Thứ Tư, 9 tháng 3, 2011

Thử tìm bài học từ lịch sử

Lịch sử cần lắm vai trò của Cơ quan chức năng
Cuối năm ngoái tôi có viết một bài báo nhan đề “Lịch sử cần Sự thật” đăng trên TuầnVietnam (xem http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-12-27-lich-su-can-su-that )  nêu lên một số ý kiến về lịch sử và cội nguồn dân tộc Việt Nam. Nhưng không ngờ bài báo đã thu hút sự quan tâm sâu rộng từ cộng đồng với nhiều ý kiến đóng góp rất đáng lưu tâm. Qua đó cho thấy đúng là có một tình trạng hiểu biết sơ sài và không đồng nhất về lịch sử và cội nguồn dân tộc đồng thời với một xu hướng tâm lý tự ti,  hoài nghi về sự thật lịch sử và các giá trị nhân văn của dân tộc mình ; và điều này diễn ra trong mọi tầng lớp, kể cá trí thức và người trẻ tuổi. Có thể nói lời cảnh báo “dân ta không biết sử ta” từ nhiều năm trước nay đã trở thành sự thực. Cảm nhận này  thôi thúc tôi muốn nói thêm đôi điều sau đây.   
Tìm hiểu kỹ hơn, ta nhận thấy nguyên nhân chính nằm ở sự bất cập của bộ sách giáo khoa và các tài liệu lịch sử nói chung vốn quá nặng về truyền thuyết và những khái niệm mơ hồ không được chứng minh bằng sử liệu và chứng cứ đủ sức thuyết phục. Đáng lẽ tập trung giải mã những “điểm khuất” thì người ta cứ tiếp tục “tô son trát phấn” cho những huyền thoại hoặc những quan điểm mơ hồ thiếu cơ sở khoa học khách quan.  Hậu quả là sự thất truyền, mai một của những sử liệu thật và  thay vào đó bằng những “sử liệu ảo”.
Khi mà người học, người đọc và người dân nói chung đều cảm thấy nhàm chán với bộ sách giáo khoa sử học và các tài liệu lịch sử cũ kỹ thì họ lại càng dễ  bị tác động bởi các văn hóa phẩm ngoại lai và bầu không khí lễ hội xô bồ, lệch lạc; và  do đó trở nên “mù mờ” về lịch sử và cội nguồn dân tộc mình.  Xin đơn cử một vài ví dụ: Có không ít người Việt Nam ngày nay dần tin rằng cội nguồn dân tộc ta phát từ Phú Thọ (vì ở đó có Đền Hùng) và
Bản đồ thời Nhà Hạ-nhà nước đầu tiên của TQ (2205-1767 TCN-
chỉ là một giọt dầu so với bản đồ TQ ngày nay (Nguồn: Wikipedia)

