Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012

Cựu hoàng Bảo Đại và người vợ cuối cùng

Câu chuyện dưới đây nhận được qua e-mail của bạn bè, chủ blog Bách Việt mạn phép đăng lại coi đây như một nguồn tham khảo không chính thức với chút ít thông tin về vị Hoàng cuối cùng của nước Việt Nam thời thuộc địa. (Bách Việt)
  

Sau ngày 23-10-1955, thông tin kết quả cuộc “trưng cầu dân ý” truất phế Bảo Đại và suy tôn Ngô Đình Diệm lên làm quốc trưởng đến tai cựu hoàng đang ở tại nhà riêng trên đường Maurice Barrès (Neuilly, Paris).
 Bảo Đại bàng hoàng. Ông vẫn còn nhớ như in, chỉ cách đó không đầy một năm, trong lá thư đề ngày 10-11-1954, Ngô Đình Diệm đã hứa sau khi được giao quyền nếu “Ngô Đình Diệm có làm điều gì trái ý, quốc trưởng có thể cách chức ngay”. Không ngờ... Bên cạnh kết quả trưng cầu dân ý với 5.721.735 phiếu truất phế Bảo Đại và 63.017 phiếu không chịu truất phế, báo chí lại còn đăng tấm ảnh chân dung “Quốc trưởng Bảo Đại” đã bị người của Diệm chà đạp lăng nhục trên đường phố Sài Gòn. Kể từ ngày đó cựu hoàng rơi vào tình trạng mất ngủ triền miên và bắt đầu sống trong nỗi trầm uất.
Cựu hoàng được chữa trị đủ loại thuốc mà vẫn không ngủ được. Cuối cùng người ta đưa cựu hoàng sang Thụy Sĩ chạy điện và uống một loại thuốc đặc biệt. Trước khi chữa trị cho cựu hoàng, người ta bảo: “Chạy điện và uống thuốc của Thụy Sĩ, chữa bệnh mất ngủ xong, tính tình của cựu hoàng sẽ thay đổi”. Gia đình cựu hoàng hết sức lo lắng nhưng không thể làm gì khác hơn.
Cựu Hoàng Bảo Đại và người vợ cuối cùng Monique Baudot
Sau thời gian chữa bệnh, cựu hoàng sống với gia đình như một người khách không mời. Vợ con đều muốn xa lánh ông. Cuối cùng để cho ông được “tự do” - một đồ đệ của cựu hoàng từ thời lưu lạc bên Hồng Kông (1947-1948) là Bùi Tường Minh đi thuê cho ông một căn hộ trong cao ốc 29 Fresnel, quận 16 - Paris. Căn hộ chỉ có một phòng ngủ, một phòng khách nhỏ, một bếp và một phòng tắm chật hẹp. Cũng may, tuy nhỏ nhưng căn hộ ở trên một đường phố yên tĩnh, sang trọng, ngay sau lưng Tòa đại sứ Iran rất thuận tiện. Cựu hoàng “ra ở riêng”, lúc đầu còn tiền bạc nên kẻ lui người tới thăm viếng, sau hết tiền, bệnh nằm một mình không một người mua giúp bánh mì ăn sáng.
Mối tình Bảo Đại - Monique
Giữa lúc khó khăn ấy, cô Monique Baudot (sinh năm 1946) xuất hiện. Về tiểu sử của Monique có nhiều nguồn. Báo chí Pháp viết cô từng làm tuỳ viên báo chí trong một tòa đại sứ. Các chính khách từng làm việc với cựu hoàng và sau năm 1975 có nhiều dịp gặp ông (như tướng Sài Gòn Trần Văn Đôn) thì bảo Monique chỉ là một cô bồi phòng. Chính nhờ làm bồi phòng ở cao ốc 29 Fresnel nên cô mới biết được có một ''ông vua lưu vong'' bệnh hoạn không người chăm sóc, cô đến giúp đỡ và trở thành người thân cận nhất của cựu hoàng suốt mấy thập niên cuối đời.
Từ khi hai người ăn ở với nhau (bắt đầu từ những năm 1970) cuộc sống vật chất của cựu hoàng và Monique rất khó khăn. Monique chạy xin cho cựu hoàng được một trợ cấp cho người già, mỗi tháng lãnh khoảng trên dưới 7.000 frs. Sau này ông J. Chirac lên làm thị trưởng Paris, tăng phụ cấp cho cựu hoàng lên 12.000frs nhưng vẫn không giải quyết hết khó khăn. Sống trong hoàn cảnh vật chất thiếu thốn cựu hoàng không hề than vãn. Hằng ngày bà Monique ôm quần áo bẩn đi giặt ở các máy giặt công cộng. Buổi sáng cựu hoàng ăn pain sec (bánh mì không) đích thân hỏi cựu hoàng có cảm tưởng như thế nào về cuộc sống khó khăn của mình, ông bảo: “Tôi đã thoái vị từ lâu, về làm dân Việt Nam. Trong khi đa số dân Việt Nam còn thiếu thốn, thì công dân Vĩnh Thụy làm sao có cuộc sống khá hơn!''.
Cựu hoàng không quan tâm đến đời sống kinh tế nhưng bà Monique Baudot thì nghĩ khác. Bà tìm mọi cách để có thu nhập thêm. Bà đòi tiền những người muốn đến gặp và Phỏng vấn cựu hoàng. Bà mời tướng Fond viết giúp hồi ký Con rồng An Nam cho cựu hoàng và bán cho Nhà xuất bản Plon. Để có đủ tư cách pháp lý “chiếm độc quyền” Bảo Đại, nhiều lần Monique yêu cầu cựu hoàng làm giấy kết hôn với bà. Nhưng chuyện ấy không thực hiện được ngay vì bà Từ Cung - thân mẫu của Bảo Đại -đang còn sống ở Huế không đồng ý.
Từ sau ngày thống nhất đất nước (1975), người Việt Nam sống lưu vong ở Âu Mỹ khá đông. Người ta đã nghĩ đến chuyện mời cựu hoàng Bảo Đại làm lãnh tụ của họ, nhưng ông từ chối mọi hoạt động chính trị, muốn sống yên thân cho đến khi nhắm mắt. Tuy vậy, những người này vẫn không bỏ cuộc. Đầu năm 1982, người ta bày ra chuyện mừng sinh nhật cựu hoàng bằng cách mời ông sang thăm nước Mỹ. Mục đích của chuyến đi được nêu lên rõ ràng: “1. Để cho người Việt Nam ở Mỹ biết Việt Nam còn có một vị cựu hoàng khỏe mạnh; 2. Nhân dịp sang Mỹ, với tư cách ông vua cuối cùng của triều Nguyễn, cựu hoàng cảm ơn chính quyền và nhân dân Mỹ đã giúp đỡ đồng bào Việt Nam trong việc định cư". Thấy hai mục đích ấy không liên quan gì đến chính trị, cựu hoàng đồng ý. Bà Monique nghe vậy liền bắt chẹt: Nếu Bảo Đại không làm giấy kết hôn với bà và không cho bà đi Mỹ thì bà sẽ không cho Bảo Đại ra khỏi nhà. Lúc này bà Từ Cung đã qua đời, không còn trở ngại nào nữa, Bảo Đại đem Monique Baudot ra Tòa Đốc lý quận 16, Paris đăng ký kết hôn. Hai ông bà được cấp giấy kết hôn với nội dung: “Hôm nay là ngày 19-1-1982 đã diễn ra việc thành hôn của hoàng thân Vĩnh Thụy cũng gọi là Hoàng thân Bảo Đại, sinh ở Huế (Việt Nam) vào ngày 23-10-1913, con trai của Khải Định và Từ Cung (đều đã mất) và cô Monique Marie Eugène Baudot, sinh tại Saint Amand Montrond vào ngày 30-4-1946, con gái của ông Lucien Henri Baudot và Hélène Marie Madeleine Legeai. Giấy đăng ký kết hôn gởi từ ngày 14-1-1982”.
Monique đã trở thành vợ chính thức của cựu hoàng Bảo Đại. Hoàng hậu Nam Phương được triều đình nhà Nguyễn đứng ra cưới cho Bảo Đại (1934) nhưng không làm giấy kết hôn. Các bà “thứ phi” có con với cựu hoàng nhưng không ai có giấy kết hôn cả. Theo luật pháp nước Pháp, chỉ những người có giấy kết hôn mới được công nhận là vợ chính thức. Do đó, người Pháp chỉ công nhận Monique Baudot là vợ của Hoàng thân Vĩnh Thụy mà thôi.
Những chuyện nhập nhằng trong chuyến đi Mỹ
Vừa nhận được giấy kết hôn, hai ông bà Bảo Đại - Monique Baudot đáp tàu bay qua Los Angeles (Mỹ) ngay, được vài trăm bà con Nguyễn Phước tộc và đồng bào Việt Nam tại Mỹ đón tiếp thân mật. Sáng hôm sau, có người gợi ý Bảo Đại lên tiếng ủng hộ lực lượng chống chính quyền Việt Nam ở quốc nội, Bảo Đại từ chối và nhắc lại rằng:
- Tôi qua Mỹ thăm đồng bào, thăm nước Mỹ, chỉ có vậy!
Hôm sau, trong một cuộc tiếp tân, bà thị trưởng thành phố Westminster trao tặng chiếc chìa khóa của thành phố cho Bảo Đại. Ông cảm ơn bằng tiếng Việt: “Đây là lần thăm viếng nước Mỹ đầu tiên của tôi. Tôi qua thăm đồng bào tôi. Tôi thay mặt người Việt Nam cám ơn chính quyền và dân chúng Mỹ đã dành cho dân Việt Nam lưu vong sự giúp đỡ nồng hậu để họ tạo lại đời sống mới tại nước này”.
Từ lâu người ta nói “Bảo Đại đã quên hết tiếng Việt, ông chỉ biết ăn chơi”. Không ngờ hôm ấy người ta nghe ông nói tiếng Việt bằng giọng Huế rất rành rẽ, tình cảm. Những lời ông nói ngắn gọn, có tính cách ngoại giao nhưng đầy đủ ý nghĩa, làm cho những người Mỹ có mặt trong buổi tiếp tân hài lòng.
Sáng hôm 23-1-1982, cựu hoàng Bảo Đại được mời đến dự lễ khai mạc hội chợ tại Westminster, được bà thị trưởng mặc áo dài Việt Nam đón tiếp hết sức thân mật. Đến lúc đó Monique Baudot cho Bảo Đại biết bà đã gặp một cựu nhân viên OSS (tiền thân của CIA) về hưu tại Minaco. Ông này tiết lộ có một số dân biểu Mỹ ủng hộ Bảo Đại, nhân dịp qua Mỹ, Bảo Đại nên đến Hạ viện Mỹ điều trần đòi Chính phủ Mỹ bồi thường 5 triệu Mỹ kim tài sản của Bảo Đại bị mất, vì Mỹ ủng hộ Ngô Đình Diệm truất phế Bảo Đại hồi năm 1955. Người bày cho Monique là ông Hilaire du Berrier. Vốn bản tính nhu nhược, cho nên khi nghe bà Monique nói vậy Bảo Đại cũng hứa sẽ làm. Nhưng không ngờ... có một vài chuyện trục trặc diễn ra.
Một hôm, cựu hoàng vào thăm cửa hàng Thanh Lan của người Việt Nam. Vợ chồng chủ cửa hàng xuất thân trong một gia đình lớn ở Huế có cảm tình với cựu hoàng, rất hân hạnh được đón cựu hoàng đến thăm. Cửa hàng tặng cho cựu hoàng một món quà sáng giá và không để ý gì đến Monique Baudot theo sau Bảo Đại. Vừa ra khỏi cửa hàng, người ta nghe Monique Baudot nói với Bảo Đại: “Dân Việt của ông không ra gì''. Những người trong ban tổ chức đón tiếp cựu hoàng nghe thế không ai hiểu vì sao lại có sự thể như thế. Tiếp đến cựu hoàng dự một buổi tiệc do ông bà Robert Kane khoản đãi tại nhà riêng Tiburon vùng San Francisco. Trong số thực khách có cả ông bà Brochand, Tổng Lãnh sự Pháp, và một số người Mỹ biết nói tiếng Pháp. Bà Kane chủ tọa một bàn tiếp Bảo Đại và một số thực khách, bàn thứ hai do ông Kane chủ tọa tiếp Monique và một số thực khách khác. Không ngờ, khi mới ngồi vào bàn Monique tỏ ra bực bội, vặn vẹo hỏi mọi người tại sao không sắp xếp cho bà ngồi gần Bảo Đại. ''Dù sao tôi cũng là vợ của ông Bảo Đại kia mà!''. Một người có trách nhiệm đưa cựu hoàng đi thăm viếng các nơi trả lời: ''Đây là cái phòng tiệc chứ không phải phòng ngủ. Chủ nhà người ta sắp xếp như vậy là phải”.
Monique tức giận, bất ngờ nắm cái chéo khăn trải bàn ăn kéo một cái xoạt, thức ăn dọn trên bàn ngả nghiêng, đổ tung tóe ra bàn. Cả phòng tiệc vô cùng ngạc nhiên. Riêng cựu hoàng thì ngồi thản nhiên xem như không có chuyện gì xảy ra. May mắn ông Kane kịp thời hiểu được vấn đề. Ông xin lỗi mọi người và nhận lỗi vô ý đã trải cái khăn bàn không đúng cách nên mới có chuyện không hay này. Buổi tiệc mất vui nhưng cuối cùng cũng diễn ra đúng bài bản cho đến lúc kết thúc.
Hôm sau, ban tổ chức đón tiếp chất vấn Bảo Đại:
- Hôm qua bà Monique nói bà ấy là vợ của Ngài. Vậy có đúng không?
Cựu hoàng thản nhiên đáp:
- Đúng. Trước khi qua Mỹ một ngày, bà ấy và tôi đã có giấy kết hôn!
- Vậy, tại sao Ngài không nói cho chúng tôi biết trước để chúng tôi sắp đặt nghi lễ, nếu bà ấy là vợ Ngài thì chúng tôi đã sắp đặt đúng phép sẽ không xảy ra những chuyện vừa qua.
Cựu hoàng Bảo Đại trả lời tỉnh bơ:
- Phần nghi lễ, tùy theo trường hợp, lúc là thơ ký, lúc là vợ.
Đến lúc đó người ta mới hiểu đối với cựu hoàng Bảo Đại, lúc ở nhà Monique Baudot là vợ, khi đi ra ngoài, trong các cuộc tiếp tân, bà ấy chỉ là một cô thư ký. Đó là cách đối xử tồn tại hàng chục năm qua của Bảo Đại dành cho Monique Baudot. Nhưng từ sau khi bà ấy nắm được cái giấy kết hôn trong tay rồi thì bà không cho phép Bảo Đại đối xử với bà như thế nữa. Chính vì thái độ ỡm ờ, không dứt khoát của Bảo Đại về chuyện bà vợ mà chuyến sang Mỹ của Bảo Đại đã phải chấm dứt sớm. Chương trình đi Florida và Washington D.C. bị hủy bỏ. Do đó, chuyện Bảo Đại đến Hạ viện Hoa Kỳ xin bồi thường 5 triệu Mỹ kim cũng không diễn ra.
Nguồn: Lieucorp <lieucorp@peoplepc.com> Cựu hoàng Bảo Đại và người vợ cuối cùng

