Một cảnh tập trận của Hạm đội Nam Hải (ảnh của CCTV) |
Hiển thị các bài đăng có nhãn Quân sự - Quốc phòng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Quân sự - Quốc phòng. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Năm, 28 tháng 3, 2013
Ai thực sự kiểm soát Biển Đông?
Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2013
Tư liệu: Quân đội làm Kinh tế
Hiện tại, Bộ quốc phòng đang quản lý hơn 110 doanh nghiệp, hoạt động đa dạng trên nhiều lĩnh vực kinh doanh như: Cơ khí, hóa chất; Nông, lâm và hải sản; Điện, điện tử, viễn thông; Dệt may, da giày; Thực phẩm, đồ uống, dược phẩm; Thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ; Thương mại và dịch vụ; Xây dựng, Vật liệu xây dựng…
Thiếu tướng là cấp bậc cao nhất cho Tổng giám đốc Tổng Công ty. |
Trực thuộc và chịu sự quản lý của
Bộ Quốc Phòng, các doanh nghiệp quân đội tùy theo quân số (số lượng quân
nhân, công nhân viên, nhân viên), tính chất và nhiệm vụ sẽ đóng vai trò
tương đương một Quân khu/Quân chủng (Tập đoàn Viettel), Quân đoàn/Binh
chủng (Các Tổng công ty), hoặc Sư đoàn (Các công ty).
Theo nghị định số 44/2005/NĐ-CP do
Thủ tướng Chính phủ ký ban hành ngày 5-4-2005, quy định nhóm chức vụ
chuẩn và cấp bậc quân hàm cao nhất tương ứng của sĩ quan Quân đội Nhân
dân Việt Nam:
(Các quân hàm Chuẩn đô đốc/Phó Đô Đốc/Đô Đốc dùng cho binh chủng hải quân) . |
Theo đó, Tập đoàn Viettel - tập
đoàn kinh tế duy nhất của quân đội - cũng là doanh nghiệp quân đội duy
nhất có TGĐ giữ quân hàm Trung tướng, đó là Trung tướng Hoàng Anh Xuân -
Tổng giám đốc Viettel.
Quân hàm này tương tương ứng với
chức vụ Tư lệnh Quân khu/Quân chủng/Chủ nhiệm tổng cục. Quân số Viettel
hiện có hơn 30.000 người, cũng tương đương 1 quân đoàn.
Hai lãnh đạo khác của Tập đoàn
Viettel đã được phong quân hàm Thiếu tướng là các Phó Tổng giám đốc:
Dương Văn Tính (Bí thư Đảng ủy) và ông Nguyễn Mạnh Hùng.
Tại các Tổng công ty Quân đội
(tương đương các Quân đoàn/Binh chủng), chức vụ Tổng giám đốc (tương
đương Tư lệnh) và Bí thư Đảng ủy (tương đương Chính ủy) của các đơn vị
này, cấp bậc quân hàm cao nhất được trao là Thiếu tướng.
Các Tổng giám đốc (~ Tư lệnh) và Chính ủy kiêm Phó Tổng giám đốc của Các Tổng Công ty đã được phong hàm cấp Thiếu tướng gồm:
Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn (Binh đoàn 12):
- Thiếu tướng Lương Sỹ Nhung, Tổng Giám đốc (Tư lệnh)
- Thiếu tướng Trần Thanh Hải, Chính ủy Binh đoàn 12 kiêm Phó Tổng giám đốc.
Tổng Công ty 15 (Binh đoàn 15): Thiếu tướng Nguyễn Xuân Sang, Tổng Giám đốc (Tư lệnh)
Tổng Công ty Đông Bắc: Thiếu tướng Phạm Ngọc Tuyển, Tổng Giám đốc (Tư lệnh)
Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn: Thiếu tướng Nguyễn Đăng Nghiêm, Tổng Giám đốc (~Chuẩn Đô đốc)
Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam (VNH): Thiếu tướng Hà Tiến Dũng, Chủ tịch kiêm TGĐ
Tại các Công ty Quân đội (tương
đương các Sư đoàn/Vùng hải quân/Vùng cảnh sát biển), Tổng giám đốc
(tương đương Tư lệnh) và Chính ủy của các đơn vị này, cấp bậc quân hàm
cao nhất được trao là Đại tá.
Theo quy định, việc bổ nhiệm chức vụ, phong, thăng quân hàm đối với lãnh đạo này là do:
- Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm Chủ
nhiệm Tổng cục, Tư lệnh Quân khu, Tư lệnh Quân chủng, Tư lệnh Quân đoàn
và các chức vụ tương đương; phong, thăng quân hàm Trung tướng, Phó Đô
đốc Hải quân, Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân;
- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng bổ nhiệm các chức vụ và phong, thăng các cấp bậc quân hàm còn lại.
Theo cấp tổ chức, Quân đội Nhân dân Việt
Nam từ thấp đến cao là Tiểu đội, Trung đội, Đại đội, Tiểu đoàn, Trung
đoàn, Lữ đoàn, Sư đoàn (trước đây gọi là Đại đoàn), Cấp cao nhất là Quân
đoàn (Binh đoàn).
Về mặt địa lý, đơn vị quân sự cao nhất là Quân khu, chỉ huy quân địa phương và một số binh đoàn, binh đội trực thuộc.
Ngày 26-6-1980, Bộ Chính trị ban hành Nghị
quyết số 27, về việc Quân đội thực hiện nhiệm vụ tham gia xây dựng kinh
tế, sau đó, ngày 27-9-1980 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra Quyết định số
579/QĐ-QP chuyển nhiệm vụ của các đơn vị lực lượng vũ trang từ huấn
luyện quân sự sang nhiệm vụ xây dựng kinh tế, dưới hình thức các Công ty
trong quân đội (tiền thân là các Sư đoàn/Binh đoàn).
Ngày 19-8-2011, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Công văn số 1455/TTg-ĐMDN về việc thành lập các Tổng Công ty hoạt
động theo hình thức Công ty mẹ – Công ty con trên cơ sở tổ chức lại các
Công ty TNHH một thành viên thuộc Bộ Quốc phòng, nhiều công ty đã chuyển
đổi thành Tổng công ty.
Năm 2012, khối doanh nghiệp quân đội (100%
vốn nhà nước) đạt doanh thu hơn 221 nghìn tỷ đồng (tăng 11% so với năm
2011), lợi nhuận đạt hơn 30 nghìn tỷ đồng (tăng 27% so với năm 2011),
nộp ngân sách hơn 17 nghìn tỷ đồng (tăng 24% so với năm 2011), tạo việc
làm và thu nhập ổn định cho 195 ngàn người, thu nhập bình quân người lao
động 8,5 triệu đồng/người/tháng...
|
Theo Kỳ Anh CafeF/Tranhungo9
Thứ Ba, 19 tháng 2, 2013
Bài học liên quan cuộc chiến tranh biên giới 1979
Một dấu hiệu đáng mừng là, trong dịp kỷ niệm chiến tranh biên giới ngày 17/2 năm nay dư luận công chúng Việt Nam tỏ ra quan tâm hơn mọi năm trước mặc dù trong khi Nhà nước vẫn tiếp tục chủ trương "yên lặng là vàng". Điều này không chỉ thấy trên cộng đồng blog mà cả trên các cộng đồng mạng khác như Facebook, Twitter ...với rất nhiều bài viết và bình luận. Đồng thời cũng bắt đầu tìm thấy sự đồng thuận quan điểm giữa "lề trái" và "lề phải" liên quan đến chủ đề này, trong đó đáng chú ý là việc Báo Thanh Niên đăng bài trả lời phỏng vấn của lão tướng Lê Văn Cương và trở thành "hot news" trong suốt tuần qua.
Tình hình trên cho thấy hoàn toàn phù hợp với quy luật quần chúng là động lực của tiến bộ xã hôi, và đó là một quá trình khó khăn, phức tạp, lâu dài như nó vốn vẫn vậy. Chỉ với một vấn đề tưởng chừng đơn giản như vậy, nhưng đất nước này đã và đang phải trả những cái giá quá đắt. Cuộc chiến tranh do kẻ thù ngoại xâm gây ra 33 trước nhưng vẫn để lại một cuộc chiến tranh khác trong nội bộ dân tộc. Bất chấp sự thật và những lý lẽ từ công luận, đặc biệt của những "người trong cuộc" như tướng Lê Văn Cương,. Nhà nước vẫn tiếp tục chủ trương tránh nhắc đến cuộc chiến xâm lược đó chỉ vì nó do Trung Quốc gây ra (!), kể cả trong bối cảnh chính kẻ xâm lược đó đang ráo riết xâm lấn biển đảo và đe dọa xâm lược. Nguyên nhân nào, nếu không phải là sự sai lầm trong cách tư duy của một bộ phận những người lãnh đạo đất nước? Chẳng lẽ từng ấy những bộ óc "tinh hoa" của dân tộc không thể nhận ra đâu là phải/trái?. Hay vì những lý do lợi ích cục bộ thiển cận họ cố tình quên đi những bài học của ông cha và cả bài học của chính mình?. Chẳng lẽ sự đóng góp ý kiến đầy tâm huyết của rất nhiều nhân sĩ và nhân dân trong và ngoài nước đều không thể chấp nhận được đối với họ?
Để trả lời những câu hỏi trên, trước hết xin trích nguyên văn lời của Lão tướng Lê Văn Cương mới đăng trên báo Thanh Niên (Những dòng gạch dưới là để nhấn mạnh):
"...vào những năm kỷ niệm chẵn 10, 15... hay gần đây nhất
là 30 năm sau cuộc chiến tranh chống TQ xâm lược (2009), báo chí,
truyền hình của VN gần như không đưa tin gì về sự kiện này. Đây là một
sự thiếu sót lớn trên góc độ Nhà nước. Hơn thế nữa, đó là một sự xúc
phạm đến linh hồn của những đồng bào, chiến sĩ đã bỏ mình để bảo vệ Tổ
quốc trong cuộc chiến tháng 2.1979 và gần mười năm sau đó. Họ nằm dưới
mộ có yên không? Gia đình vợ con bạn bè và những người thân thích của họ
sẽ nghĩ gì về chuyện này? Đã có ý kiến cho rằng nhắc đến những chuyện
này cũng có nghĩa là kích động chủ nghĩa dân tộc. Tôi có thể khẳng định
rằng nói như vậy là ngụy biện.
Trong khi chúng ta im lặng thì những dịp đó chúng tôi đã thống kê hệ thống phát thanh, truyền hình báo chí của TQ tung ra trung bình từ 600-800 tin, bài với những cái tít gần như có nội dung giống nhau về cái mà họ gọi là “cuộc chiến tranh đánh trả tự vệ trước VN”. Có thông tin cho rằng hiện tại có tới trên 90% người dân TQ vẫn quan niệm rằng năm 1979 Quân đội VN đã vượt biên giới sang tấn công TQ và bắt buộc TQ phải tự vệ đánh trả. Từ hàng chục năm nay, hệ thống tuyên truyền của TQ đã nhồi nhét vào đầu người dân TQ rằng cuộc chiến 1979 chỉ là cuộc phản công trước sự xâm lược của VN.
Theo tôi nghĩ, trong tuyên truyền đối nội và đối ngoại, cả ở kênh nhà nước, nhân dân và trên truyền thông, chúng ta phải làm rõ và góp phần làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ bản chất của cuộc chiến tranh Việt - Trung 1979. Đồng thời góp phần làm cho hơn 1,3 tỉ người TQ biết được sự thật rằng vào ngày đó hơn 60 vạn quân TQ đã vượt biên giới xâm lược VN. Việc chúng ta im lặng hàng chục năm qua, theo tôi là không đúng. Việc nói ra cũng không liên quan gì chuyện kích động chủ nghĩa dân tộc. Hãy thử so sánh chuyện đó với việc TQ tung ra hàng nghìn bài báo xuyên tạc lịch sử từ hàng chục năm qua".
Trong khi chúng ta im lặng thì những dịp đó chúng tôi đã thống kê hệ thống phát thanh, truyền hình báo chí của TQ tung ra trung bình từ 600-800 tin, bài với những cái tít gần như có nội dung giống nhau về cái mà họ gọi là “cuộc chiến tranh đánh trả tự vệ trước VN”. Có thông tin cho rằng hiện tại có tới trên 90% người dân TQ vẫn quan niệm rằng năm 1979 Quân đội VN đã vượt biên giới sang tấn công TQ và bắt buộc TQ phải tự vệ đánh trả. Từ hàng chục năm nay, hệ thống tuyên truyền của TQ đã nhồi nhét vào đầu người dân TQ rằng cuộc chiến 1979 chỉ là cuộc phản công trước sự xâm lược của VN.
