Hiển thị các bài đăng có nhãn ASEAN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ASEAN. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

Hoàn Cầu: Các nước ven Biển Đông liên thủ cũng chưa chắc thắng TQ (*)

(*) Trích từ Báo Giáo dục Việt Nam, ngày 27/08/2013 07
 

Cách đặt vấn đề và nhận định của Lý Kiệt, tạm bỏ qua thái độ kiêu binh, trịch thượng và vênh váo thường thấy của một số học giả diều hâu theo đuổi chủ nghĩa dân tộc cực đoan ở Trung Quốc khi bàn tới Biển Đông, nổi lên hơn cả là những nhận thức lệch lạc, hung hăng, hiếu chiến, kích động xung đột đối đầu ở Biển Đông.

Lý Kiệt, lon Đại tá hải quân Trung Quốc.


Ngày 26/8 tờ Thời báo Hoàn Cầu đăng tải bài phân tích của Lý Kiệt, Đại tá hải quân, một "chuyên gia hàng đầu" từ Trung tâm Nghiên cứu Biển thuộc Viện nghiên cứu Tam Lược đưa ra nhận định "hùng hồn" và mang tính chất khiêu khích xung đột khi cho rằng, dù các nước ven Biển Đông có hợp sức liên thủ với nhau cũng chưa chắc đã chiếm được thế thượng phong so với hải - không quân Trung Quốc?!

Thứ Hai, 5 tháng 8, 2013

Bóng đen của chủ nghĩa diệt chủng đang trở lại Cămpuchia?

Sam Rainsy
Sam Rainsy và các đảng viên đối lâp đang vận động bầu cử tại
Theo BBC, chủ nhật, 4 tháng 8, 2013, thì trang mạng Hoa ngữ Hoa Thương Thời Báo phát hành tại Campuchia hôm 2/8 cho hay: Sam Rainsy, lãnh đạo Đảng Cứu quốc đối lập của Campuchia, đã phát biểu rằng đảng ông xem Trung Quốc là một đồng minh quan trọng.
Ông cũng tỏ rõ sự ủng hộ dành cho Trung Quốc trên vấn đề tranh chấp trên Biển Đông. Nhà lãnh đạo đối lập Campuchia cũng gửi những thông điệp hữu nghị đến với Chính phủ và người dân Trung Quốc.

Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013

Một lựa chọn khả thi cho đường sắt Bắc - Nam

Lời giới thiệu của chủ blog
Là ngươi quê miền Nam nhưng hầu hết cuộc đời sống và làm việc ở Hà Nội, bản thân tôi và gia đình đã từng  nhiều lần đi Tàu Thống nhất, từ những chuyến tàu nhếch nhác nhất  trong những năm sau 1975 đến những chuyến tàu tuy chưa đẹp và chưa thuận tiện nhưng khá an toàn ngày nay, tôi thấy hoàn toàn đồng cảm với nội dung của bài viết dưới đây của tác giả người Nhật Pi Uy đăng trên báo Asahi Shimbun và được đưa lại trên Dân trí hôm nay.

May mắn thay, sau rất nhiều tranh cãi tại Quốc hội và trong công luận, cái gọi là "Dự án Tàu cao tốc Bắc -Nam " đã tạm hoãn vô thời hạn. Lúc đó tôi nghĩ  "Ông Trời đã cứu Việt Nam khỏi một bàn thua trông thấy!" Và tôi cũng rất lấy làm thú vị khi đường hầm Đèo Hải Vân được khánh thành, nhưng đường sắt vẫn còn chạy trên con đường cũ của nó vắt vẻo trên đĩnh Đèo mà mỗi lần có dịp đi qua tôi vẫn thầm khen là "báu vật" của ngành du lịch Việt Nam chỉ tiếc rằng chưa được khai thác...

Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2013

Vấn đề Biển Đông theo cách nhìn của phía Trung Quốc (*)

(*) Gần đây trên mạng quân sự Trung Quốc đang tải 2 bài viết của học giả nước này bình luận về quan hệ Trung - Việt và vấn đề Biển Đông. Chủ blog Bách Việt muốn đưa lại 2 bài viết vào cùng một entry để bạn đọc tiện theo dõi đối chiếu.    

Bài I:   Đại sứ TQ: "Duy nhất còn tồn tại vấn đề trên biển"

chủ tịch nước, Trương Tấn Sang, Trung Quốc, Tập Cận Binh, Biển Đông
    
                    Đại sứ Trung Quốc Khổng Huyễn Hựu.Ảnh: TTXVN
Nhận lời mời của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ thăm cấp nhà nước Trung Quốc từ ngày 19-21/6. Nhân dịp này, Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Khổng Huyễn Hựu đã trả lời phỏng vấn báo chí Việt Nam về ý nghĩa chuyến thăm, tiềm năng, triển vọng quan hệ hai nước, việc xử lý thỏa đáng vấn đề tồn tại, cũng như các biện pháp nhằm tăng cường quan hệ hợp tác đối tác chiến lược Việt - Trung.
Đại sứ Khổng Huyễn Hựu cho biết:
Đây là chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, cũng là cuộc tiếp xúc đầu tiên của nguyên thủ hai nước sau khi Quốc hội Trung Quốc bầu ra ban lãnh đạo khóa mới.
Trung Quốc đánh giá cao chuyến thăm lần này của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức chung trong quan hệ hợp tác, đối tác chiến lược toàn diện Trung-Việt. Hiện nay, quan hệ Trung - Việt đã đạt được những bước phát triển to lớn, bên cạnh những cơ hội quan trọng còn có những vấn đề cần phải giải quyết. Chúng tôi hy vọng và tin tưởng rằng, hai bên sẽ xuất phát từ toàn cục mối quan hệ Trung - Việt và đại cục sự nghiệp phát triển của mỗi nước.
Đại sứ Trung Quốc Khổng Huyễn Hựu.Ảnh: TTXVN
Chuyến thăm Trung Quốc lần này của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển, đồng thời đạt được thỏa thuận trong các vấn đề tăng cường tin cậy lẫn nhau về chính trị, hợp tác hiệu quả và giải quyết thỏa đáng những bất đồng còn tồn tại giữa hai bên, thúc đẩy quan hệ Trung - Việt phát triển lên tầm cao mới. Hy vọng rằng với sự nỗ lực chung của hai bên, chuyến thăm Trung Quốc lần này của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ thành công tốt đẹp.
- Ông đánh giá như thế nào về mối quan hệ Việt - Trung hiện nay?
Trong năm nay, dưới sự nỗ lực chung của hai nước, quan hệ hợp tác, đối tác chiến lược toàn diện Trung - Việt tiếp tục có những bước phát triển mới.
Thứ nhất, lãnh đạo cấp cao hai nước tiếp xúc thường xuyên hơn. Tháng 3 năm 2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã điện đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Tháng 5, Phó Thủ tướng chính phủ Nguyễn Thiện Nhân và Ủy viên Quốc vụ Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Dương Khiết Trì đồng chủ trì hội nghị phiên họp lần thứ 6 của Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Trung Quốc - Việt Nam được tổ chức tại Bắc Kinh (Trung Quốc). Tháng 6, trong khuôn khổ chuyến thăm Vân Nam, dự lễ khai mạc Hội chợ Trung Quốc - Nam Á lần thứ nhất và Hội chợ Côn Minh lần thứ 21, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh đã hội kiến với ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Trung Quốc Mã Khải. Lãnh đạo hai nước đã đi sâu trao đổi ý kiến và đạt được nhận thức chung quan trọng trong việc tăng cường tin cậy lẫn nhau, thúc đẩy hợp tác và giải quyết các bất đồng, đóng góp quan trọng vào việc tăng cường quan hệ hợp tác, đối tác chiến lược toàn diện Trung-Việt.
Thứ hai, đưa việc giao lưu đã được cơ chế hóa đi vào chiều sâu. Hai nước triển khai sâu rộng trao đổi kinh nghiệm quản lý nhà nước, trong năm nay sẽ tổ chức hội thảo lý luận lần thứ 9, Trung Quốc sẽ tiếp tục giúp đỡ Việt Nam bồi dưỡng cán bộ Đảng. Cơ chế hợp tác giữa các bộ ngành ngoại giao, quốc phòng, công an, an ninh... hai nước tiếp tục hoạt động hiệu quả, mới đây hai nước đã tổ chức cuộc đối thoại chiến lược quốc phòng lần thứ 7. Giao lưu hợp tác giữa các địa phương hai nước ngày càng đi vào chiều sâu, đặc biệt là giữa các tỉnh, khu vực biên giới.
Thứ ba, hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước ngày càng mở rộng. Kim ngạch thương mại hai nước tăng với tốc độ cao qua các năm, Trung Quốc 9 năm liền là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Sau khi kim ngạch thương mại song phương năm 2012 đạt 40 tỷ USD, kim ngạch 5 tháng đầu năm 2013 đạt 18,9 tỷ USD, tăng 37.3% so với cùng kỳ năm ngoái, hai nước hứa hẹn sẽ hoàn thành đúng thời hạn mục tiêu đưa kim ngạch thương mại năm 2015 đạt 60 tỷ USD mà lãnh đạo hai nước đặt ra. Hai bên đã ký kết bản ghi nhớ về danh mục các dự án hợp tác trọng điểm của “Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế, thương mại Trung - Việt giai đoạn 2012-2016” và “Bản ghi nhớ hợp tác thương mại nông sản Trung - Việt”, tích cực thúc đẩy xây dựng khu hợp tác thương mại Trung Quốc tại Việt Nam, thúc đẩy bền vững quan hệ hợp tác “hai hành lang một vành đai kinh tế”, nghiên cứu phương thức hợp tác cho dự án đường quốc lộ cao tốc Bằng Tường - Hà Nội.
Thứ tư, giao lưu nhân dân sôi nổi. Hàng loạt hoạt động có tầm ảnh hưởng rộng rãi như diễn đàn nhân dân, gặp gỡ hữu nghị thanh niên, liên hoan thanh niên, liên hoan thanh niên biên giới... đạt được kết quả tốt đẹp. Hàng năm có hàng triệu lượt khách du lịch Trung Quốc đến Việt Nam, Trung Quốc là thị trường khách du lịch quan trọng nhất của Việt Nam. Mỗi năm Trung Quốc cấp 150 suất học bổng chính phủ cho Việt Nam, năm 2012 số lượng du học sinh Việt Nam tại Trung Quốc đạt trên 16.000 người, Việt Nam trở thành nước có nhiều du học sinh thứ tư tại Trung Quốc. Hai bên đã thống nhất việc mở trung tâm văn hóa tại hai nước.
Thứ năm, hai bên cùng nỗ lực duy trì ổn định trên biển, thúc đẩy đàm phán phân định và cùng nhau khai thác vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc bộ, và hợp tác về lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển, đồng thời lần lượt thiết lập các cơ chế công tác phù hợp tại hai nước, nhất trí các dự án ưu tiên hợp tác như phối hợp tìm kiếm cứu nạn trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc...
- Theo ông, tiềm năng và triển vọng phát triển mối quan hệ hai nước Việt - Trung như thế nào?
Việt Nam và Trung Quốc là các nước láng giềng quan trọng của nhau, núi sông liền một dải, văn hóa tương đồng, mối tình hữu nghị của nhân dân hai nước đời đời bền vững, đây là cơ sở quan trọng để hai nước thúc đẩy hợp tác chiến lược toàn diện. Hai nước Trung Quốc và Việt Nam đều là nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, chế độ xã hội, Đảng và Nhà nước tương đồng, đây là điểm chung lớn nhất của hai nước và là thế mạnh riêng biệt để phát triển quan hệ hai nước. Hiện nay, cả hai nước Trung Quốc và Việt Nam đều đang phải đứng trước nhiệm vụ quan trọng là cải cách và phát triển, củng cố hơn nữa mối tình hữu nghị giữa hai nước, tăng cường hợp tác cùng có lợi, phù hợp với lợi ích chung của hai nước và nhân dân hai nước, phù hợp với yêu cầu của thời đại về sự nghiệp bảo vệ và phát triển xã hội chủ nghĩa, và cũng là sự lựa chọn chiến lược chung của hai nước.
Cho dù tình hình quốc tế có biến động ra sao, Trung Quốc đều sẽ kiên trì con đường phát triển hòa bình, kiên trì phương châm ngoại giao “Thân thiện với láng giềng, làm đối tác với láng giềng”, phát triển quan hệ Trung - Việt theo phương châm 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, có tầm nhìn chiến lược và dài hạn về mối quan hệ hợp tác đối tác toàn diện Trung-Việt.
Trung Quốc sẽ tiếp tục hợp tác với Việt Nam, tăng cường tin cậy lẫn nhau về chính trị, thúc đẩy hợp tác cùng có lợi, giải quyết thỏa đáng các bất đồng còn tồn tại, tiếp tục thúc đẩy quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện Trung-Việt lên một tầm cao mới, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước.
Tôi tin rằng, với sự nỗ lực chung của hai bên, quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ ngày càng vững chắc, quan hệ kinh tế thương mại sẽ ngày càng chặt chẽ, lĩnh vực hợp tác sẽ ngày càng rộng mở, quan hệ láng giềng hữu nghị sẽ ngày càng đi vào chiều sâu. Tương lai mối quan hệ Trung - Việt sẽ ngày càng tốt đẹp.
- Lãnh đạo mới của Trung Quốc có những biện pháp nào để tăng cường quan hệ hợp tác đối tác chiến lược Việt -Trung?
Lãnh đạo Trung Quốc khóa mới rất coi trọng quan hệ giữa hai Đảng và hai nhà nước Trung Quốc và Việt Nam. Lãnh đạo Trung Quốc luôn luôn sát cánh cùng với Đảng và Chính phủ Việt Nam kiên trì phương châm “16 chữ” và tinh thần “4 tốt”, thúc đẩy quan hệ hợp tác đối tác chiến lược toàn diện Trung - Việt tiếp tục phát triển theo chiều sâu. Tôi cho rằng hai nước có thể thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực sau:
Thứ nhất, tăng cường giao lưu. Tiếp tục duy trì tiếp xúc cấp cao bằng nhiều hình thức, nắm vững các phương hướng lớn để phát triển quan hệ hai nước. Phát huy đầy đủ vai trò điều phối của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc, thực hiện tốt các cơ chế hợp tác trong các lĩnh vực ngoại giao, quốc phòng, công an, an ninh và giữa các ban ngành đối ngoại, tuyên truyền của hai Đảng, làm sâu sắc quan hệ giao lưu hữu nghị và hợp tác giữa các ban ngành, các lĩnh vực và địa phương hai nước.
Thứ hai, mở rộng hợp tác. Thực hiện tốt “Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế thương mại Trung - Việt”, nâng cao mức độ và quy mô hợp tác giữa hai nước. Thúc đẩy thương mại song phương tiếp tục tăng trưởng đồng đều, Trung Quốc sẵn sàng tạo điều kiện mở rộng nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam vào Trung Quốc. Ủng hộ doanh nghiệp hai nước tiến hành hợp tác lâu dài trong các dự án phát triển cơ sở hạ tầng quan trọng và dự án công nghiệp, tranh thủ triển khai các dự án hợp tác đã ký. Triển khai hiệu quả dự án xây dựng khu hợp tác kinh tế thương mại tại Việt Nam, kêu gọi doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam. Tiếp tục đẩy mạnh đào tạo cán bộ cho Việt Nam, thúc đẩy hợp tác nguồn nhân lực.
Thứ ba, làm sâu sắc giao lưu văn hóa nhân dân. Mở rộng toàn diện giao lưu trên các lĩnh vực văn hóa, tin tức, giáo dục, khoa học kỹ thuật, du lịch và y tế; không ngừng mở rộng các lĩnh vực và làm phong phú thêm nội hàm hợp tác. Tiếp tục triển khai các hoạt động như giao lưu hữu nghị thanh thiếu niên, tổ chức tốt diễn đàn nhân dân, liên hoan nhân dân khu vực biên giới và tiếng hát hữu nghị...; khuyến khích nhiều hơn nữa các đoàn nghệ thuật của Trung Quốc sang biểu diễn tại Việt Nam. Tăng cường tuyên truyền giáo dục về truyền thống hữu nghị Trung-Việt, tăng thêm tình cảm tốt đẹp giữa nhân dân hai nước, tạo môi trường xã hội có lợi cho việc phát triển quan hệ hai nước.
Thứ tư, giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển. Thực hiện tốt những nhận thức chung mà lãnh đạo hai bên đã đạt được và “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển,” sử dụng tốt các cơ chế đàm phán cùng kênh trao đổi hiện có, xử lý kịp thời vấn đề nảy sinh, góp phần thiết thực duy trì sự phát triển lành mạnh và ổn định của quan hệ hai nước.
Thứ năm, phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn đa phương. Tiếp tục tăng cường sự trao đổi và hợp tác giữa hai bên trên các lĩnh vực tại Liên hợp quốc, cơ chế đối thoại giữa ASEAN và các đối tác, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác tiểu vùng sông Mê Kông… bảo vệ lợi ích chung của các nước đang phát triển nói chung và hai nước Trung - Việt nói riêng.
- Trong bối cảnh diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và thế giới hiện nay, hai nước nên làm như thế nào để xử lý thỏa đáng vấn đề tồn tại?
Vấn đề trên biển là vấn đề duy nhất còn tồn tại, chưa được giải quyết giữa hai nước, gây cản trở nhất định cho việc phát triển quan hệ và cũng là thực trạng mà hai bên đều không mong muốn. Vấn đề trên biển vô cùng phức tạp và nhạy cảm nên để giải quyết một cách triệt để cần phải có thời gian.
Để giải quyết một cách thỏa đáng và từng bước vấn đề trên biển, lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được nhận thức chung quan trọng, hai bên đã ký “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển,” trong đó trọng tâm là cần phải xuất phát từ đại cục hữu nghị giữa hai nước, thông qua đàm phán hiệp thương để giải quyết, không để khác biệt giữa hai bên ảnh hưởng đến sự phát triển thuận lợi của quan hệ hai nước, tạo môi trường phát triển tốt đẹp cho mỗi bên.
Theo nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai bên, hai bên đã thành lập cơ chế đàm phán biên giới cấp chính phủ và chuyên gia, đồng thời không ngừng bàn bạc và hiện đã đạt được bước tiến triển tích cực.
Điều tôi muốn nhấn mạnh là Trung Quốc và Việt Nam là hai nước XHCN láng giềng, đang cùng ở trong giai đoạn then chốt của tiến trình cải cách và phát triển, việc củng cố mối quan hệ Trung-Việt, tăng cường hợp tác cùng có lợi phù hợp với lợi ích cơ bản của cả hai nước và nhân dân hai nước, có lợi cho việc bảo vệ và phát triển sự nghiệp XHCN, đồng thời cũng có lợi cho hòa bình, ổn định và phồn vinh tại khu vực. Đó chính là đại cục của quan hệ hai nước.
Chỉ cần hai bên cùng xuất phát từ đại cục này, thực hiện và tuân thủ nghiêm ngặt nhận thức chung có liên quan của lãnh đạo cấp cao hai nước và thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển, kiểm soát hữu hiệu khác biệt, tích cực tìm kiếm hợp tác và thiết thực duy trì ổn định… nhất định sẽ xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển.
- Đại hội 18 của Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương chú trọng phát triển quan hệ với ASEAN và các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam. Đại sứ có thể giới thiệu cụ thể hơn về chính sách này?
Báo cáo của Đại hội 18 Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ rõ “Chúng ta sẽ kiên trì thân thiện với láng giềng, làm đối tác với láng giềng, củng cố và làm sâu sắc hợp tác cùng có lợi với láng giềng, nỗ lực biến sự phát triển của mình thành điều có lợi cho các quốc gia xung quanh.” Nội dung liên quan đến chính sách đối ngoại xung quanh của Trung Quốc được đưa ra trong Báo cáo Đại hội 18 chính là sự kế thừa phương châm “thân thiện với láng giềng, làm đối tác với láng giềng” mà Trung Quốc thực hiện từ trước đến nay. Đây không những là cam kết chính trị mà Trung Quốc đưa ra với các nước xung quanh, trong đó bao gồm cả ASEAN, mà còn là tín hiệu tích cực đối với việc tiếp tục củng cố và phát triển hợp tác hữu nghị với các nước xung quanh.
Chính phủ khóa mới của Trung Quốc rất chú trọng quan hệ với các nước xung quanh, coi ASEAN là vị trí ưu tiên và hàng đầu trong chính sách đối ngoại xung quanh của mình. Xuất phát từ tầm cao chiến lược, thúc đẩy tiến trình đa cực hóa, ủng hộ các quốc gia đang phát triển đoàn kết tiến bộ… Trung Quốc kiên trì ủng hộ sự phát triển lớn mạnh của các nước ASEAN, trong đó bao gồm cả Việt Nam; kiên trì ủng hộ tiến trình cộng đồng và nhất thể hóa mà ASEAN đang thúc đẩy; kiên trì ủng hộ vai trò chủ đạo của ASEAN trong hợp tác khu vực. Trung Quốc mong muốn củng cố và làm sâu sắc quan hệ đối tác chiến lược với ASEAN, nỗ lực thúc đẩy các hạng mục trọng điểm trong kết nối, hợp tác trên biển và quan hệ đối tác kinh tế toàn diện tại khu vực để cùng thúc đẩy hòa bình, ổn định và phồn vinh tại khu vực.
Nguon: Vietnamnet/TTXVN