quên mất gốc tích Hồ Động Đình (vì nó ở xa bên Trung Quốc). Những nhầm lẫn  tương tự cũng đang diễn ra với trường hợp Thánh Gióng, An Dương Vương, Hai Bà Trưng, và cả trường hợp Tiệu Đà* … Cứ đà này thì không thể nào tránh được sự nhầm lẫn cơ bản  rằng nước Văn Lang xưa chỉ bao gồm vùng châu thổ Sông Hồng và lâu lắm cũng chỉ từ thế kỷ thứ 7 TCN (như một trường phái lập luận đang khá thịnh hành gần đây). Nói về nguồn gốc dân tộc, thì ngoài khái niệm chung chung  “ cùng là con cháu của các Vua Hùng” thì mỗi người hiểu một cách khác nhau, người thì cho là ta “giống  Tàu”, người thì cho là ta “từ người Hán mà ra” hoặc “bị Hán hóa hết rồi còn đâu!”, v.v…, nghĩa là không còn biết mình là ai nữa. Từ đó sinh ra tâm lý hoài nghi về nguồn cội cũng như các giá trị nhân văn của chính dân tộc mình, thấy mình nhỏ bé, yếu kém, sợ hải và bị thuần phục …Thậm chí có người quan niệm rằng bị đô họ, bị ảnh hưởng của nước lớn láng giềng Phương Bắc là lẽ đương nhiên (!?)    
Nhưng đó cũng chưa phải là hậu quả cuối cùng; hậu quả tiếp theo sẽ là tương lai tồn vong của cả dân tộc. Bởi lẽ, sự hiểu biết đúng đắn về lịch sử và cội nguồn dân tộc không chỉ đơn thuần là sự hiểu biết về quá khứ mà còn là vốn quý báu nhất để từ đó dân tộc rút ra những bài học thiết thực trong suốt cuộc  hành trình vào tương lại.  Không biết hoặc biết sai lệch về lịch sử và cội nguồn dân tộc ắt sẽ khó tránh được những sai lầm trên con đường bảo vệ độc lập-chủ quyền và mưu cầu ấm no hạnh phúc cho dân tộc.       
Thực ra đã có nhiều ý kiến bày tỏ mối lo lắng trước thực trạng bất cập của nền sử học nước nhà; và đang có nhiều nhà nghiên cứu tư nhân hoặc các tổ chức phi chính phủ đã và thầm lặng tiến hành các công trình nghiên cứu nhằm góp phần bổ sung, bổ khuyết cho kho tàng sử liệu dân tộc mà họ quý trọng. gìn giữ. Nhưng đáng tiếc là những kết quả nghiên cứu của họ chưa thể phát huy hết tác dụng do thiếu  vai trò chủ đạo và sự ủng hộ thực chất của các cơ quan nhà nước chuyên trách. Thiết nghĩ, để giải quyết rốt ráo vấn đề này, không ai khác mà chính là các cơ quan chức năng các cấp phải tích cực chủ động “vào cuộc”. 
Cũng nên thống nhất quan niệm rằng đối với những người làm công tác nghiên cứu lịch sử, mọi sử liệu, kể cả truyền thuyết, ca giao tục ngữ, cho đến di tích khảo cổ, khoa học sinh học và gien di truyền, v.v… đều có giá trị nghiên cứu như nhau, và không thể bị coi thường, coi nhẹ cái nào. Vấn đề là cách thức kết hợp chúng với nhau như thế nào và vận dụng phương pháp luận nào để đi tới những kết quả khách quan và chính xác nhất. Thật là sai lầm nếu ai đó chỉ vì một vài phát minh mới mà đã vội từ bỏ những sử liệu hoặc luận điểm đã có từ trước. Ngược lại cũng không ổn nếu chỉ mãi hài lòng với truyền thuyết và những gì đã được ghi chép lại trong sử sách cũ (bới chúng dù sao cũng là do con người sao chép lại nên không thể không có sai sót do vô tình hay cố ý trong quá trình biến thiên hàng ngàn năm của lịch sử).
Liên quan đến công tác này, được biết Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tại buổi gặp mặt đầu năm Tân Mão với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã có ý kiến chỉ đạo rất kịp thời: “Tiếp tục những nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu những di sản, lịch sử còn ẩn chứa trong tâm hồn, nguồn cội của dân tộc Việt Nam để quảng bá, giới thiệu cho các thế hệ tiếp theo, nếu việc này bị xem nhẹ là sẽ tạo ra nguy cơ đối với sự tồn vong của dân tộc”. Chủ tịch nước cũng nhấn mạnh: “Đã là lịch sử thì phải đúng sự thật, trung thực và chính xác. Đối với những vấn đề trước đây công bố chưa chính xác thì khi đã có đủ tư liệu, cần có bước đi thích hợp để đính chính lại lịch sử” **