Theo tôi nghĩ, trong tuyên truyền đối nội và đối ngoại, cả ở kênh nhà nước, nhân dân và trên truyền thông, chúng ta phải làm rõ và góp phần làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ bản chất của cuộc chiến tranh Việt - Trung 1979. Đồng thời góp phần làm cho hơn 1,3 tỉ người TQ biết được sự thật rằng vào ngày đó hơn 60 vạn quân TQ đã vượt biên giới xâm lược VN. Việc chúng ta im lặng hàng chục năm qua, theo tôi là không đúng. Việc nói ra cũng không liên quan gì chuyện kích động chủ nghĩa dân tộc. Hãy thử so sánh chuyện đó với việc TQ tung ra hàng nghìn bài báo xuyên tạc lịch sử từ hàng chục năm qua".
Qua những gì thể hiện trên công khai cho thấy, chủ trương không nhắc lai cuộc chiến tranh xâm lược biên giới 1979 là một trong những biện pháp được coi là "mềm dẻo, khôn khéo" mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đang áp dụng để hy vọng làm hài lòng phía đối phương. Điều này không ai nhầm lẫn. Nhưng đó cũng là một cái bẫy mà phía Trung Quốc luôn giăng ra đối với Việt Nam. Muốn biết họ có thực lòng đón nhận thiện chí của ta hay không thì hãy nhìn vào những hành động của họ. Trong nhiều năm qua hành động đáp trả của phía TQ đều hoàn toàn ngược lại. Đó là những chiến dịch lấn chiếm biển đảo và de dọa chiến tranh ngày càng trắng trợn. Khuyên ta "gác lại quá khứ, hướng tới tương lai..." nhưng Bắc Kinh lại tuyên truyền khuếch đại cuộc chiến như một thắng lợi vẽ vang... nhằm kích động dân chúng tiếp tục chính sách bành trướng.
Chúng ta, những người Việt Nam vẫn biết mềm dẻo là một chủ trương mang tính truyền thống dân tộc, coi đó là một trong những bí quyết thành công trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như sau này. Nó là một bảo bối mà không chỉ giới đương chức mà cán bộ, quân nhân đã nghĩ hưu và nhân dân đều thấm nhuần. Âu đó cũng là điều dẽ hiểu nếu nhìn lại toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam gần đây. Chỉ có điều khác ở sự vận dụng vào từng tình huống hoàn cảnh cụ thể. Từ sau ngày giải phóng và thống nhất đất nước, thế trận của Việt Nam dù muốn hay không đã hoàn toàn khác trước, trực tiếp ảnh hưởng đến cách nhìn nhận bạn/thù cũng như việc vận dụng sách lược của Việt Nam Để khỏi trình bày dài , xin dẫn lại đường link tới bài viết cách đây không lâu của cùng tác giả để tiện tham khảo http://trankinhnghi.blogspot.com/2011/04/tran-viet-nam-can-mot-tu-duy-moi.html
Chúng ta, những người Việt Nam vẫn biết mềm dẻo là một chủ trương mang tính truyền thống dân tộc, coi đó là một trong những bí quyết thành công trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như sau này. Nó là một bảo bối mà không chỉ giới đương chức mà cán bộ, quân nhân đã nghĩ hưu và nhân dân đều thấm nhuần. Âu đó cũng là điều dẽ hiểu nếu nhìn lại toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam gần đây. Chỉ có điều khác ở sự vận dụng vào từng tình huống hoàn cảnh cụ thể. Từ sau ngày giải phóng và thống nhất đất nước, thế trận của Việt Nam dù muốn hay không đã hoàn toàn khác trước, trực tiếp ảnh hưởng đến cách nhìn nhận bạn/thù cũng như việc vận dụng sách lược của Việt Nam Để khỏi trình bày dài , xin dẫn lại đường link tới bài viết cách đây không lâu của cùng tác giả để tiện tham khảo http://trankinhnghi.blogspot.com/2011/04/tran-viet-nam-can-mot-tu-duy-moi.html
Vẫn biết hòa bình vô cùng quý giá, nhất là đối với Việt Nam.Vẫn biết Việt Nam nhỏ bé và nghèo yếu hơn Trung Quốc.Và vẫn biết Việt Nam không nên bao giờ chủ trương đối đầu với Trung Quốc dù cho đó là kẻ thù truyền kiếp. Nhưng trên tất cả là lợi ích của một quốc gia độc lập, tự chủ với sự toàn vẹn lãnh thổ, cả trên bộ, trên biển và trên không. Đó là lợi ích sống còn của dân tộc Việt Nam. Nó không thể đem ra nhân nhượng dù công khai hay bí mật. Và đó là nguyên nhân tại sao nhân dân Việt Nam luôn sẵn sàng chống trả mọi kẻ thù xâm lược dù chúng đến từ đâu và lớn mạnh đến mức nào. Đó là những sự thật mà những người lãnh đạo đất nước không nên quên. Theo đó, mọi chủ trương chiến hay hòa, mềm hay rắn, biện pháp có thực sự "khôn khéo" hay không, đều phải được nhân dân đồng lòng ủng hộ, hay nói đúng ra là "phê duyệt" thì mới có thể áp dụng thành công. Ở đây ta thấy có một nghịch lý. Đó là, trong khi một số người lãnh đạo hiện nay coi việc kiềm chế không nhắc lại cuộc chiến xâm lược biên giới 1979 là là cách làm mềm dẻo, khôn khéo không thể thiếu được và đòi hỏi dân chúng phải tuân theo bất chấp tâm tư tình cảm và lợi ích thiết thân của họ. Kết quả hơn 30 năm qua cho thấy hoàn toàn ngược lại: Nguy cơ ngoại xâm Trung Quốc ngày càng nghiêm trọng trong khi lòng dân ngày càng bất mãn xa rời với Lãnh đạo, thể hiện ở nhiều mặt, trong đó có những hoạt động biểu tình tự phát (một hình thức mà trước đây nhân dân chỉ dùng để hưởng ứng phong trào đấu tranh do Đảng phát động) tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều địa phương khác và đã bị chính bộ máy công an chính quyền đàn áp. Đó là một nghịch lý cả về hình thức và nội dung. Chính quyền làm như vậy có khác nào "gậy ông đập lưng ông" và hoàn toàn trái ngược với đường lối của Đảng và Nhà nước?.
Khôn khéo, mềm dẻo đâu không biết, chứ riêng việc không tổ chức kỷ niệm ngày chiến tranh biên giới thì rõ ràng là "lợi bất cập hai". Trước hết đó là sự xúc phạm rất nặng nề đến tình cảm của nhân dân nói chung, đặc biệt của các gia đình có quân nhân đã tham gia hoặc hi sinh trong cuộc chiến tranh đó.Đó là một biện pháp thiển cận mất lòng dân . Nó chỉ có lợi cho các thế lực đen tối bên ngoài hoặc trong nội bộ. Việc này chắc chắn sẽ để lại những hậu quả khôn lường về lâu dài. Lịch sử sẽ gọi đó là thời kỳ gì ? Khôn khéo đâu không biết, chứ khi mà đích thân một vài vị tướng lĩnh cao cấp của quân đội lại trực tiếp đứng ra "làm ngoại giao" ca ngợi, cảm ơn kẻ thù thì cũng là chuyện hiếm có trên thế giới! Hành động đó khiến kẻ thù đắc chí trong khi dân ta thì bất bình khó hiểu sinh ra mất lòng tin. Thiết nghĩ điều khôn khéo nhất vào lúc này là hãy làm sao lấy lại lòng tin của nhân dân vốn đang suy giảm nghiêm trọng, đồng thời củng cố khối đoàn kết quân dân và sự đồng lòng của toàn thể dân tộc vốn bảo bảo bối hửu hiệu nhất để phòng ngừa chiến tranh.
Từ những bài học của cả quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, cụ thể là tất cả các cuộc chiến tranh xâm lược lớn nhỏ của quân Trung Quốc đối với Việt Nam đều cho thấy khi nào phía Việt Nam chủ trương cầu hòa bị động, đó là lúc kẻ thù hăng hái muốn tấn công, khiến ta dù không muốn chiến tranh, thì lại bị chiến tranh tàn phá trước tiên. Tất nhiên rồi nhân dân sẽ cùng nhau tổ chức kháng chiến cho đến thắng lợi mới thôi. Nhưng đó là chuyện bất đắc dĩ. Nhân đây xin nhắc lại chuyện cũ nhưng vẫn còn có lý: Có ý kiến cho ra rằng cuôc chiến tranh biên giới 1979 có thể đã không xảy ra nếu phía Việt Nam đã điều động lực lượng chính quy đề răn đe trước, hoặc nếu đã có một tuyên bố ủng hộ từ một "bên thứ ba". Tư liệu cho thấy giới lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ đã chưa thực sự chủ động tính đến những biện pháp phòng ngừa như vậy! Và hiện tại tôi nghĩ Việt Nam cũng chưa định làm như vây, có lẽ vì vẫn tin vào "hiệu quả" của chủ trường mềm dẻo khôn khéo...với kẻ thù (!?)
Những bài học còn cho thấy sự tai hại như thế nào đối với những người lính tại chỗ khi bị tấn công bất ngờ (như ở Đồn Bò Hèn và các đồn dọc biên giới phía Bắc hồi năm 1979, và tại một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa năm 1988). Lỗi đó từ đâu, nếu không phải là từ cấp cao? Có lẽ nên nhắc lại rằng nhân dân cần ở người lãnh đạo vai trò của một thủ lĩnh. Họ chỉ biết tuân theo hướng chỉ tay của người thủ lĩnh. Và điều vô cùng nguy hiểm là khi họ không biết thủ lĩnh đang chỉ tay về hướng nào.
Nên chăng, bài học lớn nhất là hãy gác lại niềm tin mơ hồ vô căn cứ vào đối phương ngay cả khi chúng chưa lộ nguyên hình "gặc xâm lược ". Phòng bệnh hơn chữa bệnh, chủ động phòng thủ là quốc sách răn đe hửu hiệu nhất. Muốn vậy phải để cho dân biết, dân bàn và dân làm; Đảng và Nhà nước không thể làm thay, và tuyệt đối không nên áp đặt bắt toàn dân phải làm theo ý mình . Vai trò Lãnh đạo đất nước chỉ có thể phát huy đầy đủ khi người lãnh đạo thực sự "quán triệt" điều tưởng chừng đơn giản này./.
Hà Nội, 18/2/2013
Thứ Hai, 4 tháng 2, 2013
Rủi ro từ chính sách "cân bằng mềm" của Việt Nam đối với Trung Quốc
Đó là tiêu đề bài viết của tác giả Tuấn Phi - nghiên cứu viên Viện nghiên cứu Thiên Đại think-tank Hongkong- vừa mới đăng trên Opinion.huanqiu.com
Bài viết do dịch giả XYZ chuyển thể sang tiếng Việt và được phát hành trên Basam ngày hôm qua. Bách Việt tất nhiên đã đọc kỹ bài viết, nhưng xin chưa đưa ra lời bình luận, để bạn đọc cung suy ngẫm và sau đó sẽ cùng thảo luận (?) . Hy vọng bài này ít nhiều giúp người đọc "biết địch biết ta".. hơn (?). Và qua đây, mong rằng người Việt Nam chúng ta dù là ai, sống và làm việc ở đâu, đặc biệt giới lãnh đạo cùng quan chức và học giả, hãy quan tâm nghiên cứu vấn đề của đất nước với ý thức rằng, tuy vị trí nước VN lúc nào cũng cận kề TQ, nhưng thế giới ngày nay đã hoàn toàn khác với thời "Vương triều"(Bách Việt)
Ảnh minh họa |
Mới đây, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã tổ chức cuộc hội đàm với Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe sang thăm, hai bên quyết định tăng cường hợp tác kinh tế và an ninh, kề vai sát cánh đối mặt với những vấn đề tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc. Theo tin AFP, hai phía Việt-Nhật đã nhất trí thúc đẩy mối quan hệ đối tác chiến lược đôi bên, đồng thời cùng nhau hiệp lực để “đóng vai trò tích cực trong vấn đề hòa bình và an ninh khu vực”.
Ở Việt Nam nơi theo đuổi chủ nghĩa độc đoán và kiểm soát chặt chẽ báo cáo tin tức, các phương tiện truyền thông cố tình làm loãng chủ đề an ninh trong cuộc hội đàm giữa hai bên, song lập trường cứng rắn của Hà Nội đối với Trung Quốc về vấn đề lãnh thổ vẫn thấy được nhấn ở nhiều tờ báo, bàn tay sắt hiện ra lờ mờ trong chiếc găng tay nhung. Trong “Luật biển Việt Nam” có hiệu lực vào ngày 1.1, Hà Nội cũng đã công khai tuyên bố quyền có chủ quyền và quyền quản lý đối với các quần đảo Nam Sa[i] và Tây Sa[ii] của Trung Quốc.