Thứ Ba, 18 tháng 12, 2012

Vì sao mãi day dứt?

Đó là câu hỏi có thể xuất hiện trong đầu mỗi người khi đọc bài viết mới đây của blogger Nguyễn Thông (nguyên văn dưới đây). Đúng như tác giả nhận xét "Chỉ có gỗ đá mới không biết trăn trở". Nhưng trớ trêu thay, ngày nay hầu hết người Việt Nam bằng da bằng thịt có ăn học và đang hoặc đã có chức quyền lại không hề  trăn trở hoặc cố tỏ ra không trăn trở theo kiểu "mũ nỉ che tai"... Đó là một nghịch lý thật to của đất nước này-(Bách Việt)

 

Sao không thể tái sinh Hội nghị Diên Hồng?

Người xưa nói "Tổ quốc hưng vong, thất phu hữu trách", vậy nên làm người lúc này chỉ có là gỗ đá mới không biết trăn trở, lo lắng. Với cương vị một công dân bình thường có nghĩa vụ đối với đất nước, tôi cũng muốn đem cái trí lực hèn mọn của mình góp vào việc chung.

Người xưa cũng nói "Ôn cố tri tân" nhắc cái cũ để biết cái mới, trước hết tôi xin nhắc lại một chuyện cũ:

Chuyện rằng, năm 1282 vua nhà Nguyên sai Sài Thung đưa Trần Di Ái (được phong làm An Nam quốc vương) về nước bị quân dân Đại Việt ta đánh cho tan tác, Sài Thung trúng tên mù mắt chạy về không còn mảnh giáp. Vua Nguyên giận lắm, năm 1284 cử Thoát Hoan đốc binh rầm rộ kéo sang, khí thế ngất trời, mạnh như chẻ tre. Nhiều đại thần xin hàng, chầu cống; riêng chỉ hai vị Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư quyết cầm quân chặn giặc. Nhưng giặc mạnh quá, vua Trần Nhân Tông lo quân ta không địch nổi, cứ phân vân. Tuy nhiên vốn là vị hoàng đế sáng suốt, ngài và Thượng hoàng Trần Thánh Tông quyết định triệu họp các phụ lão trong cả nước để trưng cầu dân ý, bàn việc nước, xin ý kiến về chủ trương hòa hay chiến, để dân quyết việc hệ trọng nước nhà. Hội nghị được tổ chức tại điện Diên Hồng nên sau này sử sách gọi là Hội nghị Diên Hồng, được đánh giá như là hội nghị dân chủ đầu tiên trong lịch sử nước ta, và cho đến nay chưa
có thêm sự kiện nào như vậy. Thời ấy các phụ lão có thể coi là những đại biểu của dân. Sau hội nghị, chính các phụ lão là những người truyền đạt lại chủ trương của chính quyền đến người dân. Đại Việt sử ký toàn thư (bản kỷ, quyển 5) của nhà sử học Ngô Sĩ Liên chép "Thượng hoàng triệu phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và hỏi kế đánh giặc. Các phụ lão đều nói "đánh", muôn người cùng hô một tiếng, như bật ra từ một cửa miệng". Ông cũng lý giải: "Giặc Hồ vào cướp nước là nạn lớn nhất của đất nước. Hai vua hiệp mưu, bầy tôi họp bàn há lại không có kế sách gì chống giặc mà phải đợi đến ban yến hỏi kế ở các phụ lão hay sao? Là vì Thánh Tông muốn làm thế để xét lòng thành ủng hộ của dân chúng, để dân chúng nghe theo lời dụ hỏi mà cảm kích hăng hái lên thôi. Đó là giữ được cái nghĩa người xưa nuôi người già để xin lời hay vậy".
Về chuyện này, nhà sử học Lệ thần Trần Trọng Kim cũng biên lại: "Nhân Tông thấy vậy lập tức cho triệu cả những bô lão trong dân gian, hội tại điện Diên Hồng để bàn xem nên hòa hay nên đánh. Các bô lão đều đồng thanh xin đánh. Vua thấy dân gian một lòng như vậy, cũng quyết ý kháng cự" (Việt Nam sử lược, quyển 1, phần nhà Trần).

Nhắc lại chuyện xưa tích cũ để cùng nhau tỏ rằng thời nào cũng cần có bậc minh quân. Làm người chèo chống quốc gia phải sáng suốt, bản lĩnh, tin dân, đừng nghe theo bọn gian thần, nịnh thần, hèn thần. Trong triều đình nhà Trần khi đó thiếu chi kẻ ngồi chót vót, quyền cao chức trọng, thân thích ruột thịt của vua, như thái úy Trần Nhật Hiệu, Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc, Trần Di Ái (chú ruột vua)... chỉ một mực đầu hàng, chấp nhận khom lưng uốn gối. Nhưng đức Thánh Tông, Nhân Tông đã lấy dân-nước làm trọng. Và điều hết sức đáng khâm phục là các vị ấy cực kỳ tin tưởng vào dân. Trí tuệ nhân dân lúc bấy giờ được thể hiện ở các bô lão. Đại thần xin hàng, nhà vua phân vân. Bô lão quyết đánh, nhà vua theo ngay. Rõ ràng không phải lúc nào quan chức cũng là người đại diện cho đất nước. Ấp a ấp úng trước dã tâm kẻ thù, làm sao những kẻ đó quyết chiến như dân được.

Ngày xưa là bô lão, còn nay là những bậc nhân sĩ, trí thức. Họ là hiền tài, "nguyên khí quốc gia". Họ đại diện cho nhân dân. Không coi trọng họ tức là xem nhẹ ý chí, tinh thần, sự sáng suốt của nhân dân. Giữ nước mà không cùng đi với dân thì có bao giờ thành đạt. Giờ đây giặc Tàu đang lăm le bờ cõi, giở mọi quỷ kế hòng cướp thêm biển đảo của ta, từ ông chủ tịch nước đến kẻ thứ dân đều biết rõ. Vậy mà chẳng hiểu sao giữa nhà cầm quyền với dân chưa đồng ý đồng lòng, chưa chung tiếng nói, chưa chung hành động. Tại sao không giải tỏa bất đồng, tổ chức một cuộc gặp giữa những người lãnh đạo cao nhất với những nhân sĩ trí thức đã cùng đi dân trong các cuộc biểu tình chống Trung cộng hoặc một số sự kiện nổi cộm vừa qua. Hãy phát huy tinh thần thân dân, trọng nhân sĩ trí thức của cụ Hồ, nhất là thời kỳ sau cách mạng tháng tám và kháng chiến chống Pháp. Hãy biết lắng nghe, trao đổi, tiếp thụ; hãy thực sự cầu thị, đừng vội vàng quy kết dân khi họ trái với mình.

Tôi nghĩ, có thể lẩn thẩn chăng, sao các vị tứ trụ triều đình hiện nay, hoặc ông tổng bí thư, ông chủ tịch nước- những người nghe đồn được coi là gần dân, trong khi chưa thể tổ chức được cuộc hội nghị Diên Hồng quy mô thời hiện đại, tại sao không tạo nên một Diên Hồng nho nhỏ, mà bô lão chính là những nhân vật đang có nhiều ý kiến, quan điểm, thái độ, hành động gần gũi với dân, trái tim chung nhịp với đại đa số nhân dân. Họ là ai? Tôi cho rằng những con người mang cái tên sau đây rất đáng có mặt trong cái Diên Hồng mini mà tôi mong ước đó, rất nhiều người đã trải qua 2-3 mùa kháng chiến, vào sinh ra tử, từng giữ trọng trách trong bộ máy cầm quyền, từng là niềm tự hào của bao thế hệ, từng đóng góp nhiều sức lực, trí tuệ, tình cảm... vào công cuộc đấu tranh, lao động của dân tộc: Nguyễn Trọng Vĩnh, Nguyễn Quốc Thước, Đồng Sỹ Nguyên, Trần Quốc Thuận, Trương Trọng Nghĩa, Nguyễn Đình Đầu, Hạ Đình Nguyên, Cao Lập, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Công Giàu, Lê Hiếu Đằng, Tương Lai, Lưu Trọng Văn, Nhật Tuấn, Chu Hảo, Nguyễn Quang A, Phạm Xuân Nguyên, Huỳnh Ngọc Chênh, Đỗ Trung Quân, Nguyễn Thế Thanh, Lê Phú Khải , Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Huệ Chi, Dương Trung Quốc, Bùi Minh Quốc, Phạm Toàn, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Nhị, Tống Văn Công, Kha Lương Ngãi, Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Quang Lập, Tô Văn Trường, Phạm Đình Trọng, Bùi Văn Bồng, Ngô Đức Thọ, Nguyễn Trọng Huấn, Nguyễn Trung, Đào Tiến Thi, Trần Mạnh Hảo, Võ Thị Hảo, Thái Kế Toại, Nguyễn Duy, Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Minh Hiền, Thùy Linh, Đỗ Minh Tuấn, Thanh Thảo, Cù Huy Hà Vũ, Lê Hiền Đức... Nhiều lắm, nhiều lắm.

Một cuộc gặp Diên Hồng như thế sẽ đi vào lịch sử. Giải tỏa những vướng mắc, cản trở. Không có lý gì mà ai cũng nói cũng tự nhận mình yêu nước yêu dân mà rốt cục lại trái nhau, đối lập nhau, thậm chí thù hằn bắt bớ triệt hạ nhau. "Nhiễu điều phủ lấy giá gương", "gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau". Khi đã thống nhất được ý chí và hành động, cả nước một lòng, không kẻ thù nào có thể lấn át được chúng ta.

