Hiển thị các bài đăng có nhãn Khoa học và đời sống. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Khoa học và đời sống. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

Bàn về sự ấu trĩ(*)


(*)Đây là một bài viết nhận được trên họp thư bạn bè. Tuy không quen biết tác giả Giản Tư Trung và cũng chưa có đủ điều kiện để kiểm chứng các thông tin trong bài viết của ông, nhưng sau khi đọc kỹ bài viết tôi thấy có thể chia sẻ phần lớn quan niệm nêu trong đó, đồng thời xin được bổ sung thêm một ý sau:
Con người ta không ai vẹn toàn (nhân vô thập toàn), về kiến thức lại càng như vậy. Do đó, không ai có thể tự coi mình tường tận về mọi điều, chẳng qua nếu gặp may rơi vào "xứ của người mù, thì người chột sẽ làm vua" mà thôi! Tuy nhiên, mọi người chỉ có thể trở nên khôn ngoan hơn nếu chịu học hỏi lẫn nhau, kể cả từ sự ngu dốt của người khác, để hoàn thiện bản thân. Trong hoàn cảnh cụ thể của đất nước ta hiện nay có rất nhiều ý kiến trái chiều, nhưng rất ít người chịu lắng nghe lẫn nhau, và đây là một dấu hiệu không tốt lành. Nếu chỉ nói mà không lắng nghe người khác nói thì tác hại còn nhiều hơn là không nói. Người bình thường làm vậy hại một, người có chức có quyền hoặc học vị trong xã hội và các cơ quan truyền thông nhà nước ,à làm vậy còn hại hơn nhiều -(Bách Việt).

Thứ Hai, 18 tháng 3, 2013

TQ tung vàng giả ra thị trường thế giới (*)

(*) Thông tin này lấy từ  họp thư trao đổi  giữa bạn bè. Tuy bản thân chủ blog chưa có điều kiện để kiểm chứng đầy đủ nhưng cũng đã thử truy cập các đường link được dẫn và thấy các nguồn tin đều có thật. Vậy xin lưu truyền lại nội dung dưới đây với thiện ý để mọi người cảnh giác !!! (Bách Việt)

Hãy đọc mẫu tin sau cho biết để đề phòng mua lầm hoặc cất lầm vàng giả!
Trung Quốc tung vàng giả ra thị trường quốc tế để lừa đảo và quấy rối kinh tế thế giới
Vàng giả đã được các chuyên gia và các nhà điều tra xác định rõ là do chính phủ Trung Quốc làm ra và họ đã cho tung khối lượng lớn vàng giả vào thị trường các nước để lừa đảo người tiêu dùng và đồng thời để quấy rối kinh tế thế giới. Cả ở thị trường New York và Việt Nam đều lên cơn sốt lo ngại về khối lượng rất lớn vàng giả do Trung Quốc sản xuất và đã đưa vàosử dụng lần này . undefined

Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2013

Đâu chỉ nhầm cờ

Vụ sách giáo khoa in cờ TQ là một bằng chứng nữa về tình trạng (nếu không nói là "nảo trạng") lẫn lộn bạn/thù, tù mù chiến lược của đất nước ta hiện nay -Xem thêm tại đây: http://trankinhnghi.blogspot.com/2012/12/lan-lon-banthu-tu-mu-chien-luoc.html

Ngay cả khi sự việc đã vỡ lỡ ra rồi mà những người có trách nhiệm vẫn không nhận ra vấn đề lại còn biện bạch, "tiếc của"...chỉ định thay trang nào có lỗi để giữ lại quyễn sách!  Không trách trên cao thì mù mờ kiểu cấp cao, bên dưới thì mù mờ kiểu cấp dưới(?) Vấn đề đâu chỉ ở việc in nhầm lá cờ (?); nó bắt nguồn từ tư duy sai lệch một cách có hệ thống. Hãy nghe ý kiến phân tích mà tôi cho là "chuẩn" của nhà nghiên cứu Phạm Toàn tại đây
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2013/03/130306_pham_toan_sach_in_co_tq.shtml  

Thiết nghĩ, vấn đề không thể khắc phục bằng việc chỉ thay một vài trang sách, mà phải thay toàn bộ cách tư duy của đội ngũ lãnh đạo quản lý,.và không chỉ trong lĩnh vực sách giáo khoa, mà trong toàn bộ hệ thống chính trị-xã hội của đất nước.
   

Thứ Sáu, 18 tháng 1, 2013

Teo dần quyền con người trong Hiến pháp(*)

(*)Đây là một trong nhiều bài viết của ông ban tôi- một nhà khoa học- mà phải thú thật là bài viết nào cũng khiến tôi ngạc nhiên về sự nghiêm chỉnh không thể chê trách vào đâu được cả về nội dung lẫn văn phong. Tôi nghĩ, có lẽ trước khi đưa một chủ đề nào đó lên mặt chữ, tác giả đều đem ra soi kính hiển vi đồng thời đong đếm từng ly từng tí theo đúng phong cách một nhà khoa học (?). Thú thật là, cũng có lẽ vì sự nghiêm chỉnh đó cộng với độ dài của các bài viết nên tôi rất ít khi chịu đăng lại bài của ông ban (!). Nhưng lần này, trong bối cảnh cả nước đang hăng hái thảo luận về sửa đổi Hiến pháp, bản thân tôi vừa đi du lịch dài ngày về, cảm thấy bài viết thật trúng và đúng lúc  nên muốn "ăn theo" nguyên văn bài viết này và với hy vọng bạn đọc sẽ tìm thấy sự bổ ích trong đó(Bách Việt)


