Bình, phát biểu của Giáo sư Vương Hành Lĩnh.  Tham khảo Chuyện cổ Việt Nam; một số bài viết của các tác giả nước ngoài;câu chuyện sử liệu nói Tôn Trung Sơn là người Bách Việt.

22-02-2011

Có không tình trạng “dân ta không biết sử ta”?

Cuối năm ngoái tôi có viết một bài ngắn về công tác nghiên cứu và giáo dục lịch sử và cội nguồn dân tộc ở nước ta (xem http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-12-27-lich-su-can-su-that ) . Không ngờ bài báo đã nhận được sự quan tâm sâu rộng từ cộng đồng với nhiều ý kiến tranh luận rất đáng lưu tâm. Qua đó cho thấy đúng là có một tình trạng hiểu biết sơ sài và không đồng nhất về lịch sử và cội nguồn dân tộc đồng thời với xu hướng tâm lý tự ti và hoài nghi về sự thật lịch sử cũng như các giá trị nhân văn của chính dân tộc mình; và điều này diễn ra trong mọi tầng lớp, kể cá trí thức và người trẻ tuổi*. Có thể nói, lời cảnh báo “dân ta không biết sử ta” từ nhiều năm trước giờ đây đã thành sự thật. 

Tìm hiểu kỹ hơn ta nhận thấy nguyên nhân chính nằm ở sự bất cập của sách giáo khoa và các tài liệu lịch sử nói chung vốn nặng về truyền thuyết và những khái niệm mơ hồ không được chứng minh bằng sử liệu và chứng cứ đủ sức thuyết phục. Đáng lẽ tập trung giải mã những “điểm khuất” trong các quyến sử sao chép lại từ thời Bắc thuộc thì người ta cứ tiếp tục “tô son trát phấn” cho những huyền thoại hoặc những quan điểm mơ hồ thiếu cơ sở khoa học khách quan. Đó là chưa nói tệ nạn vận dụng lịch sử cho mục đích chính trị trước mắt mà không tính đến hậu quả lâu dài. Tất cả dẫn đến sự mai một hoặc thất truyền của những sử liệu thật và  thay vào đó bằng những “sử liệu ảo”.

Xin đơn cử một vài ví dụ: Có không ít người Việt Nam ngày nay tin rằng Vua Hùng xuất phát từ Phú Thọ (vì ở đó có Đền Hùng) và quên mất gốc tích Hồ Động Đình (vì nó ở bên Trung Quốc). Điều tương tự cũng đang diễn ra với trường hợp  Thánh Gióng, An Dương Vương, Hai Bà Trưng,… Thử hỏi, nếu có thật một Thánh Gióng đánh giặc Ân, tức thời  Nhà Thương của Trung Quốc (năm 1766 - 1122 trước CN) thì địa bàn trận đánh phải là vùng miền Nam Trung Quốc bây giờ (chứ không thể dưới tận Bắc Ninh cách Hà Nội 40 km(!?)...  Thiết nghĩ, rất cần tái nhìn nhận vai trò của Triệu Đà là một triều đại phong kiến Việt Nam như đã được chính Hưng Đạo Vương xác định, và sử Trung Quốc cũng không coi Triệu Đà là vua của họ.

Nếu ta thử hỏi và trả lời các câu hỏi tương tự sẽ thấy toàn là “kiến thức ảo” hoặc ngộ nhận ngây ngô, vô thức . Cứ đà này thì không thể nào tránh được sự nhầm lẫn "chết người" rằng nước Văn Lang xưa chỉ bao gồm vùng châu thổ Sông Hồng, và có lâu nhất cũng chỉ từ thế kỷ thứ 7 TCN trong khi ngày càng sinh ra nhiều nghi ngờ về 18 đời Hùng Vương. Ngoài khái niệm chung chung “cùng là con cháu của Vua Hùng”, còn lại đều là những dấu hỏi to tướng luôn gây tranh cãi mà người Việt thật sự vẫn chưa biết mình là ai**.   