Bài học nào từ lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam?
Nếu  mỗi quốc gia dân tộc cũng có “số mệnh”, thì phải chăng số mệnh của dân tộc Việt Nam là phải chiến đấu chống ngoại xâm? Cái mệnh này gắn chặt đến nỗi mỗi con người Việt Nam sinh ra đều biết mình “có hơn 4.000 năm lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước” và thuộc lòng các niên đại bị ngoại xâm ở các thời Tần, Hán, Đường, Nguyên-Mông, Pháp, Nhật, Tàu Tưởng, Mỹ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.   
Trong số các kẻ thù xâm lược, có một kẻ mà dù muốn hay không, người Việt Nam vẫn phải chấp nhận chung sống cận kề đời đời kiếp kiếp, đó là nước Trung Quốc vĩ đại với dân số đông nhất thế giới vẫn tự phong là “vương triều” giữa thiên hạ. Lịch sử cho thấy, trong quá trình mở mang bờ cõi, nước láng giềng Phương Bắc này đã rất  thành công về hướng Nam nơi vốn đã là thánh địa của hàng trăm tộc người Bách Việt, trong đó có nước Văn Lang xưa và trở thành Việt Nam ngày nay. Nhân loại chứng kiến rất nhiều  trường hợp xâm lược và thôn tính lẫn nhau, nhưng trường hợp Hán tộc thôn tính các Việt tộc có lẽ là một trường hợp độc đáo cả về  quy mô, cung cách và tính triệt để của nó. Trong quá trình kéo dài hàng ngàn năm từ trước đến sau CN, các bộ tộc hoặc vương quốc Bách Việt đã lần lượt bị Hán tộc thôn tính và đồng hóa, chỉ còn lại Việt Nam . Tuy không bị đồng hóa nhưng Việt Nam đã bị dồn đẩy về phía Nam và bị các triều đại phong kiến Phương Bắc thay nhau đô hộ trong thời gian rất dài (được sử sách ghi là “hơn 1.000 năm”). Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng hận thù sâu sắc giữa hai quốc gia dân tộc mà trong đó người Trung Quốc thường nhìn người Việt Nam bằng con mắt miệt thị trong khi người Việt Nam luôn cảm thấy lo lắng, bất an trước sự khôn ngoan, lắm mưu sâu, kế hiểm của đối phương.  Quá trình đó cho ta ít nhất là 3 kinh nghiệm dưới đây:
Một là, mỗi khi Vương triều Phương Bắc thống nhất và mạnh lên thì họ đem quân sang chinh phạt Việt Nam. Cuộc xâm lược quy mô lớn đầu tiên diễn ra năm 218-208 TCN giữa thời kỳ hoàng kim của Nhà Tần. Hầu hết các cuộc xâm lược sau này cũng đều diễn ra vào những thời cực thịnh của các vương triều Phương Bắc. Đôi khi trong những cơn giận dữ, họ cũng mang quân “đánh hàng xóm”, như trường hợp chiến tranh biên giới năm 1979 mà nhà Lãnh đạo Đặng Tiểu Bình tuyên bố “để dạy cho Việt Nam một bài học”. Trong mấy chục năm gần đây, hễ có cơ hội là họ “đánh lớn, đánh nhỏ” nhằm lấn chiếm biên giới và biển đảo của Việt Nam.
Lịch sử cho thấy dẫu thắng thua thì bờ cõi nước Việt Nam cũng bị dồn đẩy về phía Nam. Và  cho đến ngày hôm nay chưa có cơ sở gì để khẳng định rằng điều này sẽ không lặp lại.
 
Hai là, kẻ thù thường triệt để “khai thác”những thời điểm có bất hòa, bất ổn trong nội bộ Việt Nam để khởi binh xâm lược. Nhưng hễ khi nào bị xâm lược, người Việt Nam đều gác lại những bất hòa bất ổn trong nội bộ để tập trung chống kẻ thù chung.
Bản đồ  minh họa cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc
qua biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979- nguồn  Wikipedia