Bài II: VIỆT NAM KHÁC VỚI PHI VÀ NHẬT, NẾU TRUNG -VIỆT KIỂM SOÁT ĐƯỢC VA CHẠM TRÊN BIỂN THÌ NAM HẢI[i] SẼ RẤT KHÓ LÒNG BỊ LÀM RỐI
Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang đi thăm Trung Quốc đã trở thành cơ hội quan trọng khơi thông vấn đề Nam Hải cùng mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược giữa hai nước ở tầng cấp cao. Thông cáo báo chí về cuộc gặp giữa Chủ tịch Tập Cận Bình với Trương Tấn Sang cho thấy, lãnh đạo hai nước đã đi đến một vài sự đồng thuận, khả năng Trung Quốc và Việt Nam giải quyết tranh chấp lãnh thổ được một cách hòa bình là có thật.   
1
Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang đi thăm Trung Quốc thể hiện chính phủ Việt Nam coi trọng mối quan hệ với Trung
Trung Quốc hiện đang có va chạm trên biển với cả Việt Nam, Philippines và Nhật Bản, phạm vi lãnh thổ liên quan tới tranh chấp Trung-Việt trong đó là lớn nhất, tổng cộng có 29 hòn đảo cùng vùng biển có liên quan.  Mà trong số 3 nước này, Việt Nam lại là nước tốt nhất để cùng với Trung Quốc mở ra cơ sở đàm phán chính trị. Nếu như Trung-Việt có thể làm giảm bớt và cuối cùng kiểm soát được cường độ và phạm vi va chạm trên biển, nhằm hình thành nên một xu thế không thể nghịch chuyển về việc giải quyết vấn đề một cách hòa bình, thì Philippines sẽ rất khó lòng làm rối Nam Hải thêm được nữa, tình hình tranh chấp trên biển xung quanh Trung Quốc sẽ xuất hiện một cục diện mới. 
2
Đồng thời, Chủ tịch nước Việt Nam đi thăm Trung Quốc cũng trở thành cơ hội quan trọng khơi thông vấn đề Nam Hải cùng mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược giữa hai nước ở tầng cấp cao.
Trở ngại lớn nhất cho việc giải quyết tranh chấp trên biển một cách hòa bình giữa Trung Quốc và Việt Nam là sự khác biệt tương đối xa trong nhận thức về chủ quyền lãnh thổ, cả hai nước đều khó lòng đưa ra sự nhượng bộ thực chất. Song điều kiện có lợi cũng vẫn có một cách rõ ràng, Trung Quốc và Việt Nam là hai nước xã hội chủ nghĩa lớn nhất trên thế giới ở cạnh nhau, đang đối mặt với cùng một nhiệm vụ mở cửa cải cách, phát triển kinh tế nhà nước. Những nan đề và rủi ro chính trị chủ yếu của Trung Quốc và Việt Nam cũng hết sức giống nhau, nhu cầu về sự chặt chẽ trong quan hệ thương mại, về sự hợp tác chiến lược, đặc biệt là nhu cầu phải dựa dẫm vào Trung Quốc về mặt chính trị của Việt Nam, lâu nay vẫn lớn hơn sức mạnh phân cắt mối quan hệ hai nước trong tranh chấp lãnh thổ.
3
Thông cáo báo chí về cuộc gặp giữa Chủ tịch Tập Cận Bình với Trương Tấn Sang cho thấy, lãnh đạo hai nước đã đi đến một vài sự đồng thuận, khả năng Trung Quốc và Việt Nam giải quyết tranh chấp lãnh thổ được một cách hòa bình là có thật.
Việt Nam mấy năm qua đã bộc lộ động hướng “lôi kéo Mỹ kiềm chế Trung Quốc”, song chiến lược này của Việt Nam không thể đi được xa giống như Philippines và Nhật Bản. Việt Nam đối với Mỹ chỉ có thể là mối quan hệ lợi dụng lẫn nhau, Việt Nam không dám và cũng không có cách gì lao vào vòng tay của Mỹ được một cách hoàn toàn.  
4
Trung Quốc hiện đang có va chạm trên biển với cả Việt Nam, Philippines và Nhật Bản, phạm vi lãnh thổ liên quan tới tranh chấp Trung-Việt trong đó là lớn nhất, tổng cộng có 29 hòn đảo cùng vùng biển có liên quan.
 Trung Quốc và Việt Nam vừa phát sinh xung đột trên biển, lại vừa từng có chiến tranh biên giới, những ký ức này đều tác động đến sự suy xét của Việt Nam về hơn thiệt trong chính sách đối với Trung Quốc. Mấy năm qua, Việt Nam không hề có sự đối lập ngoại giao toàn diện với Trung Quốc giống như Philippines, mà luôn kiên trì “hữu hảo với Trung Quốc”, những nguyên nhân nằm trong đó là hết sức phong phú và cũng ổn định.      
5
Nếu như Trung-Việt có thể làm giảm bớt và cuối cùng kiểm soát được cường độ và phạm vi va chạm trên biển, nhằm hình thành nên một xu thế không thể nghịch chuyển về việc giải quyết vấn đề một cách hòa bình, thì Philippines sẽ rất khó lòng làm rối Nam Hải thêm được nữa, tình hình tranh chấp trên biển xung quanh Trung Quốc sẽ xuất hiện một cục diện mới.
Thái độ của Trung Quốc đối với Việt Nam trong những năm này là luôn tìm kiếm một sự cân bằng giữa vị thế có lợi trong tranh chấp lãnh thổ với việc duy trì hòa bình với xung quanh, chính sách cân bằng như vậy chắc hẳn sẽ phải duy trì lâu dài. Môi trường quốc tế của Trung Quốc đã khác xa với thập kỷ 70-80 thế kỷ trước, chúng ta lớn mạnh hơn, song môi trường tâm lý quốc tế phải đối mặt cũng trở nên mong manh hơn. Năng lực kỹ thuật kiềm chế kẻ tranh chấp lãnh thổ mạnh lên rất nhiều, song những rủi ro chính trị quốc tế mà chúng ta phải đối mặt vì thế cũng trở nên chưa từng có.
6
Trung Quốc và Việt Nam là hai nước xã hội chủ nghĩa lớn nhất trên thế giới ở cạnh nhau, đang đối mặt với cùng một nhiệm vụ mở cửa cải cách, phát triển kinh tế nhà nước.
Nhìn chung, cả Trung Quốc và Việt Nam đều có nguyện vọng và nhu cầu kiểm soát những va chạm trên biển giữa hai bên, cải thiện bầu không khí quan hệ giữa hai nước, gia tăng sự hợp tác thực sự. Mặc dù độ khó trong việc làm tốt sự tương tác như vậy giữa hai nước là rất cao, song nguyện vọng chiến lược nói trên trước tiên cần trân trọng lẫn nhau, làm mạnh lẫn nhau đã rất là quan trọng. Những thử nghiệm và nỗ lực như vậy là rất có giá đối với cả hai nước Trung-Việt.
7
Việt Nam mấy năm qua đã bộc lộ động hướng “lôi kéo Mỹ kiềm chế Trung Quốc”, song chiến lược này của Việt Nam không thể đi được xa giống như Philippines và Nhật Bản. Việt Nam đối với Mỹ chỉ có thể là mối quan hệ lợi dụng lẫn nhau, Việt Nam không dám và cũng không có cách gì lao vào vòng tay của Mỹ được một cách hoàn toàn.
Hãy nhìn giữa Trung Quốc và Ấn Độ, diện tích tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước là rất lớn, Ấn Độ lại là cộng đồng thông đồng bén giọt trong truyền thông về tình cảm dân tộc, song sự kiểm soát va chạm của Trung Quốc và Ấn Độ tương đối thành công. Giữa Trung Quốc và Việt Nam lẽ ra đã có đủ điều kiện tốt hơn trong việc dùng đàm phán hòa bình để thay thế cho va chạm trên biển.
  Người Trung Quốc trước tiên phải biết giữ sự tự tin về việc chúng ta có quyền chủ động trong xử lý tranh chấp Nam Hải, ngoài ra, chúng ta nhất thiết phải làm rõ xem rút cuộc chúng ta muốn gì xung quanh vấn đề Nam Hải, nó có quan hệ như thế nào với Chiến lược quốc gia tổng thể của Trung Quốc, đồng thời cần làm rõ sự sắp xếp chiến lược các mục tiêu và nguyện vọng của mình, hơn nữa cần vạch rõ được đường đáy mà chúng ta sẽ phá vỡ sự sắp xếp này và dùng việc leo thang một vấn đề làm nổi rõ mục tiêu của quốc gia.    
8
Việt Nam tổ chức cho sĩ quan quân đội trẻ sang Trung Quốc huấn luyện.
Vấn đề xung quanh Trung Quốc cực kỳ phức tạp, đó chính là vì sự can thiệp tới tấp của các nước lớn như Mỹ… Xét về quan hệ Trung-Việt, điều quan trọng nhất của Trung Quốc là giữ cho mình hoàn toàn tỉnh táo, đồng thời vận dụng sức ảnh hưởng của mình để thúc đẩy sự tỉnh táo cho Việt Nam. Nam Hải là thực lực của Trung Quốc, đồng thời cũng là đất dụng võ cho trí tuệ ngoại giao của Trung Quốc, chỉ có phối hợp sử dụng cả hai, thì Trung Quốc mới có thể trở thành “kẻ chiến thắng” ở Nam Hải và trong biến cục phức tạp của lực lượng toàn cầu. (Người dịch: XYZ)

Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2013

Phát biểu của TT Nguyễn Tấn Dũng tại HN Sangri-La

Nguồn: VietNamNet: Giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Đối thoại Sangri-La ngày 31/5/2013 (các tiêu đề phụ do VNNet đặt)

thủ tướng, singapore, nguyễn tấn dũngMuốn có hòa bình phải có lòng tin chiến lược
Ngôn ngữ và cách thể hiện dù có khác nhau, nhưng chắc chúng ta đều đồng ý với nhau: nếu không có lòng tin thì không thể thành công, việc càng khó càng cần có niềm tin. Việt Nam chúng tôi có câu thành ngữ “mất lòng tin là mất tất cả”. Lòng tin là khởi nguồn của mọi quan hệ hữu nghị, hợp tác; là liều thuốc hiệu nghiệm để ngăn ngừa những toan tính có thể gây ra nguy cơ xung đột. Lòng tin cần được nâng niu, vun đắp không ngừng bằng những hành động cụ thể, nhất quán, phù hợp với chuẩn mực chung và với thái độ chân thành.

Thứ Năm, 18 tháng 4, 2013

Vừa ăn cướp vừa la làng

Tuổi trẻ ngày 18/4/2013 – Chính phủ Trung Quốc vừa có màn trình diễn về “tính minh bạch” trong quốc phòng bằng việc công bố Sách trắng dài 40 trang. Lần đầu tiên từ năm 2011, Bắc Kinh đưa ra những chi tiết về quy mô và cơ cấu các lực lượng vũ trang của nước này.
Người phát ngôn Bộ QP TQ công bố Sách trắng quốc phòng 2013 – Ảnh: Reuters.
Đây là một tài liệu phục vụ tuyên truyền đối ngoại, lời lẽ mềm mỏng hơn giọng điệu nặng tính chỉ trích đối với các đối thủ trên nhật báo Quân Giải Phóng ra cùng ngày. Sách trắng cho thấy mấy điểm đáng chú ý.

Thứ nhất, Sách trắng ám chỉ Mỹ là bên đang gây nên “sự căng thẳng ở châu Á – Thái Bình Dương bằng cách tăng cường sự hiện diện quân sự tại khu vực và củng cố quan hệ với các đồng minh”. Mặc dù Bắc Kinh không nêu đích danh Mỹ nhưng thông điệp này là không thể nhầm lẫn, nhất là khi liên kết nó với nhận định trong chương I về tình hình nhiệm vụ.

Sách trắng này nêu rõ: “Mỹ đang điều chỉnh chiến lược châu Á – Thái Bình Dương và bối cảnh khu vực đang trải qua những biến đổi sâu sắc”. Việc giảm thiểu giọng điệu chỉ trích Mỹ phù hợp với chủ trương của Bắc Kinh là tìm cách lôi kéo và cải thiện quan hệ với Mỹ khi vừa diễn ra chuyến thăm của Ngoại trưởng John Kerry.

Chủ trương này được Sách trắng nêu: “Trung Quốc theo đuổi quan niệm mới về an ninh, dựa trên sự tin cậy lẫn nhau, cùng có lợi, bình đẳng và theo đuổi an ninh tổng thể và hợp tác an ninh chung”. Điều đó cho thấy Bắc Kinh đang tìm kiếm một khuôn khổ mới cho quan hệ an ninh với các nước lớn, trước hết là với Mỹ. Còn quan niệm mới này có liên quan gì đến quan hệ với các nước khác (và nhỏ hơn) thì cần phải theo dõi kỹ những gì Trung Quốc làm.

Thứ hai, Sách trắng nêu bật vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ biển đảo, trong đó cho rằng “một số nước láng giềng đang có những hành động làm phức tạp và trầm trọng thêm tình hình, và Nhật đang gây rối xung quanh vấn đề đảo Điếu Ngư”.

Sở dĩ Sách trắng nhấn mạnh đến các thách thức từ phía hai nước lớn Mỹ và Nhật chủ yếu là để biện minh cho việc Trung Quốc tiếp tục tăng ngân sách quốc phòng hai chữ số hằng năm. Thế nhưng, việc Bắc Kinh đổ lỗi cho các nước láng giềng giáp biển làm cho tình hình thêm căng thẳng và nghiêm trọng thì chẳng khác nào “vừa ăn cướp vừa la làng”. Thái độ này càng đáng lên án nếu xét đến việc thời gian qua lực lượng hải giám Trung Quốc thường xuyên dùng vũ lực trấn áp ngư dân của các nước ven biển Đông.

Sách trắng cũng không quên nhắc lại luận điệu cũ rích là Trung Quốc “chống lại bá quyền và chính trị cường quyền nước lớn” và “sẽ không bao giờ tìm kiếm bá quyền hoặc cư xử bá quyền”. Thế nhưng, kể từ khi điều này được tuyên bố một cách long trọng tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 17 (2007) thì Trung Quốc đã đưa cuộc xung đột trên biển Đông lên cường độ cao.

Và kể từ khi nó được lặp lại tại Đại hội 18 (2012), Trung Quốc vẫn tiếp tục đẩy mạnh tranh chấp, khai thác trên biển Đông. Với quy định từ ngày 1-1-2013 “chặn tàu, khám tàu, trục xuất tàu” nước ngoài đi vào biển Đông, Bắc Kinh đã bộc lộ ý đồ thiết lập một trật tự trên biển Đông do Trung Quốc chủ đạo.

Thứ ba, Sách trắng tiếp tục khẳng định “kiên quyết bảo vệ lợi ích quốc gia cốt lõi” khi nêu rõ “Trung Quốc là một cường quốc hải dương cũng như trên đất liền” và hải quân Trung Quốc có nhiệm vụ hỗ trợ việc thực thi luật biển của Trung Quốc, đánh cá và khai thác dầu khí; “tuần tra và quản lý hải giới ở vịnh Bắc bộ và khu vực biển Hoàng Sa” (Trung Quốc gọi là Tây Sa).

Điểm được nhấn mạnh trong Sách trắng là hải quân Trung Quốc cần mở rộng phạm vi hoạt động nhằm bảo vệ “những lợi ích hải ngoại của Trung Quốc đã trở thành một bộ phận cấu thành các lợi ích quốc gia của Trung Quốc”, trong đó có việc “đảm bảo an ninh cho vận chuyển năng lượng và tài nguyên, các tuyến đường biển chiến lược, cũng như cho công dân và quyền lợi người Trung Quốc ở hải ngoại”.

Bổ sung cho những quan điểm được nêu trong Sách trắng, tướng Trần Châu – giám đốc Học viện Quân sự Bắc Kinh – viết trên China Daily (ngày 17-4): “Các lợi ích an ninh của Trung Quốc kéo dài từ đất liền ra biển cả, lên khoảng không vũ trụ, không gian mạng, từ an ninh lãnh thổ tới các lợi ích hải ngoại, và từ các khu vực truyền thống tới các lĩnh vực phi truyền thống”.

Thứ tư, chương IV của Sách trắng đề cao vai trò quân đội như lực lượng quan trọng “duy trì ổn định xã hội” và “trật tự xã hội”. Với việc tăng ngân sách quốc phòng cùng thực thi những mục tiêu đầy tham vọng về đối nội và đối ngoại, vai trò quân đội được tăng cường một bước đáng kể cùng với việc xác lập quyền lực của thế hệ lãnh đạo thứ năm tại Trung Quốc. Đây là thời đại quân đội lên ngôi ở Trung Quốc.

Với vai trò ngày càng lớn ấy, quân đội Trung Quốc chắc sẽ tạo ra nhiều phức tạp cho quan hệ giữa Bắc Kinh với các nước láng giềng.

TS Nguyễn Ngọc Trường

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2013

Ai thực sự kiểm soát Biển Đông?