Tác giả Hoàng Xuân Phú Thêm chú thích
Trong thời gian qua, nhiều người mong muốn sửa đổi Hiến pháp 1992, để bỏ hoặc thay đổi một số quy định, ví dụ như quy định về quyền lãnh đạo (được hiểu là đương nhiên) của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đối với Nhà nước và xã hội(Điều 4), và quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý (Điều 17–18). Tôi không chia sẻ kỳ vọng đó, bởi không tin rằng giới lãnh đạo hiện nay có thể sớm chấp nhận thay đổi những điều mà họ khẳng định là bất di, bất dịch. Ngược lại, tôi thuộc số những người lo rằng việc sửa đổi Hiến pháp có thể bị lợi dụng để hạn chế hơn nữa quyền con người. Và bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã cho thấy nỗi lo đó không phải là vô cớ. Thậm chí, không ngờ họ lại có thể đi xa như vậy…
Trong Hiến pháp 1992, thuật ngữ “quyền con người” chỉ được nhắc một lần, tại
Điều 50: Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật.”
Tức là “quyền con người” được đồng nghĩa với “quyền công dân”. Vậy thì những người đang tạm thời bị tước “quyền công dân” sẽ không còn được hưởng “quyền con người”. Hơn nữa, sau khi định nghĩa “Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam” (Điều 49), thì “quyền con người” sẽ không còn được áp dụng cho những người đang tồn tại trên đất Việt Nam, nhưng không hoặc chưa “có quốc tịch Việt Nam”. Điều này cho thấy cách hiểu về “quyền con người” trong Hiến pháp 1992 phiến diện như thế nào.
Một thay đổi dễ nhận thấy trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 là “quyền con người” được tách ra, được nhắc tới 8 lần, luôn đi cạnh và được đặt trước “quyền công dân”. Ở chế độ mà giới lãnh đạo vốn rất khó chịu khi nghe nhắc đến “nhân quyền” (tức là “quyền con người”), thì đây là một bước tiến, muộn mằn nhưng có vẫn hơn không.
Một thay đổi nữa, là “quyền công dân” cùng “quyền con người” được đưa từ Chương V (trong Hiến pháp 1992) lên Chương II (trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp). Ở Cộng hòa Liên bang Đức, “quyền con người” được đặt lên vị trí hàng đầu, trong Chương I của Hiến pháp. Ở CHXHCN Việt Nam thì Chương I của Hiến pháp được dành cho “Chế độ chính trị”.“Chính trị” là một cái gì đó rất thiêng liêng, mà cũng rất bí hiểm, và càng bí hiểm thì càng… hữu dụng. Khi muốn đùn đẩy công việc, thì tuyên bố: “Cần có sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị.” Khi muốn làm liều, thì khẳng định: “Vớiquyết tâm chính trị, chắc chắn sẽ làm được.” Còn khi muốn lẩn tránh trách nhiệm của bản thân, thì chỉ cần tỏ chút áy náy và “nhận trách nhiệm chính trị.
Hai thay đổi kể trên là theo hướng tiến bộ, đáng được ghi nhận. Song như vậy thì mới thể hiện rằng quyền con người đã được chú ý hơn. Mà chỉ chú ý thì chưa đủ và cũng chưa chắc đã tốt. Chẳng hạn, nếu bạn được công an chú ý, thì điều đó không hẳn là dấu hiệu hay. Để đánh giá chính xác các thay đổi về quyền con người và quyền công dân, thì phải xem xét các quy định cụ thể.
Bài này không nhằm mục đích đánh giá đầy đủ và toàn diện về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, mà chỉ điểm qua một số ví dụ đáng lưu ý về sự thay đổi tiêu cực hay có thể là tiêu cực, liên quan tới quyền con người và quyền công dân. Hy vọng rằng những nhận xét dưới đây sẽ có ích cho những người đang muốn tham gia góp ý kiến cho bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Quyền hư quyền ảo
Trong “Chương II: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” của dự thảo sửa đổi Hiến pháp, xuất hiện một quyền mới (so với Hiến pháp 1992) là:
Điều 21: Mọi người có quyền sống.”
Nghĩ một cách dân dã, thì thấy điều này có vẻ ngồ ngộ. “Quyền sống” còn hiển nhiên hơn cả “quyền ăn ngủ”, bởi muốn“ăn ngủ” thì tất nhiên phải “sống”. Vậy mà nếu hiến định rằng “Mọi người có quyền ăn ngủ” thì ai nấy đã thấy ngây ngô.
Thực ra, câu “Mọi người có quyền sống cũng xuất hiện trong Hiến pháp của một số nước, chẳng hạn tại Điều 2 củaHiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức (Jeder hat das Recht auf Leben). Điều đó chứa đựng một nội dung rất quan trọng, mà hệ quả trực tiếp của nó là: Không thể có án tử hình, vì tử hình một người là xâm phạm “quyền sống” của người đó.
Chấp nhận án tử hình hay không là một vấn đề nan giải, vẫn còn đang được tranh luận ở nhiều nơi trên thế giới. Nhiều nước vẫn duy trì án tử hình, như Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Liệu có thật là nhà cầm quyền Việt Nam muốn hủy bỏ án tử hình hay không? Nếu đúng là họ muốn hủy bỏ án tử hình, thì đây là một thay đổi rất quan trọng. Còn ngược lại, nếu họ vẫn định tiếp tục duy trì án tử hình, thì Điều 21 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp vừa thừa, vừa giả dối, và chỉ chất to thêm đống quyền hữu danh vô thực trong Hiến pháp mà thôi.
Một quyền mới khác trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp là:
Điều 35: Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội.”
Điều này được sửa đổi từ Điều 67 của Hiến pháp 1992, quy định rằng:
“Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thương binh được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ và có đời sống ổn định.”
“Những người và gia đình có công với nước được khen thưởng, chăm sóc.”
“Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ.”
Nghĩa là:
-       Chỉ đề cập đến một số đối tượng đặc biệt, đó là thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, những người và gia đình có công với nước, người già, người tàn tật và trẻ mồ côi;
-       Chỉ hứa hẹn một cách chung chung, là “được hưởng các chính sách ưu đãi”, “được tạo điều kiện”, “được khen thưởng, chăm sóc”, “được Nhà nước và xã hội giúp đỡ”;
-       Chỉ đề cập đến mấy nội dung cụ thể, là “phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ và có đời sống ổn định”, và những thứ đó chỉ dành riêng cho đối tượng thương binh.
Điều 35 trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã đưa ra những bước đại nhảy vọt so với Điều 67 của Hiến pháp 1992, đó là:
-       Áp dụng cho mọi công dân;
-       Không chỉ là hứa hẹn chung chung, mà nâng lên thành “quyền được bảo đảm”;
-       Nội dung “được bảo đảm” không chỉ dừng lại ở mấy nội dung cụ thể, mà bao trùm lên toàn bộ “an sinh xã hội”.
Đây là một ý tưởng cách mạng vĩ đại, nếu họ thực tâm muốn triển khai. Tiếc rằng, nếu thực tâm thì ngây ngô, và nếu không ngây ngô thì không thể thực tâm.
“Quyền được bảo đảm an sinh xã hội là một thứ quyền vu vơ và hoàn toàn không khả thi. Thời gian qua, mới chỉ tập trung cho một số đối tượng rất chọn lọc và chỉ dừng lại ở mấy chế độ phúc lợi rất khiêm tốn, thế mà còn chưa làm tốt nổi. Vậy thì sao có thể bảo đảm an sinh xã hội cho mọi công dân? Lưu ý rằng chế độ “an sinh xã hội” bao gồm cả chăm sóc về y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn tật, trợ cấp tiền tuất. Lấy đâu ra tiền của để thực hiện “ý tưởng cách mạng vĩ đại” ấy?
“Công dân có quyền được bảo đảm”, nhưng ai, cơ quan hay tổ chức nào phải đứng ra “bảo đảm”? Phải chăng cuối cùng họ sẽ phán rằng Dân phải “tự bảo đảm”?