Thực tế cho thấy, khi người học, người đọc và nhân dân nói chung đều cảm thấy nhàm chán với bộ sách giáo khoa sử học và các tài liệu lịch sử cũ kỹ thì họ lại càng dễ bị tác động bởi các văn hóa phẩm ngoại lai và bầu không khí lễ hội xô bồ, lệch lạc; và  do đó trở nên “mù mờ” về lịch sử và cội nguồn dân tộc mình là điều khó tránh khỏi. Nhưng đây cũng chưa phải là hậu quả cuối cùng; hậu quả tiếp theo sẽ là tương lai tồn vong của cả dân tộc. Bởi lẽ, sự hiểu biết đúng đắn về lịch sử và cội nguồn dân tộc không chỉ là sự hiểu biết về quá khứ mà chính là vốn quý để từ đó dân tộc rút ra những bài học thiết thực trong suốt cuộc  hành trình vào tương lại.  Nếu không biết hoặc biết sai lệch về lịch sử và cội nguồn dân tộc ắt sẽ khó tránh được những sai lầm trên con đường bảo vệ độc lập-chủ quyền và mưu cầu ấm no hạnh phúc cho dân tộc. 

Nếu  mỗi quốc gia dân tộc có “số mệnh”, thì phải chăng số mệnh của dân tộc Việt Nam là phải chiến đấu chống lại sự lấn át của cường quốc láng giềng Phương Bắc? Cái mệnh này gắn chặt đến nỗi mỗi con người Việt Nam sinh ra đều nghe nói “có hơn 4.000 năm lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước”. Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu rồi đây dân ta lại được dạy rằng rằng dân tộc chỉ có hơn 2.000 năm lịch sử và nước Văn Lang  xưa chỉ bao gồm lưu vực Sông Hồng? Nếu cứ tuyên truyền rằng  bờ cõi nước Văn Lang luôn "bất khả xâm phạm", rằng ta không để mất tất đất nào  cho giặc ngoại xâm..., thì vô tình bưng bít sự thật của thời tiền sử. Chẳng lẽ ông cha ta bịa ra truyền thuyết Âu Cơ -Lạc Long Quân và các Vua Hùng với lịch sử với niên đại là năm 2879 TCM..., để  giờ đây con cháu lại nghi ngờ và  "khiêm tốn" chỉ nhận có hơn 2.000 năm lich sử ?  
Thiết nghĩ còn nhiều câu hỏi tương tự mà dân ta, trước tiên  là các nhà chức trách, nhà nghiên cứu và giáo dục bộ môn lịch sử, hãy suy ngẫm để có biện pháp khắc phục tình hình trước khi quá muộn./.

Tài liệu tham khảo:
- Bách khoa toàn thư mở-Wikipedia với nhiều kiên kết dẫn đến các nguồn khác nhau
- Bộ sách giáo khoa môn sử học phổ thông của Nhà XB Giáo Dục Việt Nam
-(*) tham khảo một số trang thảo luận có cụm từ “lịch sử cần sự thật” trên Google .
-(**)nguyenthaihocfoundation  

Bài này đãđược đăng trong Tuần báoThế giới &Việt Nam

http://www.tgvn.com.vn/Item/VN/toasoandocgia/2011/3/5437C0ADD71200F1/

Điều gì khó nhất?