Kể từ thập niên 90 thế kỷ trước, Việt Nam theo đuổi chính sách cân bằng mềm (soft balancing) đối với Trung Quốc. Chính sách này khác với các chính sách cân bằng, đi xe và bắt cá hai tay truyền thống, với đặc trưng chủ yếu là đồng minh phi chính thức và duy trì hợp tác an ninh hạn chế, có ý vừa áp dụng chính sách đi xe, làm sâu sắc thêm mối quan hệ kinh tế với Trung Quốc và tận hưởng các nguồn lợi từ sự trỗi dậy của Trung Quốc, lại vừa tích cực phát triển mối quan hệ kinh tế, ngoại giao và quan hệ quân sự phi chính thức với các tổ chức quốc tế và các nước khác, mà Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Nga, ASEAN… là những đối tượng quan trọng.
Điều đáng chú ý là, trong khuôn khổ cân bằng mềm đối với Trung Quốc, mấy năm qua, để lôi kéo các lực lượng bên ngoài vào kiềm chế Trung Quốc, ngăn trở Trung Quốc thu hồi lại lãnh thổ đã rơi vào tay Việt Nam, Việt Nam có ý định mở rộng hợp tác với Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ trong lĩnh vực quân sự, thiết lập mối quan hệ đồng minh tạm thời nhằm vào cuộc xung đột riêng biệt. Các nhà lãnh đạo Việt Nam thực sự coi Mỹ là kẻ giữ cân bằng để kiềm chế Trung Quốc ở Đông Nam Á, đồng thời lên kế hoạch một khi khai chiến với Trung Quốc là sẽ nâng cấp hợp tác Việt-Mỹ thành mối quan hệ đồng minh.
Việt Nam và Trung Quốc đều là những nước Đảng cộng sản cầm quyền, hình thái ý thức của Việt Nam học theo chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, mô hình kinh tế cũng giống về cơ bản với chính sách mở cửa cải cách của Trung Quốc. Thật không may là, xuất phát từ quan điểm lịch sử cực đoan của một bộ phận người Việt Nam, Hà Nội đã có cách nhìn nhận tiêu cực trước sự trỗi dậy của Trung Quốc trong thế kỷ 21, cho rằng Trung Quốc ngày càng lớn mạnh sẽ hạn chế sự mở rộng lợi ích của Việt Nam, Bắc Kinh sẽ bằng ý chí đơn phương mà thu hồi lại nhiều đảo ở Nam Hải[iii] đã bị phía Việt Nam chiếm đóng. Một trong những mục tiêu thực hiện chính sách cân bằng mềm đối với Trung Quốc chính là bảo vệ những lợi ích lãnh thổ đã có được của Việt Nam.
Tuy nhiên, chính sách của Hà Nội đối với Trung Quốc lại tồn tại mấy rủi ro lớn. Đầu tiên, nhược điểm của đồng minh quân sự phi chính thức là khó lòng ứng phó được với tình huống quân sự bất ngờ gay cấn và với cuộc chiến tranh tốc chiến tốc thắng mà đối thủ lại là chủ đạo. Tiền đề để đồng minh quân sự phi chính thức có thể vận hành được thành công là, một bên bị tấn công quân sự rồi vẫn còn có lực lượng để tổ chức phòng ngự, bên còn lại thì hoàn thành các thủ tục chính trị, pháp lý và quân sự cần thiết xong sẽ can thiệp vào xung đột, ra tay hỗ trợ. Cục diện nghiêm trọng mà Việt Nam đang đối mặt là, nếu Quân giải phóng phát động chiến tranh chớp nhoáng, đồng thời thấy được rồi là rút, thì quân đội Việt Nam sẽ không thể có cơ hội phát triển xung đột thành một cuộc chiến kéo dài, và nước Mỹ với quá trình ra quyết sách chậm chạp thì chỉ còn cách nhìn biển cả mà than.
Ngay cả khi tình thế cuộc chiến đi vào mặt phản lại với chí nguyện của Quân giải phóng, hai đội quân rơi vào tình trạng bế tắc, thì liệu cuối cùng Hoa Kỳ có can thiệp vào hay không vẫn còn là một dấu hỏi lớn. Chỉ cần Trung Quốc kiên trì uy hiếp một cách có hiệu quả đối với Mỹ, đảm bảo được thực lực đánh lại Mỹ, thì Washington thực sự sẽ không dám cuốn vào cuộc tranh chấp Việt-Trung một cách đường đột. Suy cho cùng, Mỹ không muốn hoàn toàn mất đi sự chống đỡ của Trung Quốc trong các lĩnh vực dự trữ đô la và địa vị kết toán tiền tệ, khuếch tán vũ khí quy mô lớn, trái phiếu kho bạc Mỹ… Ngay cả khi Washington có quyết định tham chiến, thì bộ đội tên lửa đạn đạo của Trung Quốc sẽ dĩ dật đãi lao[iv], tấn công như vũ bão, quân Mỹ cũng sẽ không thể chiếm được lợi thế.
Thứ đến, xét từ góc độ Trung Quốc, các mục tiêu quân sự và chính trị trong chính sách cân bằng mềm đối với Trung Quốc của Việt Nam là xung đột lẫn nhau. Các hành động quân sự của Bắc Kinh tất nhiên sẽ kèm theo sự trừng phạt kinh tế. Việt Nam và Trung Quốc có mối giao lưu kinh tế mật thiết, nếu trừng phạt sẽ đánh mạnh vào cơ cấu phát triển kinh tế và thị trường của Việt Nam, gây sụt giảm mạnh chất lượng sống của dân chúng.
Trung Quốc đã 7 năm liên tiếp trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, hiện đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất cho than, gạo, máy tính, cao su tự nhiên, sản phẩm điện tử và phụ kiện… của Việt Nam. Tình trạng mất cân bằng thương mại song phương cũng đang được cải thiện đáng kể. Trong nửa đầu năm 2012, lượng nhập khẩu của Trung Quốc từ Việt Nam tăng 58,6%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu 10,6% sang Việt Nam của Trung Quốc.
Hàng hóa Trung Quốc giúp giảm tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam
Sản phẩm giá rẻ của Trung Quốc đẹp, khiến cho người tiêu dùng Việt Nam được lợi thực tế, được tăng thêm thu nhập thực tế. Cùng với việc mở rộng quy mô xuất khẩu các sản phẩm cơ điện tử của Trung Quốc, các nước ASEAN như Việt Nam… có thể từ Trung Quốc mà có được nguồn tư liệu sản xuất và công cụ sản xuất rẻ hơn, chẳng hạn như xe máy và ô tô… có giá thấp hơn, khiến cho các doanh nghiệp địa phương được hưởng lợi rất nhiều.
Giảm tỷ lệ lạm phát hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc sang Việt Nam là hết sức quan trọng. Do sự cạnh tranh khốc liệt, ngay cả khi doanh nghiệp Trung Quốc có nâng cao hiệu suất sản xuất, thì tiền lương nhân công và lợi nhuận doanh nghiệp cũng khó lòng tăng trưởng được một cách đồng bộ, bởi vì lợi ích của nước này là chuyển dịch ra nước ngoài với quy mô lớn, để người tiêu dùng và doanh nghiệp ở nước ngoài được lợi, Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Theo tin Bloomberg ngày 2.1, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng cho biết tỷ lệ lạm phát hàng hóa của Việt Nam sẽ vẫn cao trong năm nay. Hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, chứ không phải là từ phương Tây, sẽ là sự lựa chọn không thể được loại bỏ trong kế hoạch phục hồi kinh tế của Việt Nam.
Thứ nữa, chính sách cân bằng mềm không thể che đậy được điểm yếu tài chính của Việt Nam. Thị trường tài chính của Việt Nam quy mô không lớn, nhưng lại trăm hoa đua nở và nóng vội, sử dụng vốn nước ngoài quá đà, rất dễ bị tư bản nước ngoài ăn cướp, trong đó dĩ nhiên bao gồm cả các tổ chức tài chính từ Trung Quốc đại lục và Hongkong. Thị trường chứng khoán Việt Nam được thành lập vào năm 2000, hiện có hai sàn giao dịch chứng khoán lớn Hồ Chí Minh[v] và Hà Nội. Trong thời gian 12 năm ngắn ngủi, quy mô thị trường này đã được mở rộng gấp 50 lần, giá trị vốn hóa thị trường năm 2011 đã chiếm 27% GDP của Việt Nam, số lượng các công ty niêm yết đạt gần 800.
Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2006, Việt Nam bắt đầu mở rộng đầu tư trực tiếp các hạng mục vốn ra nước ngoài, giới hạn niêm yết cổ phiếu của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài được nới rộng đến 49%, vì vậy các nhà đầu tư nước ngoài đổ xô, nhanh chóng đẩy lên giá trị vốn hóa của Việt Nam, hình thành bong bóng trên diện lớn. Chịu sự giới hạn của các tiêu chuẩn quốc tế hiện có, thị trường tài chính của Việt Nam gần như bất lực trong việc ngăn chặn những cuộc tấn công có chủ ý của vốn đầu tư nước ngoài.
Cuối cùng, chính sách cân bằng mềm đối với Trung Quốc đã đặt Việt Nam vào vòng nguy hiểm lật đổ chế độ. Thể chế chính trị của Việt Nam khác với phương Tây, tuy Mỹ và Cộng đồng Châu Âu có cái nhìn lạc quan trước thái độ cứng rắn của Việt Nam đối với Trung Quốc, song đôi khi cũng chỉ trích các chính sách và hành động trấn áp những nhà bất đồng chính kiến dân chủ tại Việt Nam. Dân chủ hóa theo kiểu phương Tây của Việt Nam phù hợp với lợi ích căn bản của Washington, các lực lượng chống chính phủ luôn tìm được chỗ nương náu ở các nước phương Tây. Xa lánh Trung Quốc sẽ khiến cho Việt Nam mất đi tấm chắn của một nước lớn có hình thái ý thức tương đồng, sẽ mở cửa cho một cuộc cách mạng màu.
Đồng thời, các cuộc xung đột quân sự liên quan đến bên ngoài sẽ làm cho lực lượng ly khai của dân tộc Việt Nam thừa cơ xâm nhập. Các lực lượng ly khai của Việt Nam chủ yếu bao gồm tập đoàn “Fulro” cố sức thành lập quốc gia độc lập ở Tây Nguyên, “Phong trào độc lập cho người Hmong” và những người ly khai ở Đồng bằng Sông Cửu Long[vi]. Tổ chức “Fulro” chống lại sự cai trị chủ thể là dân tộc Kinh ở Việt Nam lâu nay, lực lượng vũ trang đã công bố giải thể vào năm 1992, song thủ lĩnh của họ lại di cư tới Mỹ, với sự hỗ trợ của một số cơ quan chính phủ và tập đoàn tài chính phương Tây, vẫn tiếp tục sự nghiệp độc lập cho Tây Nguyên của mình. Nếu Trung Quốc và Việt Nam xung đột vũ trang, thì xét từ các thế lực lớn trên thế giới hiện nay, các lực lượng dân tộc thiểu số Việt Nam nắm giữ các quan niệm giá trị khác nhau chắc chắn sẽ quật khởi, cục diện thống nhất quốc gia e rằng sẽ phó mặc cho dòng nước cuốn trôi.
Do chính sách cân bằng mềm đối với Trung Quốc của Việt Nam tiên thiên bất túc, nên Bắc Kinh có thể lựa chọn nhiều biện pháp để chống trả lại, và gần như đều ở vào thế bất khả chiến bại.
Nguồn: Opinion.huanqiu.com
Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013
Vì sao Nhật kết thân với Đông Nam Á?
Không lâu sau khi nhậm chức, tân thủ tướng Nhật Bản Abe và ngoại trưởng của ông công du ngang dọc 6 nước Đông Nam Á trong các chuyến công du đầu tiên. Điều gì thúc đẩy Nhật Bản quan tâm đến khu vực này đến thế?
Có tới ba trong số bốn quốc gia mà ngoại trưởng mới
của Nhật là Fumio Kishida chọn thăm đầu tiên thuộc Hiệp hội các nước
Đông Nam Á, gồm Philippines, Singapore và Brunei. Bản thân thủ tướng
Shinzo Abe, trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên của mình, dù không
định trước và vì hoàn cảnh phải hoãn chuyến đi Mỹ, đã chọn Việt Nam,
Thái Lan và Indonesia để dừng chân.
Mối quan tâm và vai trò
của Nhật Bản ở khu vực Đông Nam Á không phải là mới, và không chỉ vì mối
bận tâm hiện nay về sự vươn lên của Trung Quốc. Trên thực tế, Nhật Bản
từ lâu đã là một trong những đối tác đối thoại lâu đời nhất và quan
trọng nhất của ASEAN. Mối quan hệ bắt đầu trở nên nồng ấm vào đầu năm
1977, khi Thủ tướng Takeo Fukuda ngay sau khi được bầu đã quyết định cải
thiện hình ảnh của Tokyo trong khu vực, vốn bị sự chiếm đóng của Nhật
Bản trong Thế chiến II làm phương hại. Kể từ đó, Nhật Bản đã đóng một
vai trò nổi bật trong khu vực Đông Nam Á thông qua trợ giúp kinh tế,
kinh doanh và văn hóa. Vai trò này vẫn được duy trì khi xuất hiện các
nhân tố khác như Trung Quốc và các khó khăn kinh tế của Nhật.