Trong thời buổi tham nhũng hoành hành từ trên xuống dưới, thì những chính sách viển vông không chỉ vô ích, mà còn rất tai hại, vì giới cầm quyền sẽ “mượn gió bẻ măng”. Điều này đang diễn ra dưới nhiều danh nghĩa, ví dụ như việc xâynhà ở xịn để bán cho người nghèo ở giữa đô thị đắt đỏ. Khi đã đẻ ra một chính sách phúc lợi xã hội nào đó thì họ có cớ để vung tiền từ ngân sách, tức là tiền của Dân. Tất nhiên là không đủ để “ngập tràn thiên hạ”. Lúc đó, “nước có quyền chảy vào chỗ trũng”, nghĩa là ưu tiên cho “người thân” (theo nghĩa rộng, bao gồm cả những người quen thân vì tiền), và cũng không quên phần mình. Đối với các quan tham, “từ thiện” không còn là mục tiêu hành động, mà là phương tiện để vơ vét cho bản thân.
Hai ví dụ kể trên cho thấy rằng: Dự thảo sửa đổi Hiến pháp có thể đem lại cho người dân một số quyền mới nào đó, nhưng có khi lại là những quyền hư ảo, trong khi những quyền bị cắt giảm thì lại rất thật, như sẽ trình bày trong phần tiếp theo. Điều đáng buồn là: Xu hướng giả dối vẫn được tiếp tục duy trì và phát triển trong việc xây dựng Hiến pháp.
Quyền thoi quyền thóp
Trong Điều 71 của Hiến pháp 1992 có quy định rằng:
“Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.” (Điều 71, Đoạn 2)
Điều 71 được sửa thành Điều 22 trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhưng toàn bộ quy định được trích ở trên (nhằm hạn chế việc bắt người tùy tiện và yêu cầu bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật) đã bị xóa. Trong thời gian qua, Hiến pháp đã quy định rõ ràng như vậy mà công an vẫn bắt người và giam giữ rất tùy tiện. Rồi đây, khi quy định ấy đã bị gạch khỏi Hiến pháp, thì số phận người dân sẽ ra sao?
Trong Điều 74 của Hiến pháp 1992 có quy định rằng:
“Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định.”(Điều 74, Đoạn 2)
Điều 74 được sửa thành Điều 31 trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhưng quy định vừa được trích (nhằm ràng buộc về thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo) không còn nữa. Vốn dĩ, khiếu nại và tố cáo của công dân hay bị ngâm tôm bất tận. Đến đại công thần của chế độ gửi kiến nghị cũng chẳng được hồi âm. Vậy thì sau này, khi ràng buộc về thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo bị xóa khỏi Hiến pháp, Dân sẽ phải chờ đợi bao lâu?
Đoạn thứ nhất trong Điều 72 của Hiến pháp 1992 viết rằng:
“Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.”
Khi điều khoản trên hóa thân vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp, 5 chữ và phải chịu hình phạt” bị loại bỏ. Thành thử chỉ còn sót lại như sau:
“Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.” (Điều 32, Khoản 1)
Hệ quả kéo theo là: “Khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” thì “không ai bị coi là có tội”, song vẫn có thể “phải chịu hình phạt”. Ở các nước văn minh thì hiển nhiên không ai “phải chịu hình phạt” khi chưa “bị coi là có tội”. Nhưng ở xứ sở bất an, nơi khi được công an “mời vào” đồn thì vẫn còn mạnh khỏe, mà lúc “tiễn ra” có thể đã liêu xiêu, thậm chí có trường hợp trở thành xác không hồn, thì việc triệt tiêu 5 chữ và phải chịu hình phạt” sẽ giúp cho công an nhân dân thêm vô tư “luyện võ” với Nhân dân.
Đoạn thứ hai trong Điều 72 của Hiến pháp 1992 viết rằng:
“Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.”
Trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, quy định này được sửa thành:
“Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.” (Điều 32, Khoản 4)
Nghĩa là: Từ “giam giữ” được thay bằng “tạm giữ, tạm giam”. Hậu quả là: Khi đã kết án tù giam và chuyển từ trạng thái“tạm giữ, tạm giam” sang hình thức “giam giữ” để chấp hành án, thì người tù không còn được bảo vệ và người coi tùlàm trái pháp luật không còn bị xử lý theo quy định của điều khoản sửa đổi.
Ba nội dung bị loại bỏ được đề cập ở trên đều có chung một “tội” là: Chúng hay để Dân níu bám, nhằm tố cáo chính quyền vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Có lẽ vì vậy nên phải “kết liễu” chúng, đẩy chúng ra khỏi Hiến pháp, để… giữ gìn uy tín cho chính quyền. Ngoài ra, hai quy định sau đây cũng đã bị loại bỏ khỏi dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Điều 64 về hôn nhân và gia đình trong Hiến pháp 1992 được sửa thành Điều 39 trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhưng lại bỏ đi đoạn quy định về trách nhiệm nuôi dạy con của cha mẹ và trách nhiệm chăm sóc ông bà, cha mẹ của con cháu. Điều đó cũng có nghĩa là bỏ đi quyền của con cái được cha mẹ nuôi dạy và quyền của ông bà, cha mẹ được con cháu chăm sóc.
Điều 59 của Hiến pháp 1992 được sửa thành Điều 42 trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhưng bỏ đi quy định:
“Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí.”
Và nó được thay bằng một quy định chung chung trong Điều 66:
“Nhà nước… quy định phổ cập giáo dục; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý…”
Vậy là, theo dự thảo sửa đổi Hiến phápbậc tiểu học không còn hiển nhiên được miễn học phí.
Quyền treo trên lửa
Loài người từ khi sinh ra đã tồn tại và phát triển nhờ biết lợi dụng. Ban đầu thì sống nhờ săn bắt và hái lượm, tức là lợi dụng rừng và biển. Rồi tiến hành trồng cấy, tức là lợi dụng đất đai và ánh sáng mặt trời. Từ vận chuyển hàng hóa trên sông đến ngăn đập tạo ra thủy điện đều là lợi dụng sức nước. Từ căng buồm ra khơi đến tạo ra phong điện đều là lợi dụng sức gió
Đảng Cộng sản Đông Dương đã lợi dụng thời cơ, khi phát xít Nhật bị quân đồng minh đánh bại và chính quyền thuộc địa Pháp chưa kịp hồi sinh, để cướp chính quyền. Trong những năm tháng hoạt động bí mật, đảng đã lợi dụng sự cưu mang, giúp đỡ và che chở của những người giàu có, để rồi khi chiếm được chính quyền lại đem bao ân nhân ra đấu tố… trong cải cách ruộng đất. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đảng Lao động Việt Nam cũng đã lợi dụng tính mạng và của cải của Nhân dân cùng với sự ủng hộ của bạn bè quốc tế để giành thắng lợi.
“Lợi dụng” thuộc vào bản năng sống và hành động của con người. Vậy thì việc “lợi dụng” có gì sai? Lợi dụng điều kiện thuận lợi không thể bị coi là xấu, mà không lợi dụng điều kiện thuận lợi cũng chẳng phải là điều đáng để ngợi ca.
Trong các nhà nước pháp quyền, hoạt động của toàn xã hội được điều tiết bằng pháp luật. Xã hội càng văn minh, càng đa dạng thì hệ thống pháp luật càng cồng kềnh và phức tạp. Dù cố gắng đến đâu đi nữa, thì vẫn luôn tồn tại những kẽ hở pháp lý và những quy định chồng chéo. Khi có kẽ hở thì công dân có quyền lách qua mà không hề vi phạm pháp luật. Khi tồn tại nhiều điều khoản chồng chéo, với những quy định khác nhau có thể áp dụng cho cùng một vụ việc, thì đương sự có quyền áp dụng điều khoản có lợi nhất cho mình. Vì vậy, ở một số nước phát triển cao vẫn công khai bày bán những cuốn sách về các mẹo tính thuế để giảm thuế. Những hành động như vậy không phải là tội lỗi, mà hoàn toàn hợp pháp.
Ấy vậy mà ở CHXHCN Việt Nam lại có một loại tội gọi là “tội lợi dụng…”. Kỳ khôi nhất là “tội lợi dụng sơ hở của pháp luật…”. Nếu cần xử lý, thì trước hết phải xử lý những người đã tiêu tốn tiền của Dân mà tạo ra sơ hở pháp luật, chứ sao lại dồn hết trách nhiệm lên đầu những người lợi dụng sơ hở đó? Kiểu quy tội này cũng “hợp lý” như việc quan phụ mẫu mặc quần thủng… lên công đường, rồi lại phạt dân đen vì tội nhìn vào chỗ thủng.