Một cảnh tập trận của Hạm đội Nam Hải  (ảnh của CCTV)
Vừa qua trong lúc đài truyền hình và báo chí Trung Quốc liên tục đưa tin về cuộc tập trận của Hạm đội Nam Hải tại Biển Đông thì phản ứng chính chính thức của Việt Nam vẫn yên lặng, duy chỉ có VTV như thường lệ phát tin dự báo thời tiết "trời quang mây tạnh tại cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa"... Người nghe không khỏi phân vân: Vậy ra, chỉ còn một việc có thể thực hiện trọn vẹn "quyền chủ quyền" mà không phải thỉnh thị báo cáo và chờ đợi sự phê duyêt của cấp cao nhất. Đó là dự báo thời tiết về Biển Đông bao gồm cả toàn bộ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Thứ Ba, 5 tháng 2, 2013

Cam Bốt : Tiền đồn của Trung Quốc tại Đông Nam Á

Đó là tiêu đề của bài báo dưới đây của người Pháp viết về quan hệ TQ-Campuchia. Nhưng đó cũng là một sự đúc kết súc tích về kết quả mà Bắc Kinh đạt được cho đến nay  trong chiến lược "chia để chiếm" đối với Biển Đông và khu vực Đông Nam Á. Có thể nói Bắc Kinh mặc dù đã thất bại trong rất nhiều âm mưu khuynh đảo Maoist tại  Indonesia, Malaysia và nhiều nước trong khu vực, nhưng giờ đây đã rất thành công trong trường hợp Cămpuchia dù đã từng được Việt Nam hết lòng cưu mang giúp đỡ và tranh thủ. Âu đây cũng là một bài học cho chính Việt Nam(?) -Bách Việt.   


Lãnh đạo Tập Cận Bình chia buồn với hoàng hậu Monineath, vợ của quốc vương Norodom Sihanouk (REUTERS)
Tập Cận Bình chia buồn Hoàng hậu Monineath,  (Ảnh REUTERS)
Nhân tang lễ của cố quốc vương Sihanouk, hai tờ La Croix và Le Figaro quan tâm đến tình hình Cam Bốt. Đáng chú ý nhất là nhận định của Le Figaro về sự kiện : "Cam Bốt, đầu cầu của Trung Quốc tại châu Á », tựa bài báo của đặc phái viên Arnaud de la Grange tại Phnom Penh.

Nhận xét đầu tiên của Le Figaro là Cam Bốt ngày nay, cũng như cố quốc vương Sihanouk của đất nước này, đã trở nên người bạn tốt nhất của Trung Quốc ở vùng Đông Nam Á. Việc xích lại gần nhau này đã thúc đẩy kinh tế Cam Bốt, nhưng không mấy được các nước láng giềng ưa thích.
Tác giả bài viết trở lại thời điểm lúc tin quốc vương Sihanouk qua đời vào tháng 10 năm ngoái. Khi ấy, Bắc Kinh đã treo cờ rũ ở quãng trường Thiên An Môn, đài truyền hình nhà nước Trung Quốc CCTV đã thay đổi chương trình, phát trực tiếp cảnh đoàn xe tang đi qua các đuờng phố với ghi nhận : « Một người bạn lớn » của Trung Quốc đã ra đi.
Ông Đới Bỉnh Quốc, người thiết kế chủ chốt chính sách ngoại giao của Bắc Kinh đã tiễn đưa thi hài vị "vua cha" đến tận Phnom Penh. Sau đó không lâu, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã thông báo tặng 500.000 đô la cho việc tổ chức tang lễ.
Theo Le Figaro, Bắc Kinh muốn cho thấy rằng Cam Bốt và Trung Quốc là hai người bạn chí cốt, vương quốc bé nhỏ này là người bạn thân thiết nhất của Trung Quốc ở Đông Nam Á, một khu vực nơi mà Bắc Kinh không còn bao nhiêu bạn bè.
Về phiá Cam Bốt, tình bạn này được thấy rõ từ thành thị cho đến nông thôn, tại những xưởng vải sợi với hàng ngàn công nhân ở ngoại ô Phnom Penh, với các hàng chữ tiếng Hoa đập mắt trên các tấm vách bằng tôn, hay là qua những con đường tráng nhựa mà Trung Quốc xây dựng, đi vào tận các vùng xa xôi, hẻo lánh.
Bài báo nhắc lại khối lượng đầu tư to lớn chưa từng thấy mà cường quốc phương Bắc đổ vào Cam Bốt - 11 tỷ đô la - để xây dựng một tuyến đường sắt, một bến cảng và một nhà máy luyện thép. Theo giới chuyên gia, Trung Quốc có một chiến lược rất rõ ràng.
Cam Bốt : « Sân sau » của Trung Quốc
Theo ông Chheang Vannarith, giám đốc viện Cam Bốt vì Hợp tác và Hoà bình (Cambodian Institute for Cooperation and Peace), đây là một quan hệ song phương độc nhất vô nhị, nhắm vào một đất nước được Trung Quốc xem là sân sau của họ : « Ảnh hưởng Trung Quốc tại đây lớn lên một cách đáng kể, đối với Trung Quốc đây là vấn đề chiến lược, vì ở đằng sau là các vấn đề Biển Đông và cả Ấn Độ Dương.
Le Figaro ghi nhận : Ảnh hưởng của Trung Quốc ở Cam Bốt không chỉ được thấy trên mặt kinh tế, mà cả trên mặt văn hóa. Tiếng Hoa hiện là ngoại ngữ chiếm vị trí thứ hai ở Cam Bốt sau tiếng Anh, còn các chương trình truyền hình, trên 70 kênh mà người Cam Bốt có thể xem, có đến 50 kênh nói tiếng Hoa.
Theo bài báo, tại Cam Bốt Trung Quốc có lợi thế là cộng đồng người Hoa rất quan trọng - khoảng 700.000 người Cam Bốt gốc Hoa, tức là khoảng 5% dân số - và họ nắm giữ 80% hoạt động kinh tế xứ chùa Tháp.
Tác giả bài báo nhìn thấy là Bắc Kinh – dựa vào Cam Bốt - đã giành được những thắng lợi ngoại giao rất quan trọng mà người ta không ngờ nếu chỉ căn cứ vào trọng lượng của Cam Bốt. Đó là đã phá vỡ được sự đồng thuận của ASEAN trên vấn đề Biển Đông. Đây là một thắng lợi lớn của Trung Quốc vốn có lôgíc có thể gọi là « chia để chiếm ». Nhiều nhà quan sát, theo bài báo, đã lo ngại là sự chia rẽ trong nội bộ ASEAN tác hại đến an ninh khu vực.
Nhưng không phải chỉ mới bây giờ, Le Figaro nhắc lại quan hệ Cam Bốt -Trung Quốc thiết lập vào năm 1958. Ngay từ lúc ấy, Bắc Kinh đã luôn luôn bảo vệ được ảnh hưởng của mình tại Cam Bốt bằng cách ủng hộ các tác nhân trên chính trường Cam Bốt : ông Sihanouk vào thập niên 1960, Khờ Me Đỏ trong thập niên 1970, rồi đến Hun Sen sau đó, nhất là vào năm 1997, khi tình bạn Bắc Kinh -Hun Sen chuyển qua một khúc quanh mới.
Vào năm đó, theo bài báo, Bắc Kinh không một chút do dự, đã ủng hộ Hun Sen lên nắm toàn quyền tại Cam Bốt sau một cuộc ‘đảo chính’ nhỏ.
Các năm tháng trăng mật giữa Bắc Kinh và Phnom Penh sẽ còn tiếp diễn. Le Figaro ghi nhận : Để đánh dấu 55 năm bang giao, chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã quyết định chọn năm 2013 này là năm hữu nghị Cam Bốt-Trung Quốc.
Ngoài Le Figaro, tình hình Cam Bốt cũng được nhật báo Công giáo La Croix chú ý với bài phân tích về thể chế chính trị mà theo tờ báo, chỉ là một chế độ « quân chủ bề ngoài », tựa bài báo trang quốc tế. La Croix giải thích : Quốc vương Cam Bốt hoàn toàn không có bất kỳ quyền hạn gì.

Phóng viên Mai Vân
Theo RFI ngày 4/2/2013/ Anh Basamngày 5/2/2013

Thứ Hai, 4 tháng 2, 2013

Rủi ro từ chính sách "cân bằng mềm" của Việt Nam đối với Trung Quốc

 Đó là tiêu đề bài viết của tác giả Tuấn Phi - nghiên cứu viên Viện nghiên cứu Thiên Đại think-tank Hongkong- vừa mới  đăng trên Opinion.huanqiu.com
Bài viết do dịch giả  XYZ chuyển thể sang tiếng Việt và được phát hành trên Basam ngày hôm qua. Bách Việt tất nhiên đã đọc kỹ bài viết, nhưng xin chưa đưa ra lời bình luận, để bạn đọc cung suy ngẫm và sau đó scùng thảo luận (?) . Hy vọng bài này  ít nhiều giúp người đọc "biết địch biết ta".. hơn (?). Và qua đây, mong rằng người Việt Nam chúng ta dù là ai, sống và làm việc đâu, đặc biệt giới lãnh đạo cùng quan chức và học giả, hãy quan tâm nghiên cứu vấn đề của đất nước với ý thức rằng, tuy vị trí nước VN lúc nào cũng cận kề TQ, nhưng thế giới ngày nay đã hoàn toàn khác với thời "Vương triều"(Bách Việt)   

Ảnh  minh họa


Mới đây, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã tổ chức cuộc hội đàm với Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe sang thăm, hai bên quyết định tăng cường hợp tác kinh tế và an ninh, kề vai sát cánh đối mặt với những vấn đề tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc. Theo tin AFP, hai phía Việt-Nhật đã nhất trí thúc đẩy mối quan hệ đối tác chiến lược đôi bên, đồng thời cùng nhau hiệp lực để “đóng vai trò tích cực trong vấn đề hòa bình và an ninh khu vực”.  
 Ở Việt Nam nơi theo đuổi chủ nghĩa độc đoán và kiểm soát chặt chẽ báo cáo tin tức, các phương tiện truyền thông cố tình làm loãng chủ đề an ninh trong cuộc hội đàm giữa hai bên, song lập trường cứng rắn của Hà Nội đối với Trung Quốc về vấn đề lãnh thổ vẫn thấy được nhấn ở nhiều tờ báo, bàn tay sắt hiện ra lờ mờ trong chiếc găng tay nhung. Trong “Luật biển Việt Nam” có hiệu lực vào ngày 1.1, Hà Nội cũng đã công khai tuyên bố quyền có chủ quyền và quyền quản lý đối với các quần đảo Nam Sa[i] và Tây Sa[ii] của Trung Quốc.

Kể từ thập niên 90 thế kỷ trước, Việt Nam theo đuổi chính sách cân bằng mềm (soft balancing) đối với Trung Quốc. Chính sách này khác với các chính sách cân bằng, đi xe và bắt cá hai tay truyền thống, với đặc trưng chủ yếu là đồng minh phi chính thức và duy trì hợp tác an ninh hạn chế, có ý vừa áp dụng chính sách đi xe, làm sâu sắc thêm mối quan hệ kinh tế với Trung Quốc và tận hưởng các nguồn lợi từ sự trỗi dậy của Trung Quốc, lại vừa tích cực phát triển mối quan hệ kinh tế, ngoại giao và quan hệ quân sự phi chính thức với các tổ chức quốc tế và các nước khác, mà Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Nga, ASEAN… là những đối tượng quan trọng.
Điều đáng chú ý là, trong khuôn khổ cân bằng mềm đối với Trung Quốc, mấy năm qua, để lôi kéo các lực lượng bên ngoài vào kiềm chế Trung Quốc, ngăn trở Trung Quốc thu hồi lại lãnh thổ đã rơi vào tay Việt Nam, Việt Nam có ý định mở rộng hợp tác với Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ trong lĩnh vực quân sự, thiết lập mối quan hệ đồng minh tạm thời nhằm vào cuộc xung đột riêng biệt. Các nhà lãnh đạo Việt Nam thực sự coi Mỹ là kẻ giữ cân bằng để kiềm chế Trung Quốc ở Đông Nam Á, đồng thời lên kế hoạch một khi khai chiến với Trung Quốc là sẽ nâng cấp hợp tác Việt-Mỹ thành mối quan hệ đồng minh.    
Việt Nam và Trung Quốc đều là những nước Đảng cộng sản cầm quyền, hình thái ý thức của Việt Nam học theo chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, mô hình kinh tế cũng giống về cơ bản với chính sách mở cửa cải cách của Trung Quốc. Thật không may là, xuất phát từ quan điểm lịch sử cực đoan của một bộ phận người Việt Nam, Hà Nội đã có cách nhìn nhận tiêu cực trước sự trỗi dậy của Trung Quốc trong thế kỷ 21, cho rằng Trung Quốc ngày càng lớn mạnh sẽ hạn chế sự mở rộng lợi ích của Việt Nam, Bắc Kinh sẽ bằng ý chí đơn phương mà thu hồi lại nhiều đảo ở Nam Hải[iii] đã bị phía Việt Nam chiếm đóng. Một trong những mục tiêu thực hiện chính sách cân bằng mềm đối với Trung Quốc chính là bảo vệ những lợi ích lãnh thổ đã có được của Việt Nam.   
          