Việt Nam là điểm đến đầu tiên trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên của ông Abe kể từ khi lên nhậm chức thủ tướng tháng trước.Ảnh: AFP |
Thực tế là sự quy tụ của các sự kiện đang làm cho năm
2013 trở thành năm quan trọng cho nỗ lực củng cố quan hệ giữa Nhật Bản
và các nước ở Đông Nam Á. Về hình thức, đây là năm kỷ niệm 40 năm quan
hệ ASEAN-Nhật Bản. Do đó, trong những tháng tới người ta có thể tiên
liệu sẽ có nhiều trao đổi đoàn và các sự kiện hơn hàng năm giữa Tokyo và
các nước Đông Nam Á, giống như những gì ASEAN và Ấn Độ đã làm năm 2012
để kỷ niệm 20 năm quan hệ giữa hai bên.
Điều quan trọng hơn là danh sách những mối quan tâm
chung giữa Nhật Bản và Đông Nam Á giờ đây được cho là dài hơn trước rất
nhiều. Về kinh tế, Nhật Bản đang tìm kiếm thị trường mới, trong lúc đang
lún vào suy thoái kinh tế lần thứ 4 kể từ năm 2000 và quan hệ với Trung
Quốc đang xấu đi. Trong khi đó ASEAN đang tìm kiếm đối tác để giúp xây
dựng một cộng đồng kinh tế ASEAN toàn diện vào năm 2015 thông qua việc
cấp vốn cho các dự án cơ sở hạ tầng. Thí dụ, trong chuyến thăm của Abe
đến Bangkok, Thủ tướng Yingluck Shinawatra của Thái Lan đã tái khẳng
định mong muốn Nhật Bản can dự vào dự án xây dựng cảng Dawei mà Thái Lan
đang cùng phát triển với Myanmar, một sáng kiến mà phía Nhật Bản cũng
bày tỏ qua tâm.
Về lĩnh vực an ninh, cả Nhật Bản và nhiều nước ở Đông
Nam Á hiện đang có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, bên canh đó còn
có một loạt các quan tâm sống còn về an ninh chung từ thảm họa thiên
nhiên đến buôn bán ma túy và khủng bố. Việc Nhật Bản cung cấp 10 tầu
tuần tra để tăng cường lực lượng bảo vệ bờ biển của Philippines trước
năm 2014 là một điểm trao đổi chính trong cuộc gặp giữa Kishida với Bộ
trưởng Ngoại giao Philippines Albert del Rosario. Quan hệ
Nhật-Philippines là một quan hệ quan trọng vì Tokyo là một trong hai đối
tác chiến lược duy nhất của Philippines và cả hai nước đều là đồng minh
của Mỹ. Về mặt biểu tượng, Manila là nơi cựu thủ tướng Fukuda đưa ra
tuyên bố nổi tiếng của ông vào tháng 8 năm 1977 về quan hệ ASEAN-Nhật
Bản, và về sau đã được biết đến là Học thuyết Fukuda.
Một số lĩnh vực khác cũng có thể chứng kiến sự phát
triển trong quan hệ ASEAN-Nhật Bản trong năm 2013. An ninh năng lượng có
thể sẽ được nhấn mạnh vì vấn đề có tầm quan trọng sống còn đối với việc
thực hiện Cộng đồng kinh tế ASEAN, và đồng thời là một ưu tiên cao đối
với Brunei, nước sẽ giữ chức chủ tịch ASEAN năm nay. Tiến bộ có thể cũng
sẽ đạt được trong lĩnh vực an ninh mạng vì cả hai bên đều dễ bị tổn
thương trược các cuộc tấn công của tin tặc. Có thông tin hai bên đã bắt
đầu các cuộc trao đổi về việc thiết lập một mạng lưới phòng thủ mạng
chung.
Con đường cụ thể để tăng cường quan hệ giữa Nhật Bản
và các nước Đông Nam Á sẽ được hai bên thiết lập trong những tháng tới.
Nhưng nhu cầu hợp tác, không chỉ vì Trung Quốc mà bao gồm một loạt các
lĩnh vực, là rất rõ ràng. Mối quan hệ tăng tiến giữa ASEAN với Nhật Bản
chắc chắn sẽ là một xu hướng rõ rệt của năm 2013.
Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida (phải) sau cuộc gặp người đồng cấp Philippines Albert del Rosario tại Manila hôm 10/1. Ảnh: AFP |
Thứ Bảy, 19 tháng 1, 2013
Quyết liệt vì Hoàng Sa(*)
(*)Đây có lẽ là bài báo cho thấy một cử chỉ khác thường so với "bổn tính" của một tờ báo chính thống, tôi nghĩ vậy, không biết có đúng không (?). Nhưng tôi thật sự thích bài báo này của Thanh Niên, và do đó quyết đinh thay nó vào vị trí của một entry cùng chủ đề mà tôi đang định đưa lên, vì tôi tin rằng bài bào của một tờ chính thống sẽ có tác dụng gấp nhiều lần bài của tôi với tư cách là một bloger. Tôi cũng muốn nhân đây bày tỏ lòng mong đợi sẽ thấy nhiều hơn những bài viết như thế từ các tờ báo chính thống của đất nước, và đó là nguồn lực mà đất nước đang thật sự cần từ Báo giới (Bách Việt)
Hải chiến Trường Sa 1988: cá mập (KỲ 3)
Hải chiến 1988: bất tử trên đảo Gạc Ma (KỲ 2)
Gặp những người lính trong trận hải chiến Trường Sa 1988
Gặp nhân chứng trận hải chiến bảo vệ Hoàng Sa năm 1974
Ngày 25.11.2011, trong phát biểu trước Quốc hội, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng đã đề cập tới hai thời điểm Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa
của Việt Nam: “Năm 1956, Trung Quốc đã đưa quân chiếm đóng các đảo phía
đông của quần đảo Hoàng Sa. Đến năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực đánh
chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý của chính quyền Sài
Gòn, tức chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Chính quyền VNCH lúc đó
đã phản đối, lên án việc làm này và đề nghị Liên Hiệp Quốc can thiệp.
Chính phủ lâm thời cách mạng miền Nam Việt Nam lúc đó cũng ra tuyên bố
phản đối hành vi chiếm đóng này”. Thủ tướng cũng cho biết Chính phủ Việt
Nam sẽ kiên trì đòi lại Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình.Hải chiến 1988: bất tử trên đảo Gạc Ma (KỲ 2)
Gặp những người lính trong trận hải chiến Trường Sa 1988
Gặp nhân chứng trận hải chiến bảo vệ Hoàng Sa năm 1974
Phát biểu của người đứng đầu Chính phủ của một đất nước Việt Nam thống nhất đã nhắc chúng ta nhớ tới một ngày bi tráng của 39 năm về trước, khi đất nước còn chia đôi. Đó là ngày 19.1.1974, Trung Quốc nổ súng cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa. Các chiến hạm cùng quân nhân VNCH đã chiến đấu quyết liệt, nhưng cuối cùng với một lực lượng mạnh hơn, Trung Quốc đã chiếm được cụm phía tây của quần đảo Hoàng Sa, sau khi đã chiếm cụm phía đông hồi thập niên 1950, qua đó chiếm đóng phi pháp toàn bộ quần đảo này từ đó đến nay.
Xâm lăng
Trận hải chiến Hoàng Sa diễn ra trong khoảng 30 phút vào ngày 19.1.1974, nhưng trước đó nhiều ngày, Trung Quốc đã bắt đầu những chuyển động cho hành trình xâm lược của mình. Ngày 10.1, tàu Trung Quốc bắt đầu xuất hiện trong khu vực cụm tây quần đảo Hoàng Sa. Sau đó một ngày, Bộ Ngoại giao nước này phát đi từ Bắc Kinh tuyên bố rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc và VNCH đang chiếm đóng phi pháp. Ngay lập tức, Tổng trưởng Ngoại giao Vương Văn Bắc của chính quyền Sài Gòn đã bác bỏ luận điệu ngang ngược này và lên án hành động xâm lăng gây hấn của Trung Quốc.
Lúc bấy giờ, về mặt quân sự, phía Việt Nam chỉ có một trung đội địa phương quân thuộc Chi khu Hòa Vang trú đóng trên đảo Hoàng Sa. Để tăng cường sức mạnh bảo vệ biển đảo, Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải vào ngày 15.1 đã ra lệnh cho tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), do trung tá Lê Văn Thự làm hạm trưởng, trực chỉ Hoàng Sa. Tiếp theo, khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) do trung tá Vũ Hữu San chỉ huy đang tuần tra vùng biển ngoài khơi Quảng Ngãi cũng được lệnh tức tốc tới bảo vệ Hoàng Sa. Sau đó, do diễn biến phức tạp, tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5) và hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10) cũng đã được điều động. HQ-5 là soái hạm, với hạm trưởng là trung tá Phạm Trọng Quỳnh; còn HQ-10 do thiếu tá - Hạm trưởng Ngụy Văn Thà chỉ huy. Ban Chỉ huy công tác trên biển của chiến dịch bảo vệ Hoàng Sa được đặt trên tàu HQ-5, với đại tá Hà Văn Ngạc thừa lệnh Tư lệnh HQ Vùng 1 Duyên hải làm chỉ huy trưởng.
Trong thời gian này, phía Trung Quốc đã cho tàu cá chở quân lính giả dạng ngư dân tiến chiếm một số đảo. Công điện 50.356 của Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải gửi HQ-4, HQ-5 và HQ-16 cho biết: “Trung Cộng đã bất thần tiến chiếm các đảo Robert (Cam Tuyền - NV), Duncan (Quang Hòa), Drummond (Duy Mộng) và Money (Vĩnh Lạc) thuộc quần đảo Hoàng Sa kể từ ngày 10.1.1974. Hiện có 2 tàu loại 100 tấn neo đậu tại đảo Robert... Trên đảo Duncan có 1 chòi quan sát... Tại đảo Money có 1 hầm còn mới...”. Công điện còn cho biết phi cơ của Sư đoàn 1 Không quân đang trực ở sân bay Đà Nẵng. Nhiệm vụ được giao cho lực lượng bảo vệ Hoàng Sa là trước hết sử dụng đường lối ôn hòa, yêu cầu kẻ địch rút khỏi lãnh thổ Việt Nam, trong trường hợp địch khai hỏa thì “tập trung khả năng để tiêu diệt địch”, lệnh từ văn phòng chỉ huy ở Đà Nẵng truyền ra cho HQ-5 nêu rõ.
Lúc bấy giờ, lực lượng chiến đấu của phía Trung Quốc có 11 tàu, trong đó có 2 tàu chống ngầm Krondstadt, 2 tàu quét lôi, vài tiểu đoàn thủy quân lục chiến và một số tàu chở quân. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn có một đội quân dự phòng ở Hải Nam, trong đó có nhiều tàu tên lửa Komar và Osa.
Bản đồ Hải chiến Hoàng Sa 1974. Các chiến hạm VNCH (ảnh nhỏ) - Đồ họa: Hồng Sơn |
Nổ súng
Sáng sớm 19.1, một toán Biệt hải từ HQ-4 và một đội Hải kích từ HQ-5 chia làm hai mũi dùng bè cao su đổ bộ lên tái chiếm đảo Quang Hòa. Một cuộc đọ súng xảy ra giữa quân VNCH và quân Trung Quốc đã chiếm đảo này từ trước cùng với số mới đổ bộ từ các chiến hạm gần đấy. Cuộc giao tranh này khiến 2 quân nhân VNCH tử thương và sau đó, do quân số ít hơn rất nhiều, hai toán đổ bộ của VNCH đã phải rời đảo, trở lại tàu.
Lúc này, các tàu chiến trên biển đã di chuyển theo đội hình chiến thuật, bộ chỉ huy trên soái hạm HQ-5 chỉ định mục tiêu cho từng chiến hạm thành viên để tiêu diệt. Theo đó, HQ-5 đối đầu tàu Krondstadt 274; HQ-4 đối đầu Krondstadt 271; HQ-10 đối đầu trục lôi hạm 396; HQ-16 đối đầu trục lôi hạm 389. Lúc 10 giờ 22 sáng 19.1.1974, lệnh tác xạ đồng loạt vào các chiến hạm Trung Quốc được ban hành từ HQ-5. Thông tin công khai trước đây cho rằng tàu Trung Quốc đã nổ súng trước. Tuy nhiên, mới đây, nguyên Hạm trưởng HQ-4 Vũ Hữu San xác nhận rằng, lúc bấy giờ, tàu chiến của VNCH đã “chủ động khai hỏa”. Ngay trong những phút đầu, một chiếc Krondstadt đã bị trúng đạn bốc cháy. Sau đó, chiếc Krondstadt thứ hai cũng hư hại và phải ủi vào rạn san hô gần đó để khỏi chìm. Phía VNCH cũng chịu tổn thất khi HQ-4 và HQ-5 đều trúng đạn nhưng vẫn còn chiến đấu được; HQ-16 bị hư hại nặng hơn và phải dần rút khỏi vòng chiến. Riêng HQ-10, là tàu nhỏ nhất, bị bắn chìm và Hạm trưởng Ngụy Văn Thà tử trận.