 
Thiết nghĩ, là dân nước Việt không ai có quyền phủ nhận truyền thống anh hùng chống ngoại xâm. Nhưng cũng nên nhận ra rằng phải kháng chiến là một sự lựa chọn bất đắc dĩ không nên có, bởi lẽ các chu kỳ chiến tranh lặp đi lặp lại quá nhiều ắt để lại những thiệt thòi truyền kiếp đối với cả dân tộc.   
Vậy nên có một lựa chọn tốt hơn là phải chủ động thực hiện “phòng ngừa từ xa” bằng cách không tạo ra cơ hội hấp dẫn đối với giặc ngoại xâm. Đó là tập trung xây dựng hệ thống chính quyền trong sạch vững mạnh, bài trừ tệ nạn quan liêu, tham nhũng, bè phái, tranh chức, tranh quyền và mọi  thói hư tật xấu trong hệ thống công 
quyền, trên cơ sở đó sẽ luôn giữ vững khối đoàn kết toàn dân và phát triển đất nước giàu mạnh.  Đó là phương sách thích hợp và cần thiết đối với một nước ở vị thế như nước ta
Ba là, dù thắng, bại các nhà nước Việt Nam chưa bao giờ thực sự tách khỏi “vòng cương tỏa” của cường quốc láng giềng Phương Bắc.
Lịch sử cho thấy không chỉ lúc thua mà cả lúc thắng các triều đại Việt Nam vẫn thực hiện  nghĩa vụ triều cống đối với nước láng giềng Phương Bắc, coi đó như một cử chỉ cầu hòa và chấp nhận chung sống lâu dài với họ. Có thể nói điều này đã trở thành một “quốc sách” của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên có điều trớ trêu là, phía đối phương chưa hề tỏ ra biết trân trọng quốc sách hòa hảo, phục thiện đó của dân tộc ta, trái lại còn coi đó là cử chỉ yếu hèn, nhu nhược***.
Thiết nghĩ, trong hoàn cảnh khu vực và quốc tế ngày nay, người Việt Nam cần suy ngẫm lại về cái triết lý bạn/ thù và đồng minh, để từ đó có sự điều chỉnh hợp lý nhằm thay đổi cục diện bất lợi cho mình, trong đó cũng nên tính đến cả câu ngụ ngôn xuất xứ từ Trung Quốc: “Người không thay đổi thì ta phải thay đổi”.    
Đồng thời hãy suy ngẫm về ba điều thực tiễn: a) Dân tộc Việt Nam được và mất gì nếu cứ quẩn quanh trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc?; b) Tại sao người Việt học tập và làm việc trong môi trường Âu - Mỹ thì năng lực bao giờ cũng được phát huy tốt hơn ? c) Vẫn biết mọi sự so sánh đều khập khiễng, nhưng Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản đều có thể tồn tại độc lập và phát triển vượt bậc; tại sao Việt Nam chưa làm được điều đó? 
Đây cũng chính là vấn đề mà các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các thế hệ đi trước đã đặt ra nhưng chưa giả quyết rốt ráo được. Phải chăng là do não trạng người Việt lúc nào cũng ám ảnh nỗi mặc cảm của ngàn năm Bắc thuộc, cho "mình từ họ mà ra" và  lúc nào cũng chờ đợi xem họ làm gì mà không dám chủ động vượt lên trước họ? 
Dù sao giờ đây người Việt lại một lần nữa có quyền hy vọng dân tộc sẽ bứt phá để làm được điều mà bao thế hệ chưa làm được. /.  
Tài liệu tham khảo:
- Bách khoa toàn thư mở-Wikipedia với nhiều kiên kết dẫn đến các nguồn khác nhau
- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
- Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim
- Bộ sách giáo khoa môn sử học phổ thông của Nhà XB Giáo Dục Việt Nam.
- Các website và blog có đăng bài viết “Lịch sử cần sự thật”trên Google
Ghi chú:
*(Trích đoạn trả lời của Hưng Đạo Vương : "Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam (thuộc lãnh thổ Trung Quốc ngày nay), còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời.”…. (Xem thêm tại  Wikipedia phần nói về Trần Hưng Đạo)
**Xem thêm tại Website Dòng họ Đỗ Viêt Nam, bản tin ngày 9/2/2011
*** tham khảo các bài viết của nhà nghiên cứu  Dương Danh Di, của cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh,  phát biểu của cựu lãnh tụ Đặng Tiểu Bình, phát biểu của Giáo sư Vương Hành Lĩnh.  Tham khảo Chuyện cổ Việt Nam; một số bài viết của các tác giả nước ngoài;câu chuyện sử liệu nói Tôn Trung Sơn là người Bách Việt.

22-02-2011

Có không tình trạng “dân ta không biết sử ta”?

Cuối năm ngoái tôi có viết một bài ngắn về công tác nghiên cứu và giáo dục lịch sử và cội nguồn dân tộc ở nước ta (xem http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-12-27-lich-su-can-su-that ) . Không ngờ bài báo đã nhận được sự quan tâm sâu rộng từ cộng đồng với nhiều ý kiến tranh luận rất đáng lưu tâm. Qua đó cho thấy đúng là có một tình trạng hiểu biết sơ sài và không đồng nhất về lịch sử và cội nguồn dân tộc đồng thời với xu hướng tâm lý tự ti và hoài nghi về sự thật lịch sử cũng như các giá trị nhân văn của chính dân tộc mình; và điều này diễn ra trong mọi tầng lớp, kể cá trí thức và người trẻ tuổi*. Có thể nói, lời cảnh báo “dân ta không biết sử ta” từ nhiều năm trước giờ đây đã thành sự thật. 