17.12.2012
Nguyễn Thông


Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012

Khi học giả Trung Quốc nói thật(*)

(*) Mình có một blog từ thời sơ khai nhưng số phận hẩm hiu đã phải mấy lần "chuyển nhà" từ YahooPlus rồi Yahoo Vietnam... Giờ  YahooVietnam sắp sập, đành chọn lọc một số bài vỡ đưa về lưu trong Bách Việt. Riêng bài viết này xuất bản cuối năm 2010 nhưng vẫn còn nguyên giá trị thời sự đến ngày hôm nay khi âm mưu  độc chiếm Biển Đông của Bắc Kinh đang trong giai đoạn nước rút, xin mạn phép đăng lại để bạn đọc tham khảo. (Bách Việt)

Bản đồ minh họa các "chư hầu" thời  Vương Tiều 
Trước tình hình tranh chấp Biển Đông ngày càng căng thẳng, tiếp theo cuộc Hội thảo quốc tế về Biển Đông lần thứ nhất (năm 2009), cuộc Hội thảo lần thứ hai có tên “Biển Đông: Hợp tác vì An ninh và Phát triển Khu vực” do Học viện Ngoại Giao và Hội luật gia Viêt Nam đứng ra tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 10 đến 12/11/2010. Hội thảo lần này được dư luận trong và ngoài nước rất quan tâm không phải  vì nó diễn ra ngay sau Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 27 mà vì tình hình Biển Đông đang nóng lên trước hành đồng xâm lấn biển đảo trắng trợn của phía Trung Quốc. 

Bài viết ngắn này không nhằm trình bày về cuộc hội thảo mà chỉ nêu lên một hiện tượng cho thấy người Trung Quốc đang đi theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan rất nguy hiểm. Không ai khác mà chính bộ máy cầm quyền nước này đã và đang cố tình "hâm nóng" tinh thần dân tộc cực đoan Đại Hán đã có từ thời các Hán đế, trong đó Hán tộc được coi là "con trời" trong khi tất cả các dân tộc khác chỉ là man di mọi rợ, các nước láng giềng chỉ là "phiên thuộc" của Vương Triều . Cách tư duy này thực sự  nguy hiểm  không kém gì tư tưởng "đại Đức" của phát xít Hit-le thời kỳ trước Thế chiến II , và nếu không bị ngăn chặn rất có thể sẽ đưa thế giới vào một cuộc chiến tranh mới.  
 
Ngay trong ngày đầu của Hội thảo, dư luận đã ngỡ ngàng trước những cách lập luận thiên lệch không giống ai của các đại biểu Trung Quốc. Một vị tiến sĩ tên là Vương Hàn Lĩnh (của Viên Luật pháp Quốc tế thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc) đã trâng tráo tuyên bố : “Nên nhớ rằng cho đến năm 1885, Việt Nam vẫn là thuộc quốc của Trung Quốc”. Cũng chính là  vị tiến sĩ này trước đó đã giảng giải một cách đầy tự tin rằng  “Anh có thể tự lựa chọn cách giải quyết tranh chấp mà anh cho là tốt nhất, có thể phân định được lãnh hải bằng cách này hay cách khác, nhưng chắc chắn là anh không thể tự lựa chọn được hàng xóm. Hai nước Trung Quốc và Việt Nam mãi mãi là hàng xóm, qua biết bao thế hệ và còn tiếp tục với rất nhiều thế hệ nữa”....và không quên đe dọa : “Nếu không chọn cách giải quyết như tôi vừa nêu, các anh sẽ phải hứng chịu các xung đột bằng vũ lực, hoặc thậm chí chiến tranh. Điều này không hề tốt cho tương lai”. (xem thêm tại www.tuanvietnamnet ngày 11/11/2010).
           
Thì ra, lâu nay thế giới dường như đã quên cơn ác mộng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan Đại Hán. Nhân dân Việt Nam cũng đã phần nào bỏ qua nỗi uất hận trong quá khứ , kể cả cuộc chiến tranh biên giới 1979 với tâm trạng bán tín bán nghi về sự "cải tà quy chính" của ông bạn láng giềng đang chuyển hóa từ chế độ phong kiến lạc hậu sang thế giới đại đồng (!) trong khi cả thế giới quen nghĩ về Trung Quốc như một nước đông dân kém phát triển như con "hổ giấy" vậy!. Ít ai tin rằng cái quốc gia đông dân và nghèo đói này không lúc nào quên ấp ủ giấc mộng bá chủ đã có từ hàng ngàn năm trước. Giấc mộng đó mạnh đến nỗi nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình trước khi chết đã phải căn dặn con cháu phải biết "ẩn minh chờ thời", tức là  đừng quá nóng vội mà bộc lộ dã tâm quá sớm sẽ làm hỏng mưu đồ bá vương!  

Tò mò trước những lập luận  cuồng tín của các nhà nghiên cứu Trung Quốc, tôi  thử tìm trên mạng thì thấy  tin nói về kết quả của một cuộc khảo sát  vừa mới được hãng thông tấn  Mỹ- Global Times thực hiện, trong đó lấy ý kiến của hơn 1.300 người dân tại 6 tỉnh thành lớn của Trung Quốc là Bắc Kinh, Quảng Châu, Thành Đô, Trường Sa, Tây An và Thẩm Dương về giải pháp cho vấn đề tranh chấp chủ quyền Biển Đông. Kết quả khảo sát cho thấy, trong hơn 90% người tham gia trả lời, trong đó 39,8% cho rằng phải chiến đấu để khẳng định chủ quyền; 35,3% cho rằng nên đặt vấn đề tranh chấp chủ quyền qua một bên và cùng nhau phát triển trong khi vẫn tiếp tục lên tiếng khẳng định chủ quyền; chỉ có 18,3% đồng ý xác định lại biên giới lãnh hải cùng với các quốc gia hữu quan. Cuộc thăm dò cũng cho thấy đa số người dân Trung Quốc xếp Việt Nam là nước kẻ thù số 3 cần đề phòng sau Mỹ và Nhật Bản!

Khi được hỏi lý do tại sao, một số người  cho rằng có thể việc giáo dục lịch sử cũng như tình trạng kiểm soát thông tin tại Trung Quốc đã dẫn đến nhận xét trên…Vì theo họ, không ít người dân Trung Quốc khi còn ngồi trên ghế nhà trường, họ đã được giáo dục rằng chủ quyền của hai quần đảo Nam Sa và Tây Sa (Trường Sa và Hoàng Sa) là thuộc về Trung Quốc, nhưng bị Việt Nam và các nước khác chiếm đoạt (!?).

Bình luận về kết quả khảo sát nói trên, Tiến sĩ  June Teufel Dreyer, Giảng viên Khoa học Chính Trị của trường đại học Miami  cho rằng "Sách của Trung Quốc đã phá hỏng lịch sử một cách nặng nề bởi vì Việt Nam đang nắm giữ Hoàng Sa vào thời điểm mà Trung Quốc dùng bạo lực để chiếm lấy nó vào khoảng những năm 1974 – 1975. Vì vậy, tôi không hiểu vì sao mà người ta có thể nói rằng các quần đảo trên là của Trung Quốc. Tuy nhiên, nhiều người đã đọc sách giáo khoa của Trung Quốc thì nói rằng có nhiều điều không hẳn là đúng sự thật".      


Tiến sĩ Dreyer cũng nhận xét: “Mặc dù mọi cuộc khảo sát đều mang tính tương đối, nhưng trước con số khá cao mang tính thể hiện sự đồng lòng của người dân Trung Quốc đối với các quyết định của chính quyền khiến người ta không khỏi đặt câu hỏi về sự thành công của chính sách giáo dục và sự kiểm soát thông tin hữu hiệu của Bắc Kinh trong mục tiêu phục vụ cho chính trị. Vấn đề ở chỗ, hy sinh dân trí để đạt được mục tiêu chính trị lại không phải là lựa chọn của một xã hội dân chủ và văn minh”.
          
Thì ra Tiến sĩ Vương Hàn Lĩnh và các học giả Trung Quốc đã nói rất thật về tình trạng chủ nghĩa dân tộc cực đoan trong xã hội Trung Quốc đương đại. May thay sự nói thật của họ dù sao cũng giúp cảnh báo thế giới về nguy cơ của  chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán đang đến gần. 
 

Thứ Năm, 6 tháng 12, 2012

Đất nước tôi (*)

 (*) Đây là tên bài "thơ tức cảnh"trên blog Trương Duy Nhat. Đọc thấy hay hay, cay cay... cóp lại xem chơi ... Không quên nhắc lại  "không nhất thiết phản ánh quan điểm của chủ blog Bách Việt !"
Không hiểu sao nghe Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói chuyện nhóm lò, lại hứng chí mần... thơ!


 
 
Đất nước tôi
Hà Tĩnh, Cần Thơ, Tiên Lãng, Văn Giang, Vụ Bản...
Người nổ súng, kẻ uống thuốc sâu, nơi biểu tình
Phụ nữ khỏa thân, cả làng để tang đòi đất
***
Đất nước tôi chưa bao giờ đau đến thế
Trấn áp nhân dân, quị lụy kẻ thù
Đảng ung thư(1)
Dân tình mất đất
***
Đất nước tôi
Như một con tàu lao dốc tuột phanh(2)
Hết Vinashin, Vinalines đến Vina đồng chí X
Hàng trăm nghìn tỷ vẫn không sai, chỉ một lời xin lỗi
***
Đất nước tôi
Đi đâu cũng nghe Đinh La Thăng, Vương Đình Huệ, Nguyễn Văn Bình, đồng chí X
Đâu cũng dựng tượng Bác Hồ
Đâu cũng muôn năm nhiệt liệt
Đảng cao cả, đảng là đạo đức văn minh
***
Đất nước tôi
Phó Thủ tướng cũng nên thầy ưu tú
Thống đốc tồi cũng thành chiến sĩ thi đua
Và một đứa ca sĩ chân dài cũng được tôn vinh là nhân vật tiên phong
***
Đất nước tôi
Cái mảnh đất mang hình dấu hỏi(3)
Từ Đinh Lý Trần Lê, Bà Triệu, Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung...
Đến đồng chí X
Có bao giờ như thể hôm nay
Cả đất nước như như một chiếu hề
Đến Thủ tướng cũng bị gọi là “đồng chí X”
Chủ tịch nước mở miệng là “một bầy sâu”
Tổng Bí thư tự biến mình thành ông già nhóm bếp
Và đảng viên là một bầy sâu
***
Đất nước tôi
Bốn nghìn năm đến nay còn nhóm lửa
Nhân văn trên sự bất lực đê hèn
Đất nước tôi ơi, Việt Nam đâu phải thế
Nhưng vì sao, ơi hỡi vì sao?
_______________
- (1): ý của cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu
- (2): ý của Đại biểu quốc hội Dương Trung Quốc
- (3): ý của nhà báo Bùi Thanh (chẳng lẽ đất nước mang hình dấu hỏi/ để chúng mình cứ phải hỏi tại sao?)


*****

Thứ Ba, 30 tháng 10, 2012

Một cách nhìn về Cựu hoàng Nordom Sihanouk

Nhân dịp Quốc vương Sihanouk qua đời có rất nhiều bài viết về thân thế sự nghiệp của con người nỗi tiếng về tính cách hay thay đổi này. Trong số đó, cómột  bài viết khá công phu  của một nữ tác giả tên là Nguyễn Thu Trâm với cách  nhìn nhận và đánh giá khách quan với những chứng cứ lịch sử khác nhau mà chủ blog tôi chưa kiểm được nhưng muốn đăng lại như một tài liệu tham khảo, không nhất thiết phản ánh quan điểm của bản thân (Bách Việt).