Đến gần 11 giờ, có tín hiệu cho thấy Trung Quốc đang tăng viện với các tàu tên lửa Komar xuất hiện từ phía xa. Nhận thấy tình thế bất lợi, chỉ huy trưởng Hà Văn Ngạc đã ra lệnh cho toàn bộ lực lượng rời vùng giao tranh. Trong cuộc chiến này, theo con số thống kê chưa đầy đủ, 53 quân nhân VNCH đã bỏ mình vì nước; một số quân nhân và nhân viên khí tượng bị bắt làm tù binh và đã được trao trả sau đó. Phía Trung Quốc có 4 tàu bị bắn hỏng và 18 binh sĩ chết.
Sau trận chiến ngắn ngủi nhưng ác liệt, Trung Quốc đã chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Dù thế, trận hải chiến 1974 một lần nữa khẳng định ý chí bất khuất của người Việt Nam trong sứ mệnh bảo vệ chủ quyền. Trước một kẻ thù mạnh hơn và trong một tình hình chính trị chung có nhiều diễn biến bất lợi, các quân nhân đã kiên cường nổ súng vào kẻ xâm lăng. Cuộc chiến đó cũng một lần nữa làm nổi rõ tính phi nghĩa của Trung Quốc tại Hoàng Sa và trên toàn biển Đông về sau, như tuyên cáo của Bộ Ngoại giao VNCH số 015/BNG sau trận hải chiến 1974 đã vạch rõ: “Các hành động quân sự của Trung Cộng là hành vi xâm phạm trắng trợn vào lãnh thổ VNCH”. Hành động dùng vũ lực để chiếm lãnh thổ của nước khác đi ngược lại với Hiến chương LHQ, và vì thế, dù cho đã chiếm đóng toàn bộ Hoàng Sa gần 40 năm qua, Trung Quốc mãi mãi vẫn không có được một tư cách hợp pháp đối với vùng lãnh thổ này.
---
* Tư liệu cho bài viết này được lấy từ Tài liệu Hải chiến Hoàng Sa (Vũ Hữu San, Trần Đỗ Cẩm), qua trao đổi với ông Vũ Hữu San và một số cựu quân nhân tham gia trận hải chiến cũng như tham khảo nhiều tài liệu khác.
Theo Đỗ Hùng (Thanh Niên)
Trung Quốc: báo chí nói nhiều về chiến tranh
Một đội trực thăng của PLA -Ảnh Xinhua |
Theo Báo Tuổi trẻ ngày 19/1/1013-Báo Bình Quả của Hong Kong ngày 17-1 ghi nhận tần suất
xuất hiện khác thường của từ “chiến tranh” kèm theo những lời kêu gọi,
khiến dư luận cảm thấy chiến tranh dường như đang đến rất gần!
Thật ra từ tháng 4-2012 đến nay, truyền thông Trung
Quốc nhiều lần đăng tải những lời kêu gọi chiến tranh của giới chức cấp
cao và những bài báo kêu gọi quân đội sẵn sàng cho chiến tranh như một
cách công khai quan điểm “cứng rắn” và hiếu chiến của Bắc Kinh, nhất là
từ khi tranh chấp trên biển Đông giữa Trung Quốc với Philippines và trên
biển Hoa Đông với Nhật Bản leo thang.
Truyền thông lớn vào cuộc
Nếu như trước đây Thời Báo Hoàn Cầu là tờ báo thường đề
cập hai từ “chiến tranh” khi tranh chấp với các nước trong khu vực ngày
càng leo thang thì hiện nay nhiều cơ quan truyền thông lớn của Trung
Quốc như Đài truyền hình CCTV, Tân Hoa xã và hàng loạt tờ báo lớn khác
cũng tham gia.
Đầu tiên là báo Giải Phóng Quân ngày 14-1 đăng tải trên
trang 1 “Chỉ thị huấn luyện 2013” yêu cầu toàn quân “tăng cường tư
tưởng chiến tranh, tăng cường ý thức tai họa, ý thức nguy cơ, ý thức sứ
mệnh, nâng cao năng lực chiến đấu và chuẩn bị các tình huống chiến
tranh...”. Trong bài viết không hơn 1.000 từ này, từ “chiến tranh” được
lặp lại hơn 10 lần.
Chỉ một ngày sau, Thời Báo Hoàn Cầu đăng xã luận “Sau
gần 30 năm hòa bình, chúng ta cần nhìn nhận chiến tranh như thế nào?”,
trong đó cho rằng dù chiến tranh đã lùi xa 30 năm, song cũng cần phải để
xã hội hiện nay suy nghĩ lại việc nên nhìn nhận như thế nào về chiến
tranh.
Sau đó ngày 18-1, Đài truyền hình trung ương CCTV đăng
tải thông tin chi tiết về quy mô và hoạt động của tất cả bảy quân khu
lớn thuộc quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA), trong đó kèm bản đồ
chi tiết vị trí cũng như quân số của từng quân khu. Thông tin này xuất
hiện đúng vào thời điểm hàng loạt hoạt động quân sự khác đang diễn ra
khắp nước. Những tiết lộ này như Nhật Báo Quang Minh mô tả là để “dân
thấu hiểu, gần gũi và ủng hộ mạnh mẽ hơn các hoạt động quân sự của PLA”,
trong đó có cả việc sẵn sàng cho những cuộc chiến tranh.
Bình luận về xã luận của Thời Báo Hoàn Cầu, báo Bình
Quả nhận xét ngôn từ bài viết không mang câu từ “đằng đằng sát khí” và
không thể hiện thái độ mạnh mẽ hay “chói tai chướng mắt” so với bài viết
trên báo Quân Giải Phóng, nhưng không nên đánh giá thấp bài xã luận
không mang đậm mùi thuốc súng này. Bởi chủ đề bài xã luận đưa ra cho
người đọc suy nghĩ chính là vấn đề chiến tranh, thực chất là chuẩn bị dư
luận và tâm lý cho xã hội trước một cuộc chiến có thể xảy ra. Điều này
rõ ràng đi ngược với giai điệu chủ đạo trong đối ngoại của Trung Quốc kể
từ khi cải cách mở cửa đến nay là trỗi dậy hòa bình và Trung Quốc không
đe dọa bất cứ quốc gia nào. Điều này cũng hoàn toàn khác và xoay chuyển
180 độ so với chiến lược “giấu mình” của Đặng Tiểu Bình.
Những lời lẽ “đao to búa lớn”
Báo Bình Quả đặt câu hỏi: Liệu đây là phản ứng của
Trung Quốc khi đối mặt với thách thức bên ngoài hay những người lãnh đạo
đưa ra sách lược mới nhằm giải quyết khó khăn hiện thời? Nhưng việc
thông tin “chiến tranh” như vậy chắc chắn là một tín hiệu quan trọng,
một thông tin không tốt lành. Báo này kết luận: vấn đề là Trung Quốc hô
hào chiến tranh như vậy, nhưng liệu Trung Quốc có thật sự muốn chiến
tranh hay không?
Reuters dẫn lời ông Andrei Chang, tổng biên tập Kanwa
Defence Review, nhận định tuyên bố của PLA năm 2013 mạnh mẽ hơn trước
đây. Song một số chuyên gia cho rằng đây chỉ là những lời lẽ “đao to búa
lớn” của giới quân sự Trung Quốc nhằm mục đích tuyên truyền quan điểm
lãnh đạo mới của nước này.
Phó giáo sư James Holmes, thuộc Đại học Chiến tranh hải
quân Mỹ, nhận định Bắc Kinh sẽ chỉ dám duy trì những cuộc tấn công nhỏ
và thực hiện một cách mờ ám nhất có thể. Lực lượng quân sự hùng hổ mà
Trung Quốc phô trương hiện nay chỉ “nhát ma” đối thủ.
--------------
Thứ Hai, 14 tháng 1, 2013
Chuyên gia Đài Loan: "TQ sẽ hiếu chiến hơn trong tranh chấp lãnh thổ"
Trong số nhiều tin tức đang nỗi lên về tinh hình tăng cường lực lượng hải giám, hải quân quân đồng thời với "chiến tranh bản đồ" của Trung Quốc tại Biển Đông, nhận định dưới đây của một chuyên gia Đài Loan là rất đáng tham khảo (Bách Việt).
GDVN.Thứ hai 14/01/2013 07:06
-
Tàu khu trục Nam Kinh của Hạm đội Nam Hải đã nghỉ hưu ngày 26/9/2012 và đã gia nhập đội tàu Hải giám Trung Quốc. |
Bài viết cho rằng, Trung Quốc đã và đang không ngừng tăng cường áp đặt chủ trương, lập trường của họ ở các khu vực tranh chấp trên biển. Hơn nữa, gần đây các nguồn tin cho biết, Cục Hải giám Trung Quốc đã tiếp nhận 11 tàu chiến nghỉ hưu từ Hải quân Trung Quốc.
Một số nhà quan sát chỉ ra, động thái tiếp nhận tàu chiến mới của những cơ quan dân sự (trực thuộc Cục Hải dương Quốc gia Trung Quốc) này đã gây lo ngại cho dư luận. Hơn nữa còn có dấu hiệu cho thấy, Bắc Kinh đang mất đi sự nhẫn nại, sẵn sàng nâng các cuộc tranh chấp lãnh thổ lên cấp độ mới, có thể là hiếu chiến hơn.
Bài viết cho rằng, những tàu chiến nghỉ hưu này đã được cải tạo, tân trang, sau đó bàn giao cho Cục hải giám Trung Quốc, gồm có 2 tàu khu trục tên lửa lớp Lữ Đại Type 051 (tàu Nam Ninh và tàu Nam Kinh), cùng với tàu chấp pháp, tàu kéo và tàu phá băng.
Tàu khu trục tên lửa Nam Kinh, Type 051, số hiệu 162, đã nghỉ hưu và đã biên chế cho Hải giám Trung Quốc |
Hiện nay, Bộ Quốc phòng và Cục Hải giám Trung Quốc còn chưa có bình luận gì về việc bàn giao những tàu chiến nghỉ hưu vừa qua.
Tuy nhiên, Úc Chí Vinh, nhà nghiên cứu Trung tâm phát triển biển Trung Quốc trả lời phỏng vấn báo chí cho biết, khả năng đảm đương các nhiệm vụ của Cục Hải giám Trung Quốc đã được cải thiện.
Bài viết tuyên truyền cho rằng, từ năm 2000 đến nay, tổng cộng có 13 tàu chiến đã gia nhập vào đội tàu của Cục Hải giám Trung Quốc. Việc biên chế những tàu chiến này chủ yếu là để “đáp trả” lại việc Lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản trang bị những tàu chiến tương đối lớn.
Tàu Hải giám 75 Trung Quốc xuống tận vùng
biển bãi đá ngầm Tăng Mẫu để tiến hành cái gọi là "tuần tra bảo vệ chủ
quyền". Trung Quốc thực sự có tham vọng hiện thực hóa "đường lưỡi bò" - cái ranh giới bất chấp thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của các nước ven biển Đông, có nghĩa là bất chấp luật pháp quốc tế. |
Hơn nữa, những năm gần đây, Trung tâm chỉ huy ngư chính Trung Quốc cũng liên tục được bổ sung thêm các tàu chiến nghỉ hưu. Đội tàu của tổ chức này chủ yếu hoạt động (trái phép) ở vùng biển lân cận quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa (hai quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam) và quần đảo Senkaku hiện do Nhật Bản kiểm soát.
Cũng giống như Nhật Bản, hiện nay Trung Quốc cũng “không điều tàu chiến của lực lượng hải quân đến các khu vực tranh chấp” để tránh mang tiếng dùng sức mạnh hải quân để leo thang xung đột (nhưng lại đang khoác áo “dân sự” cho các tàu chiến, biên chế cho Hải giám, Ngư chính, Cảnh sát biển...).
Một số nhà quan sát chỉ ra, những tổ chức dân sự trực thuộc Cục Hải dương Quốc gia Trung Quốc tiếp nhận tàu chiến mới là một động thái đáng quan ngại chưa từng có, hơn nữa có dấu hiệu còn cho thấy, Bắc Kinh đang mất đi kiên nhẫn, sẵn sàng đưa các cuộc tranh chấp lãnh thổ lên cấp độ mới, có lẽ là hiếu chiến hơn.