Hiến pháp 1992 có hai điều khoản “cấm lợi dụng”:
“Không ai được… lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.” (Điều 70, Đoạn 3)
“Nghiêm cấm việc… lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.” (Điều 74, Đoạn 4)
Điều gì đáng nói ở đây? Như đã phân tích ở trên, riêng hành động “lợi dụng” thì không thể coi là tội, và vì vậy không thểcấm. Để mô tả những thứ cần cấm và có thể cấm trong hai điều khoản kể trên, thì chỉ cần viết gọn lại như sau là đã quá đủ:
“Không ai được… làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.”
“Nghiêm cấm việc… vu khống, vu cáo làm hại người khác.”
Nghĩa là bỏ đi hai đoạn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo. Khi vi phạm các điều cấm vừa viết, thì dù “lợi dụng…” hay không cũng chẳng làm cho tội nặng lên hay nhẹ đi. Tức là, xét về mặt lô-gíc thuần túy thì các đoạn “lợi dụng…” là hoàn toàn thừa.
Vậy thì, tại sao nhà cầm quyền vẫn cố tình cài thêm các đoạn “lợi dụng…” vào các điều khoản ấy?
Phải chăng, đó là thủ đoạn pháp lý, nhằm hạn chế và cản trở những quyền con người và quyền công dân được gán sau từ “lợi dụng”?
Chắc hẳn, mục tiêu mà họ nhắm tới là ngăn cản việc thực thi các quyền đó, chứ không phải những cái gọi là vi phạm, mà họ bám vào để kết tội. Từ “lợi dụng” bị lạm dụng để bắc cầu, nhằm kết nối các quyền con người với các tội, để kiếm cớ phủ định các quyền chính đáng, rồi trấn áp và trừng trị những người thực thi các quyền đó.
Ví dụ: Nếu ai đó thực thi “quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” (được quy định tại đoạn thứ nhất trong Điều 70 của Hiến pháp 1992), mà nhà cầm quyền không ưng, thì họ sẽ gán cho cái nhãn làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Rồi dùng từ “lợi dụng” để bắc cầu tín ngưỡng, tôn giáo” với cái vi phạm được ngụy tạo đó. Kết quả thu được là tội lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Vậy là có thể vận dụng đoạn thứ ba trong Điều 70 của Hiến pháp 1992 và hệ quả của nó trong Bộ luật Hình sự (Điều 258) để trừng trị.
Điều 70 và Điều 74 của Hiến pháp 1992 được sửa đổi thành Điều 25 và Điều 31 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp, trong đó vẫn duy trì hai khoản “cấm lợi dụng”:
“Không ai được… lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.” (Điều 25, Khoản 3)
“Nghiêm cấm việc… lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.” (Điều 31, Khoản 3)
Đi xa hơn nữa, họ còn đưa thêm một điều khoản “cấm lợi dụng” hoàn toàn mới vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp:
“Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.” (Điều 16, Khoản 2)
Với bảo bối vạn năng này, tất cả các quyền con người và quyền công dân đều có thể bị cản trở. Cái nhãn xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác” thì quá bao la và có thể dễ dàng ngụy tạo. Trên thực tế, họ cũng chẳng cần phải mất công tìm kiếm hay bày đặt chứng cớ, mà chỉ cần nhắm mắt đưa ra kết luận mang tính quy chụp.
Những ai đã từng trực tiếp chứng kiến các cuộc biểu tình yêu nước, phản đối hành động gây hấn của “bạn 16 chữ vàng”, diễn ra tại Hà Nội vào hai mùa hè 2011 và 2012, thì đều có thể nhận thấy rằng: Những người tham gia biểu tình rất ôn hòa và luôn chú ý giữ gìn trật tự công cộng, để công an không có cớ trấn áp. Nếu có hỗn loạn thì lại do chính những người mang danh lực lượng giữ gìn an ninh và trật tự cố ý gây ra. Thế nhưng, nhà cầm quyền vẫn vu cho những người biểu tình tội gây rối trật tự công cộng để đàn áp. Đó là một trong những thủ đoạn đã được áp dụng trên thực tế để cản trở và trấn áp công dân thực thi quyền tự do biểu tình.
Chưa hài lòng với cái lưới tà ma bao trùm kể trên, họ còn bổ sung một điều khoản “cấm lợi dụng” sau đây vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp:
“Nghiêm cấm hành vi lợi dụng hoạt động văn hóa, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam, truyền bá tư tưởng, xuất bản phẩm và các hình thức khác có nội dung phản động, đồi trụy, mê tín, dị đoan.” (Điều 64, Khoản 4)
Với quy định này, nhà cầm quyền có thêm phương tiện pháp lý để cản trở quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí
Thủ đoạn lợi dụng… từ “lợi dụng” để biến những hoạt động chính đáng và hợp pháp của công dân thành tội lỗi là như vậy.
Quyền nằm dưới dao
Hiến pháp 1992 có một điều rất đặc biệt, đó là:
Điều 69: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.”
Đặc biệt ở chỗ nào? Nó quy định 6 quyền cơ bản của công dân, nhưng… trên thực tế thì tất cả 6 quyền ấy đều bị nhà cầm quyền cản trở.
Ví dụ điển hình là quyền biểu tình. Với ràng buộc “theo quy định của pháp luật”, nhà cầm quyền có thể thông qua Quốc hội để ban hành luật, nhằm hạn chế quyền biểu tình trong một khuôn khổ nào đó. Nhưng hàng chục năm trôi qua, vẫn không xuất hiện một luật nào liên quan đến biểu tình. Nhiều người, kể cả giới cầm quyền, nhầm tưởng rằng: Khi chưa có luật về biểu tình thì công dân chưa được phép biểu tình. Nhưng bài “Quyền biểu tình của công dân” đã chỉ ra rằng: Theo Hiến pháp hiện hành thì công dân luôn luôn có quyền biểu tình. Nếu đã có luật về biểu tình thì công dân phải tuân theo ràng buộc của luật đó. Khi chưa có luật về biểu tình thì công dân càng có quyền biểu tình, và quyền ấy không bị hạn chế bởi pháp luật, tức là càng tự do.
Điều 4 của Hiến pháp 1992 quy định rằng:
“Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Căn cứ vào điều khoản này thì có thể nói rằng: Việc công dân biểu tình khi chưa có luật về biểu tình còn chính đáng và hợp pháp hơn so với việc ĐCSVN hoạt động khi chưa có luật quy định về khuôn khổ hoạt động của đảng. Tại sao lạichính đáng và hợp pháp hơn? Bởì vì “Nhà nước chỉ được làm những điều pháp luật cho phép, còn Nhân dân được làm tất cả những điều pháp luật không cấm.” Nhà nước được hiểu là “một tổ chức xã hội đặc biệt của quyền lực chính trị, được giai cấp thống trị thành lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của mình”, nên ràng buộc kể trên đối với Nhà nước cũng có hiệu lực cho ĐCSVN. Hơn nữa, như ông Nguyễn Trung đã nhận định, Đảng mới là nhà nước đích thực: Nhà nước đảng trị.”  Rõ ràng, Hiến pháp hiện hành không hề đề cập đến khuôn khổ hoạt động của đảng và cũng chưa có luật nào quy định về khuôn khổ đó, cho nên đảng cũng chưa có được những điều pháp luật cho phép” để mà “được làm”, để mà “hoạt động”. Trong khi đó, quyền biểu tình của công dân được minh định trong Hiến pháp hiện hành và chưa có luật nào hạn chế quyền ấy, nên hiển nhiên là công dân có quyền biểu tình không hạn chế.
Để ngăn cản và đàn áp biểu tình, chính quyền thường viện dẫn Nghị định Quy định một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng số 38/2005/NĐ-CP và Thông tư số 09/2005/TT-BCA (hướng dẫn thi hành nghị định đó). Nhưng bài Lực cản Nhà nước pháp quyền đã chỉ ra rằng:
-       Nghị định số 38/2005/NĐ-CP và Thông tư số 09/2005/TT-BCA vi phạm Hiến pháp và pháp luật;
-       Chính phủ không có quyền ban hành nghị định để hạn chế quyền công dân;