NORODOM SIHANOUK qua đời: HỔ TỬ LƯU BÌ, NHÂN TỬ LƯU DANH 

 Người ta còn nói :”Hổ tử lưu bì, nhân tử lưu danh” : cọp chết để da, người ta chết để tiếng. Có người để lại danh thơm tiếng tốt để lưu danh muôn thưở. Có người để lại tiếng xấu để cho muôn người nguyền rủa.  Vì thế, bất cứ ai cũng phải sống “xứng phận” để lưu lại tiếng tốt cho các thế hệ mai sau..ImageThủ Đô Phnom Penh trong ngày tang lễ Norodom Sihanouk Hôm nay, ngày 15 tháng 10 năm 2012, truyền thông thế giới đồng loạt đưa tin Norodom Sihanouk cựu hoàng Campuchia sống lưu vong tại Bắc Kinh, Trung Quốc vừa qua đời ở tuổi 90 sau nhiều năm chống chọi với nhiều tật bệnh. Hơn 700 tờ báo lề đảng của cộng sản Việt Nam cũng cùng đưa tin, với nhiều lời tán dương “công đức” của vị cựu hoàng này, mặc dù đối với chính thần dân Campuchia, thì Sihanouk chỉ là một “hoàng đế của các hoàng đế ăn chơi trác táng” và là “một ông vua thích được nô lệ cộng sản”, cho nên việc các báo chí lề đảng ca ngợi Sihanouk cũng là một topos lẽ thường. Norodom Sihanouk sinh ngày 31 tháng 10, 1922 là cựu quốc vương, và hiện nay là Thái thượng hoàng của Vương quốc Campuchia.Image Ông từng là vua của Campuchia trong nhiều giai đoạn cho đến ngày thoái vị để nhường ngôi cho con trai của ông là quốc vương Norodom Sihamoni vào ngày 7 tháng 10 năm 2004. Sihanouk là con trai của cựu quốc vương Norodom Suramarit và hoàng hậu Sisowath Kossamak. Ông đã đảm nhiệm nhiều chức vụ khác nhau kể từ 1941, nhiều vị trí đến nỗi Sách kỷ lục Guiness đã đưa ông vào danh sách các chính khách giữ nhiều chức vụ nhất: Bao gồm 2 lần làm vua, 2 lần thái tử, 1 lần chủ tịch nước, 2 lần thủ tướng và một lần quốc trưởng Campuchia và nhiều chức vụ khác nữa của chính phủ lưu vong. Phần lớn là chức vụ bù nhìn, kể cả lần cuối làm vua - trị vì nhưng không cai trị. Thời gian trị vì thực sự của ông hoàng này là từ 9 tháng 11 năm 1953 đến khi bị Lon Nol phế truất ngôi vào 18 tháng 3 năm 1970, khi ông đang ở Moscow trong chuyến công du Liên Bang Sô Viết.ImagePhạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đón Sihanouk tại Hà Nội năm 1970 Thời niên thiếu, Sihanouk học tiểu học tại Phnom Penh, trường Pháp École François Baudoin, rồi sau khi học xong tiểu học, Sihanouk sang học trung học tại tại trường Lycée Chasseloup Laubat tại Sài gòn cho đến khi lên ngôi, sau đó học tại trường binh bị Saumur, Pháp. Khi ông ngoại của Sihanouk là vua Sisowath Monivong băng hà vào ngày 23 tháng 4 năm 1941, Hội đồng Tôn vương đưa Sihanouk lên ngôi vua. Ông đăng quang tháng 11 năm 1941.Image Sau 1945 đến cuối thập kỷ 1950, vua Sihanouk có xu hướng dân tộc chủ nghĩa và bắt đầu yêu cầu Pháp trao trả chủ quyền và về nước. Tháng 5 năm 1953, ông sang tị nạn tại Thái Lan và từ chối hồi hương cho đến khi có độc lập. Ông về nước ngày 9 tháng 11 năm 1953. Ngày 2 tháng 3 năm 1955, ông thoái vị nhường ngôi cho cha mình, và giữ chức thủ tướng vài tháng. Sau khi vua cha mất năm 1960, ông lại được bầu làm chủ tịch nhà nước nhưng với danh vị hoàng thân. Khi Chiến tranh Việt Nam xảy ra ác liệt, Sihanouk chủ trương Campuchia trung lập, đứng ngoài cuộc chiến, cùng đồng thời đứng về phía Trung Quốc và Hoa Kỳ và tán thành chính sách Bên thứ 3. Vào mùa xuân 1965, ông đã thỏa thuận với Trung Quốc và Bắc Việt Nam cho phép sự hiện diện của các căn cứ của cộng sản Bắc Việt ở phía Đông của Campuchia và cho phép Trung Quốc được viện trợ lương thực, thuốc men và vũ khí đạn dược cho Cộng Sản Bắc Việt Nam thông qua các cảng Campuchia, bù lại bằng cách Trung Quốc sẽ mua gạo của Campuchia với giá cao. ImageSihanouk và vợ trên đường Trường Sơn, trở về vùng "giải phóng" Góp phần tuyên truyền cho cộng sản, Norodom Sihanouk cũng nhiều lần lên tiếng rằng phe cộng sản ở Đông Nam Á sẽ chiến thắng trong cuộc chiến ý thức hệ Quốc Gia và Cộng Sản là không thể tránh khỏi và chính Sihanouk cũng cho rằng chủ nghĩa Mao đáng để mọi người tôn vinh và thực hành. Trong giai đoạn 1966-1967, Sihanouk đã ra sức đàn áp chính trị loại bỏ nhiều phe phái chính trị chính ở Campuchia. Tuy vậy, chính sách hữu hảo với Trung Quốc của ông và ý đồ muốn biến Campuchia thành một nước theo chế độ cộng sản của ông đã bị phá sản do thái độ cực đoan của Trung Quốc vào thời kỳ cao trào của Đại Cách mạng văn hóa. Dù vậy, với sự yểm trợ của chính quyền Bắc Kinh, ông đã loại bỏ được các phe phái cánh tả. Sau khi bị Lon Nol lật đổ vào ngày 18 tháng 3, 1970, Hoàng thân Sihanouk đến Bắc Kinh và bắt đầu chính thức ủng hộ Khmer Đỏ và thành lập chính phủ Khmer kháng chiến, chống chính phủ cộng hòa Khmer của Lon Nol ở Phnom Penh. Vào lúc nước Cộng hòa Khmer rơi vào tay Khmer Đỏ vào năm 1975, Hoàng thân Sihanouk trở thành nguyên thủ quốc gia bù nhìn của chính phủ mới khi Pol Pot còn nắm quyền lực. Ngày 4 tháng 4 năm 1976, Sihanouk đã phải từ chức vì thấy được sự tàn bạo của Khmer đỏ trong chính sách diệt chủng của Pol Pot và Iêng Sary. Từ đó Sihanouk sang tị nạn tại Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Không có tiền chuyển lậu ra ngoại quốc, không giống như những nhà cai trị bị lật đổ khác, Sihanouk không có cách nào khác là đành phải nhờ vào sự giúp đỡ của hai nước Trung Hoa và Bắc Triều Tiên bạn hữu. Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai nói với ông rằng ông muốn ở lại Bắc Kinh bao lâu cũng được. Chủ tịch Bắc Triều Tiên Kim Nhật Thành ra lệnh xây một lâu đài vĩ đại nhìn xuống hồ Chhang Sou On ở Bình Nhưỡng cho ông cư ngụ.ImageTôn Đức Thắng đón Sihanouk tại Hà Nội Tháng 9 năm 1975, Sihanouk đang ở Bình Nhưỡng thì phó Thủ tướng chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia Kampuchia, là chính phủ lưu vong do Sihanouk thành lập có sự hợp tác của Khmer Đỏ, viết tắt theo thiếng Pháp là GRUNK -Royal Government National Union of Kampuchia - Khiêu Samphan và bộ trưởng thông tin Ieng Thirith -vợ của Ieng Sary- đến mời. Sihanouk nhớ lại Khiêu Samphan nói với ông: “Nay chúng tôi hết sức sẵn sàng đón chào Ngài. Bây giờ chúng tôi tạo đủ điều kiện trăm phần trăm Cộng Sản. Chúng tôi đã vượt qua Trung Hoa anh em. Với một bước nhảy vọt vĩ đại, chúng tôi có thể đạt tới mục đích của chủ nghĩa Cộng Sản mà không cần kinh qua giai đoạn xã hội chủ nghĩa”. Điều ấy làm ông hết sức bối rối nhưng ông vẫn hồi hộp về việc trở về nước. Họ cùng về Bắc Kinh bằng tàu lửa. Ở đây, một chiếc Boeing 707 của Trung Hoa đưa họ về Phnom Pênh. Trước khi rời Bắc Kinh, Sihanouk và Monique có Khiêu Samphan đi kèm, đến cáo biệt chủ tịch Mao và thủ tướng Chu. Run rẩy vì bịnh Parkinson, Mao, 82 tuổi, không nói được nhiều. Tuy nhiên, một trong những lời chỉ dẫn của ông sau đây là rõ ràng. Ông ta nói với Khiêu Samphan và Ieng Thirith “Xin vui lòng đừng đưa thái tử Sihanouk và vợ ông vào hợp tác xã.” Với Sihanouk, lời nói nầy chính là lời cứu mạng. Bị bịnh ung thư tới thời kỳ cuối, Chu Ân Lai chỉ còn là cái bóng của mình. Với giọng nói yếu ớt chỉ đủ nghe, ông năn nỉ Khiêu Samphan “Vui lòng tiến lên Cộng Sản chủ nghĩa chầm chậm, từng bước một. Bạn không thể tiến ngay lên Cộng Sản Chủ Nghĩa, phải từng bước một. Xin vui lòng đi từng bước nhỏ, chậm và chắc.” Xúc động hơn là lời khuyến cáo tiên liệu của ông: “Đừng đi theo con đường “Bước Nhảy Vọt vĩ đại” đã thất bại của chúng tôi.” Ông ta nhắc lại những chiến dịch ảo tưởng của Trung Hoa nhằm khẩn trương xây dựng Cộng Sản chủ nghĩa hồi cuối thập niên 1950 đã để lại một nền kinh tế như trong lò sát sinh. Samphan và Thirith cười một cách thông cảm. Nghe nhiều khoa trương việc đang xây dựng một chế độ Cộng Sản thuần túy cho Kampuchia, Sihanouk hiểu ngay những nụ cười ấy nói lên được gì.ImageSihanouk và Mao Trạch Đông tại Bắc King 1970 Ngày 9 tháng Chín lại một lần lễ lớn: Thiên An Môn được trang hoàng cờ, đèn, hoa, chúc mừng Sihanouk, điều mà Đặng Tiểu Bình nói về Sihanouk trước kia “Trở về trong vinh quang.” Khi chiếc máy bay Boeing của Trung Hoa nhắm hướng hạ cánh xuống phi trường Pochentong của Phnom Pênh, Sihanouk nhìn xuống những mái ngói đỏ và cột tháp vàng của thành phố nằm dài bên đưới. Đây là lần đầu tiên kể từ tháng giêng 1970 ông lại đưa mắt nhìn xuống thủ đô đã quay lưng lại với ông. Phnom Pênh trông lạ hẵn và không có sự sống dưới hơi nóng mặt trời giữa buổi sáng mai. So với mười ngàn người đứng chật đường phố Bắc Kinh để chào từ biệt ông hoàng, ở đây chỉ có một đám đông hỗn tạp ở phi đạo Pochentong. Một nhúm các ông sãi áo vàng nghệ cũng đứng trong đám đông cầu nguyện cho ông trước khi ông lên xe đi vào thành phố vắng tanh. Đó là sự nhượng bộ cuối cùng mà ông đã chứng kiến dưới chế độ Khmer Đỏ ở Kampuchia.Image Sihanouk muốn khóc khi nhìn thành phố ma quái mà một thời được coi là thành phố đẹp nhất của Đông Dương thuộc Pháp. Những đại lộ với hai hàng cây xanh, công quán, những biệt thự theo kiểu nhiệt đới Nam Mỹ, tháp vàng, lâu đài hoàng gia và chùa chiền vẫn còn đây, trong màu tang tóc. Khmer Đỏ giải thích với ông hoàng việc xua dân ra khỏi thành phố là cần thiết vì không có đủ lương thực nuôi dân và cũng vì vấn đề an ninh. Họ không nói với ông hoàng đó là bước đại nhảy vọt tiến lên Cộng Sản chủ nghĩa. Trong việc xua đuổi hàng loạt dân chúng hồi tháng Tư, có ông chú già của Sihanouk, ông hoàng Monireth và một trong những bà cô của ông cũng bị đuổi về vùng quê. Lời yêu cầu của ông được đi thăm những người ấy bị từ khước. Họ trả lời với ông “Họ được chăm sóc cẩn thận. Ngài sẽ được thăm họ khi Ngài từ Nữu Ước trở lại.” Tuy nhiên, không bao giờ ông gặp lại họ. Kế hoạch của Khmer Đỏ trong chuyến đi ba tuần lễ ở Phnom Pênh là tạo niềm tin đối với sự lãnh đạo của ông trước khi họ gởi ông đi Nữu Ước để đòi chiếc ghế cho Kampuchia tại Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc. Sihanouk và tùy tùng được đưa đi thuyền trên sông Mékông, tiệc tùng sang trọng, các buổi hội tối có tính cách mạng nhưng không bao giờ ông gặp những người dân đã biến mất khỏi Phnom Pênh.Image Sihanouk và vợ tại một trạm dừng chân trên đường Trường Sơn Chẳng bao lâu Sihanouk biết những gì Khmer đỏ nghĩ về những lời khuyến cáo của Chu Ân Lai là từng bước chầm chậm tiến lên Xã Hội chủ nghĩa. Son Sen, tư lệnh Quân đội, và Khiêu Samphan nói với ông Kampuchia sẽ chứng tỏ cho thế giới biết rằng chỉ trong một nhát chổi lớn, họ đã tiến lên Cọng Sản chủ nghĩa hoàn toàn. “Vì vậy tên tuổi đất nước chúng ta sẽ được viết bằng chữ vàng trong lịch sử thế giới như là một quốc gia đầu tiên thành công trong việc cộng sản hóa mà không có bước chân nào là vô ích.” Sau khi trở về Bắc Kinh hồi đầu tháng Mười, ông ta để cho những người trong gia đình và những người theo ông tùy ý lựa chọn. Ông ta, vì là người yêu nước và người đứng đầu quốc gia, sẽ về lại Kampuchia sau khi đại diện cho nước ông ở Liên Hợp Quốc, còn họ muốn ở đâu thì tùy. Một số phụ tá của ông vì xúc động trước cảnh Phnom Pênh nên không dám trở về. Họ đi Pháp.ImagePhạm Văn Đồng và Tôn Đức Thắng tiếp đón Sihanouk tại Hà Nội Trên đường đi, Sihanouk ghé qua Pháp. Một số đông người Kampuchia đến chào mừng ông tại phi trường Charles De Gaulle. Sau đó, một số trong bọn họ tới tư dinh của đại sứ Kampuchia ở Paris để nghe ông hoàng lần đầu tiên nói chuyện về sự sinh sống của người dân dưới chế độ Khmer Đỏ. Họ ngạc nhiên vì ông hoàng vốn thường sôi nổi thì bây giờ lại thận trọng. Một người hỏi ông về những binh lính của Lon Nol bây giờ ra sao! Ông ta trả lời là Angkar – tức tổ chức Cộng Sản đầy quyền lực - cho mỗi người một chiếc chiếu, một cái mùng và đưa họ đi trồng lúa. Ông ta nói thêm họ có được những gì họ cần. Ngồi sát cạnh ông, Ieng Sary chỉ cười và những lãnh tụ Khmer Đỏ khác gật đầu tán thưởng. Không có một người bạn cũ nào của Sihanouk có thể vượt qua được mạng lưới an ninh để gặp riêng ông. Sihanouk có thể thấy trước điều gì đang đến. Nhưng vì lòng tự cao, những tình cảm bắt buộc, có thể kêu gọi ông bỏ đi rất nhiều. Tháng 12 năm 1975, ông cùng vợ, bà Monique, mẹ vợ, 22 đứa con và cháu, lên đường trở về Kampuchia. Năm 1991, các đảng phái ở Campuchia đã đàm phán các bên ký thỏa thuận hòa giải toàn diện ở Paris. Ngày 14 tháng 11 năm 1991, Hoàng thân Norodom Sihanouk trở về Campuchia sau 13 năm lưu vong. Năm 1993, Sihanouk lại trở thành quốc vương Campuchia và con trai ông, thái tử Norodom Ranariddh làm thủ tướng. Theo Hiến pháp của Campuchia, quốc vương chỉ "trị vì nhưng không cai trị". Do bệnh tật, ông phải đi lại thường xuyên đến Bắc Kinh để chữa trị và an dưỡng. ImageXe Tăng T54 của Nga Sô được nhập qua cảng Pampongthom cho VC Cũng như Hồ Chí Minh là người du nhập chủ nghĩa cộng sản về để mang thương đau cho cả dân tộc Việt Nam qua cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn trong suốt 20 năm, Norodom Sihanouk, mặc dù là Quốc Vương của một nước Quân chủ những ông lại có tư tưởng sùng bái cộng sản, ông ta rất cuồng tín chủ nghĩa Mao, đó là lý do mà ông ta đã hết lòng ủng hộ Khmer đỏ trong công cuộc “giải phóng dân tộc Campuchia”. Vì vậy, sự kiện chế độ Khmer đỏ đã thực hiện chính sách diệt chủng, tàn sát hơn 3 triệu Người dân Campuchia bao gồm tất cả nhân sỹ trí thức và các nhà tư bản, “để vượt qua Trung Hoa anh em. Với một bước nhảy vọt vĩ đại, có thể đạt tới mục đích của chủ nghĩa Cộng Sản mà không cần kinh qua giai đoạn xã hội chủ nghĩa” chắc chắn là có trách nhiệm của Norodom Sihanouk, một ông hoàng từng được người Khmer bản xứ gọi là Samdec, nghĩa là “cha già dân tộc” lại có góp phần một cách gián tiếp trong vụ diệt chủng hơn 3 triệu người dân! Sao mà giống “Cha già dân tộc” của cộng sản Việt Nam vậy?ImageSihanouk và vợ tại một vùng "giải phóng" Chắc chắn là ít người Việt Nam Quốc Gia hiểu được rằng ngay cả việc cộng sản Bắc Việt đã cưỡng chiếm thành công miền Nam Việt Nam vào năm 1975 và bức tử nền Cộng Hòa Đệ Nhị của miền Nam cũng bởi có sự góp phần không nhỏ của ông hoàng Sihanouk. Chính Sihanouk và những người theo Sihanouk thấy trước rằng “cuối cùng Hà Nội sẽ thắng và sẽ là một quốc gia hùng mạnh ở Đông Dương”, ông đổi hướng trung lập, dành cho Hà Nội một vùng đất thánh dọc theo biên giới Việt-Miên, và cho phép Trung cộng viện trợ vũ khí cho cộng sản bắc Việt thông qua những hải cảng ở Kampuchia đó là lý do mà cộng sản Bắc Việt đã xây dựng thành công một đường ống dẫn xăng dầu từ miền Bắc vào tận chiến khu D, đưa cả đại pháo, xe tăng của Nga sô Trung cộng vào tận chiến trường nam với hàng trăm ngàn tấn vũ khí, đạn dược để đánh chiếm Bình Long, An Lộc, làm bàn đạp đánh chiếm cả thủ đô Sài gòn, xóa bỏ tên của một chính thể, một quốc gia trên bản đồ thế giới. Dẫu mới thân cộng chứ chưa chính thức trở thành người cộng sản, nhưng Norodom Sihanouk không những đã mang đau thương tang tóc đến cho dân tộc của ông mà còn cho cả dân tộc Việt nam nữa. Dẫu là ông hoàng, bà chúa hay chủ tịch …. vĩ đại hay bất cứ ai cũng không thoát khỏi quy luật “sinh hữu hạn, tử vô kỳ” Ngày hôm nay 15 tháng 10 năm 2012, ông Hoàng Sihanouk cũng đã qua đời. Thân xác ông vốn từ bụi đất, sẽ trở về với đất, nhưng những gì ông đã làm, những đau thương tang tóc ông đã tạo ra đã mang đến cho dân tộc ông, bởi sự lầm lạc của ông khi sùng bái cộng sản, sẽ là một vết nhơ tồn tại ngàn đời trong bia miệng của thế gian. 
Nguyễn Thu Trâm, Ngày 15 tháng 10 năm 2012