Các lực lượng chấp pháp trên biển của Trung Quốc như Ngư chính, Hải giám, Cảnh sát biển gần đây liên tiếp được biên chế tàu cỡ lớn, nhất là tiếp nhận các tàu chiến cũ của Hải quân nước này. Trong hình là tàu Ngư chính 206 có lượng giãn nước tới 5.800 tấn, vốn là tàu chiến cũ. |
Với lối nói “mẹ hát con khen hay”, La Viện tự cho rằng, trước năm 2012, trong tranh chấp trên biển, Trung Quốc áp dụng chính sách “tự kiềm chế, gác lại tranh chấp, xử lý tranh chấp bằng phương thức hòa bình”.
Tiếp theo, ông tướng La Viện lại “gắp lửa bỏ tay người”, chỉ trích rằng, các nước liên quan tranh chấp đã hoàn toàn không “gác lại tranh chấp”, ngược lại đã áp dụng các hành động “chống Trung Quốc” đơn phương và các hành vi “khiêu khích” để thúc đẩy tranh chấp.
La Viện dự đoán, bắt đầu từ năm 2012, tất cả các nước có liên quan đều đã bước vào một thời kỳ có rủi ro cao và cạnh tranh quyết liệt.
Theo bài viết, gần đây, Trung Quốc ngày càng mạnh bạo và liên tiếp xâm phạm vùng biển đảo Senkaku cả trên biển và trên không. Cuối tháng 12/2012, Trung Quốc còn tuyên bố, có kế hoạch chi 1,6 tỷ USD cho xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở ở một phần các hòn đảo trên biển Đông (bất hợp pháp), tạo một cơ sở cho cái gọi là “phát triển lâu dài" thành phố phi pháp Tam Sa.
Gần đây, Hải quân Trung Quốc liên tiếp biên chế mới tàu hộ vệ tên lửa, tàu khu trục tên lửa, tàu vận tải đổ bộ... Trung Quốc đang ưu tiên cho những loại tàu chiến có khả năng tác chiến ở khu vực duyên hải, những vùng biển gần như biển Đông. |
Cuối cùng, theo bài viết, trừ phi các biện pháp “phô diễn cơ bắp” của Bắc Kinh có thể buộc các nước chủ trương chủ quyền ở khu vực tranh chấp “chùn bước”, nếu không, năm 2013, hành động quân sự hóa của Cục Hải giám Trung Quốc sẽ không dừng lại.
Do Tân Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe thề sẽ tăng chi tiêu quốc phòng và từ chối nhượng bộ trong xung đột ở đảo Senkaku, vì vậy khả năng leo thang xung đột ở biển Hoa Đông sẽ tăng cao.
Hạm đội Nam Hải, Hải quân Trung Quốc diễn tập trên biển. |
* Trích
dẫn, đăng tải lại toàn bộ hoặc một phần thông tin từ bài viết này phải
chịu trách nhiệm và ghi rõ "theo báo Giáo Dục Việt Nam" hoặc "theo
Giaoduc.net.vn". Box thảo luận ở phía dưới là diễn đàn để độc giả gửi
comment, đánh giá, nhìn nhận và chia sẻ ý kiến. Báo Giáo Dục Việt Nam
luôn đón nhận các ý kiến khách quan, có tính chất xây dựng, tôn trọng
pháp luật, thuần phong mỹ tục... của tất cả bạn đọc gửi về. Vui lòng gõ
tiếng Việt có dấu để quá trình biên tập và đăng tải được thuận tiện.
Chân thành cảm ơn độc giả!
Nguồn: http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-Quoc-phong/32.gd
--------------
Chủ Nhật, 16 tháng 12, 2012
Trung Quốc ẩn núp phía sau màu sơn trắng
Hiền Trang chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Theo Strategy Page
Ngày 11 tháng 12, 2012
Theo Strategy Page
Ngày 11 tháng 12, 2012
Gần đây
nhiều nước đã cực lực phản đối thông báo của Trung Quốc về các quy định
mới, sẽ bắt đầu từ ngày 01 tháng Một tới đây, bao gồm việc hải quân
Trung Quốc sẽ tuần tra và hộ tống hoặc trục xuất tàu nước ngoài trong
vùng Biển Đông. Nhưng Trung Quốc đã rất
thông minh về cách ứng xử của họ đối với việc này. Trung Quốc không có
kế hoạch phủ lớp sơn màu xám lên các tàu hải quân để ngăn chặn và quấy
rối các tàu nước ngoài, ngược lại, họ đã sử dụng lớp sơn trắng của các
tàu tuần duyên. Màu sơn trắng và các sọc đỏ dọc trên thân tàu được quốc
tế công nhận là màu sơn của tàu tuần duyên. Điều này ít nhất là không
mang lại nhiều đe dọa so với các tàu chiến. Trung Quốc cũng kêu gọi các
tàu dân sự (trong đó chủ sở hữu của các tàu này hiểu rằng từ chối giúp
đỡ không phải là cách mà họ có thể lựa chọn) nhập cuộc ngăn chắn các tàu
nước ngoài. Vì vậy, nếu các tàu chiến nước ngoài nổ súng để đe dọa và
xua đuổi các tàu quấy rối này thì ngay lập tức họ trở thành những kẻ
xấu.
Trung
Quốc có khoảng ba tàu tuần duyên hạng nặng 1.500 tấn (được biết đến với
tên gọi “máy cắt” theo cách nói của người Mỹ) đang được xây dựng, một
phần trong số 36 chiếc trong đơn đặt hàng. Tất cả các tàu này thuộc Cơ
quan Giám sát Biển Trung Quốc (China Marine Surveillance – CMS). Bảy
trong số các tàu mới này có kích thước của tàu hộ tống (1.500 tấn),
trong khi phần còn lại là các số nhỏ hơn (15 chiếc có trọng lượng 1.000
tấn và 14 chiếc có trọng lượng 600 tấn). Trong một thời gian dài, việc
tuần tra ven biển được thực hiện bởi lược lượng hải quân. Tuy nhiên,
trong một thập kỷ qua, lực lượng tuần duyên đã có được nhiều tàu mới
hơn. Kế hoạch giao 36 chiếc tàu cho CMS sẽ được hoàn thành trong vòng
hai năm tới. Trong khi đó, Trung Quốc đang chuyển giao lại các loại tàu
chiến nhỏ hơn (tàu hộ tống loại nhỏ) cho các cơ quan thực thi pháp luật
khác nhau chịu trách nhiệm về an ninh biển. Ngày 1 tháng Một tới đây
Trung Quốc sẽ chính thức ra lệnh kiểm soát các bờ biển tại các đảo không
có người ở, cũng như các bãi đá ngầm và rạn san hô ở khu vực Biển Đông.
Điều này sẽ làm cho rất nhiều các khu vực được xem là thuộc vùng biển
quốc tế, được Trung Quốc đưa vào chủ quyền của nước này. Và hiện Trung
Quốc đang cần thêm tàu để có thể thực hiện những hoạt động này.
CMS là
một trong năm cơ quan chịu trách nhiệm thực thi pháp luật dọc theo bờ
biển của Trung Quốc. Các cơ quan khác bao gồm Cảnh sát biển, một lực
lượng quân sự có các tàu mang lớp sơn trắng liên tục tuần tra các bờ
biển. Cơ quan Quản lý An toàn Hàng hải chuyên phụ trách tìm kiếm và cứu
hộ dọc theo bờ biển. Cơ quan Thực thi Chính sách Thuỷ sản phụ trách việc
đánh bắt cá trái phép. Và Cơ quan Hải quan chuyên chống buôn lậu. Trung
Quốc có nhiều cơ quan tuần tra duyên hải bởi vì nước này theo chế độ
độc tài cộng sản, việc có nhiều cơ quan an ninh làm các nhiệm vụ tương
tự nhau để họ có thể kiểm soát lẫn nhau.
CMS là
cơ quan mới nhất được thành lập vào năm 1998. Cơ quan này thực sự là lực
lượng cảnh sát Quản lý đại dương của Trung Quốc, có trách nhiệm khảo
sát các vùng biển mà Trung Quốc có đặc quyền kinh tế (vùng đặc quyền
kinh tế hoặc – exclusive economic zone) và thực thi các pháp luật về môi
trường ở các vùng này. Chương trình xây dựng tàu mới này sẽ mở rộng sức
mạnh của CMS từ 9.000 đến 10.000 nhân viên. CMS hiện đã có 300 tàu
thuyền và 10 máy bay.
Ngoài
ra, CMS thu thập và phối hợp các dữ liệu hoạt động giám sát biển tại
mười thành phố lớn và 170 quận ven biển. Khi có các cuộc đối đầu vũ
trang tại các đảo tranh chấp ở Biển Đông, CMS là các tàu tuần tra thường
xuyên được mô tả là “tàu chiến của Trung Quốc”. CMS và bốn “cơ quan bảo
vệ bờ biển” khác của Trung Quốc có hàng trăm tàu cỡ lớn (hơn 1.000 tấn,
trong đó có một số có trọng lượng hơn 3.000 tấn) và hàng ngàn tàu tuần
tra nhỏ hơn. Trung Quốc hiện đang xây dựng cơ sở hạ tầng ở các đảo có
tranh chấp để có thể phục vụ cho các tàu tuần tra nhỏ loại này. Cần lưu ý
rằng nhiều trong số các tàu tuần tra này được trang bị các vũ khí hạng
nặng (như tên lửa, ngư lôi) nêu có chiến tranh xảy ra.
Vì vậy,
Trung Quốc thường xuyên tuần tra và tích cực hơn tại các vùng biển mà
họ có đặc quyền kinh tế. Luật pháp quốc tế (Hiệp ước Biển năm 1994) công
nhận vùng biển cách đất liền 22 kilomet và cho phép nước nào có chủ
quyền được kiểm soát khu vực này. Điều đó có nghĩa rằng các tàu [nước
ngoài] không được phép đi vào “vùng lãnh hải” nếu như không phép của
nước có chủ quyền. Tuy nhiên, các vùng biển cách đất liền 360 kilomet
được xem là khu vực đặc quyền kinh tế (EEZ). Các nước có chủ quyền ở
vùng đặc quyền kinh tế này có thể kiểm soát các tàu đánh cá và những
chất được chiết xuất từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên (chủ yếu là dầu
khí) từ đáy biển. Tuy nhiên, chủ sở hữu vùng này không thể ngăn cấm
quyền tự do qua lại đối với các tàu nước ngoài hoặc lắp đặt các đường
ống và cáp thông tin. Trong khi đó thì phía Trung Quốc đã lên tiếng
tuyên bố rằng các tàu nước ngoài đã tiến hành các hoạt động gián điệp
bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế của họ. Tuy nhiên, Hiệp ước
năm 1994 đặc biệt không nói gì về những vấn đề như vậy. Trung Quốc chỉ
đơn giản thực hiện những gì họ đã làm trong nhiều thế kỷ qua, cố gắng áp
đặt ý chí của họ lên các nước láng giềng hay bất cứ nước nào mạo hiểm
đi vào những gì mà Trung Quốc xem là khu vực thuộc quyền kiểm soát của
họ.
Trong
hai thế kỷ vừa qua Trung Quốc đã bị ngăn cản thực hiện các “quyền truyền
thống” trong vùng biển gần đó vì sức mạnh vượt trội của các lực lượng
hải quân nước ngoài (đầu tiên là súng pháo cannon của châu Âu, sau đó
vào thế kỷ 19 là tàu chiến thép mới từ Nhật Bản). Tuy nhiên, kể từ khi
những người cộng sản lên chiếm quyền 60 năm trước đây, Trung Quốc đã sử
dụng bạo lực để tái khẳng định lại quyền kiểm soát của họ trong khu vực
(trong nhiều thế kỷ) mà họ xem là một phần của “Vương quốc Trung Tâm –
Middle Kingdom” (hoặc Trung Quốc, như là trung tâm “của thế giới”).
Hiện
nay Trung Quốc đặc biệt quan tâm quần đảo Trường Sa ở gần đó, một nhóm
đảo gồm khoảng 100 đảo nhỏ, rạn san hô, và các bãi đá ngầm có tổng cộng
khoảng 5 cây số vuông đất, nhưng bao gồm 410.000 cây số vuông diện tích
biển ở Biển Đông. Ngoài có tiếng là một ngư trường lớn nhất thế giới,
các đảo này còn được cho là có nguồn dầu mỏ và khí đốt rất lớn bên dưới
đáy biển. Một số quốc gia khác cũng đã lên tiếng tuyên bố chủ quyền.
Hiện có khoảng 45 trong số các hòn đảo tại đây được các nhóm quân sự
chiếm đóng. Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với tất cả các hòn đảo tại
đây nhưng họ chỉ chiếm đóng được 8 đảo, Việt Nam đã chiếm hoặc đánh dấu
25 đảo, Philippines chiếm 8 đảo, Malaysia có 6 đảo, và Đài Loan chiếm
duy nhất 01 đảo.