Ngày Tết “nhàn cư vi bất thiện” thành ra suy ngẫm lung tung…dẫn đến cái chủ đề tưởng như đã quá quen nhưng không tự giải đáp được, đành đưa ra tranh thủ ý kiến mọi người: Theo bạn điều gì là khó nhất trong cuộc đời?
Tôi tin sẽ có ít nhất không dưới 1 tá câu trả lời với nội dung trái ngược nhau đối với cùng một câu hỏi này.  Dù sao xin mọi người hãy suy nghĩ thật kỹ rồi hãy trả lời nhé!
Tôi cũng  tin rằng ai rồi cũng sẽ rất đắc chí với câu trả lời của mình, đồng thời cũng sẽ có đủ lý lẽ để bác bỏ những câu trả lời khác. Phải chăng đó là vì tất cả chúng ta đều là con người với một thói xấu muôn thuở: luôn tự cho mình là đúng?
Về phần tôi, câu trả lời là: Điều khó nhất trong đời người là đảm bảo công bằng và hợp lý. Xin nhắc lại CÔNG BẰNG, HỢP LÝ (fair and reasonable).
Tôi tin chắc rằng sẽ có khá nhiều người không đồng ý với câu trả lời của tôi. Nhưng dẫu sao xin hãy cho tôi một cơ hội được giải thích như sau.
Ta hãy thử suy xét điều này với các dạng đối tượng sau đây theo thứ tự a,b,c… nhé: a) bạn và thế giới tự nhiên (tức là tất cả các vật thể không phải  con người); b) bạn và những người xa lạ; và c) bạn và bạn bè (như bạn học, đồng nghiệp, …);  d) bạn và người thân (vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị em, bà con họ tộc); và e) với bản thân mình (chỉ có bạn mà thôi).
Với loại a), thoạt nhìn tưởng sẽ không khó gì để mà công bằng, hợp lý với những đối tượng vô tri vô giác…Nhưng thưc ra, nó vô cùng khó vì nhiều lý do, và vì thiên nhiên không thể tự cãi lại con người!  Xin đơn cử một ví dụ: Ngày Tết mua được một cái cây cảnh về nhà bạn sẽ tha hồ mà cắt tỉa, uốn nắn…, rồi xoay xở đặt nó ở nơi này nơi kia,… Và khi bổng dưng không thích nó nữa, bạn liền vứt nó ra ngoài phố bất cần biết số phận của nó sẽ ra sao. Thử hỏi bạn làm như vậy có công bằng và hợp lý chưa?  Bạn không những không công bằng với cái cây mà còn không công bằng với môi trường sống và với cả cộng đồng… Rất nhiều hậu quả khác sẽ xảy ra liên quan đến cái cây vô tri giác như vậy mà tôi không tiện nói hết cả ra đây.
Với lọa b), khi ra đường gặp ai đó, bạn có xu hướng cho đó là “người lạ”, chẳng bà con chi, nên có biết gì về mình đâu, nói chung chẳng liên quan gì…. Có chăng, bạn sẽ căn cứ  vẻ bề ngoài hoặc cử chỉ, thái độ nào đó của đối phương, để mau chóng tính xem có cần đề phòng hoặc phớt lờ đi cho khỏe… hoặc ngược lại. Nếu tôi không nhầm thì cái gọi là “tình yêu sét đánh” đều bắt đầu từ “người xa lạ” như thế (?). Thôi thì dù là gì, đối tượng này chính là sự bắt đầu của những câu chuyện dài kỳ về cái sự vô tình vô lý của bạn. Hãy nghĩ đi, điều gì sẽ xảy ra với một trong những tình huống nói trên, và bạn sẽ thấy đó là một núi những bài toán khó về sự bất công, vô lý.
Với loại c)  Bạn bè ư? Đây là đối tượng mà bạn cho là không thể thiếu được. Thời thơ ấu mà không có bạn chắc bạn sẽ chết vì buồn; khi trưởng thành mà không có bạn bè, bạn sẽ chẵng làm nên trò trống gì; khi về già không có bạn, chắc điều ước duy nhất của bạn là có bạn. Thế mới biết bạn bè quan trọng nhường nào. Thế nhưng, cũng chính với loại đối tuợng này, bạn sẽ luôn rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan trong cách ứng xử hàng ngày để không mất họ, hoặc ngược lại, để biến họ thành kẻ thù. Nhiều người phải ân hận suốt đời chỉ vì một lần cư xử không công bằng, không hợp lý với bạn.
Với loại d (những người thân thích), Bạn nghĩ sao: dễ hay khó  để mà cư xử công bằng và hợp lý? Riêng tôi nghĩ đây là đối tượng khó nhất (mặc dù không thể chỉ ra cái lý do đích thực của nó). Phải chăng là do thói hay nhầm tưởng là “người của ta” thì muốn cư xử thế nào cũng xong? Nghĩ như vậy là thất bại ít nhất là 90% rồi!  
Dĩ nhiên  tôi có suy nghĩ của tôi, nhưng có lẽ riêng về dạng đối tượng này, tôi nên để dành lại cho mỗi người tự suy ngẫm thì mới đúng phương châm công bằng và hợp lý, đúng không ạ?
Cuối cùng loại d)- với bản thân mỗi người. Có thể có người quả quyết rằng không có vấn đề gì về chuyện công bằng hợp lý với bản thân. Nhưng chính đây mới là đối tượng khó đấy, thậm chí còn quá khó!. Thủ hỏi bạn có công bằng, hợp lý không, khi nếu bạn có bệnh tiểu đường mà vẫn tự cho phép mình ăn uống xả láng mỗi ngày? Bạn có hợp lý không khi cả ngày ngũ dài dài, ban đêm thì ngồi vi tính? v.v…và v.v… Càng nghĩ sẽ càng thấy cái sự thiếu công bằng hợp lý thường xảy ra một cách thầm lặng trong bản thân mỗi người chúng ta. Chính vì thế nó rất khó để loại trừ.
Bạn thấy đấy, chỉ đơn cử một số dạng đối tượng như trên mà ta đã thấy quả thật khó để đảm bảo thực hiện nguyên tắc công bằng hợp lý. Nếu ta  gọp lại nhiều dạng đối tượng với nhau sẽ còn phức tạp và khó hơn nhiều. Đó là khi bạn ở vào vị trí cha mẹ, ông bà đối với gia đình, hay bạn là thủ trưởng một cơ quan, tổng thống của một quốc gia thì sẽ khó biết nhường nào.    
Trên đây chỉ là vài câu trả lời ngắn gọn của cá nhân tôi. Có lẽ bây giờ tôi sẽ nên cố gắng  giữa một tâm trạng công bằng hợp lý để được lắng nghe ý kiến của mọi người. Xin chân thành cảm ơn/.
                                                                                                               Hà Nội, mùng 3 Tết Tân Mão (2011) 