--------------

Thứ Năm, 4 tháng 10, 2012

Cội nguồn dân tộc Việt Nam chuyển dần xuống phía Nam?

Bản đồ mô phỏng cội nguồn  Bách Việt  (lấy từ internet)
Những năm gần đây xuất hiện xu hướng bác bỏ truyền thuyết Hùng Vương, trong đó có cách lập luận cho rằng bộ tộc Việt Thường thị (thuộc vùng Nghệ An-Hà Tĩnh ngày nay) là trung tâm nguồn cội của người Việt. Cơ sở của lập luận này dựa vào chứng cứ ngôn ngữ và chữ viết của Việt thường thị đã được ghi trong sử sách Trung Hoa (!?). Trong số những tác phẩm nghiên cứu loại này có bài  "Đâu là quốc đô đầu tiên của người Việt" của tác giả   Phan Duy Kha với lời kết luận rất đáng tranh luận như sau: 

"Trước thời đại Hùng Vương hàng ngàn năm, ở vùng Khu IV cũ (bao gồm Thanh – Nghệ – Tĩnh – Bình – Trị - Thiên ngày nay) mà trung tâm là vùng núi Hồng sông Lam, đã từng tồn tại một bộ tộc Việt Thường của người Việt cổ, có trình độ văn minh cao, đã có chữ viết và làm được “quy lịch”. Trên cơ sở của nền văn minh đó, về sau này trên đất nước ta dần dần xuất hiện ba quốc gia: đó là quốc gia Văn Lang của các vua Hùng ở phía Bắc, quốc gia Lâm ấp (Chăm-pa) ở miền Trung và quốc gia Phù Nam ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Từ trước đến nay, nhắc đến nền văn minh Việt cổ, chúng ta chỉ chú trọng đến thời kỳ Hùng Vương mà bỏ quên nền văn minh Chăm pa, nền văn minh Phù Nam và trước đó hàng ngàn năm là nền văn minh Việt Thường thị. Phải chăng, chúng ta đã thiên lệch và phiến diện lắm sao?"

Phan Duy Kha cũng là tác giả của bài viết "Giấc mơ của Vua Lê Thánh Tông" (Có thể tham khảo bài viết tại đây  nhin-lai-lich-su-thu-ly-giai-giac-mo-cua-vua-le-thanh-tong ). Trong bài này tác giả có nhắc lại một câu hỏi mà người Việt luôn trăn trở: Tại sao các đời vua Hùng dài thế mà không có chữ viết?. Nhưng tác giả lại không tìm hiểu nguyên nhân tại sao, mà chỉ căn cứ vào lý do nó không được ghi chép trong sách sử của Trung Quốc, đồng thời đề cao chữ viết của bộ tộc Việt Thường thị (chỉ vì nó được nhắc đến trong sách sử của Trung Quốc!).  Từ đó tác giả suy ra Việt Thường thị đã có chữ viết sớm hơn nhiều so với sự ra đời các Vua Hùng... và đi tới kết luận: Chữ Khoa đẩu là của Việt Thường thị và là chữ viết của người Việt cổ; và do đó Việt Thường thị là trung tâm nguồn cội, chứ không phải nước Văn Lang của các vua Hùng (!?)


Triệu Đà Vua Nam Việt (207-111 TCN)
Được biết, từ sau cách mạng tháng Tám năm1945 đã hình thành và phát triển trường phái quan niệm rằng nước Văn Lang của các Vua Hùng chỉ nằm gọn trong vùng châu Thổ Sông Hồng. Trường phái này phớt lờ các địa danh như Hồ Động Đình, núi Thái Sơn, Sông Tương, cánh Đồng Tương v.v... trong truyền thuyết Âu Cơ -Lạc Long Quân, không chịu đào sâu nghiên cứu xem tại sao  Âu Việt, Lạc Việt cấu thành nước Văn Lang và Nam Việt của Triệu Đà (sau An Dương Vương) nằm bên trong lãnh thổ Trung Quốc ngày nay? (Tham khảo trieu-la-vua-viet-nam.html.) Và giờ đây các nhà nghiên cứu Việt Thường thị đang tiến thêm một bước nữa với lập luận rằng nguồn cội người Việt là từ Nghệ An xuống miền Trung Việt Nam đến tận vương quốc Phù Nam xưa!. Phải chăng họ đang lẫn lộn giữa nguồn cội với nhưng gì mà ông cha ta đã mở mang bờ cõi sau này?  Nếu cách lập luận này tiếp tục, chẳng mấy chốc người Việt sẽ "mất hút" dấu tích nguồn cội đích thực của mình từ  phương Bắc.
 