Trung
Quốc muốn sử dụng các tàu phi quân sự hoặc bán quân sự (giống như tàu
của CMS) để quấy rối các tàu nước ngoài nhằm đuổi họ ra khỏi vùng đặc
quyền kinh tế hay các khu vực có tranh chấp. Cách tiếp cận này ít có khả
năng châm ngòi cho một cuộc xung đột vũ trang và dễ dàng hơn cho phía
Trung Quốc tuyên bố họ là nạn nhân. Việc này diễn ra như một vỡ kịch đối
với các nước láng giềng khi Trung Quốc tuyên bố họ là nạn nhân. Đó là
bởi vì các quy định mới dưới luật pháp quốc tế tại các khu vực ngoài
khơi bở biển của Philippines, Malaysia, Đài Loan, Brunei và Việt Nam
không công nhận thuộc chủ quyền của Trung Quốc như cách mà Trung Quốc
đang làm. Ấn Độ và Hoa Kỳ đã công bố rằng họ sẽ không tuân thủ các quy
định trên [của Trung Quốc] và mong rằng các tàu chiến của Ấn Độ và Hoa
Kỳ không bị trở ngại khi di chuyển qua khu vực Biển Đông vào năm 2013
tới đây.
© Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC 2012
Thứ Bảy, 29 tháng 9, 2012
Tiến hành chiến tranh bằng các phương tiện phi qui ước: Thủ đoạn chính trị của Trung Quốc trong việc sử dụng các lực lượng biển
Tác giả: Toshi Yoshihara (*)
Trần Ngọc Cư dịch, gửi đăng tại BauxitVN
Nguồn bản gốc: thediplomat.com
Việc Trung Quốc phát triển và sử dụng một lực lượng biển
(seapower) gồm có hải quân và các lực lượng phi quân sự không trực thuộc hải
quân đã trở thành nguyên nhân cho sự lo ngại – một sự kiện có thể thay đổi cán
cân lực lượng trong khu vực.
Trần Ngọc Cư dịch, gửi đăng tại BauxitVN
Nguồn bản gốc: thediplomat.com
Hình minh họa (của Bách Việt) |
Thái độ quyết đoán gần đây của Trung Quốc trong biển Nam Trung
Hoa [biển Đông Việt Nam] là màn dạo đầu cho nhiều vụ việc sắp tới. Dự án xây
dựng hải lực của Bắc Kinh và các nguồn lực khổng lồ mà Bắc Kinh nắm được trong
tay đã mở ra những viễn cảnh chiến lược mới mẻ cho giới lãnh đạo chính trị và
các vị tư lệnh quân đội Trung Quốc. Nắm được các lực lượng biển hùng hậu và đầy
đủ khả năng, Bắc Kinh có đủ điều kiện để hoạch định những chiến lược tinh vi,
vừa hữu hiệu vừa khó chống trả. Mặc dù những chiến lược này không – nói đúng ra,
chưa – báo hiệu một sự tái phối trí trật tự cơ bản trong vùng Đông Nam Á tiếp
giáp với biển, nhưng chúng có khả năng dần dần tạo thuận lợi cho các mục đích to
lớn hơn của Trung Quốc trong các vùng biển.
Hải lực toàn diện của Trung Quốc
Nỗ lực xây dựng lực lượng hải quân và hàng hải Trung Quốc đang
tạo phương tiện cho Bắc Kinh theo đuổi những tham vọng của mình. Tốc độ và quy
mô của tiến trình hiện đại hóa Quân đội Gỉải phóng Nhân dân (QĐGPND) đã bác bỏ
nhiều tiên đoán của phương Tây, làm đảo ngược các kết luận lạc quan và thậm chí
trịch thượng của các đối thủ về các khả năng trên biển của Trung Quốc. Nhưng,
lực lượng biển (seapower) không phải chỉ là hải quân (the navy). Nói đúng ra, nó
là một tập hợp của nhiều thành phần gần giống nhau (continuum) có thể tạo ra
nhiều phương án để Bắc Kinh tùy nghi lựa chọn. Các chương trình và các hệ thống
phi hải quân (non-naval) và phi quân sự (non military) chiếm một phần đáng kể
trong lực lượng biển của Trung Quốc.
Các loại vũ khí tầm xa, bắn chính xác, được triển khai trên lục
địa có thể ảnh hưởng, có lẽ một cách quyết định, đến các biến cố trên biển. Tên
lửa đạn đạo chống chiến hạm – một loại tên lửa đạn đạo cơ động có thể bắn trúng
những mục tiêu di động trên biển – chỉ là một thành viên thuộc đại gia đình tên
lửa trong kho vũ khí Trung Quốc, có khả năng mở những đợt pháo kích ra biển.
Thật vậy, QĐGPND thường khoe khoang về máy bay chiến đấu , máy bay thả bom, và
các đơn vị tên lửa hành trình đóng trên bờ biển, có thể phóng những tràng tên
lửa chống chiến hạm.
Sự tăng trưởng của ngành hải giám và tuần tra biển của Trung
Quốc cũng ấn tượng không kém. Cánh dân sự trong các lực lượng biển Trung Quốc đã
tạo điều kiện để Bắc Kinh gửi các tàu phi quân sự ra đối đầu với Philippines ở
biển Đông Việt Nam và với Nhật Bản ở biển Đông Trung Hoa. Thậm chí những tàu dân
sự cũng có thể tạo thành các lực lượng dân quân biển (maritime militias) để phục
vụ các mục tiêu trên biển của Trung Quốc. Tắt một câu, Trung Quốc có đủ các
thành phần đa dạng trong lực lượng biển của mình để bảo vệ đặc quyền trên các
vùng biển.
Việc sử dụng các lực lượng quân sự và phi quân sự có tính
cách chính trị
Các lực lượng biển ngày càng hùng hậu của Bắc Kinh đã cho phép
chính quyền này sử dụng các chiến lược gồm cả việc vận dụng các phương tiện quân
sự và phi quân sự của lực lượng biển với mục tiêu chính trị là chống lại các
địch thủ nhỏ bé trên biển Đông. Các chiến lược này kết hợp khéo léo các khả năng
tác chiến với các cuộc biểu dương lực lượng có chừng mực. Chúng gia tăng lợi thế
của Trung Quốc trong các cuộc đấu tranh quân sự-chính trị trường kỳ bằng cách
làm tiêu hao ý chí của đối phương.
Trong trường hợp có khủng hoảng trên biển vào thời bình giữa
Trung Quốc với các quốc gia tương đối yếu tại Đông Nam Á, sự kết hợp đầy sáng
tạo các lực lượng QĐGPND có thể được vận dụng để bẻ gãy ý chí của các nước láng
giềng phía Nam. Hãy xét đến lợi điểm của tên lửa đạn đạo chống chiến hạm nói
trên. Nếu khả năng hoạt động của nó hữu hiệu như được rêu rao, loại tên lửa này
có thể bù đắp lại những khuyết điểm hiện nay trong các loại vũ khí trên biển của
Trung Quốc. Tầm đạn của hoả lực yểm trợ từ bờ biển bắn đến các vị trí trên toàn
biển Đông sẽ làm giảm bớt gánh nặng cho hạm đội Trung Quốc, đồng thời tạo sức ép
thường xuyên lên các đối thủ dám thách thức các lợi ích của Bắc Kinh trong thời
bình.
Dưới chiếc dù che chở của tên lửa đạn đạo chống chiến hạm, thậm
chí các tàu chiến cỡ nhỏ của Trung Quốc cũng có thể trở thành vũ khí lý tưởng để
đe dọa các phe yếu hơn. Chẳng hạn, các đội tàu nhỏ được trang bị tên lửa, có khả
năng tấn chông chớp nhoáng, hoạt động trong quần đảo Trường Sa dưới sự yểm trợ
của tên lửa từ bờ biển bắn ra, có thể đẩy lùi hầu hết các hạm đội Đông Nam Á.
Thỉnh thoảng Trung Quốc lại tung ra các đội tàu nhỏ như thế để nói lên quyết tâm
của mình, buộc đối phương phải xuống nước hay đáp ứng tham vọng của Bắc Kinh.
Loại chính sách ngoại giao hạm thuyền mang đặc tính Trung Quốc này là điều ta có
thể quan niệm được trong các cuộc khủng hoảng tương lai.
Khả năng của Trung Quốc trong việc sử dụng những yếu tố phi
quân sự trong lực lượng biển của mình đã được phô trương đầy đủ tại Bãi cạn
Scarborough mùa Xuân năm nay. Cuộc đối đầu với Philippines đã đưa đến việc sử
dụng những tàu phi chiến đấu có chức năng tuần duyên đặt dưới quyền kiểm soát
của Cục Hải giám Trung Quốc, một cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ các khu đặc quyền
kinh tế của Bắc Kinh. Trong một hành động biểu dương quyết tâm chưa từng có
trước đây, các tàu Hải giám Trung Quốc đã đi vào lãnh hải Nhật Bản gần quần đảo
Senkaku, tiếp theo sau quyết định quốc hữu hóa các đảo tranh chấp này của Tokyo
vào tháng Chín 2012.
Việc sử dụng các phương tiện phi hải quân (non-navy assets)
trong các vụ xung đột về lãnh thổ đã phơi bày một chiến lược, vừa tinh vi vừa có
phương pháp, nhằm đảm bảo các đòi hỏi chủ quyền trên biển của Trung Quốc. Việc
sử dụng các phương tiện phi quân sự tránh được sự leo thang xung đột, đồng thời
đảm bảo rằng các cuộc tranh chấp vẫn giữ được tính cách địa phương. Cụ thể là,
nó không cho phép Mỹ và các cường quốc bên ngoài có đủ lý lẽ để nhảy vào bênh
vực các quốc gia đang lâm trận ở trong khu vực.
Đồng thời, các tàu phi quân sự cho phép Bắc Kinh có khả năng áp
đặt một sức ép ở cấp độ thấp và liên tục lên các đối thủ có yêu sách chủ quyền
trên các đảo và lãnh hải trong biển Đông. Các cuộc tuần tra liên tục của Trung
Quốc có thể thăm dò những chỗ yếu trong khả năng hải giám của các nước ven biển,
đồng thời thử thách quyết tâm chính trị của những quốc gia này. Ngoài ra, việc
giữ cho các cuộc tranh chấp diễn ra ở mức âm ỉ, cho phép Trung Quốc nắm thế chủ
động ngoại giao trong việc làm gia tăng hoặc giảm bớt nhiệt độ căng thẳng, tùy
theo đòi hỏi của các tình huống chiến lược.
Và nếu tất cả mọi phương tiện khác đều thất bại, Bắc Kinh vẫn
còn có thể sử dụng hải quân và các loại vũ khí đặt dọc theo bờ biển để yểm trợ
cho tàu của các cơ quan dân sự. Sự kiện Trung Quốc – khác với các đối thủ yếu
kém – có sự lựa chọn leo thang tranh chấp chỉ làm tăng thêm yếu tố hăm dọa (the
intimidation factor) ở những nơi như Bãi cạn Scarborough hay quần đảo Trường Sa.
Như đã nói ở trên, nội khả năng Trung Quốc dùng hải quân để o ép cũng có thể
khiến một đối phương phải xuống nước trong một cuộc khủng hoảng. Thật vậy, cán
cân lực lượng hải quân càng nghiêng về phía Trung Quốc, thì nó càng có khả năng
trở thành một mối ám ảnh cho các thủ đô Đông Nam Á, khi các quốc gia này cân
nhắc các phương án lựa chọn của mình.
Tự bản thân, các cuộc tuần tra biển trong thời bình là không
quan trọng, nhưng khi được yểm trợ bằng hoả lực thực sự, chúng có tầm quan trọng
đáng kể. Tác động qua lại giữa các lực lượng quân sự và phi quân sự của Trung
Quốc như vậy đã gia tăng lợi thế chiến lược của Bắc Kinh.
Một chiến lược làm đối phương kiệt sức trên
biển
Những hành động o ép và dọa nạt có thể không tạo ra kết quả rõ
ràng hay quyết định như một thắng lợi trên chiến trường. Một loạt các cuộc đọ
sức quyết liệt có thể diễn ra, mà không có hồi kết thúc trước mắt hay mang lại
một thành quả rõ rệt cho Trung Quốc. Nhưng, các hiệu ứng tích lũy của một tình
trạng bế tắc liên tục có thể tạo ra sự mệt mỏi chiến lược cho đối phương, do đó
sẽ phục vụ các mục tiêu của Trung Quốc. Vì chưa phải là một cuộc chiến bằng súng
đạn, những khiêu khích của Trung Quốc là quá nhẹ không đáng cho Mỹ phải can
thiệp bằng quân sự. Bằng cách cố giữ cho các hoạt động của mình nằm dưới ngưỡng
leo thang, Trung Quốc sẽ có thêm khả năng điều động, để thử thách quyết tâm của
Mỹ đồng thời củng cố các đòi hỏi chủ quyền của mình.