Tìm hiểu kỹ hơn ta nhận thấy nguyên nhân chính nằm ở sự bất cập của sách giáo khoa và các tài liệu lịch sử nói chung vốn nặng về truyền thuyết và những khái niệm mơ hồ không được chứng minh bằng sử liệu và chứng cứ đủ sức thuyết phục. Đáng lẽ tập trung giải mã những “điểm khuất” trong các quyến sử sao chép lại từ thời Bắc thuộc thì người ta cứ tiếp tục “tô son trát phấn” cho những huyền thoại hoặc những quan điểm mơ hồ thiếu cơ sở khoa học khách quan. Đó là chưa nói tệ nạn vận dụng lịch sử cho mục đích chính trị trước mắt mà không tính đến hậu quả lâu dài. Tất cả dẫn đến sự mai một hoặc thất truyền của những sử liệu thật và  thay vào đó bằng những “sử liệu ảo”.

Xin đơn cử một vài ví dụ: Có không ít người Việt Nam ngày nay tin rằng Vua Hùng xuất phát từ Phú Thọ (vì ở đó có Đền Hùng) và quên mất gốc tích Hồ Động Đình (vì nó ở bên Trung Quốc). Điều tương tự cũng đang diễn ra với trường hợp  Thánh Gióng, An Dương Vương, Hai Bà Trưng,… Thử hỏi, nếu có thật một Thánh Gióng đánh giặc Ân, tức thời  Nhà Thương của Trung Quốc (năm 1766 - 1122 trước CN) thì địa bàn trận đánh phải là vùng miền Nam Trung Quốc bây giờ (chứ không thể dưới tận Bắc Ninh cách Hà Nội 40 km(!?)...  Thiết nghĩ, rất cần tái nhìn nhận vai trò của Triệu Đà là một triều đại phong kiến Việt Nam như đã được chính Hưng Đạo Vương xác định, và sử Trung Quốc cũng không coi Triệu Đà là vua của họ.

Nếu ta thử hỏi và trả lời các câu hỏi tương tự sẽ thấy toàn là “kiến thức ảo” hoặc ngộ nhận ngây ngô, vô thức . Cứ đà này thì không thể nào tránh được sự nhầm lẫn "chết người" rằng nước Văn Lang xưa chỉ bao gồm vùng châu thổ Sông Hồng, và có lâu nhất cũng chỉ từ thế kỷ thứ 7 TCN trong khi ngày càng sinh ra nhiều nghi ngờ về 18 đời Hùng Vương. Ngoài khái niệm chung chung “cùng là con cháu của Vua Hùng”, còn lại đều là những dấu hỏi to tướng luôn gây tranh cãi mà người Việt thật sự vẫn chưa biết mình là ai**.   

Thực tế cho thấy, khi người học, người đọc và nhân dân nói chung đều cảm thấy nhàm chán với bộ sách giáo khoa sử học và các tài liệu lịch sử cũ kỹ thì họ lại càng dễ bị tác động bởi các văn hóa phẩm ngoại lai và bầu không khí lễ hội xô bồ, lệch lạc; và  do đó trở nên “mù mờ” về lịch sử và cội nguồn dân tộc mình là điều khó tránh khỏi. Nhưng đây cũng chưa phải là hậu quả cuối cùng; hậu quả tiếp theo sẽ là tương lai tồn vong của cả dân tộc. Bởi lẽ, sự hiểu biết đúng đắn về lịch sử và cội nguồn dân tộc không chỉ là sự hiểu biết về quá khứ mà chính là vốn quý để từ đó dân tộc rút ra những bài học thiết thực trong suốt cuộc  hành trình vào tương lại.  Nếu không biết hoặc biết sai lệch về lịch sử và cội nguồn dân tộc ắt sẽ khó tránh được những sai lầm trên con đường bảo vệ độc lập-chủ quyền và mưu cầu ấm no hạnh phúc cho dân tộc. 