 

Thứ Sáu, 26 tháng 11, 2010

Happy old days

Chưa bao giờ cuộc sống con người chuyển động nhanh như bây giờ. Nhịp sống thật hối hả, gấp gáp ...; tất cả đều hướng tới phát triển và tiêu thụ. Một ngày của bạn dường như trôi qua nhanh bằng nửa buổi của thời 50 năm trước; có lẽ một tuần bằng 3 ngày; 5 tháng bằng một năm...

Bởi vì bạn có quá nhiều việc để làm và phải làm. Bạn vừa muốn đọc sách nhưng không thể tránh được sự cám dỗ của chiếc máy tính hoặc màng hình TV. Mở máy ra bạn vừa muốn đọc tin, nhưng cũng rất muốn biết xem có ai đó để chat, lướt xem có bao nhiêu bức thư mới trong mail -box, và những thư đó của ai, thấy cầnthìphải đọc ngay xem nó  nói gì…có những thư  đòi hỏi bạn phải trả lời ngay tức khắc (nhất là khi bạn đang yêu hoặc đang theo đuổi một công chuyện làm ăn quan trong…). Với những người "chơi" blog thời gian lại càng quý hiếm khi mãi mê đọc, viết... Sẽ bận hơn nữa nếu bạn cũng là người mê bóng đá hay phim truyên trên truyền hình mà lúc nào cũng sẵn với chất lượng hình tuyệt hảo được truyền phát qua cable TV (chứ không phải cái enten hay bi gió lung lay trên nóc nhà của ban như xưa).
Cả thế giới giờ đây trong tầm tay của bạn. Chỉ một cú nhấn chuột là bạn có thể "gặp mặt" và trao đổi, thậm chí ký kết một hợp đồng làm ăn với đối tác từ bất cứ quốc gia nào. Với chiếc điện thoại di động bé xíu lọt thỏm trong lòng bàn tay, bạn không bao giờ bị rơi vào thế bị động hoặc cô đơn dù đang ở đâu và làm gì. 
Có thể nói, trái đất - không gian sống của loài người - dường như đang  thu nhỏ lại và nhanh chóng trở nên chật hẹp! Thời gian cũng trở nên "quý hiếm". Chưa hết ngày thứ Năm bạn đã nghĩ đến chiều tối thứ Sáu và kỳ nghĩ cuối tuần... Dịp nghĩ cuối tuần nào của bạn cũng đầy ắp những cuộc vui hoặc việc làm bổ ích cho bản thân mà bạn không thể làm vào các ngày trong tuần. Thoát cái đã hết Chủ nhật …Và bạn phải cố lắm mới thu xếp được một giấc ngũ vừa đủ để ngày mai thứ Hai giậy sớm đi làm.
Trên đường đi làm, văng vẳng bài hát tuổi thơ “ thứ hai là ngày đầu tuần, thứ Ba…, thứ Tư … thứ Năm…”. Nhưng bạn hãy chú ý vào tay lái đấy nhé! Xe bạn đang lao vào vùng tắc nghẽn…, cần phải tập trung vừa để tránh va chạm vừa để tìm lối thoát nhanh nhất để không bị đến nơi làm việc quá muôn, nhất là nếu bạn đã trót có một cuộc hẹn vào đầu giờ. Nếu đó là một ngày đẹp trời và bạn gặp may thì đó sẽ là một ngày mới bắt đầu của một tuần lễ may mắn. Nhưng rất có thể đó là một ngày mưa dầm dề, cộng với một vài điềm gỡ…, bạn sẽ phải “chiến đấu” mệt mõi đấy..., đôi khi quên luôn dịp nghĩ cuối tuần đó nghe! Với một cặp vợ chồng trẻ có con nhỏ, thì thứ Hai là ngày cực kỳ bận rộn…nhưng cũng đầy hưng phấn, nhất là lúc bạn đưa “thiên thần bé nhỏ” đến trường vì đối với bạn, dù có vất vã bao nhiêu, thì những kỳ vọng mà bạn đặt vào thiên thân bé nhỏ sẽ giúp bạn vượt qua tất cả...