-       Dù bỏ qua hai khía cạnh vừa kể, thì lời văn của hai văn bản ấy cũng không cho phép áp dụng chúng để cản trở biểu tình yêu nước, như những cuộc biểu tình ôn hòa đã diễn ra ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trong hai năm 2011 và 2012.
Hẳn nhà cầm quyền đã nhận ra rằng: Hiến pháp và pháp luật hiện hành không cho phép họ cản trở quyền biểu tình của công dân. Ban hành luật về biểu tình thì họ hoàn toàn không muốn, vì dù quy định ngặt nghèo đến đâu đi nữa thì vẫn sẽ “lọt lưới” một số cuộc biểu tình. Vậy phải làm thế nào bây giờ?
Lợi dụng thời cơ sửa đổi Hiến pháp, họ đã sửa Điều 69 của Hiến pháp 1992 như sau:
Điều 26: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.”
Điều gì thay đổi ở đây? Họ đã xóa hai từ “có quyền” trước đoạn được thông tin” và trước đoạn ”hội họp, lập hội, biểu tình”. Đồng thời, họ dùng chữ “được” (vốn dĩ chỉ là một thành phần của từ được thông tin”) thay cho hai từ “có quyền”ấy.  Để làm gì? Để xóa bỏ những quyền cơ bản đó của công dân. Từ chỗ công dân luôn “có quyền” (kể cả khi không có luật hoặc chưa có luật liên quan), bây giờ bị tước “quyền”và “quyền” bị hạ cấp xuống thành những thứ “được” ban phát. Mà được… theo quy định của pháp luật” thì cũng có nghĩa là chỉ được… theo quy định của pháp luật”. Tức là công dân “chỉ được” ban phát nếu nhà cầm quyền đã ban hành quy định của pháp luật”. Khi nhà cầm quyền chưa muốn, lờ đi việc ban hành quy định của pháp luật”, thì Dân sẽ không được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”.
Đây là một thủ đoạn pháp lý tinh vi, nhằm tước đoạt quyền được thông tin và các quyền hội họp, lập hội và biểu tình của công dân.
Một điều khoản khác rất đáng lưu ý trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 là:
“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng.” (Điều 15, Khoản 2)
Điều khoản này là một sáng tạo pháp lý mới mẻ của các nhà lập hiến CHXHCN Việt Nam. Chữ “chỉ” tạo ra ảo tưởng rằng: Điều khoản này nhằm hạn chế những hoàn cảnh mà quyền con người và quyền công dân có thể bị giới hạn, tức làđể bảo vệ các quyền đó. Thế nhưng hậu quả của nó thì ngược lại.
Vốn dĩ, việc “quyền con người, quyền công dân có thể bị giới hạn” không hề được đề cập đến trong Hiến pháp 1992. Nay điều này được nêu đích danh trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhằm hiến định hóa việc chính quyền có thể giới hạnquyền con người và quyền công dân.
Danh sách “lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng” rộng đến mức có thể bao trùm mọi hoàn cảnh thông thường. Cho nên, nhà cầm quyền luôn có thể viện dẫn những lý do đó, nhằm giới hạn quyền con người và quyền công dân, bất cứ lúc nào mà họ muốn. Vì vậy, việc nhét chữ “chỉ” vào điều khoản ấychẳng hề có tác dụng hạn chế phạm vi hành động của giới cầm quyền, mà chỉ ngụy trang, che đậy mục đích hiến định hóa ấy mà thôi.
Điều khoản kể trên quy định rằng ”quyền con người, quyền công dân… có thể bị giới hạn”, nhưng lại không viết rõ ai và cấp nào có quyền giới hạn. Điều đó mở đường cho bộ máy cầm quyền các cấp có thể can thiệp tùy tiện vào quyền con người và quyền công dân.
Như vậy, Điều 15, Khoản 2 cũng là một thủ đoạn pháp lý tinh vi, nhằm thu hẹp quyền con người và quyền công dân.
Hai ví dụ kể trên nhắc nhở mọi người phải hết sức cảnh giác với những bẫy pháp lý đã được cài trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Giữ chút quyền Dân
Trong tham luận trình bày tại phiên họp Quốc hội vào buổi sáng ngày 16/11/2012, Luật sư Trương Trọng Nghĩa (Đại biểu Quốc hội khóa XIII của Thành phố Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam) đã đề nghị một quan điểm, một nguyên tắc, đó là:
Thành tựu của Hiến pháp 1992 cần được bảo vệ và tiếp tục phát huy, đặc biệt nguyên tắc Nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân, phát huy các quyền tự do cơ bản của nhân dân trên mọi mặt. Do đó, chỉ nên sửa đổi Hiến pháp 1992 nếu phát huy hơn nữa các quyền tự do, dân chủ, chú trọng đổi mới đồng bộ chính trị và kinh tế, nhờ thế tạo động lực mạnh mẽ hơn cho giai đoạn cách mạng mới. Nếu không làm được như vậy thì không nên sửa lặt vặt.”
Tiếc rằng, đề nghị hợp lý và sáng suốt này chưa được phản ảnh đúng mức trong bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.Không phát huy hơn nữa các quyền tự do, dân chủ”, như Đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa đề nghị, mà ngược lại,dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã cắt giảm nghiêm trọng quyền con người và quyền công dân.
Dân không quan tâm nhiều đến việc ghế lãnh đạo được hoán vị ra sao và quyền lực được chia lại thế nào. Họ đủ thông minh để hiểu rằng: Những tiến bộ được tung hô, như việc bỏ hiến định về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, có thể là một bước tiến trong tư duy của giới lãnh đạo và giới lý luận, nhưng sẽ chẳng tác động mấy đến thực tế cuộc sống. Khi không còn được gán cho vai trò chủ đạo, thì thành phần kinh tế nhà nước sẽ được giũ bớt trách nhiệm đối với nền kinh tế quốc dân, nhưng lại vẫn tiếp tục được hưởng mọi sự o bế và ưu tiên. Đó là lãnh địa lý tưởng cho tham nhũng, là đại lộ thông thoáng để tuồn tài sản toàn dân vào túi các quan tham.
Dân quan tâm nhất là các quyền lợi thiết thân, trong đó có quyền sở hữu đất đai.
Như đã trao đổi trong bài “Hai tử huyệt của chế độ”, quy định trong Hiến pháp 1992 về quyền lãnh đạo mặc nhiên của ĐCSVN (Điều 4) và đất đai thuộc sở hữu toàn dân (Điều 17) là hai vấn đề tồn tại then chốt. Chúng phải được khắc phục sớm, vì Dân, vì Nước và cũng vì chính ĐCSVN. Thế nhưng, hai quy định này vẫn được dự thảo sửa đổi Hiến pháp bảo lưu, trong khi quyền con người và quyền công dân lại bị thu hẹp đáng kể.
Đối với Dân, Hiến pháp kiểu này có thể trở thành bãi mìn pháp lý. Nếu dự thảo như vậy được thông qua, thì Hiến pháp có thể không còn là khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của Nhà nước và xã hội, mà trở thành cái gông cùm Nhân dân và Dân tộc.
Chất lượng dự thảo sửa đổi Hiến pháp thể hiện cái tâm và tầm của các tác giả, không chỉ bao gồm những người trực tiếp tham gia soạn thảo, mà kể cả những vị ngồi trên cao để chỉ đạo và áp đặt. Nếu chỉ hạn chế về tầm, tức là do trình độ hay do sơ suất, thì Nhân dân có thể góp ý để bù lại. Nhưng những ví dụ được đề cập ở trên cho ta ấn tượng là: Những thay đổi theo hướng tiêu cực trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã được tiến hành một cách có chủ ý và được tính toán kỹ lưỡng. Thậm chí, họ đã vận dụng cả những thủ thuật và thủ đoạn pháp lý tinh vi để thực hiện và che đậy mục đích đó. Khitâm đã như vậy, thì liệu việc góp ý của Nhân dân có đủ để lay chuyển được quyết tâm sắt đá của họ hay không?Thật khó mà tin rằng họ có thể sữa chữa bản dự thảo để đưa ra một Hiến pháp thực sự tử tế với Dân.
Vì vậy, để bảo vệ quyền con người và quyền công dân, thì nên tạm dừng việc sửa đổi Hiến pháp 1992. Hãy đợi đến một thời điểm thuận lợi hơn, khi tầm đã đủ cao và tâm đã đủ ổn, rồi hãy thay đổi Hiến pháp một cách căn bản, theo chiều hướng tiến bộ, để có được một bản Hiến pháp thể hiện ý nguyện của Dân, do Dân và vì Dân.
Hà Nội, 15/01/2013
Nguồn: Blog Hoàng Xuân Phú




Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2012

Công viên Nghĩa Đô đang biến dạng

Công viên Nghĩa Đô được xây dựng từ 10 năm trước theo định hướng "công viên cây xanh". Hàng ngày có hàng trăm người đến đây từ các khu dân cư lân cận, thậm chí xa vài ba cây số, để đi bộ, tập dưỡng sinh hoặc đơn giản là nghĩ ngơi, đọc sách… Sáng chiều là những giờ cao điểm thường chứng kiến cảnh "quá tải" không chỉ trên các lối đi bộ mà cả các bãi cỏ và sân tập...  Vị trí giữa khu dân cư đông đúc, bốn bề tiếp giáp các  tuyến đường có hồ nước, quanh hồ có đường đi bộ, cây cối rợp bóng mát, chính là thế mạnh của công viên này. Nếu được sự quan tâm đúng hướng của các cơ quan chức năng Công viên Nghĩa Đô hoàn toàn có thể trở thành  một công viên cây xanh kiểu mẫu của Thủ đô tránh được tình trạng bị “địch vụ hóa” như  đang thấy tại hầu hết các công viên mới và cũ của Hà Nội .

Dự án khu vui chơi trẻ em xây chồng lên vườn hoa cây cảnh
Tuy nhiên, đáng tiếc là, thời gian gần đây,  không hiểu vì lý do gì, Quận Cầu Giấy đang cho phép thi công một số công trình bên trong hoặc sát hàng rào  của Công viên dẫn đến tình trạng ô nhiễm và nguy cơ thay đổi toàn bộ diện mạo và công năng của Công viên này.

Mới đây Quận đã cho xe ủi san bằng khu vườn hoa cây cảnh đang tươi tốt rộng gần 5.000 m2 tại vị trí đẹp nhất bên trái cổng chính của Công viên để thay vào bằng một khu vui chơi giành cho trẻ em. Đồng thời một khu nhỏ hơn giành cho người lớn cũng được xây lên bên cổng phụ . Khi dư luân xôn xao, thì thấy trương  lên sơ đồ "Dự án khai thác quỷ đất" theo phương thức xã hội hóa. tổng kinh phí dự toán là 5 tỷ đồng. Công trình này đã hoàn thành khá chóng vánh chỉ sau 2 tháng đưa vào sử dụng với những phản ứng lẫn lộn từ công chúng. Người thì hoan nghênh khi nhìn thấy sự mới mẽ, người thì phê phán cách làm dự án thiếu minh bạch với lối quan niệm sai lệch, lẫn lộn giữa  công viên  cây xanh và  khu vui chơi giải trí, nên đã  phá vỡ cấu trúc ban đầu của một công viên cây xanh - nơi cần  không gian yên tĩnh, mát mẽ với không khí trong lành, để biến thành nơi ồn ào, náo nhiệt; thoạt nhìn tưởng là thuận tiện, nhưng thực chất sự xô bồ, chơi không ra chơi, nghĩ ngơi không ra nghĩ ngơi; mới đưa vào sử dụng đã cho thấy một số hạng mục kém chất lượng và sự bất cập trong quản lý. Mấy ki-ốt mới mọc lên bên cạnh gây cảm giác chật chội và lộn xộn mất mĩ quan. Nhiều ý kiến cho rằng số tiền đó đáng ra nên dùng để sửa chữa nhiều hạn mục đã bị xuống cấp của Công viên; các khu vui chơi nên xây tại các khu đất còn trống, không nên thay vào vị trí trung tâm Công viên đã ổn định.
Nhiều ki-ốt mọc lên 

Có một hiện tượng đáng nói là, ngay sau khi hoàn thành hai khu vui chơi nói trên, người ta thấy có ít nhất là hai “dự án” khác đang diễn ra trên đất Công viên hoặc giáp sát hàng rào Công viên.  Cụ thể, đó là lô đất rộng khoảng hơn 3.000 m2 thuộc góc trái của Công viên giáp đường Nguyễn Văn Huyên  vừa  được quây tường bao, để làm gì chưa thấy công báo (Xem ảnh dưới)

Quay tường chiếm đất (bên góc trái Công viên)
Cổng vào lỡ lói lâu ngày  không tu sửa










Một điểm nhậu nữa đang "mọc ra" trên đất cây xanh gipá  Công viên


Đồng thời một dự án khác đang diễn ra tại lô đất hình tam giác bên phải Nhà Văn Hóa Phường Dịch Vọng giáp đường Chùa Hà  cũng khá rộng vốn là "đất kẹt" đang trồng cây xanh. Mấy tháng trước có người vào trong chặt cây, san nền nhà và mở cổng giống như để xây một khu “ăn nhậu” thì phải(?). Vì lý do nào đó công việc  đã tạm ngừng một thời gian, nay lại tiếp tục với nhịp độ nhanh hơn. Họ xây  cả tường che chắn áp sát hàng rào sắt  của Công viên trông rất chướng mắt. Như vậy, cùng với khoảnh "đất kẹt" đắc địa bên trái Nhà Văn hóa Dịch Vọng lâu nay đã được "khai thác” làm quán bia gây ô nhiễm nguồn nước hồ, làm chết cá và ô nhiễm không khí, nếu khu ăn nhậu mới này hoàn thành thì gần như toàn bộ Công viên phía đường Chùa Hà sẽ bị vây hãm bởi hai “tổ hợp ăn nhậu”; nguyên nhân ô nhiễm chắc chắn sẽ tăng hơn nhiều cả đối với không khí, nguồn nước và cả văn hóa nữa!  
Động nhậu thải nước bẩn xuống hồ làm chết cá, gây ô nhiễm  
 
Thiết nghĩ những việc làm  khuất tất trên đây nếu không có sự “bật đèn xanh” từ một cơ quan công quyền thì không ai dám làm.  Dư luận nhân dân bất bình, khó hiểu trước cách thức quản lý đất công mà chính quyền địa phương đang áp dụng tại khu vực Công viên Nghĩa Đô. Thiết nghĩ Chính quyền Quận Cầu Giấy hoàn toàn có đủ thẩm quyền để thu hồi những phần “đất kẹt” hai bên Nhà Văn hóa Phường Dịch Vọng và sáp nhập vào Công viên Nghĩa Đô thành một công viên hoàn chĩnh, nhưng lại không làm như vậy. Những lô đất đắc địa đó đang trôi nỗi vào tay ai? Đó là dấu hỏi mà nhân dân muốn chính quyền làm rõ. Chậm còn hơn không, nhân dân khẩn thiết đề nghị các cơ quan hửu trách  hãy vào cuộc nhằm ngăn chặn những hoạt động xây dựng sai trái để bảo vệ Công viên Nghĩa Đô cho hôm nay và mai sau./.
  


Thứ Năm, 25 tháng 10, 2012

Tuổi già là thời sung sướng nhất

Khi đã lớn tuổi, thì con người được nhiều tự do hơn, được thong thả hơn để sống. Không còn phải như em bé bị cha mẹ ép buộc, bây giờ thì muốn làm chi thì làm, muốn thức khuya dậy sớm gì, cũng chẳng còn ai la mắng dọa nạt, rầy la. Nếu vợ vì thương, sợ mất sức khỏe, thì cũng cằn nhằn chút chút thôi, mình không nghe thì cũng chẳng bị roi đòn gì.