Tuy nhiên, chính sách của Hà Nội đối với Trung Quốc lại tồn tại mấy rủi ro lớn. Đầu tiên, nhược điểm của đồng minh quân sự phi chính thức là khó lòng ứng phó được với tình huống quân sự bất ngờ gay cấn và với  cuộc chiến tranh tốc chiến tốc thắng mà đối thủ lại là chủ đạo. Tiền đề để đồng minh quân sự phi chính thức có thể vận hành được thành công là, một bên bị tấn công quân sự rồi vẫn còn có lực lượng để tổ chức phòng ngự, bên còn lại thì hoàn thành các thủ tục chính trị, pháp lý và quân sự cần thiết xong sẽ can thiệp vào xung đột, ra tay hỗ trợ.  Cục diện nghiêm trọng mà Việt Nam đang đối mặt là, nếu Quân giải phóng phát động chiến tranh chớp nhoáng, đồng thời thấy được rồi là rút, thì quân đội Việt Nam sẽ không thể có cơ hội phát triển xung đột thành một cuộc chiến kéo dài, và nước Mỹ với quá trình ra quyết sách chậm chạp thì chỉ còn cách nhìn biển cả mà than.    
  Ngay cả khi tình thế cuộc chiến đi vào mặt phản lại với chí nguyện của Quân giải phóng, hai đội quân rơi vào tình trạng bế tắc, thì liệu cuối cùng Hoa Kỳ có can thiệp vào hay không vẫn còn là một dấu hỏi lớn. Chỉ cần Trung Quốc kiên trì uy hiếp một cách có hiệu quả đối với Mỹ, đảm bảo được thực lực đánh lại Mỹ, thì Washington thực sự sẽ không dám cuốn vào cuộc tranh chấp Việt-Trung một cách đường đột. Suy cho cùng, Mỹ không muốn hoàn toàn mất đi sự chống đỡ của Trung Quốc trong các lĩnh vực dự trữ đô la và địa vị kết toán tiền tệ, khuếch tán vũ khí quy mô lớn, trái phiếu kho bạc Mỹ… Ngay cả khi Washington có quyết định tham chiến,  thì bộ đội tên lửa đạn đạo của Trung Quốc sẽ dĩ dật đãi lao[iv], tấn công như vũ bão, quân Mỹ cũng sẽ không thể chiếm được lợi thế.
Thứ đến, xét từ góc độ Trung Quốc, các mục tiêu quân sự và chính trị trong chính sách cân bằng mềm đối với Trung Quốc của Việt Nam là xung đột lẫn nhau. Các hành động quân sự của Bắc Kinh tất nhiên sẽ kèm theo sự trừng phạt kinh tế. Việt Nam và Trung Quốc có mối giao lưu kinh tế mật thiết, nếu trừng phạt sẽ đánh mạnh vào cơ cấu phát triển kinh tế và thị trường của Việt Nam, gây sụt giảm mạnh chất lượng sống của dân chúng.    
Trung Quốc đã 7 năm liên tiếp trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, hiện đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất cho than, gạo, máy tính, cao su tự nhiên, sản phẩm điện tử và phụ kiện… của Việt Nam. Tình trạng mất cân bằng thương mại song phương cũng đang được cải thiện đáng kể. Trong nửa đầu năm 2012, lượng nhập khẩu của Trung Quốc từ Việt Nam tăng 58,6%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu 10,6% sang Việt Nam của Trung Quốc.
Hàng hóa Trung Quốc giúp giảm tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam
Sản phẩm giá rẻ của Trung Quốc đẹp, khiến cho người tiêu dùng Việt Nam được lợi thực tế, được tăng thêm thu nhập thực tế. Cùng với việc mở rộng quy mô xuất khẩu các sản phẩm cơ điện tử của Trung Quốc, các nước ASEAN như Việt Nam… có thể  từ Trung Quốc mà có được nguồn tư liệu sản xuất và công cụ sản xuất rẻ hơn, chẳng hạn như xe máy và ô tô… có giá thấp hơn, khiến cho các doanh nghiệp địa phương được hưởng lợi rất nhiều.
Giảm tỷ lệ lạm phát hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc sang Việt Nam là hết sức quan trọng. Do sự cạnh tranh khốc liệt, ngay cả khi doanh nghiệp Trung Quốc có nâng cao hiệu suất sản xuất, thì tiền lương nhân công và lợi nhuận doanh nghiệp cũng khó lòng tăng trưởng được một cách đồng bộ, bởi vì lợi ích của nước này là chuyển dịch ra nước ngoài với quy mô lớn, để người tiêu dùng và doanh nghiệp ở nước ngoài được lợi, Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Theo tin Bloomberg ngày 2.1, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng cho biết tỷ lệ lạm phát hàng hóa của Việt Nam sẽ vẫn cao trong năm nay. Hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, chứ không phải là từ phương Tây, sẽ là sự lựa chọn không thể được loại bỏ trong kế hoạch phục hồi kinh tế của Việt Nam.
Thứ nữa, chính sách cân bằng mềm không thể che đậy được điểm yếu tài chính của Việt Nam. Thị trường tài chính của Việt Nam quy mô không lớn, nhưng lại trăm hoa đua nở và nóng vội, sử dụng vốn nước ngoài quá đà, rất dễ bị tư bản nước ngoài ăn cướp, trong đó dĩ nhiên bao gồm cả các tổ chức tài chính từ Trung Quốc đại lục và Hongkong. Thị trường chứng khoán Việt Nam được thành lập vào năm 2000, hiện có hai sàn giao dịch chứng khoán lớn Hồ Chí Minh[v] và Hà Nội. Trong thời gian 12 năm ngắn ngủi, quy mô thị trường này đã được mở rộng gấp 50 lần, giá trị vốn hóa thị trường năm 2011 đã chiếm 27% GDP của Việt Nam, số lượng các công ty niêm yết đạt gần 800.
Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2006, Việt Nam bắt đầu mở rộng đầu tư trực tiếp các hạng mục vốn ra nước ngoài, giới hạn niêm yết cổ phiếu của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài được nới rộng đến 49%, vì vậy các nhà đầu tư nước ngoài đổ xô, nhanh chóng đẩy lên giá trị vốn hóa của Việt Nam, hình thành bong bóng trên diện lớn. Chịu sự giới hạn của các tiêu chuẩn quốc tế hiện có, thị trường tài chính của Việt Nam gần như bất lực trong việc ngăn chặn những cuộc tấn công có chủ ý của vốn đầu tư nước ngoài.
Cuối cùng, chính sách cân bằng mềm đối với Trung Quốc đã đặt Việt Nam  vào vòng nguy hiểm lật đổ chế độ. Thể chế chính trị của Việt Nam khác với phương Tây, tuy Mỹ và Cộng đồng Châu Âu có cái nhìn lạc quan trước thái độ cứng rắn của Việt Nam đối với Trung Quốc, song đôi khi cũng chỉ trích các chính sách và hành động trấn áp những nhà bất đồng chính kiến ​​dân chủ tại Việt Nam. Dân chủ hóa theo kiểu phương Tây của Việt Nam phù hợp với lợi ích căn bản của Washington, các lực lượng chống chính phủ luôn tìm được chỗ nương náu ở các nước phương Tây. Xa lánh Trung Quốc sẽ khiến cho Việt Nam mất đi tấm chắn của một nước lớn có hình thái ý thức tương đồng, sẽ mở cửa cho một cuộc cách mạng màu.
Đồng thời, các cuộc xung đột quân sự liên quan đến bên ngoài sẽ làm cho lực lượng ly khai của dân tộc Việt Nam thừa cơ xâm nhập. Các lực lượng ly khai của Việt Nam chủ yếu bao gồm tập đoàn “Fulro” cố sức thành lập quốc gia độc lập ở Tây Nguyên, “Phong trào độc lập cho người Hmong” và những người ly khai ở Đồng bằng Sông Cửu Long[vi]. Tổ chức “Fulro” chống lại sự cai trị chủ thể là dân tộc Kinh ở Việt Nam lâu nay, lực lượng vũ trang đã công bố giải thể vào năm 1992, song thủ lĩnh của họ lại di cư tới Mỹ, với sự hỗ trợ của một số cơ quan chính phủ và tập đoàn tài chính phương Tây, vẫn tiếp tục sự nghiệp độc lập cho Tây Nguyên của mình. Nếu Trung Quốc và Việt Nam xung đột vũ trang, thì xét từ các thế lực lớn trên thế giới hiện nay, các lực lượng dân tộc thiểu số Việt Nam nắm giữ các quan niệm giá trị khác nhau chắc chắn sẽ quật khởi, cục diện thống nhất quốc gia e rằng sẽ phó mặc cho dòng nước cuốn trôi.
Do chính sách cân bằng mềm đối với Trung Quốc của Việt Nam tiên thiên bất túc, nên Bắc Kinh có thể lựa chọn nhiều biện pháp để chống trả lại, và gần như đều ở vào thế bất khả chiến bại.
Nguồn: Opinion.huanqiu.com


Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013

Vì sao Nhật kết thân với Đông Nam Á?

 Không lâu sau khi nhậm chức, tân thủ tướng Nhật Bản Abe và ngoại trưởng của ông công du ngang dọc 6 nước Đông Nam Á trong các chuyến công du đầu tiên. Điều gì thúc đẩy Nhật Bản quan tâm đến khu vực này đến thế?

Có tới ba trong số bốn quốc gia mà ngoại trưởng mới của Nhật là Fumio Kishida chọn thăm đầu tiên thuộc Hiệp hội các nước Đông Nam Á, gồm Philippines, Singapore và Brunei. Bản thân thủ tướng Shinzo Abe, trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên của mình, dù không định trước và vì hoàn cảnh phải hoãn chuyến đi Mỹ, đã chọn Việt Nam, Thái Lan và Indonesia để dừng chân.
Mối quan tâm và vai trò của Nhật Bản ở khu vực Đông Nam Á không phải là mới, và không chỉ vì mối bận tâm hiện nay về sự vươn lên của Trung Quốc. Trên thực tế, Nhật Bản từ lâu đã là một trong những đối tác đối thoại lâu đời nhất và quan trọng nhất của ASEAN. Mối quan hệ bắt đầu trở nên nồng ấm vào đầu năm 1977, khi Thủ tướng Takeo Fukuda ngay sau khi được bầu đã quyết định cải thiện hình ảnh của Tokyo trong khu vực, vốn bị sự chiếm đóng của Nhật Bản trong Thế chiến II làm phương hại. Kể từ đó, Nhật Bản đã đóng một vai trò nổi bật trong khu vực Đông Nam Á thông qua trợ giúp kinh tế, kinh doanh và văn hóa. Vai trò này vẫn được duy trì khi xuất hiện các nhân tố khác như Trung Quốc và các khó khăn kinh tế của Nhật.
Việt Nam là điểm đến đầu tiên trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên của ông Abe kể từ khi lên nhậm chức thủ tướng tháng trước.Ảnh: AFP
Thực tế là sự quy tụ của các sự kiện đang làm cho năm 2013 trở thành năm quan trọng cho nỗ lực củng cố quan hệ giữa Nhật Bản và các nước ở Đông Nam Á. Về hình thức, đây là năm kỷ niệm 40 năm quan hệ ASEAN-Nhật Bản. Do đó, trong những tháng tới người ta có thể tiên liệu sẽ có nhiều trao đổi đoàn và các sự kiện hơn hàng năm giữa Tokyo và các nước Đông Nam Á, giống như những gì ASEAN và Ấn Độ đã làm năm 2012 để kỷ niệm 20 năm quan hệ giữa hai bên.
Điều quan trọng hơn là danh sách những mối quan tâm chung giữa Nhật Bản và Đông Nam Á giờ đây được cho là dài hơn trước rất nhiều. Về kinh tế, Nhật Bản đang tìm kiếm thị trường mới, trong lúc đang lún vào suy thoái kinh tế lần thứ 4 kể từ năm 2000 và quan hệ với Trung Quốc đang xấu đi. Trong khi đó ASEAN đang tìm kiếm đối tác để giúp xây dựng một cộng đồng kinh tế ASEAN toàn diện vào năm 2015 thông qua việc cấp vốn cho các dự án cơ sở hạ tầng. Thí dụ, trong chuyến thăm của Abe đến Bangkok, Thủ tướng Yingluck Shinawatra của Thái Lan đã tái khẳng định mong muốn Nhật Bản can dự vào dự án xây dựng cảng Dawei mà Thái Lan đang cùng phát triển với Myanmar, một sáng kiến mà phía Nhật Bản cũng bày tỏ qua tâm.
Về lĩnh vực an ninh, cả Nhật Bản và nhiều nước ở Đông Nam Á hiện đang có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, bên canh đó còn có một loạt các quan tâm sống còn về an ninh chung từ thảm họa thiên nhiên đến buôn bán ma túy và khủng bố. Việc Nhật Bản cung cấp 10 tầu tuần tra để tăng cường lực lượng bảo vệ bờ biển của Philippines trước năm 2014 là một điểm trao đổi chính trong cuộc gặp giữa Kishida với Bộ trưởng Ngoại giao Philippines Albert del Rosario. Quan hệ Nhật-Philippines là một quan hệ quan trọng vì Tokyo là một trong hai đối tác chiến lược duy nhất của Philippines và cả hai nước đều là đồng minh của Mỹ. Về mặt biểu tượng, Manila là nơi cựu thủ tướng Fukuda đưa ra tuyên bố nổi tiếng của ông vào tháng 8 năm 1977 về quan hệ ASEAN-Nhật Bản, và về sau đã được biết đến là Học thuyết Fukuda.
Một số lĩnh vực khác cũng có thể chứng kiến sự phát triển trong quan hệ ASEAN-Nhật Bản trong năm 2013. An ninh năng lượng có thể sẽ được nhấn mạnh vì vấn đề có tầm quan trọng sống còn đối với việc thực hiện Cộng đồng kinh tế ASEAN, và đồng thời là một ưu tiên cao đối với Brunei, nước sẽ giữ chức chủ tịch ASEAN năm nay. Tiến bộ có thể cũng sẽ đạt được trong lĩnh vực an ninh mạng vì cả hai bên đều dễ bị tổn thương trược các cuộc tấn công của tin tặc. Có thông tin hai bên đã bắt đầu các cuộc trao đổi về việc thiết lập một mạng lưới phòng thủ mạng chung.
Con đường cụ thể để tăng cường quan hệ giữa Nhật Bản và các nước Đông Nam Á sẽ được hai bên thiết lập trong những tháng tới. Nhưng nhu cầu hợp tác, không chỉ vì Trung Quốc mà bao gồm một loạt các lĩnh vực, là rất rõ ràng. Mối quan hệ tăng tiến giữa ASEAN với Nhật Bản chắc chắn sẽ là một xu hướng rõ rệt của năm 2013.
Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida (phải) sau cuộc gặp người đồng cấp Philippines Albert del Rosario tại Manila hôm 10/1. Ảnh: AFP
Phạm Ngọc Uyển (theo The Diplomat