Nếu  mỗi quốc gia dân tộc có “số mệnh”, thì phải chăng số mệnh của dân tộc Việt Nam là phải chiến đấu chống lại sự lấn át của cường quốc láng giềng Phương Bắc? Cái mệnh này gắn chặt đến nỗi mỗi con người Việt Nam sinh ra đều nghe nói “có hơn 4.000 năm lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước”. Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu rồi đây dân ta lại được dạy rằng rằng dân tộc chỉ có hơn 2.000 năm lịch sử và nước Văn Lang  xưa chỉ bao gồm lưu vực Sông Hồng? Nếu cứ tuyên truyền rằng  bờ cõi nước Văn Lang luôn "bất khả xâm phạm", rằng ta không để mất tất đất nào  cho giặc ngoại xâm..., thì vô tình bưng bít sự thật của thời tiền sử. Chẳng lẽ ông cha ta bịa ra truyền thuyết Âu Cơ -Lạc Long Quân và các Vua Hùng với lịch sử với niên đại là năm 2879 TCM..., để  giờ đây con cháu lại nghi ngờ và  "khiêm tốn" chỉ nhận có hơn 2.000 năm lich sử ?  
Thiết nghĩ còn nhiều câu hỏi tương tự mà dân ta, trước tiên  là các nhà chức trách, nhà nghiên cứu và giáo dục bộ môn lịch sử, hãy suy ngẫm để có biện pháp khắc phục tình hình trước khi quá muộn./.

Tài liệu tham khảo:
- Bách khoa toàn thư mở-Wikipedia với nhiều kiên kết dẫn đến các nguồn khác nhau
- Bộ sách giáo khoa môn sử học phổ thông của Nhà XB Giáo Dục Việt Nam
-(*) tham khảo một số trang thảo luận có cụm từ “lịch sử cần sự thật” trên Google .
-(**)nguyenthaihocfoundation  

Bài này đãđược đăng trong Tuần báoThế giới &Việt Nam

http://www.tgvn.com.vn/Item/VN/toasoandocgia/2011/3/5437C0ADD71200F1/

Điều gì khó nhất?