Cứ như thế bạn sẽ đi qua 1 tháng lúc nào không hay. Rồi 1 năm của bạn cũng sẽ nhanh thôi mà! Bạn sẽ lại bận tít mù lo cho cái Tết mà trong đầu vẫn còn nhớ như in mình đã làm gì trong Tết trước. Bạn sẽ hỏi: Sao nhanh thế?... Tết để làm gì nhĩ?... Chắc không phải để có dịp mà ăn..., vì bạn rất sợ ăn, nhất là của béo và ngọt, những thứ mà bạn tin rằng hế đụng vào là sẽ lên cân ngay. Cũng chẳng phải để nghĩ ngơi ..., vì tuần nào cũng có 2 ngày nghĩ cuối tuần rồi; với lại còn vài việc phải làm gấp với phía đối tác nước ngoài vốn không coi Tết là ngày nghĩ… À, có lẽ chỉ còn một lý do là để về quê viếng mộ tổ tiên hoặc đi lễ chùa chủ yếu để cầu may cho công việc làm ăn của bạn. Có khi bạn lại muốn Tết mau mau qua đi…để đỡ láng phí thời gian vàng ngọc...

Chà chà, cứ như thế liệu cuộc đời bây giờ có “ngắn” hơn so với trước? Hình như có đấy! Chả thế mà ngày xưa 60 tuổi đã được coi là “lão”, 70 tuổi là “cỗ lai hi”… Giờ 80, 90 vẫn còn “ham sống sợ chết”!
Nhưng để lựa chọn, bạn sẽ chọn cuộc sống xưa hay nay?

Nghe nói, dân tộc nào trên thế giới cũng có một cách tư duy na ná nhau theo kiểu người Anh gọi là “happy old days” (những ngày xưa tươi đẹp). Tuy nhiên để ý một chút thì thấy rằng chỉ những người có tuổi mới dễ đồng ý với câu đó trong khi hầu hết người trẻ tuổi có thể cho đó là “lẩm cẩm”… Có lẽ vì, chỉ người già mới có ngày xưa, còn người trẻ thì chưa có.
Vậy, ta thử quyết tâm không theo cách tư duy của người già xem sao (?)

Nói thì nói vậy, nhưng ta không sao quên được quá khứ, nhất là những gì tốt đẹp. Ta vẫn hằn sâu trong ký ức với những ngày trôi qua thật thú vị biết bao, khi ta dùa dỡn hay tắm mát cùng lũ bạn bên dòng suối trong mát ven rừng hay dạo chơi trên cánh đồng xanh ngút ngàn trong làn gió mát quyện mùi hương đồng nội, hoặc chỉ đơn giản là nằm nằm ngủ say sưa trên chiếc chỏng tre ngoài hiên nhà… Mỗi khi ra phố, ta thấy phố vừa đẹp vừa thanh bình với nhiều thứ không thấy có ở nông thôn. Hồi xưa phố thì ra phố, nông thôn là nông thôn chứ không lẫn lộn như bây giờ. Những con phố có vĩa hè thoáng rộng và yên tịnh, có ồn chăng chỉ là tiếng ve sầu nghe cho đõ nhớ khi đi xa! Các nơi công cộng không chen chúc xô bồ, đầy rác rưỡi và bụi bậm... Đồ ăn thức uống thì tuy không nhiều thứ để lựa chọn, nhưng thứ gì cũng thơm ngon đậm đà khiến ta mỗi khi đã được ăn thì nhớ mãi. Hồi xưa không ai lại sợ mắc bệnh hiểm nghèo hay sợ béo...vì ăn... Mà ăn là thưởng thức, thế thôi!