Thứ Sáu, 11 tháng 1, 2013

Tân Tổng thư ký ASEAN kêu gọi đàm phán về Biển Đông

SGTT.VN - ASEAN chính thức chào mừng tân Tổng thư ký Lê Lương Minh trong lúc tổ chức này đang đối mặt với một số thách thức lớn nhất kể từ khi thành lập cách đây 46 năm.
Tổng thư ký Lê Lương Minh nói: “Đứng trước những diễn tiến phức tạp ở Biển Ðông, ASEAN nên tăng cường các nỗ lực để nhanh chóng tiến hành các cuộc thương lượng với Trung Quốc với mục tiêu sớm có kết luận về COC”. Ảnh: TL
Ông Lê Lương Minh, một nhà ngoại giao kỳ cựu là người Việt Nam đầu tiên đã chính thức nhận vị trí Tổng thư ký hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) kể từ ngày 9.1, bắt đầu nhiệm kỳ năm năm. Lễ nhậm chức đã diễn ra tại Jakarta, với sự tham dự của Tổng thư ký xuất nhiệm Surin Pitsuwan, Ngoại trưởng Marty Natalegawa của Indonesia và nhiều nhà ngoại giao khác.
Năm nay 61 tuổi, ông Minh là cán bộ ngoại giao từ năm 1975. Ông xuất thân từ học viện Ngoại giao của Việt Nam và trường đại học Jawaharlal Nehru ở New Delhi, Ấn Độ. Ông Minh, nguyên thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, sẽ chèo lái nhóm mười quốc gia khu vực tiến đến một thị trường chung trước cuối năm 2015.
Cộng đồng kinh tế này có mục đích làm cho ASEAN hội nhập thêm nữa thông qua tự do hoá thương mại và đầu tư, tương tự như Liên hiệp Âu châu. Tuy nhiên, nhiều người e rằng các hội viên kém phát triển hơn chưa sẵn sàng cho sự lưu thông tự do của hàng hoá, dịch vụ và lao động. Ông Minh ghi nhận những lo ngại đó, nhưng ông cũng giải thích về những lợi ích của cộng đồng kinh tế mới.
Ông Lê Lương Minh nói: “Dòng chảy thông thoáng hơn của đầu tư, nguồn vốn, lao động, hàng hoá và dịch vụ sẽ tạo ra những cơ hội và thách thức khác nhau cho các nước hội viên. Nhưng nó cũng sẽ có những hiệu ứng nhân rộng vô cùng to lớn đối với khu vực”. Ông Minh còn nói thêm rằng sự thu hẹp hố cách biệt về kinh tế giữa các hội viên ASEAN sẽ là chìa khoá của sự phát triển đồng đều trên khắp khu vực.
Tân Tổng thư ký ASEAN đã kêu gọi cần đạt được tiến bộ cho một bộ quy tắc hành xử trên Biển Đông (COC). Ông Minh nói: “Đứng trước những diễn tiến phức tạp ở Biển Ðông, ASEAN nên tăng cường các nỗ lực để nhanh chóng tiến hành các cuộc thương lượng với Trung Quốc với mục tiêu sớm có kết luận về COC”.
Ngoại trưởng Indonesia, Marty Natalegawa cũng đã nhắc tới vấn đề này khi ông nhấn mạnh đoàn kết là chìa khoá của an ninh khu vực. Ông Natlegawa nói: “Chúng ta phải tiếp tục đứng ở tuyến đầu của một cơ cấu khu vực thúc đẩy cho hoà bình và ổn định của châu Á – Thái Bình Dương, để khu vực này né tránh bạo động và xung đột. Chúng ta cần thúc đẩy cho việc giải quyết tranh chấp bằng đường lối hoà bình, thúc đẩy cho sự hợp tác và cho một quan niệm là hòa bình và an ninh chính là những yếu tố thiết yếu của mọi nước, cần được chia sẻ và bảo vệ vì lợi ích của tất cả các nước”.
Trần Hiếu Chân
Tin gốc tại đây>  http://sgtt.vn/Quoc-te/174143/Tan-Tong-thu-ky-ASEAN-keu-goi-dam-phan-ve-Bien-Dong.html

Thứ Tư, 2 tháng 1, 2013

Việt Nam trong cuộc chơi quyền lực Mỹ - Trung(*)