Ngày Tết “nhàn cư vi bất thiện” thành ra suy ngẫm lung tung…dẫn đến cái chủ đề tưởng như đã quá quen nhưng không tự giải đáp được, đành đưa ra tranh thủ ý kiến mọi người: Theo bạn điều gì là khó nhất trong cuộc đời?
Tôi tin sẽ có ít nhất không dưới 1 tá câu trả lời với nội dung trái ngược nhau đối với cùng một câu hỏi này.  Dù sao xin mọi người hãy suy nghĩ thật kỹ rồi hãy trả lời nhé!
Tôi cũng  tin rằng ai rồi cũng sẽ rất đắc chí với câu trả lời của mình, đồng thời cũng sẽ có đủ lý lẽ để bác bỏ những câu trả lời khác. Phải chăng đó là vì tất cả chúng ta đều là con người với một thói xấu muôn thuở: luôn tự cho mình là đúng?
Về phần tôi, câu trả lời là: Điều khó nhất trong đời người là đảm bảo công bằng và hợp lý. Xin nhắc lại CÔNG BẰNG, HỢP LÝ (fair and reasonable).
Tôi tin chắc rằng sẽ có khá nhiều người không đồng ý với câu trả lời của tôi. Nhưng dẫu sao xin hãy cho tôi một cơ hội được giải thích như sau.
Ta hãy thử suy xét điều này với các dạng đối tượng sau đây theo thứ tự a,b,c… nhé: a) bạn và thế giới tự nhiên (tức là tất cả các vật thể không phải  con người); b) bạn và những người xa lạ; và c) bạn và bạn bè (như bạn học, đồng nghiệp, …);  d) bạn và người thân (vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị em, bà con họ tộc); và e) với bản thân mình (chỉ có bạn mà thôi).
Với loại a), thoạt nhìn tưởng sẽ không khó gì để mà công bằng, hợp lý với những đối tượng vô tri vô giác…Nhưng thưc ra, nó vô cùng khó vì nhiều lý do, và vì thiên nhiên không thể tự cãi lại con người!  Xin đơn cử một ví dụ: Ngày Tết mua được một cái cây cảnh về nhà bạn sẽ tha hồ mà cắt tỉa, uốn nắn…, rồi xoay xở đặt nó ở nơi này nơi kia,… Và khi bổng dưng không thích nó nữa, bạn liền vứt nó ra ngoài phố bất cần biết số phận của nó sẽ ra sao. Thử hỏi bạn làm như vậy có công bằng và hợp lý chưa?  Bạn không những không công bằng với cái cây mà còn không công bằng với môi trường sống và với cả cộng đồng… Rất nhiều hậu quả khác sẽ xảy ra liên quan đến cái cây vô tri giác như vậy mà tôi không tiện nói hết cả ra đây.
Với lọa b), khi ra đường gặp ai đó, bạn có xu hướng cho đó là “người lạ”, chẳng bà con chi, nên có biết gì về mình đâu, nói chung chẳng liên quan gì…. Có chăng, bạn sẽ căn cứ  vẻ bề ngoài hoặc cử chỉ, thái độ nào đó của đối phương, để mau chóng tính xem có cần đề phòng hoặc phớt lờ đi cho khỏe… hoặc ngược lại. Nếu tôi không nhầm thì cái gọi là “tình yêu sét đánh” đều bắt đầu từ “người xa lạ” như thế (?). Thôi thì dù là gì, đối tượng này chính là sự bắt đầu của những câu chuyện dài kỳ về cái sự vô tình vô lý của bạn. Hãy nghĩ đi, điều gì sẽ xảy ra với một trong những tình huống nói trên, và bạn sẽ thấy đó là một núi những bài toán khó về sự bất công, vô lý.
Với loại c)  Bạn bè ư? Đây là đối tượng mà bạn cho là không thể thiếu được. Thời thơ ấu mà không có bạn chắc bạn sẽ chết vì buồn; khi trưởng thành mà không có bạn bè, bạn sẽ chẵng làm nên trò trống gì; khi về già không có bạn, chắc điều ước duy nhất của bạn là có bạn. Thế mới biết bạn bè quan trọng nhường nào. Thế nhưng, cũng chính với loại đối tuợng này, bạn sẽ luôn rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan trong cách ứng xử hàng ngày để không mất họ, hoặc ngược lại, để biến họ thành kẻ thù. Nhiều người phải ân hận suốt đời chỉ vì một lần cư xử không công bằng, không hợp lý với bạn.
Với loại d (những người thân thích), Bạn nghĩ sao: dễ hay khó  để mà cư xử công bằng và hợp lý? Riêng tôi nghĩ đây là đối tượng khó nhất (mặc dù không thể chỉ ra cái lý do đích thực của nó). Phải chăng là do thói hay nhầm tưởng là “người của ta” thì muốn cư xử thế nào cũng xong? Nghĩ như vậy là thất bại ít nhất là 90% rồi!  
Dĩ nhiên  tôi có suy nghĩ của tôi, nhưng có lẽ riêng về dạng đối tượng này, tôi nên để dành lại cho mỗi người tự suy ngẫm thì mới đúng phương châm công bằng và hợp lý, đúng không ạ?
Cuối cùng loại d)- với bản thân mỗi người. Có thể có người quả quyết rằng không có vấn đề gì về chuyện công bằng hợp lý với bản thân. Nhưng chính đây mới là đối tượng khó đấy, thậm chí còn quá khó!. Thủ hỏi bạn có công bằng, hợp lý không, khi nếu bạn có bệnh tiểu đường mà vẫn tự cho phép mình ăn uống xả láng mỗi ngày? Bạn có hợp lý không khi cả ngày ngũ dài dài, ban đêm thì ngồi vi tính? v.v…và v.v… Càng nghĩ sẽ càng thấy cái sự thiếu công bằng hợp lý thường xảy ra một cách thầm lặng trong bản thân mỗi người chúng ta. Chính vì thế nó rất khó để loại trừ.
Bạn thấy đấy, chỉ đơn cử một số dạng đối tượng như trên mà ta đã thấy quả thật khó để đảm bảo thực hiện nguyên tắc công bằng hợp lý. Nếu ta  gọp lại nhiều dạng đối tượng với nhau sẽ còn phức tạp và khó hơn nhiều. Đó là khi bạn ở vào vị trí cha mẹ, ông bà đối với gia đình, hay bạn là thủ trưởng một cơ quan, tổng thống của một quốc gia thì sẽ khó biết nhường nào.    
Trên đây chỉ là vài câu trả lời ngắn gọn của cá nhân tôi. Có lẽ bây giờ tôi sẽ nên cố gắng  giữa một tâm trạng công bằng hợp lý để được lắng nghe ý kiến của mọi người. Xin chân thành cảm ơn/.
                                                                                                               Hà Nội, mùng 3 Tết Tân Mão (2011) 

 

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này