Đành rằng  nghiên cứu lịch sử nguồn cội Việt Nam là vô cùng khó, vì Việt Nam là một trong số ít quốc gia dân tộc đã có thể hồi sinh  sau 1000 năm bị độ hộ bởi một cường quốc láng giềng với nhiều thủ đoạn đồng hóa thâm độc khiến cho khái niệm biên giới vô cùng nhập nhằng. Nên nhớ rằng với nhiều dân tộc khác chỉ cần 1/2 thời gian đó có thể "biến mất" trong danh sách các quốc gia dân tộc. Hàng trăm bộ tộc hoặc vương quốc Bách Việt khác đã không còn dấu tích  trong bản đồ nước Trung Hoa vĩ đại ngày nay.  Do đó, sẽ là một sai lầm không thể cứu vãn nếu chỉ nghiên cứu nguồn cội của dân tộc Việt Nam từ nơi nó đang tồn tại và với hình dạng đất nước ngày nay. Nói cách khác, nếu chỉ căn cứ từ những gì được ghi chép trong sử sách Trung Quốc  hoặc những di chỉ khảo cổ tìm thấy bên trong lãnh thổ hiện tại của Việt Nam thì không đủ để tìm ra sự thật về nguồn cội dân tộc Việt Nam của thời tiền sử. Riêng về phương diện chữ viết, đáng lẽ câu hỏi nên đặt ra với các nhà sử học là: Tại sao một bộ tộc nhỏ như Việt Thường thị có chữ viết trong khi Lạc Việt và Âu Việt lại không có chữ viết? Phải chăng do Việt Thường thị bị Bắc thuộc muộn hơn và chưa kịp để bị xóa dấu tích ngôn ngữ (?)  Cả một vùng rộng lớn mà sách  sử TQ gọi là "Giao Chỉ" xưa kia chẳng  lẽ không có chữ viết của họ? Sự thật của quá trình áp đặt chữ Hán lên Giao Chỉ đã diễn ra như thế nào?  Phải chăng để nghiên cứu nguồn cội dân tộc nói chung và chữ viết của dân tộc Việt Nam nói riêng, ta không thể không lội ngược giòng về những vùng đất của Lạc Việt và Âu Việt bên Trung Quốc ngày nay? http://baodatviet.vn/Home/congdongviet/Tim-lai-nguon-goc-vung-dat-Bach-Viet/201210/236530.datviet. Nên nhớ rằng trước khi có quyển sử ký Tư Mã Thiên (quảng  năm 95 TCN) người Hán đã thôn tính  phần lớn lãnh thổ của người Bách Việt trong đó có Âu Việt và Lạc Việt. Truyền thuyết Hùng Vương của người Việt nói về thời kỳ tiền sử đó bắt đầu từ năm 2879 TCN. Đó là một thời kỳ quá dài để đòi hỏi sự chính xác, nhất là khi kẻ thống trị cố tình xóa đi mọi dấu vết!  Trên thế giới dân tộc nào cũng có truyền thuyết, càng lâu đời truyền thuyết càng trở nên mơ hồ và có vẽ vô lý. Nhưng trong bóng đêm đô hộ của ngoại bang thì truyền thuyết là thứ sử thi duy nhất mà kẻ bị trị có thể lưu truyền cho đời sau.  Do đó hãy đừng vội bác bỏ truyền thuyết trước khi tìm đủ mọi cách để giải mã nó.
 
Tóm lại, cội nguồn dân tộc Việt Nam là một  chủ đề vô cùng phức tạp bởi chính bề dầy thời gian và vị trí địa lý đặc biệt của dân tộc này. Nó phức tạp đến nỗi trong khi có người định chứng minh "người Việt đẻ ra người Hán" thì một số người khác lại cho rằng "Việt Nam từ Trung Quốc mà ra". Việc ngày càng có nhiều người nghi ngờ truyền thuyết Hùng Vương là điều dẽ hiểu khi mà công tác nghiên cứu lịch sử chưa được "cởi trói" khỏi những nếp tư duy lệch lạc, với tâm thế vừa căm thù pha lẫn sự nể sợ đối với kẻ thù truyền kiếp, lại  không muốn thừa nhận thực tế bờ cõi nước ta đã từng bị Phương Bắc xâm lấn (như mất vùng Lưỡng Quảng, mất Nam Việt sau thời Triệu Đà v.v...) . Dĩ nhiên trong khi chưa tìm ra sự thật thì việc đặt lại vấn đề ngược, xuôi, nghi vấn về truyền thuyết Hùng Vương là cần thiết và cũng dẽ hiểu. Nhưng để bác bỏ truyền thuyết của bao đời ông cha để lại là một chuyện hoàn toàn khác, nếu không nói là một điều  đố kị./.

Trần Kinh Nghị

Thứ Tư, 5 tháng 9, 2012

Thêm chứng cứ lịch sử khách quan: HS, TS là của VN

 
Với những bằng chứng như thế này, những kẻ bành trướng Trung Quốc không cãi vào đâu được.Và mong rằng  nhân dân yêu chuộng hòa bình công lý Trung Quốc hãy thức tĩnh cùng đứng lên ngăn chặn chiến tranh xâm lược phi nghĩa của chính quyền Bắc kinh.  
http://media.vtv.vn/Media/Get/Quan-dao-Hoang-sa-Truong-sa---03092012-d478affa77.html

--------------

Thứ Tư, 15 tháng 8, 2012

Tai sao lại là TQ?

Có một câu hỏi thường vấn vương trong mỗi người VN chúng ta là tại sao mỗi lần an ninh đất nước bị đe dọa, rừng vàng biển bạc bị xâm lấn, kinh tế mất ổn định, thực phẩm bị đầu độc, nạn bán rừng, bán ruộng,  giết trâu lấy móng, làm chè bẩn, nuôi đỉa, trồng khoai lang....để xuất khẩu, v.v....thì y như rằng người Việt Nam lại tìm thấy nguyên nhân nào đó từ TQ (?) Có nhiều trường hợp rõ ràng nhưng cũng có những trường hợp mập mờ, ám muội. Không biết từ bao giờ nhiều người Việt tin rằng người TQ có thể iểm bùa, trấn huyệt, chặn long mạch... khiến dân tộc này không thể ngóc đầu lên được (?). Tóm lại,Việt Nam không khác nào con giun, con dế sống duới chân con gà mái, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bị nó nuốt chửng nhưng không biết chạy đi đâu cho thoát! Vậy nên cũng có một câu hỏi: Tại sao người Việt Nam không thoát ra khỏi thế bị kìm kẹp đầy rủi ro, nguy hiểm đó, mà có vẻ vẫn an phận với nó hàng ngàn năm nay?

Để trả lời 2 câu hỏi trên , trước hết nên nhắc lại câu nói của người xưa: "Tiên trách kỷ, hậu trách nhân". Nên chăng người Việt Nam hãy tự trách mình trước đã. Tại sao chúng ta cứ phải chịu đựng trạng thái ức chế như vậy để cứ mỗi lần bị TQ chèn ép, xâm lấn lại chỉ biết hậm hực trách người?

Có người cho đó là do số mệnh, là do thế đất trời đã định cho dân tộc ta sống bên cạnh dân tộc Đại Hán tham lam, xảo quyệt và độc ác ..., đành chịu vậy thôi (!) . Nghe cũng có lý. Nhưng nếu vậy, ta hãy thử liên hệ đến trường hợp các dân tộc khác trên thế giới xem sao. Nhật Bản và Hàn Quốc có lẽ là hai trường hợp có hoàn cảnh chung sống cận kề với Trung Quốc tương tự như Việt Nam. Hai nước này đều đã trải qua thời kỳ dài trong lịch sử đấu tranh sinh tồn bên cạnh Hán tộc mà trong đó  họ cũng đã từng chịu đựng tình trang lớn-bé, mạnh-yếu. Nhưng rốt cuộc hai nước này đều đã lần lượt thoát ra được khỏi vòng cương tỏa của TQ, thậm chí phát triển vượt xa TQ . Ngày nay cung cách quan hệ giữa họ với TQ là quan hệ hoàn toàn bình đẳng, hai bên cùng có lợi không ai có thể chèn ép ai. Ngoài ra, các trường hợp Đài Loan,  Hồng Kông và Ma Cao tuy không hoàn toàn giống nhau nhưng cũng đều cho thấy khả năng thoát khỏi thế kìm kẹp của Trung Quốc là hoàn toàn có thể . Xa hơn, ta thấy trường hợp nước Cu ba sống bên cạnh Cường quốc số I chênh lệch nhau về mọi mặt nhưng vẫn hiên ngang tồn tai đâu có bao giờ phải quỵ lụy, triều cống? Không hiếm những  quốc gia khác trên thế giới tuy nhỏ bé cả về dân số hoặc diện tích nhưng có thể tồn tại độc lập và phát triển thịnh vượng bên cạnh các nước lớn. Vậy tại sao với TQ, Việt Nam lúc nào cũng phải quỵ lụy, bạn không ra bạn, thù không ra thù, anh em, đồng chí  cũng không phải? 

Việt Nam thực ra đã có những thời kỳ và cơ hội để thoát ra khỏi thế kìm kẹp của Vương triều phương Bắc, nhưng tiếc thay cho đến nay vẫn chưa làm được điều đó. Lý do gì, nếu không phải trước hết là do chính bản thân mình. Phải chăng đó là do ý chí và khát vọng tự cường dân tộc chưa đủ mạnh trong toàn bộ dân chúng, đặc biệt trong giới cầm quyền của đất nước?. Bên cạnh những trang sử chống ngoại xâm oanh liệt luôn có sự ám ảnh của một tâm thế thần phục, cam chịu lệ thuộc đối với Vương triều Phương Bắc. Ngọn lửa tự cường, tự tôn dân tộc thường bùng lên trong những thời kỳ chống ngoại xâm nhưng rồi lại lắng xuống trong thời bình.  Ngày nay tuy tính chất thời đại đã khác xưa, nhưng tâm thế đó vẫn còn. Phải chăng đó là lý do để hiểu tại sao dù căm ghét TQ xâm lược biển đảo, nhưng dân chúng vẫn cứ vô tư tiêu xài hóa, kể cả hàng nhập lậu và hàng độc từ TQ. Các doanh nghiệp (cả tư nhân và nhà nước) đua nhau nhập máy móc thiết bị, vật tư của và công nghệ lỗi thời của TQ. Đó là lý do tại sao nhiều cơ quan chính quyền các cấp mơ hồ mất cảnh giác trước những hoạt động ngầm của người TQ len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm của đất nước. Đó là lý do tại sao giới lãnh đạo mà nhầm lẫn người dân yêu nước với "các lực lượng thù địch" . Đó cũng là lý do tại sao các tướng lĩnh Việt Nam lại chọn lúc lòng dân bức xúc trước họa xâm lăng để tung hô công đức của giặc và coi đó là một việc làm khôn khéo(?). Có rất nhiều những hiện tượng trái khuấy như vậy thường tái diễn trong quan hệ hai nước bất chấp sự thật đã có tới 3-4 cuộc chiến tranh đẫm máu do phía TQ chủ động gây ra trong thời gian ngắn ngủi vừa qua.

Từ kinh nghiệm của bản thân và từ bài học của các nước có hoàn cảnh tương tự, thiết nghĩ, con đường tất
yếu của Việt nam là phải dứt khoát đoạn tuyệt với cái tâm thế thần phục và lệ thuộc vào nước láng giềng Phương Bắc dù nó được trị vì bởi bất cứ thể chế nào. Đây hoàn toàn không phải là sự bài bác hay đối đầu mà là một phương cách để Việt Nam thật sự trở thành một quốc gia độc lập bình đẳng với TQ-điều kiện cần thiết để bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và phát triển đất nước./.


Thứ Bảy, 28 tháng 7, 2012

Quan hệ Việt-Trung theo đánh giá của Nguyên Lão tướng và Đại sứ VN tại TQ


Bộ mặt thật của những người lãnh đạo Trung Quốc trong quá trình dài quan hệ “môi răng” giữa Trung Quốc và Việt Nam


Tác giả: Nguyễn Trọng Vĩnh (*)

 Khách quan mà nói, trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của Việt Nam, cùng với Liên Xô, Trung Quốc giúp ta khá nhiều, nhân dân ta rất biết ơn. Sau khi giải phóng miền Nam, Nhà nước ta đã cử một đoàn đại biểu cấp cao do Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp sang cám ơn lãnh đạo và nhân dân Trung Quốc. Nhưng năm 1974, những người lãnh đạo Trung Quốc đã dùng lực lượng mạnh đánh quân đồn trú Cộng hòa miền Nam Việt Nam cướp quần đảo Hoàng Sa của chúng ta, rồi tháng 2 - 1979, để tặng cho Mỹ một món quà và cứu bọn tay sai Pôn Pốt, Trung Quốc đã huy động 60 vạn quân xâm lăng nước ta, giết hại đồng bào ta từ người già, trẻ nhỏ đến phụ nữ mang thai, chiếm đất đai của ta, tàn phá triệt để các tỉnh biên giới nước ta trước khi buộc phải rút lui. Tuyên bố “dạy cho Việt Nam một bài học” như vậy là Đặng Tiểu Bình đã tự xóa hết mọi tình nghĩa, nợ nần rồi còn gì nữa, mà gần đây báo chí Trung Quốc vẫn kể công, phê phán Việt Nam “Vong ân bội nghĩa”? Sau này để giảm tội ác xâm lược, họ gọi trẹo ra cuộc đánh phá ấy là cuộc “phản kích tự vệ”! Ai xâm lược họ mà họ phải đưa 60 vạn quân để “tự vệ”? Nhà cầm quyền Trung Quốc quả là có tài và thói quen đổi trắng thay đen, dùng từ ngữ xảo trá, bịp bợm không ai bằng!!!