Trong khi Trung quốc vừa lấn tới vừa thăm dò, thì các kỳ vọng
trong khu vực – rằng Mỹ phải làm một việc gì đó – tất yếu sẽ gia tăng, thậm chí
cả khi các quốc gia nhược tiểu đang tìm kiếm những dấu hiệu về sự lung lay quyết
tâm của Mỹ. Viễn cảnh về các cuộc đối đầu lặp đi lặp lại, mà không mấy hy vọng
được Mỹ can thiệp trực tiếp, có thể đè nặng lên các thủ đô Đông Nam Á. Nếu được
áp dụng bằng một thái độ kiên trì và có kỷ luật từ phía Trung Quốc, chiến lược
tiêu hao lực lượng này có thể bào mòn lòng tin tưởng trong khu vực [đối với Mỹ]
và hủy hoại ý chí chính trị [chống lại Trung Quốc] của các nước nhỏ.
Nhưng đường lối tiêu hao này chỉ là hình ảnh chụp vội các lực
lượng biển Trung Quốc ngày nay. Cũng có thể rằng, việc Bắc Kinh áp dụng sức ép
theo từng cấp độ cũng chỉ là một biện pháp vá víu, để Trung Quốc có đủ thời gian
tạo khả năng định đoạt các biến cố trên biển. Các xu thế gần đây cho thấy rằng
các lực lượng quân sự và phi quân sự sẽ tiếp tục lớn mạnh nhờ sự tiếp sức liên
tục bằng các loại vũ khí mới và nhân lực mới.
Ngân sách quốc phòng gia tăng liên tục trên 10% trong vòng hai
mươi năm qua, đã cho phép Trung Quốc có đủ nguồn lực để phát huy các phương án
vượt ra ngoài các phương án dành cho một tình huống đột xuất trên đảo Đài Loan –
mãi cho đến gần đây, Đài Loan là mối quan tâm lớn nhất. Các nhà phân tích đã
phát hiện được việc Trung Quốc đang xây dựng lực lượng quân sự tại các vùng sẽ
làm nơi xuất phát, dành cho địa bàn hành quân tại Đông Nam Á. Bắc Kinh cũng có
vẻ đang đẩy mạnh hoạt động tại các công xưởng hải quân, theo phương pháp đa
trục, đồng thời đưa vào khuôn những thân tàu cho các chiến hạm đủ loại.
Tương tự như thế, các cơ quan tuần dương cũng đang tuyển mộ
thêm nhân viên đồng thời tiếp nhận các tàu hải quân đã giải nhiệm. Hơn thế nữa,
các xưởng đóng tàu Trung Quốc đang sản xuất các tàu tuần duyên hiện đại nhất như
sản xuất lạp xưởng. Nhiều chiếc có khả năng đi tuần tra lâu ngày đến tận những
vùng xa nhất ở biển Đông Trung Hoa và biển Đông Việt Nam, nhằm đảm bảo rằng Bắc
Kinh có thể duy trì sự hiện diện nổi bật tại các vùng biển mà Bắc Kinh quyết
đoán quyền tài phán chủ quyền của mình. Thật vậy, chiếc Hải Giám 84, một
trong những chiếc tàu tuần dương hiện đại nhất của Trung Quốc, đã chiếm vị trí
trung tâm tại cuộc đối đầu ở Bãi cạn Scarborough.
Chắc chắn là, Trung Quốc vẫn chưa có đầy đủ phương tiện quân sự
để biến biển Đông thành một ao nhà của mình. Một khả năng kiểm soát, dù ít dù
nhiều, có thể vĩnh viễn đẩy hải quân của các địch thủ ra khỏi những vùng biển
này, vẫn còn nằm ngoài tầm với của Trung Quốc, nếu thực sự đấy là mục tiêu của
Bắc Kinh.
Tuy nhiên, thậm chí một sự tăng cường khiêm nhượng trong các
lực lượng biển của Trung Quốc cũng có thể làm nghiêng cán cân lực lượng về phía
Trung Quốc một cách rõ rệt trong các tình huống đột xuất thời bình nếu không có
sự can thiệp của Hải quân Mỹ. Một vài nước trong khu vực, chẳng hạn Việt Nam, đã
lao vào những chương trình hiện đại hóa hải quân, nhưng họ không thể nào bắt kịp
Trung Quốc. Qua một thời gian, nếu không gặp sự chống đối từ các cường quốc bên
ngoài như Mỹ, Nhật Bản, hay Úc Đại Lợi, thì ngay cả những cuộc biểu dương lực
lượng biển cỡ nhỏ của Trung Quốc, nhằm khuynh loát các hạm đội Đông Nam Á, cũng
có thể bắt đầu đưa đến sự khứng chịu bất đắc dĩ của các nước trong khu vực trước
các yêu sách đối ngoại của Bắc Kinh. Một sự đồng thuận như vậy, dù bất đắc dĩ
đến đâu, cũng sẽ giáng một đòn nghiêm trọng cho nền tảng trật tự trong khu
vực.
Những ngụ ý đối với chiến lược “tái quân bình lực lượng” Mỹ
hướng về châu Á
Bản phân tích nói trên nhấn mạnh tình trạng nan giải của nhiều
nước Đông Nam Á nếu họ phải một mình đối đầu với Trung Quốc. Thật không
có gì đáng ngạc nhiên, khi nhiều chính phủ trong khu vực đã hướng về Mỹ như một
bức tường thành chống lại những bước lấn tới của Trung Quốc. Những chính phủ này
nhìn nhận rằng thế siêu cường của Mỹ trong các vùng biển châu Á sẽ là sức mạnh
quan trọng định đoạt thắng-thua cho những tham vọng của Trung Quốc. Về phần
mình, Washington đã đưa ra những tuyên bố rất công khai về lợi ích của mình tại
các vùng biển châu Á. Chiến lược “xoay trục” hay “tái quân bình lực lượng” hướng
về châu Á đã tìm cách trấn an các nước trong khu vực rằng Mỹ sẽ không từ bỏ vai
trò ổn định tình hình mà Mỹ vẫn giữ từ lâu.
Cũng may là, hiện nay vẫn còn có đủ thì giờ để các nước tăng
cường tối đa sự đồng thuận về lợi ích chung và tổ chức một hành động đối phó hữu
hiệu. Trung Quốc phải cần ít ra một thập kỷ nữa mới xây dựng được một lực lượng
biển hùng hậu có sức đuổi Mỹ ra khỏi biển Đông trong khi tự do hà hiếp các nước
Đông Nam Á. Hiện nay, Washignton có thể theo đuổi nhiều biện pháp nhằm đảm bảo
rằng việc các nước trong khu vực chịu khuất phục trước tham vọng của Trung Quốc
không phải là một chuyện đương nhiên
Một là, Washington và đồng minh của mình phải tích cực giúp các
quốc gia Đông Nam Á tự cứu mình. Các nước trong khu vực phải có một nội lực để
đương đầu với các cuộc xâm lấn biển đảo đến từ Trung Quốc. Việc Mỹ chuyển giao
cho Philippines những tàu tuần duyên chế tạo trong thập niên 1960 là một bước
khiêm nhường đi đúng hướng. Thời điểm chuyển giao các tàu này hóa ra là một sự
trùng hợp ngẫu nhiên: chiếc tàu Philippines đầu tiên đã đáp ứng mệnh lệnh khi
còn ở ngoài khơi của Bãi cạn Scarborough là kỳ hạm (flagship) BRP Gregorio
del Pilar, vốn là chiếc Hamilton thuộc Cục Tuần duyên Mỹ trước
đây. Nhưng, những chiếc tàu cũ được chuyển giao lại này không đáp ứng đủ nhu cầu
của Manila. Việc Nhật Bản gần đây đề nghị bán cho Philippines 12 tàu tuần duyên
mới toanh là một dấu hiệu khích lệ cho thấy các cường quốc bên ngoài đang tìm
cách để chỉnh sửa cán cân lực lượng trong khu vực.
Hai là, Mỹ phải thúc đẩy sự phát triển một nỗ lực trên toàn khu
vực để theo dõi các lực lượng biển Trung Quốc. Những hệ thống vệ tinh không
người lái trên không, chẳng hạn, có thể cung cấp cho các quốc gia chung quanh
biển Đông một bức tranh chung về vùng biển này. Bằng cách vận dụng những công
nghệ như thế, một hệ thống chia sẻ thông tin có khả năng minh bạch hóa các vùng
biển châu Á, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, sẽ là một tiến bộ lớn trong việc
nâng cao lòng tự tin và khả năng ngăn chặn trong khu vực. Cũng nên ghi nhận
rằng, chính quyền Tokyo lâu nay vẫn cung ứng một dịch vụ truyền tin cho toàn khu
vực bằng cách công khai tường thuật chi tiết các tàu hải quân Trung Quốc đi qua
các eo biển quốc tế và các hoạt động khác của Trung Quốc gần lãnh hải Nhật
Bản.
Ba là, Mỹ phải vạch ra các kế hoạch để quân đội Mỹ có thể triển
khai các đơn vị có trang bị vũ khí pháo kích trên biển, như các ổ tên lửa hành
trình chống tàu chiến địch được đặt trên lãnh thổ bạn hay đồng minh. Nắm được
phương án để nhanh chóng đưa thêm vào lãnh thổ các đồng minh những lực lượng
phòng thủ, liền sau khi được thông báo, sẽ trấn an được các đồng minh của Mỹ
trong thời bình, cũng như củng cố khả năng hành động có hiệu quả của Mỹ trong
các giai đoạn có khủng hoảng. Những lực lượng tăng viện của Mỹ sẽ trấn an được
tâm lý đồng thời nâng cao quyết tâm tự vệ của nước sở tại. Mỹ phải khuyến khích
các nước bạn và đồng minh phát triển và tăng cường các phương án tác chiến trên
biển của chính mình.
Sau cùng, Hải quân Mỹ phải duyệt xét lại những giả định đang
thịnh hành về khả năng của mình trong việc khống chế các vùng biển quốc tế.
Nhiều năm được thoải mái sau thời Chiến tranh lạnh đã phát sinh một tâm lý tự
tin hão huyền, khiến Hải quân Mỹ dễ coi thường việc kiểm sóat các biển. Cũng nên
nói là, lần cuối cùng Hải quân Mỹ đã lâm trận với một kẻ thù đáng nể là tại Vịnh
Leyte [Philippines] vào năm 1944. Khi Trung Quốc tiến quân ra biển, thì sẽ có
một môi trường biển nguy hiểm hơn nhiều chờ đợi ở tương lai. Đối với một quân
chủng đã lâu ngày quen thuộc với các vùng biển không tranh chấp, thái độ biết
chấp nhận những nguy hiểm xảy đến cho hạm đội của mình sẽ là một ưu tiên khẩn
thiết hơn bao giờ.
Tạo thành mạng lưới trong khu vực
Những biện pháp nói trên sẽ giúp tạo ra một thế phòng thủ được
liên kết nhau và có nhiều tầng cấu trúc, một thế phòng thủ xuất phát từ chính
các quốc gia trong khu vực. Là những quốc gia ở tuyến đầu, họ phải được tăng
cường sức mạnh để có thể phản ứng trước nhất đối với các động thái của Trung
Quốc ở trên biển. Việc chia sẻ thông tin giữa các quốc gia duyên hải sẽ nhấn
mạnh sự mất còn của các quyền lợi chung trong những vùng biển quốc tế, đồng thời
thúc đẩy một hành động tập thể. Một mạng lưới gồm các quốc gia biết cảnh giác
trước những mưu mô của Trung Quốc sẽ có một cơ may tốt đẹp hơn trong việc ngăn
chặn, và, nếu không làm được điều này, cũng phản ứng nhanh chóng hơn trước những
hành động của Trung Quốc. Về phần mình, Mỹ sẽ phải cung cấp một hậu thuẫn chiến
lược cho các quốc gia đối tác ở Đông Nam Á, bằng các phương tiện quân sự kín
đáo, không để lại dấu vết, nhưng có khả năng tạo được cú đấm và được coi là biểu
tượng mạnh mẽ cho sự cam kết của Mỹ đối với khu vực này.
Các nỗ lực làm gia tăng những chi phí và những rủi ro cho Trung
Quốc, vì hành vi quyết đoán của nước này trong biển Đông, sẽ làm xáo trộn bài
toán của Bắc Kinh, đồng thời khiến các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải suy nghĩ
chín chắn trước khi hành động. Ngoài ra, khi các nước buộc Trung Quốc phải có
thái độ thận trọng tức là họ đã hãm lại được đà tiến quân ra biển của Bắc Kinh,
đồng thời làm tươi sáng viễn ảnh phục hồi thế quân bình trong khu vực và lấy lại
thế chủ động chiến lược.
Toshi Yoshihara giữ ghế Chủ toạ John A. Van Neuren trong
Chương trình nghiên cứu châu Á-Thái Bình Dương tại Trường Chiến tranh Hải quân
Hoa Kỳ (the U.S. Naval War College). Bài báo này là một phiên bản được duyệt lại
từ bản điều trần của Tiến sĩ Yoshihara trước Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ vào
ngày 12 tháng Chín năm 2012. Quan điểm được trình bày ở đây là quan điểm riêng
của tác giả.
T.Y.
--------------
Bách Việt
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)