 Không còn phải khổ công học tập, lo lắng cho tương lai mai sau, chẳng phải học thêm chi cho mệt trí, biết quá nhiều, biết quá đủ rồi. Nếu đã nghỉ hưu, thì học thêm làm chi. Nếu còn đi làm, thì cũng đã rành nghề, quen tay quen việc,  làm việc dễ dàng.
 Khi già tình yêu cũng không  còn là mối bận tâm, không quan trọng quá, chưa nghe báo đăng các cụ già trên dưới sáu mươi tự vẫn chết vì  thất tình. Tội chi mà chết vì tình trong tuổi già, vì cũng sắp thấy Diêm Vương rồi, việc chi mà đi sớm hơn. Khôn quá rồi, chết vì tình yêu là nông nỗi.
Đời sống tình cảm của tuổi già êm đềm hơn, ít đau đớn ít sôi động, và bình lặng. Tuổi già rồi, các ông không còn tính chuyện mèo mỡ lăng nhăng, khỏi phải lo lắng sợ vợ khám phá ra chuyện dấu diếm mà nhà tan cửa nát. Đỡ tốn tiền quà cáp, đỡ tốn thì giờ lui tới các nơi bí mật. Hồi hộp, đau tim. Các bà khỏi phải lo chuyện đi đánh ghen, không còn cần phải chăm chút nhan sắc làm chi nữa, vì như chiếc xe cũ rệu, có sơn phết lại cũng xộc xệch, cũng méo mó. An tâm và chấp nhận, thì khỏi băn khoăn mà vui.    
Cũng có một số ít những cặp vợ chồng già đem nhau ra tòa chia tay, vì khi già cả hai đều trở thành khó tính. Hậu quả của ly dị trong tuổi già không trầm trọng như khi còn trẻ, vì con cái đã lớn, đã tự lập, không còn ảnh hưởng nhiều đến tương lai chúng và tương lai của chính mình. Vì còn sống bao lâu nữa mà lo lắng chi cho nhiều. Xa được ông chồng khó tính, độc tài là mừng. Dứt được bà vợ đanh đá, bạc ác là phải sung sướng. Khỏe trí.
     Tuổi già, cố giữ cho còn có nhau, khi đã đến nước ly dị, thì hai bên đều đúng, đều có lý. Đây là hành động tự cứu mình, và cứu người ra khỏi cảnh khổ lúc cuối đời, khi mà mộ bia đã thấp thoáng trước mắt, không còn bao nhiêu ngày nữa.
     Có điều ít ai nghĩ đến, là càng già, thì càng dễ tìm một người bạn đời để nối lại, để an ủi nhau trong tuổi xế chiều. Vì chung quanh họ, có thiếu chi người đứt gánh nửa đường. Chồng chết, vợ chết, ly dị. Vấn đề là không sao tìm được một người có chung nhiều kỷ niệm, nhiều tình nghĩa, nhiều chia xẻ như người phối ngẫu cũ.
     Tình già cũng nhẹ nhàng, thong thả, ít khổ đau, ít sôi nổi hơn tình khi còn trẻ trung. Sức lực cũng có còn bao nhiêu mà ghen tương nhau chi, mà lo lắng chi cho thêm mệt, những người lớn tuổi kinh nghiệm và biết rõ như vậy. Nhiều người  trẻ, sau khi gia đình tan vỡ thì xuống tinh thần, uống ruợu đánh bài tìm quên, đôi khi không phải vì họ quá thương yêu người cũ mà tự hủy hoại đời mình, mà chính vì họ tự thương thân, tự ái bị xúc phạm, và rồi sa lầy vào ruợu chè cờ bạc. Người lớn tuổi thì suy nghĩ khác. Họ nghĩ rằng ta cũng đã gần đất xa trời rồi, có sống thêm bao lâu nữa mà sầu khổ cho mệt.  Mất củ khoai lang, thì kiếm củ khoai mì bù vào.
     Tuổi già biết giá trị tương đối của tình yêu nên không tìm tuyệt hão, không tìm lý tưởng, và nhờ vậy không bị thực tế phũ phàng làm vỡ mộng, đau khổ.  Khi già rồi, có ai hỏi tuổi, thì cũng không cần dấu diếm, không cần sụt đi năm bảy tuổi làm chi. Sướng lắm. Vì có sụt tuổi, cũng không dấu được những nếp nhăn, mà chẳng có ích lợi gì. Nếu tự cọng thêm cho mình chừng chục tuổi, thì không chừng được thiên hạ nức nở khen là còn trẻ, trẻ quá, và họ mơ ước được như mình.
    Các ông có vợ đẹp, khi lớn tuổi cũng đỡ lo bọn dê xồm dòm ngó, lăm le dụ dỗ vợ mình. Con người, ai mà không nhẹ dạ, ai mà không ưa lời nói ngon ngọt êm tai, ai mà không có khi thiếu sáng suốt. Vợ  chồng cũng có khi  bất hòa, buồn giận nhau, và những khi nầy, lòng người dễ chao đảo lắm. Bởi vậy, các ông đỡ nghe các bà hăm he ly dị, hăm he bỏ nhau. Tuổi nầy các bà cũng  thừa khôn ngoan để biết những tên ngon ngọt, hứa hẹn nhiều, thường chỉ là những tên phá đám, chứ không thể tin tưởng được.
    Đàn bà có chồng hào hoa, đẹp trai,  khi lớn tuổi cũng bớt lo, vì các ông cũng bớt máu nóng, bớt chộn rộn và khôn ngoan hơn thời trẻ trung. Biết kềm chế hơn, và biết rõ giá trị hạnh phúc gia đình cần gìn giữ hơn là chơi ngông.
    Tuổi già, vợ chồng sống chung với nhau lâu rồi, chịu dựng nhau giỏi hơn, quen với cái thói hư tật xấu của nhau. Không còn thấy khó chịu nhiều nữa. Dễ dung thứ cho nhau, chấp nhận nhau, vì họ biết rõ bên cạnh cái chưa tốt của người bạn đời, còn có rất nhiều cái tốt khác.
Tuoi gia 2pingouinsVợ chồng, khi đó biết bao nhiêu là tình nghĩa, bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu thân thiết, cho nên hạnh phúc hơn, vui hơn.
Tình yêu trong tuổi già thâm trầm, có thì giờ bên nhau nhiều hơn, chia sẻ nhiều hơn. Cũng có nhiều ông bà già ưa cãi vã nhau ,cũng dễ hiểu, khi đó tai của cả hai ông bà đều lãng, người nầy nói một đường, người kia hiểu nẻo khác, cho nên buồn nhau giận nhau,  không gây gổ sao được?      Tuổi già, thì tất cả mộng ước điên cuồng của thời trẻ trung đã tan vỡ, đã lắng xuống, không còn khích động trong lòng, không còn thao thức nhức nhối. Họ biết sức mình đến đâu, và không tội chi mà ôm cao vọng cho khổ thân. Họ còn biết thêm rằng, nếu những cao vọng điên cuồng ngày xưa mà có thành đi nữa, thì e cũng chỉ là hư không, chẳng đáng gì.
    Khi tuổi già, thì biết khôn ngoan mà an phận, biết vui với bình thường. Biết đâu là hạnh phúc chân chính.  Nhiều người già rồi mới tiếc suốt một thời son trẻ không biết sống, phí phạm thời gian theo đuổi những huyễn mộng, làm đau khổ mình, làm điêu đứng người khác. 
     Tuổi già, vui khi thấy mình hết nông nỗi, nhìn đời bằng cái tâm tĩnh lặng hơn. Ai khen không hớn hở mừng, ai chê không vội vã hờn giận. Vì biết rõ mình không có gì xuất chúng để thiên hạ khen nịnh. Và biết mình cũng có nhiều cố tật không chừa được, đáng chê. Chê thì chê, khen thì khen. Khen cũng thế, mà chê cũng thế, thì ta vẫn là ta, là một kẻ già, đáng được khoan thứ hơn là trách móc.
     Lúc nầy, không  còn muốn làm giàu, không bị con ma tham lam thúc bách để kiếm và tích trữ cho nhiều tiền nhiều bạc. Con cái cũng đã lớn, không phải chi tiêu nhiều thứ , thì tiền bạc, chỉ cần đủ sống thôi, cũng là thỏa nguyện. Họ cũng không cần se sua, tranh hơn thua với ai, tinh thần họ vui vẻ, dễ chịu và khỏe khoắn hơn.
       Mối lo âu về tài chánh cũng nghẹ gánh.  Bởi khi đó, nhiều người đã tích trữ được một số tiền nhỏ. Nhà cửa cũng đã có.  Nợ nhà, nợ xe cũng ít đi, hoặc không còn nữa. Con cái cũng đã lớn, không còn là gánh nặng cho mình. Chúng nó  đã có nghề nghiệp, đã làm ăn được. Chắc chắn tương lai chúng khá hơn mình nhiều. Người già không chi tiêu nhiều, ăn cũng ít đi rồi, chơi cũng không còn phung phí dại dột như tuổi trẻ.