Trước thái độ “kể công” đó của giới hữu trách Trung Quốc, tôi buộc phải viết bài này để vạch trần bộ mặt thật của những người lãnh đạo Trung Quốc.
I. Bành trướng, bá quyền ích kỷ nước lớn là tư tưởng xuyên suốt của những người lãnh đạo Trung Quốc
Tháng 9-1950, tại Hội nghị Quân ủy Trung ương, Chủ tịch Mao Trạch Đông nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất, đó là mục tiêu của chúng ta”.
Trong cuộc hội đàm với đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963, ông Mao nói : “Tôi sẽ làm Chủ tịch 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam châu Á”.
Trong cuộc họp BCH TƯ Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 8-1965, Chủ tịch Mao Trạch Đông khẳng định: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapo… một vùng như Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy…”.
Trong cuộc họp giữa 4 đảng cộng sản Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia, Lào tại Quảng Đông tháng 4-1963, Thủ tướng Chu Ân Lai nói: “Nước chúng tôi lớn, nhưng không có đường ra, nên rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở cho con đường xuống Đông Nam châu Á”.
II. Những phương án thu phục và khuất phục Việt Nam
1. Thu phục Việt Nam bằng tư tưởng Mao Trạch Đông
Muốn xuống Đông Nam Á, trước hết và tất yếu cần qua Việt Nam.
Ngay từ năm 1950, sau khi nước CHND Trung Hoa ra đời, những nhà lãnh đạo Trung Quốc đã cử cố vấn Trung Quốc sang và viện trợ cho Việt Nam vũ khí, xe vận tải giúp Việt Nam đánh Pháp. Đoàn cố vấn còn có nhiệm vụ truyên truyền tư tưởng Mao Trạch Đông. Họ đã đề nghị cho dạy tư tưởng Mao Trạch Đông trong trường đảng Việt Nam, lãnh đạo ta đã chấp nhận. Lúc chúng ta tiến hành cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức theo kinh nghiệm các vị cố vấn giới thiệu cho ta, ta phạm sai lầm nghiêm trọng: đấu tố tràn lan, quy kết sai lầm làm nhiều cán bộ bị bắt, nhiều người chết oan. Khi phát hiện, Hồ Chủ tịch phải đứng ra nhận trách nhiệm và xin lỗi đồng bào. Từ đó ta tỉnh ngộ không dạy tư tưởng Mao Trạch Đông và không làm theo kinh nghiệm Trung Quốc nữa.
Những người lãnh đạo thấy không chinh phục Việt Nam bằng tư tưởng Mao Trạch Đông được, họ chuyển sang dùng phương án khác.
2. Mạnh tay giúp xây dựng kinh tế để Việt Nam hàm ơn và phụ thuộc Trung Quốc
Từ 1955 đến 1963, lãnh đạo Trung Quốc giúp Việt Nam rất nhiều nhà máy, nhiều công trình: nhà máy cao su, xà phòng, thuốc lá (Cao Xà Lá); nhà máy bóng đèn phích nước; nhà máy sứ Hải Dương; nhà máy hóa chất Việt Trì; nhà máy dệt Minh Phương; nhà máy sản xuất mỳ chính (bằng đậu xanh); khu gang thép Thái Nguyên; nhà máy phân đạm Hà Bắc; công trình thủy điện Thác Bà, cầu Việt Trì, v.v. Trung Quốc giúp ta hàng loạt nhà máy còn có mục đích là Việt Nam sẽ phải phụ thuộc về nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện.
Đến khi Mỹ hất cẳng Pháp gây chiến ở Việt Nam thì phần lớn các nhà máy mà Trung Quốc giúp bị ném bom tàn phá và một số xí nghiệp hoạt động không có hiệu quả thành ra việc giúp xây dựng kinh tế không còn mấy ý nghĩa. Vả lại từ cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, ta đã không đồng ý với lập trường của những người lãnh đạo Trung Quốc, họ thấy rằng “phương án kinh tế” cũng không thu phục được Việt Nam theo họ nên họ lại chuẩn bị phương án khác.
3. Hình thành 2 gọng kìm hòng uy hiếp và khuất phục Việt Nam
Ở phía Bắc, Trung Quốc mở những con đường từ nội địa ra sát biên giới các tỉnh Việt Nam, chuẩn bị sẵn sàng cho việc tiến quân.
Lãnh đạo Trung Quốc trang bị cho Pôn Pốt đủ mạnh để nắm nó làm gọng kìm phía Tây Nam Việt Nam. Được sự khuyến khích của lãnh đạo Trung Quốc, năm 1977, bọn Pôn Pốt xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới Nam bộ Việt Nam, đánh phá, giết hại đồng bào ta. Không đừng được, quân ta tiến vào tiêu diệt Pôn Pốt, cứu dân Kmer khỏi họa diệt chủng thì Đặng Tiểu Bình huy động 60 vạn quân đánh ta, vừa để cứu tay sai Pôn Pốt vừa để làm lễ vật “làm ăn” với Mỹ, vừa để nói lên rằng giữa Trung Quốc và Việt Nam không còn chung ý thức hệ, không còn là “đồng chí”.
Việt Nam vẫn không khuất phục.
III. Giúp Việt Nam chống Pháp đồng thời hạn chế thắng lợi của Việt Nam làm Việt Nam suy yếu phải phụ thuộc Trung Quốc
Giúp Việt Nam kháng chiến chống Pháp, Trung Quốc cũng có động cơ vì lợi ích của họ. Nếu Việt Nam thắng, Trung Quốc sẽ có một khu đệm an toàn ở phía Nam giống như Triều Tiên ở phía Bắc. Không giúp chẳng may mà Việt Nam không đứng vững, Pháp thắng thì ở mặt Nam Trung Quốc sẽ là đế quốc Pháp, mà Pháp là một nước tham gia “liên quân 8 nước” đánh triều đình nhà Thanh (TQ), buộc nhà Thanh phải nhượng cho các nước phương Tây những “tô giới” ở Thượng Hải và những điều kiện thiệt thòi khác.
Sau chiến thắng vang dội Điện Biên Phủ của Việt Nam tiêu diệt tập đoàn cứ điểm mạnh nhất tưởng như “bất khả xâm phạm” của quân Pháp, Chính phủ và giới quân sự Pháp cực kỳ dao động. Lo ngại Quân đội nhân dân Việt Nam có thể thừa thắng tổng tấn công đồng bằng Bắc Bộ, ngày 18-5-1954, Thủ tướng Pháp Lanien (Joseph Laniel) đã cứ Tướng Êli (Paul Ély) sang Đông Dương truyền đạt chỉ thị cho Tướng Nava (Eugène Navarre), Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp: “Lúc này phải lấy mục tiêu chính, trên tất cả các cái khác là cứu đội quân viễn chinh”.
Trong tình hình đó, nếu lãnh đạo Trung Quốc thực tâm giúp Việt Nam thì rất có thể đã buộc Pháp phải rút toàn bộ quân Pháp khỏi Đông Dương.
Nhưng, ngược lại, những người lãnh đạo Trung Quốc đã phản bội nhân dân Việt Nam, đàm phán với Pháp trên lưng Việt Nam. Ngay từ ngày 24-8-1953, Thủ tướng Chu Ân Lai đã tuyên bố: “đình chiến ở Triều Tiên có thể dùng làm mẫu mực cho những xung đột khác” (ý nói đến cuộc chiến tranh Đông Dương, chỉ “đình chiến” thôi và hai miền song song tồn tại).
Từ ngày 8 tháng 5 đến 23 tháng 6-1954, Trưởng đoàn Pháp trong khi tránh tiếp xúc với Việt Nam đã đàm phán trực tiếp với Trưởng đoàn Trung Quốc 4 lần, đi tới thỏa thuận về những nét cơ bản về một hiệp định ngừng bắn ở Đông Dương.
Ngày 17-6-1954, Thủ tướng Chu Ân Lai gặp Trưởng đoàn đại biểu Pháp Biđô (Georges Bidault) đưa ra những nhân nhượng chính trị có tính chất cơ bản…
Ngày 23-6-1954, Thủ tướng Chu Ân Lai gặp Măngđet PhơRăngxơ (Mandès-France), Thủ tướng mới của Pháp đã đưa ra những nhượng bộ mới: “chia cắt Việt Nam, 2 miền Việt Nam cùng tồn tại hòa bình…”.
Một ngày sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký, ngày 22-7-1954, trong khi ăn cơm với Ngô Đình Luyện, em ruột Ngô Đình Diệm, Chu Ân Lại đã gợi ý “đặt công sứ quán của Sài Gòn ở Bắc Kinh”. Ngô Đình Diệm không đồng ý. Nhưng đây là bằng chứng lãnh đạo Trung Quốc công nhận chính quyền Ngô Đình Diệm và âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam.
Trong Hội nghị Giơ-ne-vơ, Việt Nam đòi định giới tuyến quân sự tạm thời là vĩ tuyến 13, tổ chức Tổng tuyển cử trong vòng 6 tháng để thống nhất nước nhà. Lúc đầu đoàn đại biểu Trung Quốc đề ra vĩ tuyến 16 làm giới tuyến 2 miền Việt Nam. Sau đó lại nói: “Vĩ tuyến 16 khó có thể thỏa thuận”, ép Việt Nam nhân nhượng: “Có những điều kiện không công bằng và hợp lý để Chính phủ Pháp có thể chấp nhận được… không nên làm phức tạp, lôi thôi… kéo dài đàm phán để cho Mỹ phá hoại”.
Trong tình thế Mỹ, Pháp Trung Quốc chung một lập trường, Trung Quốc ép buộc Việt Nam phải chấp nhận giải pháp: “Các nước tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, ngừng bắn trên toàn chiến trường Đông Dương, Pháp rút quân, vĩ tuyến 17 là vĩ tuyến quân sự tạm thời, chia Việt Nam làm 2 miền, tiến tới tổng tuyển cứ tự do trong cả nước sau 2 năm để thống nhất đất nước”.
Để ngăn cản ta tiếp tục chiến đấu, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, tháng 7-1955, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Đặng Tiểu Bình dọa: “dùng lực lượng vũ trang để thống nhất đất nước sẽ có 2 khả năng: một là thắng, và một khả năng nữa là mất cả miền Bắc”. Ngày 11-5-1956, ông Mao Trạch Đông nói với những đồng chí lãnh đạo ta: “tình trạng nước Việt Nam bị chia cắt không thể giải quyết được trong một thời gian ngắn mà cần phải trường kỳ… nếu 10 chưa được thì phải 100 năm”. Tháng 7-1957, Mao Trạch Đông lại nói: “Vấn đề là phải giữ biên giới hiện có, phải giữ vĩ tuyến 17… thời gian có lẽ dài đấy. Tôi mong thời gian dài thì sẽ tốt”. Những người lãnh đạo Trung Quốc nhiều lần nhấn mạnh với Việt Nam là: “chỉ có thể dùng phương châm thích hợp là trường kỳ mai phục, tích trữ lực lượng, chờ đợi thời cơ”.
Rõ ràng là những người lãnh đạo Trung Quốc không muốn cho Việt Nam thống nhất để mạnh lên, hãm Việt Nam trong tình trạng yếu kém để dễ khống chế. Một nửa Việt Nam là khu đệm an toàn phía Nam cho Trung Quốc yên ổn làm ăn là được.
IV. Nhân dân Việt Nam quyết tâm chống Mỹ để thống nhất Tổ quốc, Trung quốc giúp Việt Nam và dùng Việt Nam làm con bài để làm ăn với Mỹ
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, chính quyền Ngô Đình Diệm do Mỹ dựng lên ra sức phá hoại Hiệp định, lê máy chém đi khắp nơi giết hại những người cộng sản và những người dân yêu nước, nhưng giới lãnh đạo Trung Quốc vẫn ngăn cản nhân dân Việt Nam đẩy mạnh vũ trang. Tháng 5-1960, hội đàm với phía Việt Nam họ nói như sau: “Không nên nói đấu tranh chính trị hay đấu tranh vũ trang là chính… không phải là cướp chính quyền ngay mà cuộc đấu tranh vẫn là trường kỳ, dù Diệm có đổ cũng không thể thống nhất được…”. Mặc họ cản, bức xúc quá, nhân dân miền Nam vẫn đồng khởi, phát triển chiến tranh du kích, miền Bắc chi viện đồng bào ruột thịt của mình, không ai cản được.
Khi Mỹ đưa quân vào miền Nam, ném bom miền Bắc, lãnh đạo Trung Quốc buộc phải giúp Việt Nam đánh Mỹ.
Vì sao Trung Quốc giúp Việt Nam đánh Mỹ? Có 3 lý do:
Một là: đề phòng phải gặp lại tình hình năm 1950, khi quân Bắc Triều bị quân Mỹ - Hàn dồn sát đến sông Áp Lục, bom đã rơi vào đất Trung Quốc, Trung Quốc đã phải đem 50 vạn quân “kháng Mỹ viện Triều”, tổn thất nặng nề mới lập lại được vĩ tuyến 38 phân chia 2 miền Nam Bắc Triều Tiên…
Chính vì thế mà tháng 1-1965, qua nhà báo Mỹ Ét-ga-xnâu (Edgar Snow), Mao Trạch Đông nhắn Washington: “Quân đội Trung Quốc sẽ không vượt biên giới của mình để đánh nhau” và trong cuộc đàm phán Trung Mỹ cấp Đại sứ tại Vac-sa-va , phía Trung Quốc làm cho Mỹ hiểu rõ câu nói của Mao Trạch Đông: “Người không đụng đến ta thì ta không đụng đến người”. Nghĩa là mặc Mỹ đánh nhau ở miền Nam Việt Nam, Trung Quốc không muốn lại đánh nhau với Mỹ.
Hai là: Lãnh đạo Trung Quốc bấy giờ đương muốn giương cao ngọn cờ lãnh đạo phong trào cộng sản thế giới mà không giúp Việt Nam là nước đã thắng trận Điện Biên Phủ lẫy lừng, làm sụp đổ hệ thống thuộc địa trên thế giới, thì sẽ mất uy tín.
Ba là: cạnh tranh với Liên xô trong việc tranh thủ Việt Nam. Trong khi Liên xô giúp Việt Nam xe tăng, máy bay tên lửa, v.v. mà Trung Quốc không giúp thì sợ Việt Nam ngả theo Liên Xô.
Năm 1963, Tổng bí thư Đặng Tiểu Bình thông báo với lãnh đạo Việt Nam ý kiến của lãnh đạo Trung Quốc “sẽ viện trợ cho Việt Nam 1 tỷ nhân dân tệ nếu Việt Nam khước từ mọi viện trợ của Liên xô”.
Sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 của chúng ta vào gần khắp các thành phố ở miền Nam, cả vào Sứ quán Mỹ, Bộ tổng tham mưu chính quyền miền Nam và Mỹ đều dao động, lộ rõ ý muốn chấm dứt ném bom để ngồi vào đàm phán. Chúng ta chủ trương “vừa đánh vừa đàm” để kéo Mỹ xuống thang, thì lãnh đạo Trung Quốc ngăn cản, họ cho rằng: “Lúc này Việt Nam chấp nhận đàm phán chưa phải là thời cơ và trên tư thế cao, đã nhân nhượng một cách vội vã”.
Ngày 9-10-1968, lãnh đạo Trung Quốc gặp Thứ trưởng Ngoại thương Việt Nam ở Bắc Kinh yêu cầu báo cáo với lãnh đạo Việt Nam rằng: “sự thỏa hiệp của Việt Nam với Mỹ là một thất bại lớn… nên để cho Mỹ bắn phá trở lại khắp miền Bắc, để Mỹ phân tán mục tiêu oanh tạc, chia sẻ bớt khó khăn cho miền Nam”. Viên tướng M. Taylo (Maxwell Taylor) gọi là “quyết tâm của những người lãnh đạo Trung Quốc đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”.
Trong mấy năm liền cho đến 1972, lãnh đạo Trung Quốc đề nghị giúp vận chuyển hàng phục vụ chiến trường từ miền Bắc đến miền Nam Việt Nam, Lào, Campuchia trên con đường mòn Hồ Chí Minh, hứa cung cấp đủ xe, người lái và khoảng 20 vạn quân để bảo đảm công việc này. Ý đồ thâm hiểm của họ là nắm mạch máu chiến tranh của 3 nước Đông Dương để điều khiển cuộc chiến tùy ý họ, để buôn bán với Mỹ và chuẩn bị bàn đạp xuống Đông Nam Á. Tất nhiên lãnh đạo Việt Nam không thể chấp nhận.
Năm 1969, Nichxơn lên làm Tổng thống Mỹ, ông ta cảm thấy bế tắc trong cuộc chiến tranh, muốn rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam mà vẫn giữ được chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Ông ta nghĩ đến con bài Bắc Kinh; Trung Quốc cũng nhìn thấy thế yếu của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam nên thời kỳ 1969-1973, Trung Quốc và Mỹ tăng cường tiếp xúc bắt tay công khai với nhau, không chỉ bàn bạc các vấn đề tay đôi, mà cả các vấn đề thuộc chủ quyền của Việt Nam và các nước Đông Dương.
Tháng 7 và tháng 10 năm 1971, Kitxingiơ (H. Kissinger) đặc phái viên của Nichxơn sang Bắc Kinh và ít lâu sau Nichxơn đích thân sang thăm Trung Quốc. Họ thỏa thuận với nhau các vấn đề trên lưng nhân dân Việt Nam.
Ngày 1-3-1972, Kitxingiơ nói với các nhà báo rằng: “Từ nay Tổng thống và tôi chỉ còn việc nhìn về Mascơva mà nghiền nát Việt Nam”.
Khi Trung Quốc thông báo cho ta: trong chuyến thăm Bắc Kinh của Nichxơn hai bên sẽ bàn cả vấn đề Việt Nam, lãnh đạo của chúng ta thẳng thắn nói: “Việt Nam là của chúng tôi, các đồng chí không được bàn với Mỹ về vấn đề Việt Nam, các đồng chí đã nhận sai lầm năm 1954, bây giờ không nên sai lầm một lần nữa”.
Cuối cùng bất chấp chiến dịch B52 ác liệt, bất chấp mọi mưu ma chước quỷ của những người lãnh đạo Bắc Kinh, Việt Nam anh dũng kiên cường, độc lập tự chủ vẫn thực hiện được lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “ đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, thống nhất Tổ quốc.
Sau khi bình thường hóa quan hệ trở lại năm 1990, những người Trung Quốc giương chiêu bài đạo đức giả, lừa phỉnh “16 chữ và 4 tốt” nhưng rất hung hăng leo thang gây hấn ở biển Đông, cắt cáp 2 tàu khảo sát của chúng ta, liên tiếp bắn giết ngư dân ta, bắt tàu cá của ta để đòi tiền chuộc, luôn to mồm tuyên bố một cách vô lý chủ quyền gần hết biển Đông và các quần đảo của Việt Nam và các nước Đông Nam Á, nhiều lần dọa đánh Việt Nam và Philippines… những việc này đang làm nóng dư luận quốc tế và sục sôi tâm huyết của toàn dân Việt Nam trong thời gian gần đây thì mọi người đều đã biết rõ.
Chú thích của tác giả bài viết
Một số trích dẫn lời lãnh đạo Trung Quốc là từ các nguồn sau:
(1) Từ những sách báo của nhà báo thân Trung Quốc Edgar Snow.
(2) Từ hồi ký của Kitsinger , cựu ngoại trưởng Mỹ.
(3) Từ những cuộc gặp gỡ giữa lãnh đạo Trung Quốc và lãnh đạo Việt Nam.
 