Phải chăng thời xưa con người có nhiều thời gian và không gian hơn để thưởng thức cuộc sống, và do đó thấy cuộc đời trôi qua chậm rãi, đầy thi vị và quyến rũ...? Có lẽ vì thế mà cảm giác thời gian như dài ra và cuộc đời cũng dài hơn. Chả thế mà người ta đã lấy khái niệm “Tết” để ám chỉ một việc gì đó còn lâu mới xảy ra...

Tôi cứ lan man lục lọi ký ức, hồi tưởng và so sánh với hiện tại (mặc dù biết rằng “mọi sự so sánh đều là khập khiểng”), với hy vọng tìm thấy những cái tốt đẹp hơn giữa ngày nay và ngày xưa …thử tìm cách bác bỏ cách tư duy “happy old days”... Nhưng thật khó! Đó là chưa nói có cái còn phải chờ vài chục năm nữa mới kết luận được, chẳng hạn, liệu "các thiên thần" của chúng ta (giờ được chăm sóc tốt chắc sẽ cao, to, đẹp và thông minh hơn thế hệ trước) lại sẽ gửi cha mẹ vào các trại dưỡng lão (như đang diễn ra ở các nước phát triễn)?
Mọi người hãy cùng suy ngẫm xem có lý lẽ nào để bác bỏ "happy old days". /.
(Bài chuyễnb từ blog cũ sang)
*****

Thứ Hai, 15 tháng 11, 2010

Khi học giả nói thật

Mô phỏng cương vực TQ thời nhà Hạ
           Trước tình hình tranh chấp Biển Đông ngày càng căng thẳng, tiếp theo cuộc Hội thảo quốc tế về Biển Đông lần thứ nhất (năm 2009), cuộc Hội thảo lần thứ hai có tên “Biển Đông: Hợp tác vì An ninh và Phát triển Khu vực” do Học viện Ngoại Giao và Hội luật gia Viêt Nam đứng ra tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 10 đến 12/11/2010. Hội thảo lần này được