      Khi già, thời gian mới là thực sự của mình, vì không còn phải chạy ngược chạy xuôi kiếm sống nữa. Không còn bị bó buộc bởi trách nhiệm bổn phận. Có thể ngồi mơ mộng hàng giờ trên ghế đá công viên, thưởng thức thiên nhiên tuyệt thú, có thể tìm được an bình tuyệt đối, không như thời còn trẻ, đi nghỉ mát, mà thỉnh thoảng cũng bị công việc nhà ám ảnh, nhắc nhở.
    Tuổi già về hưu, là một mong ước của gần như của tất cả mọi người. Nhiều người gắng làm sao kiếm cho nhiều tiền để dược về hưu sớm hơn. Nhiều thanh niên, ngày về hưu còn xa lắc, xa lơ mà vẫn mơ ước. Người Mỹ, trẻ già chi cũng ngĩ đến hưu trí. Hưu trí trong tuổi già là một phần thưởng của tạo hóa, của xã hội. Cho sung sướng, nghỉ ngơi. Già là nghỉ ngơi, là khỏe khoắn.
     Mỗi buổi sáng nằm dài trên giường, sáng nào cũng là chủ nhật trong tuần, muốn dậy lúc mấy giờ cũng được, muốn nằm cho đến trưa đến chiều cũng không sao. Nằm thoải mái, không ai chờ, ai đợi, không có việc gì gấp gáp phải làm, ngoại trừ cái bọng tiểu nó thúc dục, không cho mình nhịn lâu thêm được nữa. Thế thì sao mà không sung sướng.
      Nếu chưa về hưu, còn đi làm việc, thì cái tâm của người lớn tuổi cũng nhẹ nhàng, ít bị những sức căng, bị áp lực đè nén. Vì tài chánh cũng quan trọng, nhưng không quá quan trọng đến nỗi khi thất nghiệp thì mất xe, mất nhà, mất vợ mất con như những người còn trẻ. Khi này, nhiều thứ trong cuộc sống đã ổn định, nhu cầu tiền bạc cũng không quá nhiều. Vã lại, già rồi, kinh nghiệm công việc nhiều, cho nên giải quyết mọi sự trong dễ dàng, thong thả. 
       Bạn đồng sự cũng có chút nể nang, phần vì tuổi tác, phần vì kinh nghiệm. Có trường hợp, còn có việc thì tốt, mất việc thì mừng hơn, vì có lý do chính đáng để về hưu cho khỏe. Vì nếu việc có hoài, việc lại dễ dàng, thì tiếc, không muốn về hưu. Tuổi lớn, không cần thăng tiến, không cần đua chen với ai, cho nên tinh thần thoải mái, được bạn bè chung quanh thương mến hơn. Những người về hưu rồi, trở lại làm việc, thì đi làm, như  đi chơi, chứ không phải "đi cày" như nhiều người khác quan niệm. Vui thì làm tiếp, chán thì  về nhà nghỉ ngơi.
    Người lớn tuổi, thì sức khỏe xuống, bệnh hoạn ồ ạt đến tấn công, không ai thoát khỏi bệnh hoạn. Nhưng họ lại cảm được cái sung sướng của một ngày khi bệnh thuyên giảm. Một ngày khi cảm thấy gân cốt ít nhức mỏi hơn, dễ chịu trong từng khớp xương hơn. Ngưới trẻ đâu có thấy được những nỗi sung sướng này?  Vì họ chưa kinh nghiệm, chưa trải qua, nên chưa biết. Họ có sức khỏe, nhưng họ không biết đó là sung sướng, cho nên, xem như chẳng có giá trị gì. Anh chị xem, nếu anh chị có một tảng ngọc to bằng cái bàn nằm trong vườn, mà anh chị không biết đó là chất ngọc, thì không biết quý, không biết mình sung sướng có tảng ngọc, mà chỉ quý và sướng vì viên ngọc nhỏ xíu nằm trên chiếc nhẫn mà thôi. Có người viết sách rằng, tuổi già, buổi sáng ngủ dậy, nghe xương cốt đau nhức mà mừng, vì biết mình chưa chết. Tôi thêm rằng, biết mình còn sống là mừng, biết mình đã chết nhẹ nhàng, càng mừng hơn.
    Nầy anh chị có nhớ câu chuyện Thượng Đế khi đuổi tổ phụ loài người là ông Adam và bà Eva xuống  trần gian, có chỉ mặt mà phán : “Từ nay chúng mi phải đổ mồ hôi trán mới có hạt cơm vào mồm”. Đó là câu nguyền rủa độc địa nhất, là lời phán ý nghĩa nhất, là con người phải sống trong nhọc nhằn. Sách Phật cũng có viết đời là đau khổ, và tu để tránh khổ. Đó, đời nầy đáng sống lắm, nhưng cũng nhiều khổ đau lắm. Bởi vậy nên tôi nói, được sống là mừng, mà được chết, cũng mừng. Tôi đi đám ma ông bạn già, thấy gia đình khóc lóc, rên rỉ thảm thương, con cháu mếu máo kể lể. Tôi cười trong bụng, nghĩ rằng bọn nầy không biết luật của tạo hóa. Có sinh thì có diệt. Chúng nó muốn thân nhân của chúng sống đời đời sao? Biết đâu chỉ là khởi điểm của một cuôc rong chơi. Nầy, tôi đọc cho anh chị nghe một đoạn thơ của anh bạn tôi:
chim dep chetTôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó
Ai thay da mãi mãi sống muôn đời ?
Kẻ trước, người sau xếp hàng xuống mộ,
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi ...
Khi tuổi già, thì xem cái chết như về. Ai không phải chết mà sợ. Sống qua khỏi tuổi năm mươi, là đã lời lắm. Tuổi trung bình của con người trên thế giới này chưa được con số năm mươi. Thì mình nên tự xem như được sống thêm đời thứ hai. Đời trước đã hoàn tất, có cả khổ đau lẫn hạnh phúc. Đời sau nầy, thì chắc chắn là sung sướng hơn hạnh phúc hơn đời trước. Vì đã từng trải, đã gom được kinh nghiệm của đời trước, để thấy đâu là hạnh phúc chân thật, đâu là phù du huyễn hão. Chết là về. Nhưng chỉ sợ không về được đến nơi đến chốn, mà như chiếc xe hư máy dọc đường. Làm khổ chủ xe, bắt nằm liệt mê man, không sống mà cũng không chết, đó mới là cái đáng sợ. Tôi biết vậy, nên đã làm di chúc, khi nào tôi bị mê ba ngày, thì xin rút ống cho tôi đi. Đi về bình an.
  Này, anh chị nghĩ sao về ông bác sĩ mà người ta đặt cho tên là bác sĩ tử thần? Già rồi tôi không nhớ rõ tên, hình như ông ta tên là “Ki-Vô-kiên” phải không? Cái tên gần gần như vậy. Theo tôi, thì ông nầy là một vị Bồ Tát, cứu độ cho chúng sinh mau qua khỏi khổ đau, để bị ra tòa, bị tù tội. Chỉ có cái tâm Bồ Tát thật lớn mới làm được việc đó. Tôi cố tìm một cái ảnh ông ta để thờ sống, mà không có. Tôi nghĩ, trong tương lai, luật pháp sẽ không ngăn cấm việc cho người đau đớn ra đi sớm hơn, vì đàng nào cũng chết, tại sao phải kéo cái đau đớn ra dài hơn mới được chết. Trừng phạt người ta hay sao? 
     Trong tuổi già, người ta biết ơn sự nhiệm mầu của tạo hóa. Có bộ máy nào, không phải là gang thép, bạch kim, mà chạy một mạch sáu bảy chục năm không ngưng nghỉ, mà vẫn còn hoạt động như quả tim, buồng phổi, trái thận, cái bao tử, não bộ. Có hệ thống ống dẫn nào hoạt động sáu bảy chục năm mà chưa thay thế như các mạch máu của hệ thống tuần hoàn. Thì dù có rò rỉ van tim, chất mỡ đọng nghẹt trong vài ba mạch máu, thì cũng là sự thường tình, và mừng là còn sống, còn sinh hoạt được. Dù có p hải liền liền đi vào cầu tiểu mỗi ngày nhiều lần, thì họ vẫn sung sướng là cái vòi xài mấy chục năm mà vẫn chỉ mới rò rỉ sơ sơ. Mấy cái vòi nước trong nhà, bằng kim khí cứng, không rỉ sét, thế mà năm bảy năm đã phải thay rồi...

Lưu ý về nguồn gốc xuất xứ : Bài này nhận được từ qua thư điện tử của bạn bè  chưa tìm thấy tên tác giả.

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này