(*)Đó là tiêu đề bài viết của một tác giar Mĩ đăng trên American Review Magazin. Nhận thấy bài viết đưa ra môt cách nhìn khách quan về một chủ đề đáng quan tâm hàng đầu của Việt Nam và khu vực hiện nay  Bách Việt xin giới thiệu lại để có thêm bạn đọc đồng thời để làm tư liệu tham khảo cho bản thân.   
Liệu Việt Nam có thể vun đắp mối quan hệ gần gũi hơn với Mỹ mà không giẫm lên chân Trung Quốc?
Đầu năm 1833, một phái đoàn Mỹ do Edmund Roberts dẫn đầu đã tới Việt Nam trên chiếc chiến hạm nhẹ USS Peacock neo đậu tại vịnh Vũng Lắm, ngoài khơi tỉnh Phú Yên ngày nay. Với tư cách là một "điệp viên bí mật đặc biệt" của Tổng thống Andrew Jackson, Roberts đã đề xuất ký kết một hiệp định thương mại với nhà Nguyễn nhưng sứ mệnh không hoàn thành do những hiểu lầm từ rào cản ngôn ngữ và chính sách bế quan tỏa cảng lúc bấy giờ của Việt Nam gây ra.
Hai nước đã phải mất 166 năm sau mới có thể đi đến một hiệp định thương mại song phương. Nhiệm vụ dang dở của Roberts là một trong nhiều cơ hội bị bỏ lỡ, mà ngay từ ngày đầu hai bên bắt đầu có những sự tiếp xúc, đã ngăn cản Việt Nam và Mỹ tạo dựng một mối quan hệ vững chắc hơn.
Thế kỷ 20, việc các tương tác kinh tế nghèo nàn cùng những điều kiện bất lợi trong thời kỳ Chiến tranh lạnh đã càng đẩy hai nước rời xa nhau. Việt Nam đã không may mắn khi ở giữa một cuộc đối đầu chiến lược cam go giữa hai khối Đông - Tây khi Chiến tranh lạnh diễn ra mạnh mẽ hơn vào những năm 1950. Khi các chiến sĩ Cộng sản Việt Nam đánh bại quân Pháp và tiến tới thống nhất cả nước vào năm 1954, họ đã vấp phải một chính sách kiềm chế chống cộng sản của phương Tây mà Mỹ là người đứng đầu. Trong khi đó, khối Cộng sản tiếp nhận Việt Nam như một "tiền đồn chống chủ nghĩa đế quốc" ở Đông Nam Á. Cuối cùng, Việt Nam và Mỹ đã rơi vào một cuộc chiến khốc liệt để lại những dấu ấn không thể xóa nhòa trong lịch sử hai nước.
Kết thúc chiến tranh, hai nước phải mất thêm hai thập niên nữa để hàn gắn và bình thường hóa quan hệ, điều mà chỉ đạt được vào năm 1995. Kể từ khi đó, mối quan hệ đã phát triển với tốc độ khiến nhiều nhà quan sát bất ngờ. Mỹ hiện đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất và nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 10 của Việt Nam. Quan hệ chính trị cũng vươn tới tầm cao mà cải hai bên đều mong muốn nâng lên tầm quan hệ đối tác chiến lược. Trong khi đó, quan hệ quân sự dù còn khiêm tốn nhưng cũng đang được thắt chặt. Chuyến thăm lịch sử của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta tới vịnh Cam Ranh hôm 3/6/2012 chứng minh cho mối quan hệ đang ngày một nồng ấm giữa hai nước.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào bối cảnh lịch sử, với bất cứ ai quan tâm đến mối quan hệ Việt - Mỹ cũng nên xem xét hai câu hỏi quan trọng. Trước hết, do vịnh Cam Ranh cách không xa vịnh Vũng Lắm, chuyến thăm của Panetta gợi lại sứ mệnh của Roberts năm 1833. Liệu Việt Nam sẽ chớp lấy cơ  hội từ sự tái quan tâm của Mỹ đến mình để đảm bảo một mối quan hệ vững chắc hơn với siêu cường số một thế giới, hay sẽ lại để nó trôi qua, như những gì triều đình Huế đã làm vào năm 1833?
Thứ hai, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược đang gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc, một mối quan hệ Việt-Mỹ mạnh mẽ hơn sẽ khó tránh khỏi gây tổn hại đến quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc. Vậy Việt Nam sẽ rơi vào cuộc Chiến tranh lạnh 2.0 và lại trở thành nạn nhân của một cuộc chơi quyền lực mới?
Không giống như thời nhà Nguyễn, Việt Nam ngày nay đã là một quốc gia mở cửa hơn nhiều. Cải cách kinh tế từ những năm 1980 đưa đất nước hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Về mặt này, Việt Nam coi Mỹ là một trong những đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu. Đầu tư từ các tập đoàn công nghệ cao của Mỹ như Intel đã mở đường cho các nhà đầu tư nước ngoài muốn giúp Việt Nam vươn lên tầm cao mới trong chuỗi giá trị và tạo dựng một nền kinh tế sáng tạo, hiệu quả. Do vậy, Việt Nam muốn thúc đẩy quan hệ kinh tế với Mỹ. Quyết định tham gia đàm phán về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương là một minh chứng cho điều đó.
Tuy nhiên, việc Việt Nam tích cực cải thiện quan hệ với Mỹ là một chuyện, nhưng mối quan hệ đó sẽ tiến triển bao xa vẫn là điều chưa ai rõ. Trước hết, những khác biệt trong hệ thống chính trị giữa hai nước luôn khiến Việt Nam phải thận trọng. Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) vẫn coi chiến lược "diễn biến hòa bình" là mối đe dọa lớn đối với sự an nguy của chế độ. Một bộ phận trong giới lãnh đạo ĐCSVN tin rằng chiến lược đó đang được các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ, sử dụng để từng bước cản trở và làm thay đổi Đảng. Những lo ngại đó càng sâu sắc hơn bởi những chỉ trích thường xuyên của họ về vấn đề nhân quyền tại Việt Nam. Nhiều chính trị gia Mỹ thậm chí còn nêu cải thiện tình hình nhân quyền là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy xa hơn mối quan hệ song phương.
Trong khi đó, Việt Nam cũng thận trọng để không để những diễn triển trong quan hệ Việt - Mỹ ảnh hưởng đến sự gắn kết với Trung Quốc. Chênh lệch sức mạnh, vị trí địa lý gần gũi, và sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau ngày càng tăng giữa Việt Nam và Trung Quốc, cũng như sự tương đồng ý thức hệ giữa hai Đảng Cộng sản đều có xu hướng khiến cho các nhà hoạch định chính sách Việt Nam phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi có bất kỳ động thái nào có thể gây khó khăn cho mối quan hệ của Việt Nam với người láng giềng phương bắc.
Ngoài ra, một mối quan hệ xấu đi với Trung Quốc cũng không tránh khỏi gây bất ổn cho môi trường bên ngoài và phát triển kinh tế trong nước của Việt Nam. Do tăng trưởng kinh tế trở thành nguồn lực quan trọng nhất đảm bảo ổn định đất nước, Việt Nam không muốn đi ngược lại con đường đã đi. Điều này chỉ ra một điểm: mặc dù muốn thúc đẩy trao đổi kinh tế với Mỹ, nhưng Việt Nam vẫn do dự tăng cường quan hệ chính trị và quân sự với đất nước từng là kẻ thù này.
Tuy nhiên, diễn biến thực tế trong mối quan hệ song phương trong vài năm qua cho thấy một hướng đi trái ngược; mối quan tâm củng cố quan hệ chính trị và quân sự với Mỹ của Việt Nam dường như càng sâu sắc hơn ngay cả khi những nỗ lực như vậy có thể khiến Trung Quốc không hài lòng và gây mất tự tin cho một bộ phận lãnh đạo Đảng.
Mặc dù các nhà ngoại giao Việt Nam nói mối quan hệ Việt - Mỹ tốt đẹp hơn được đặt trong khuôn khổ chính sách đối ngoại chung của Việt Nam là đa dạng hóa và đa phương hóa, hầu hết các nhà quan sát bên ngoài đều cho rằng động cơ chính đằng sau quyết định nuôi dưỡng mối quan hệ thân thiết hơn đó chủ yếu liên quan đến những căng thẳng đang gia tăng trên Biển Đông, nơi Trung Quốc trở nên ngày càng ngông cuồng trong cách thực thi các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ vô căn cứ của mình.
Với những tuyên bố chủ quyền chồng lấn trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các ranh giới biển, Việt Nam và Trung Quốc là hai bên đối lập chính trong tranh chấp Biển Đông. Việt Nam nhìn chung coi cuộc xâm lược chiếm quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc năm 1974, cuộc đụng độ hải quân với Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa năm 1988, và tuyên bố chủ quyền biển dựa trên đường 9 đoạn là bằng chứng cho thấy chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc, thứ mà trong quá khứ Việt Nam đã từng là nạn nhân.
Việc Trung Quốc ngày càng hung hăng trong thời gian gần đây - như thể hiện trong vụ việc của tàu Bình Minh 2 hồi tháng 5/2011 (khi tàu Trung Quốc tấn công tàu khảo sát địa chất của Việt Nam), và việc thành lập cái gọi là thành phố Tam Sa vừa qua (một thành phố cấp tỉnh trực thuộc tỉnh Hải Nam để quản lý các đảo và bãi đá trên Biển Đông), và việc Trung Quốc mời thầu các nhà thầu quốc tế 9 lô thăm dò dầu khí ngay trong vùng đặc quyền của Việt Nam hồi tháng 6 - càng báo động Việt Nam về ý đồ của Trung Quốc ở Biển Đông.
.... Trước sự hiện đại hóa quân sự nhanh chóng ở quy mô lớn hơn nhiều của Trung Quốc, khoảng cách quân sự giữa hai nước vẫn tiếp tục nới rộng. Vì thế, ngay cả khi Việt Nam không ngừng nhấn mạnh chính sách quốc phòng tự lực, Việt Nam cũng vẫn cần làm sâu sắc mối quan hệ chiến lược với các cường quốc để bổ trợ cho những sự yếu thế đáng kể trong quan hệ với Trung Quốc.
Trong kịch bản đó, Mỹ trở thành đối tác được ưu tiên hơn của Việt Nam. Trước hết, Mỹ là cường quốc duy nhất có khả năng thách thức và kiềm chế hiệu quả tham vọng quân sự của Trung Quốc. Thứ hai, trong khi mối đe dọa "diễn biến hòa bình" được cho là âm mưu của các nước phương Tây, chưa mang đến những nguy cơ thực sự đối với sự cầm quyền của Đảng, mối đe dọa mang tên Trung Quốc đối với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đang hiện hữu hơn nhiều. Và thứ ba, trong khi thực tế mối quan hệ gần gũi hơn với Mỹ có thể khiến Trung Quốc khó chịu và mang lại những hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế Việt Nam, cơ sở chính cho sự cầm quyền của Đảng - chủ nghĩa dân tộc và tinh thần chống ngoại xâm - cũng có nghĩa là nếu nhượng bộ trước áp lực của Trung Quốc và để cho sự toàn vẹn lãnh thổ gặp nguy thì nó sẽ thậm chí còn gây thiệt hại hơn nhiều cho uy tín và tính chính danh của Đảng.
Quyết định chuyển hướng trọng tâm chiến lược về châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ vừa qua... cũng sẽ làm diễn biến cuộc tranh chấp thay đổi theo hướng có lợi cho Việt Nam, ít nhất là trong ngắn hạn.
Xét về chiến lược, tranh chấp Biển Đông đang được cấu thành bởi ba lớp mâu thuẫn gắn bó chặt chẽ với nhau. Lớp trong nhất là cuộc đối đầu giữa Trung Quốc với từng bên tuyên bố chủ quyền Biển Đông trong ASEAN, bao gồm Việt Nam. Lớp ở giữa là cuộc cạnh tranh giữa ASEAN với Trung Quốc. Lớp ngoài cùng là cuộc cạnh tranh chiến lược mới nổi lên rõ rệt trong thời gian gần đây giữa Trung Quốc và Mỹ, trong đó Biển Đông là một trong những sân khấu diễn ra. Mặc dù Mỹ không phải là một bên trong tranh chấp, nhưng tham vọng khó chấp nhận và sự gia tăng quyết liệt của Trung Quốc trên Biển Đông tạo cho Mỹ cái cớ để can dự vào. Điều mà Mỹ muốn đảm bảo thông qua tham gia vào cuộc tranh chấp không phải chỉ là hòa bình hay tự do hàng hải trên Biển Đông, mà có vẻ như tranh chấp còn đang được siêu cường này sử dụng như một công cụ tiện lợi để kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc ở tầm khu vực và trên phạm vi toàn cầu.
Động thái của Mỹ rõ ràng phù hợp với lợi ích của Việt Nam, tức là đưa tranh chấp với Trung Quốc ra lớp ngoài cùng để hóa giải sức mạnh vượt trội hơn của Trung Quốc. Sự tham gia của Mỹ dù là gián tiếp cũng có thể buộc Trung Quốc phải hành động thận trọng hơn và ít sẵn sàng sử dụng vũ lực hơn. Ngoài ra, toan tính chiến lược của Mỹ đối với Trung Quốc cũng sẽ làm giảm áp lực trong vấn đề nhân quyền đối với Việt Nam và tạo cơ hội thúc đẩy quan hệ song phương bước lên tầm cao mới.
Việt Nam và Mỹ vừa có những bước đi thúc đẩy xa hơn mối quan hệ song phương, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị và quân sự. Hai nước từng là kẻ thù đang tổ chức các cuộc đối thoại an ninh, quốc phòng và nhân quyền hằng năm. Trong chuyến thăm lịch sử tới vịnh Cam Ranh, Bộ trưởng Benetta được cho là đã bày tỏ rằng Mỹ sẵn sàng giúp nâng cấp cảng và kêu gọi Việt Nam cho phép tàu hải quân Mỹ, bao gồm cả tàu chiến, có quyền tiếp cận lớn hơn tới cơ sở này. Và nếu xu hướng hợp tác đó còn tiếp tục, Mỹ có thể sẽ xem xét việc dỡ bỏ lệnh cấm vận mua bán vũ khí cho Việt Nam trong tương lai gần. Bên cạnh đó, hai nước cũng có nhiều động thái xây dựng lòng tin và hiểu biết lẫn nhau hơn nữa. Đơn cử, từ tháng 8/2012, một dự án do Mỹ tài trợ đã bắt đầu được triển khai để thanh trừ các chất hóa học độc hại còn sót lại từ chất độc màu da cam do Mỹ dải thảm tại một địa điểm gần sân bay Đà Nẵng. Dự án được đại sứ Mỹ David Shear miêu tả là động thái cụ thể của hai nước nhằm chôn lấp di sản của quá khứ.
Tuy nhiên, mặc dù mang lại những lợi ích chiến lược quan trọng, việc nối lại tình hữu nghị Việt-Mỹ trong bối cảnh cuộc đối đầu địa chính trị ngày càng sâu sắc giữa Mỹ với Trung Quốc cũng mang đến cho Việt Nam những rủi ro, mà nghiêm trọng nhất là có thể kéo Việt Nam vào một cuộc chơi quyền lực mới. Khi Trung Quốc đang từng bước hướng đến trở thành một siêu cường, một cuộc chiến tranh lạnh 2.0 có thể sẽ xuất hiện trong tương lai không xa. Lý thuyết thông thường, đặc biệt từ quan điểm chủ nghĩa hiện thực, sẽ dự đoán rằng nếu sự trỗi dậy của Trung Quốc đe dọa nghiêm trọng đến lợi ích toàn cầu của Mỹ, Mỹ sẽ phản ứng lại bằng cách kiềm chế Trung Quốc. Thực tế, sự chuyển hướng trọng tâm quân sự từ châu Âu về châu Á, theo như tuyên bố của Panetta tại Singapore hồi tháng 6 năm nay, có thể được coi là dấu hiệu ban đầu của chính sách kiềm chế. Tương tự, ở cấp độ khu vực, sự can dự nhiều hơn của Mỹ vào tranh chấp Biển Đông từ năm 2010 cho thấy Mỹ đang tìm cách ngăn cản Trung Quốc hiện thực hóa tham vọng biển của mình. Tóm lại, Mỹ đang sử dụng "mối đe dọa Trung Quốc" ở Biển Đông để tập hợp lực lượng và sự ủng hộ nhằm đối phó với Trung Quốc. Việc Mỹ nối lại quan tâm đối với Việt Nam, một quốc gia có vị trí địa lý quan trọng và là kẻ thù của Trung Quốc trong lịch sử, do đó được định hình trong bối cảnh này.
Nếu cạnh tranh chiến lược Trung - Mỹ tiếp tục diễn triển quyết liệt hơn, Việt Nam, với tư cách là một nước láng giềng của Trung Quốc và một bên trong tranh chấp Biển Đông, sẽ ở vào thế rất khó trong việc duy trì cân bằng giữa hai cường quốc và tránh những điều không mong muốn. Khi Mỹ tái cân bằng lực lượng về phía châu Á - Thái Bình Dương và làm sâu sắc thêm mối quan hệ với các nước trong khu vực, Trung Quốc sẽ không thể đứng yên. Theo đó, Trung Quốc sẽ cố gắng gây áp lực lên Việt Nam, nhắc nhở Việt Nam về tâm quan trọng của mối quan hệ hữu hảo với Trung Quốc. Đơn cử, trong mấy tháng trở lại đây, đã có những báo cáo về việc Trung Quốc ngừng hoặc trì hoãn nhập khẩu một số hàng hóa của Việt Nam vì những nguyên do còn chưa xác định rõ. Như đã nói ở trên, Trung Quốc vừa thành lập một đơn vị quân sự đồn trú tại cái gọi là thành phố Tam Sa mới thành lập để phụ trách theo dõi khu vực tranh chấp ở Biển Đông. Động thái này rõ ràng nhằm vào Việt Nam và Philippine. Chưa hết, Trung Quốc cũng ngấm ngầm thực hiện chiến dịch ngoại giao gây ảnh hưởng lên Campuchia, láng giềng hữu nghị từ nhiều năm của Việt Nam. Việc Campuchia, được cho là dưới áp lực của Bắc Kinh, phản đối đưa vấn đề Biển Đông vào thông cáo chung kết thúc Hội nghị Bộ trưởng ASEAN tại Phnom Penh năm nay có thể được coi là động thái của Trung Quốc nhằm chia rẽ Việt Nam và Campuchia. Một mối quan hệ tốt với Campuchia cũng có ý nghĩa thiết yếu đối với an ninh của Việt Nam, nên dường như Trung Quốc đã biết phải làm đau Việt Nam như thế nào nếu không dành cho Bắc Kinh sự quan tâm thích đáng.
Tuy nhiên, khả năng Việt Nam bị lôi kéo vào một cuộc chơi quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc không nên bị phóng đại. Khả năng ấy vẫn phụ thuộc một số diễn biến khác. Quan trọng nhất là cuộc cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ trở nên khốc liệt đến mức nào. Không giống như thời kỳ Chiến tranh lạnh, sự phụ thuộc lẫn nhau mạnh mẽ và phức tạp về kinh tế đang có xu hướng hạn chế các cường quốc theo đuổi kiểu đối đầu thời Chiến tranh lạnh. Diễn biến tương lại trong chính sách đối ngoại của Mỹ, Trung Quốc, và Việt Nam cũng có vai trò nhất định. Đơn cử, nếu có được sự nhượng bộ từ Trung Quốc, và bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông được thông qua, Việt Nam sẽ thấy ít sẵn sàng làm sâu sắc quan hệ với Mỹ hơn nếu nó đồng nghĩa với việc gây tổn hại cho quan hệ với Trung Quốc.
Việt Nam ngày nay không giống như đất nước của Triều đại nhà Nguyễn gần hai thế kỷ trước, không muốn bỏ qua cơ hội củng cố quan hệ với Washington. Tuy nhiên, khi mà cuộc cạnh tranh chiến lược Trung-Mỹ tăng nhiệt, nhân tố Trung Quốc cũng nổi lên là vấn đề thách thức nhất đối với các nhà chiến lược và hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam bị giằng xé giữa hai lựa chọn: duy trì mối quan hệ tốt với Trung Quốc và thúc đẩy quan hệ vững chắc hơn với Mỹ. Là một nước nhỏ và láng giềng của Trung Quốc, Việt Nam không muốn phải lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc. Hậu quả của mỗi lựa chọn như thế ai cũng rõ, nên hiển nhiên, nếu phải quyết định thì đó sẽ là một lựa chọn đầy khó khăn cho Việt Nam.
Nguồn: Trâm Anh dịch từ American review magazine/ đăng bởi Lê Hồng Hiệp tại Tuânviệtnam ngày 31/12/2012
--------------

Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2012

Biển Đông 2013: Ba kịch bản, một giải pháp

Kịch bản là bộ khung để phân tích tình huống. Giải pháp các bên chấp nhận mới là đích tìm kiếm của cả "ba tay chơi": Trung Quốc, Mỹ và ASEAN trong cuộc cờ hiện nay. Nếu không đi đến một kết cục có hậu thì một cuộc chiến tranh lạnh và ngăn chận mới có thể diễn ra trong tương lai.