dư luận trong và ngoài nước hết sức quan tâm không phải chỉ vì nó diễn ra ngay sau Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 27 mà còn vì tầm
quan trong của một diễn đàn mà tôi cho là “đúng lúc, đúng việc và đúng người”. Tuy nhiên, với bài viết ngắn ngũi này tôi xin được miễn trình bày toàn bộ sự kiện mà chỉ nêu lên một hiện tượng để mọi người cùng suy ngẫm.
Bản đồ mô phỏng cương vực Bách Việt thời kỳ trước CN
Ngay trong ngày đầu của Hội thảo, dư luận đã ngỡ ngàng trước lập luận của phía Đoàn Trung Quốc nói chung, đặc biệt khi tiến sĩ Vương Hàn Lĩnh của Viên Luật pháp Quốc tế thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc trả lời phỏng vấn ngoài hành lang của Vietnamnet đã tuyên bố: “Nên nhớ rằng cho đến năm 1885, Việt Nam vẫn là thuộc quốc của Trung Quốc”. Cũng chính vị tiến sĩ này trước đó đã giảng giải một cách tự tin rằng  “Anh có thể tự lựa chọn cách giải quyết tranh chấp mà anh cho là tốt nhất, có thể phân định được lãnh hải bằng cách này hay cách khác, nhưng chắc chắn là anh không thể tự lựa chọn được hàng xóm. Hai nước Trung Quốc và Việt Nam mãi mãi là hàng xóm, qua biết bao thế hệ và còn tiếp tục với rất nhiều thế hệ nữa”. Rồi vị tiến sĩ không quên “chốt“ lại: “Nếu không chọn cách giải quyết như tôi vừa nêu, các anh sẽ phải hứng chịu các xung đột bằng vũ lực, hoặc thậm chí chiến tranh. Điều này không hề tốt cho tương lai”. (xem thêm tại www.tuanvietnamnet ngày 11/11/2010).
Giữa lúc đang phân vân không hiểu tại sao vị học giả Trung Quốc lại có ý kiến “lạ lẫm” như vậy thì tôi  thấy trên mạng có một tin nói về kết quả của một cuộc khảo sát  vừa mới được hãng thông tấn  Mỹ- Global Times thực hiện để lấy ý kiến của hơn 1.300 người dân tại 6 tỉnh thành lớn của Trung Quốc là Bắc Kinh, Quảng Châu, Thành Đô, Trường Sa, Tây An và Thẩm Dương về giải pháp cho vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo có liên quan đến Trung Quốc. Kết quả khảo sát cho thấy, trong hơn 90% người tham gia trả lời có 39,8% cho rằng phải chiến đấu khẳng định chủ quyền; 35,3% khác cho rằng nên đặt vấn đề tranh chấp chủ quyền qua một bên và cùng nhau phát triển trong khi vẫn tiếp tục lên tiếng khẳng định chủ quyền; chỉ có 18,3% đồng ý xác định lại biên giới lãnh hải cùng với các quốc gia hữu quan. Cuộc thăm dò cũng cho thấy nhiều người dân Trung Quốc xếp Việt Nam là quốc gia thứ 3 cần đề phòng (sau Mỹ và Nhật Bản)!
Một số người trả lời khảo sát cho rằng có thể việc giáo dục lịch sử cũng như tình trạng kiểm soát thông tin tại Trung Quốc đã dẫn đến nhận xét trên…., bởi vì thực tế đối với không ít người dân ở Trung Quốc, khi còn ngồi trên ghế nhà trường, họ đã được giáo dục rằng chủ quyền của hai quần đảo Nam Sa và Tây Sa (Trường Sa và Hoàng Sa) là thuộc về Trung Quốc, nhưng bị Việt Nam và các nước khác chiếm đoạt.
Bình luận về kết quả khảo sát nói trên, Tiến sĩ  June Teufel Dreyer, Giảng viên Khoa học Chính Trị của trường đại học Miami  cho rằng "Sách của Trung Quốc đã phá hỏng lịch sử một cách nặng nề bởi vì Việt Nam đang nắm giữ Trường Sa vào thời điểm mà Trung Quốc dùng bạo lực để chiếm lấy nó vào khoảng những năm 1974 – 1975. Vì vậy, tôi không hiểu vì sao mà người ta có thể nói rằng các quần đảo trên là của Trung Quốc. Tuy nhiên, nhiều người đã đọc sách giáo khoa của Trung Quốc thì nói rằng có nhiều điều không hẳn là đúng sự thật".     
Tiến sĩ Dreyer cũng nhận xét: “Mặc dù mọi cuộc khảo sát đều mang tính tương đối, nhưng trước con số khá cao mang tính thể hiện sự đồng lòng của người dân Trung Quốc đối với các quyết định của chính quyền khiến người ta không khỏi đặt câu hỏi về sự thành công của chính sách giáo dục và sự kiểm soát thông tin hữu hiệu của Bắc Kinh trong mục tiêu phục vụ cho chính trị. Vấn đề ở chỗ, hy sinh dân trí để đạt được mục tiêu chính trị lại không phải là lựa chọn của một xã hội dân chủ và văn minh”.
Qua theo dõi tin tức tôi thấy rất nhiều bạn đọc Việt Nam và nước ngoài đã rất ngỡ ngàng và bất bình trước cách diễn đạt quan điểm thật nhưng sai lệch về lịch sữ và mang màu sắc “nước lớn” của vị tiến sĩ  nọ. Đáng lo lắng hơn là, đó không chỉ là ý kiến của một cá nhân mà còn  phản ánh một quan niệm khá phổ biến tại một nước lớn như Trung Quốc. Nó khiến dư luận lo lắng về một mối hiểm họa đang đến gần. Dẫu sao tôi cũng muốn hy vọng rằng đó không phải là quan điểm chính thống của Nhà nước Trung Quốc./. 

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này