Nguồn: Tác giả trực tiếp gửi cho BVN


--------------

Thứ Năm, 21 tháng 6, 2012

Vua xưa & Lãnh đạo nay

Lang thang trên mạng gặp lại lời Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) kêu gọi nhân dân cảnh giác với giặc Tàu , trong đó có đoạn:
" Các người chớ quên , chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ , trái đạo . Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo . Cho nên cái hoạ lâu đời của ta là hoạ nước Tàu . Chớ coi thường chuyện vụn vặt nảy ra trên biên ải . Các việc trên , khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn . Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước . Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp . Không thôn tính được ta , thì gậm nhấm ta . Họ gậm nhấm đất đai của ta , lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích .
Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn :
" Một tấc đất của Tiền nhân để lại , cũng không được để lọt vào tay kẻ khác " . Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu ".http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_Nh%C3%A2n_T%C3%B4ng (*)

Đọc lời người xưa soi vào ngày nay thấy có những điều thật thú vị! Chẳng lẽ ý chí quật cường của dân tộc mà đại diện là  vua chúa trước đây và giai tầng lãnh đạo ngày nay lại "xuống cấp" quá nhiều như vậy?

Những ai ít nhiều theo dõi thời cuộc đất nước đều có thể nhận thấy một tình trạng xói mòn nghiêm trọng về niềm tin của dân chúng đối với giới lãnh đạo đất nước trong thời  kỳ gần đây. Nhân dân từ chỗ một lòng tin tưởng và phục tùng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng  và Nhà nước trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc thì nay đã chuyển sang trạng thái hoài nghị, thậm chí không tin vào sự lãnh đạo đó nữa. Sự thật này đã được ghi nhận trong một số văn kiện của Đảng, gần đây nhất là NQ TW 4 khóa XI.
 
Có rất nhiều biểu hiện của trạng thái nói trên. Đó là thái độ bất bình, bất tín , thậm chí bất tuân lệnh  đang ngày một lan rộng trong xã hội, không chỉ từ dân chúng mà cả giới trí thức và quan chức. Trong khi người dân bức xúc trước những diễn biến tiêu cực trong tình hình kinh tế-chính trị-xã hội và chủ quyền lãnh thổ trên bộ và trên biển, thì giới quan chức dường như tỏ ra thờ ơ, lãnh cảm, thậm chí thoái thác trách nhiệm. Đã bắt đầu có triệu chứng chính quyền ngăn chặn tự do thông tin và hạn chế dân chúng bàn luận chính trị, thậm chí truy chụp những người có ý kiến trái ngược dù với động cơ xây dựng. Tình hình có cái gì đó na ná với thời chính quyền Mỹ-ngụy cấm người dân "nói chính trị".... Trong nhiều trường hợp, nhất là trong đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và tiêu cực, nhân dân và báo chí, kể cả "lề trái" trở thành  người đi đầu phát hiện vấn đề và đề xướng giải pháp trong khi các cơ quan chính quyền lại tỏ ra thụ động, chậm vào cuộc hoặc bất lực. Trên mặt trận an ninh quốc phòng, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo, bảo vệ ngư trường và ngư dân...,  họ cũng là người đi đầu với những hình thức đấu tranh thiết thực và kịp thời khiến đối phương lo sợ,  trong khi giới chức lại tỏ ra dè dặt, thậm chí  tránh né với lý do "vấn đề nhậy cảm" hoặc " khôn khéo"....

Lẽ nào những người lãnh đạo đất nước bây giờ không biết rằng khí phách của một dân tộc trước hết phải được thể hiện bởi những người đứng đầu dân tộc đó; và kẻ thù  thường nhìn vào đó để đưa ra quyết sách của chúng (?). Kinh nghiệm cho thấy, dưới con mắt của bọn bành trướng. mọi cử chỉ do dự hoặc những tiểu xảo gọi là "khôn khéo" của người Việt chỉ là dấu hiệu của sợ hãi và khuất phục mà thôi. Điều quan trong hơn nữa là, nhân dân luôn đặt niềm tin vào những người lãnh đạo như những thủ lĩnh đại diện cho ý chí và nguyện vọng của họ. Đó là điều kiện tiên quyết để đảm báo khối đoàn kết dân tộc-nguồn sức mạnh vô địch của Việt Nam xưa nay. Nói cách khác, không nên vì bất cứ lý do gì để những người lãnh đạo xa rời nhân dân hoặc né tránh không thể hiện một cách công khai minh bạch ý nguyện của nhân dân.   

Câu hỏi đặt ra là, tại sao từ hàng ngàn năm trước các vua chúa nước Việt  đã từng thực hiện những điều mà ngày hôm nay giới lãnh đạo nói rất nhiều nhưng không làm được bao nhiêu? Tại sao xưa kia trong bối cảnh quan hệ quốc tế hạn hẹp với vị thế bất lợi trước kẻ thù, nhưng các vua chúa, trong đó có Vua Trần Nhân Tông, vẫn dám gọi đích danh "họa nước Tàu". Vua còn đích thân đứng ra cảnh báo dân chúng về  âm nưu "gặm nhấm.... để biến nước ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích"! Sự chỉ đạo của Vua như thế xem ra vừa rất cụ thể vừa tỏ rõ tầm nhìn xa trông rộng. Lãnh đạo ngày nay có mấy ai dám nói trước bàn dân thiên hạ những lời như thế? Bao giờ mới thay thế những từ "tàu lạ", "nước ngoài" chung chung... bằng đúng tên thật của chúng? Trộm nghĩ,  liệu Vua Trần Nhân Tông với những lời tuyên bố chẳng mấy khéo léo như thế mà còn sống đến ngày hôm nay thì có bị cấm đoán hay bị phạt tù không nhĩ?  Than ơi, nghĩ đến đây thấy sao mà nghịch lý đến não ruột! 
        
(*) Lời trích này lấy từ nguồn Wikipedia có thể không hoàn toàn chính xác. Song, nội dung này cũng thấy phổ biến trên nhiều tài liệu được lưu truyền ở VN lâu nay.  Bạn đọc có thể tự tìm hiểu để kiểm chứng thêm. 


Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này