Ngày 25/12, hãng tin Bloomberg trích nguồn tin từ tờ 21st Century Business Herald cho biết, Trung Quốc vừa chính thức phê duyệt dự án đầu tư 1,6 tỷ USD để xây dựng các công trình trái phép trên các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Trong đó, Trung Quốc dự kiến sẽ đầu tư khoảng 1 tỷ USD để xây dựng sân bay, bến cảng và nhiều công trình cơ sở hạ tầng khác trên một số hòn đảo ở Biển Đông thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam.
Theo tuyên bố của chủ tịch tỉnh Hải Nam Jiang Dingzhi, kế hoạch của Trung Quốc là đầu tư tới 10 tỷ NDT (1,6 tỷ USD) để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng cho thành phố. Tam Sa là đơn vị hành chính vừa được chính quyền Hải Nam thành lập trái phép hồi tháng 6/2012 (Bộ Ngoại giao nước ta đã lên tiếng phản đối!), trong đó cố tình bao gồm cả những hòn đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Căng thẳng trên Biển Đông giữa Trung Quốc và các nước láng giềng thuộc ASEAN đã liên tục tăng cao trong những tháng gần đây bởi thái độ ngày càng hung hăng và ngang ngược của Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền đối với gần như toàn bộ khu vực Biển Đông giàu tài nguyên thiên nhiên này. Sự căng thẳng về tranh chấp chủ quyền đã làm gián đoạn và suy yếu các mối quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN. Tình hình này cũng đặt bộ máy hoạch định chính sách an ninh và ngoại giao ở Washington (đang trong thời kỳ thành lập) vào tình thế lưỡng nan về chiến lược.
Ba kịch bản khác nhau
Trên Global Asia số cuối năm (tháng 12/2012), GS Nguyễn Mạnh Hùng, đại học George Mason/Mỹ, vừa đưa ra khung phân tích tình hình và dự báo tương lai đối với các tranh chấp hiện nay giữa Trung Quốc với một số nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam trên Biển Đông. Có thể tóm tắt khung phân tích này trong ba kịch bản sau đây:
Kịch bản thứ nhất là Trung Quốc tiến tới một giải pháp ôn hòa với các nước láng giềng. Quan ngại căng thẳng kéo dài trên Biển Đông sẽ đẩy phần lớn các nước trong khu vực vào "vòng tay" Mỹ, Trung Quốc sẽ bị cô lập, mất hết đồng minh nên Trung Quốc có thể có những nhân nhượng nhất định. Hiện nay, TQ đang muốn VN thỏa hiệp trong phân chia Vịnh Bắc Bộ. Thêm vào đó, một số quan chức Trung Quốc vẫn không thừa nhận là Trung Quốc đã từng tuyên bố "Biển Đông là lợi ích cốt lõi của họ". Việc từ chối này có thể là cách dành "đất lùi" cho thỏa hiệp tương lai? Một vài cố vấn cấp cao trong chính phủ Bắc Kinh buộc phải thừa nhận "tính chất khó giải quyết trong chính sách biển Đông của TQ", nhất là "quy chế của đường chín khúc". Giới think tank này quan ngại tình hình tranh chấp có thể làm Trung Quốc ngày càng bị cô lập và ảnh hưởng xấu đến "sự nghiệp cải cách của TQ".
Kịch bản thứ hai là giải pháp đối đầu như cách TQ đang làm với Philipinnes tại Scarboough hiện nay. TQ sẽ tiếp tục lấn tới nhằm kiểm soát toàn bộ vùng lưỡi bò bằng các hành động đơn phương, chính sách bên miệng hố chiến tranh, sách lược "tầm ăn dâu" và chia để trị đối với ASEAN. Hành động lật lọng của TQ ở  Scarborough: sau khi Phi rút tàu ra khỏi khu vực bãi cạn, TQ lập tức quay lại và thiết lập sự kiểm soát trên thực tế, cho thấy TQ coi thường luật pháp quốc tế, chủ trương "gây sức ép cường độ thấp", gây "mỏi mệt về chiến lược" và sau đó là cưỡng chiếm. Với trò "mèo vờn chuột" này, lại chiếm ưu thế về lực lượng hải quân so với láng giềng, TQ sẽ nhân rộng mô hình Scarboough, tạo ra một loạt tình huống sự đã rồi (faits accomplis) để độc chiếm BĐ.
Kịch bản thứ ba là giải pháp Mỹ-Trung bắt tay nhau. Kịch bản này là hệ quả của quá trình chuyển giao quyền lực êm thấm trong khu vực từ Mỹ, cường quốc thoái lui sang Trung Quốc, cường quốc trỗi dậy, và không chỉ trên Biển Đông, bởi vì, từ bản chất bành trướng, TQ sẽ không bao giờ chỉ dừng lại ở BĐ mà sẽ tiến ra giành giật quyền lãnh đạo khu vực Thái Bình Dương từ tay Mỹ. Nếu điều này xẩy ra, đây thật sự sẽ là một đảo lộn lớn lớn nhất của thế kỷ 21, đối với cả tiểu quốc lẫn cường quốc. Một khi "cựu" siêu cường Mỹ buộc phải "thần phục" TQ và trao cái gậy chỉ huy cho thiên triều thì các quốc gia còn lại sẽ lần lượt phải "xếp hàng" theo sự chỉ dẫn của một sen đầm mới Bắc Kinh. Hẳn nhiên, hệ lụy của kịch bản này cực kỳ nguy hiểm đối với cả khu vực lẫn toàn cầu.
Ảnh: Lê Anh Dũng
Tránh kỷ nguyên"chiến tranh lạnh"
Ba kịch bản nói trên xuất phát từ ba cách tiếp cận khác nhau đối với các tranh chấp biển đảo giữa TQ với các nước láng giềng ĐNÁ. Thứ nhất, nếu coi đây đơn thuần chỉ là sự va chạm về lợi ích kinh tế giữa các nước duyên hải và chỉ tập trung vào các tranh chấp xung quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì có thể "mơ" về kịch bản thứ nhất, kịch bản của hòa bình. Nhưng đáng tiếc, bản chất xung đột trên Biển Đông từ mấy năm trở lại đây là một cuộc xung đột quốc tế. Những thành tố tạo nên cách tiếp cận thứ hai như yêu sách "đường lưỡi bò" của TQ, phản ứng công khai của Mỹ và quan ngại của tất cả các nước trong khu vực, từ lớn đến bé. Tuy nhiên, đối với lợi ích dân tộc và chủ quyền quốc gia, thật ra không thể đo bằng quy mô lớn hay bé. Trung Quốc nên hiểu rằng, có thể ở chính thể này, chế độ kia, Trung Quốc có thể cưỡng chiếm tạm thời một phần chủ quyền và thu tóm một phần lợi ích quốc gia của một số nước, nhưng lịch sử là công bằng, cái gì của Cesar rồi sẽ phải trả về cho Cesar!
Cách tiếp cận thứ ba phải chăng là một định mệnh trong quan hệ quốc tế, đó là sự chuyển dịch quyền lực trên cấp độ đại-hệ thống. Trong cuộc Đối thoại chiến lựơc và kinh tế giữa TQ và Mỹ tháng 5 năm 2010, đại diện TQ tuyên bố rằng chủ quyền của TQ ở Biển Đông là "quyền lợi cốt lõi" của họ. Chỉ hai tháng sau, tại Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton phản ứng lại bằng cách xác định  Mỹ có "quyền lợi quốc gia" trong việc bảo vệ tự do hàng hải, tự do khai thác tài nguyên chung trong vùng biển Á châu, và việc tôn trọng luật quốc tế ở biển Đông. Đây là những tuyên bố rất đáng quan tâm vì nếu để mẫu thuẫn quyền lợi quốc gia giữa các cường quốc trở nên đối kháng thì dễ dẫn đến tình trạng đối đầu trong một cuộc chiến tranh lạnh kiểu mới (khác với cuộc chiến tranh lạnh trong thế kỷ 20).
Tranh chấp trên Biển Đông từ nay dường như đã trở thành cuộc đối đầu/cạnh tranh quyền lực trên cấp độ toàn cầu giữa Mỹ, siêu cường được coi là đang trượt dốc với Trung Quốc, đại cường đang nổi lên, lăm le "tung hê" cái trật tự tồn tại hơn nửa thế kỷ nay để cài đặt vào đấy một trật tự mới mà giới quốc tế học đã đặt tên, cho dù nó chưa ra đời, đó là trật tự Trung Hoa (Pax Sinica/Hòa bình kiểu Tàu). Nhìn vấn đề từ góc độ này có thể hiểu ý đồ đằng sau đề nghị của TQ cách đây mấy năm đưa ra với Mỹ là hai bên có thể chia đôi biển Thái Bình Dương, mỗi bên hùng cứ một phương để Trung Quốc dễ bề "múa gậy vườn hoang" ở Đông-Thái Bình Dương mà không động chạm đến lợi ích của Mỹ.
"Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi"
Các tranh chấp giữa Trung Quốc với một số nước châu Á trên Biển Đông và Hoa Đông hiện nay đang gây khó cho Mỹ và có khả năng buộc Mỹ phải tiến hành chính sách "ngăn chặn kiểu mới"? Chủ trương của Mỹ giữ nguyên trạng trên Biển Đông đang làm cho các nước bị bắt nạt tự tin hơn trong đấu tranh chống lại các hành động xâm lấn của TQ. Tuy nhiên, các xung đột ở cường độ thấp sẽ đặt ra một nan đề là khi nào thì Mỹ cần bày tỏ cam kết để kềm giữ TQ, còn khi nào thì Mỹ phải làm thinh để các nước láng giềng của TQ đừng đi quá xa. Đối với Mỹ, lý do địa dư và tâm lý dân chúng hiện nay càng đẩy nan đề này thành vấn đề lớn. Đối với một số nước châu Á, lý lẽ duy trì căng thẳng với TQ là cách để "giữ chân" Mỹ phải ủng hộ họ vẫn là một vũ khí của kẻ yếm thế.
Để có một giải pháp hòa bình và công lý cho tranh chấp trên Biển Đông không thể trông đợi nhiều từ các kịch bản nói trên, đó chỉ là cái khung minh triết phân tích các tình huống chồng lấn phức tạp. Vì lợi ích của chính TQ, một quốc gia có bề  dày về văn minh và tư tưởng, nhất là tư tưởng của các chiến lược gia được xếp vào loại hàng đầu của túi khôn nhân loại, TQ nên tự kềm chế bớt lòng tham. Thế giới sẽ tôn vinh TQ như là "một cổ đông có trách nhiệm" trong làng toàn cầu đang oằn lưng chống "các loại bão", từ kinh tế đến môi trường, từ giá trị đến văn hóa, tất cả cùng chia sẻ một vận mệnh chung, một cơ may chung để tồn tại và phát triển. Ăn thua nhau trên biển để rồi chôn vùi các nền văn minh xuống đáy đại dương thì há chăng đó là sự lựa chọn thông minh. Bài học của tiền nhân "tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi" (biết đủ thì không nhục, biết dừng thì không nguy hiểm) hóa ra bị lãng quên mãi mãi?
Hải Đăng -Tuần VietnamNet ngày 30/12/2012



Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này