Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2012

Con cháu Hai Bà thời nay(*)


BỐN CÔ GÁI VIỆT NAM XINH ĐẸP

Tác giả: Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh
Có những cô gái Việt Nam đứng xếp hàng cho đàn ông nước ngoài chọn mua về làm vợ.
Có những cô gái Việt Nam bị khinh bỉ, xăm soi khi trình hộ chiếu VN để nhập cảnh vào Mã Lai, Singapore, Hàn Quốc…
Có những cô gái đáng thương khác phải bán mình kiếm sống trong những điểm mát xa trá hình, trong những quán bia ôm dâm loạn…
Có những cô gái phải cam phận làm nô lệ tình dục ở quê người thông qua các đường dây buôn bán phụ nữ qua biên giới.
Có những cô gái làm đĩ cao cấp bằng cách khoe mông, khoe ngực, tạo xì căng đan để mồi chài các đại gia lắm tiền nhiều của.
Có những cô gái khóc ngất lên khi gặp được sao Hàn.
Có những cô gái còn ở tuổi học trò đã sẵn sàng xông vào cấu xé, lột truồng, nhục mạ nhau chỉ vì ganh ăn, ghét ở.
Có những cô gái thí đời vào những cuộc vui thâu đêm suốt sáng trong những tụ điểm ăn chơi để quên đi thực tại.…
Những cô gái như vậy sẽ luôn hiện lên trên các dòng tin của hệ thống báo đài. Những dòng tin nhói đau ấy như những nhát bút tối màu tạo nên những gam u ám trên bức tranh toàn cảnh của một xã hội vốn không mấy sáng sủa.
Tuy vậy vẫn có những cô gái trẻ khác mà vẻ đẹp của  họ như những tia sáng chiếu xuyên qua bức màn đêm mang lại niềm tin tươi sáng vào thệ trẻ trong chúng ta.
Cô gái đầu tiên mà không hiếm người biết đến là luật sư Lê Thị Công Nhân *. Hãy hiểu về cô qua những gì ghi trên tự điển bách khoa Wikipedia:
Tiểu sử
Lê Thị Công Nhân sinh tại Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang, Việt Nam; trú tại tập thể Văn phòng Chính phủ, phường Phương Mai, quận Đống Đa, Hà Nội, xuất thân trong một gia đình công nhân viên chức và tốt nghiệp Đại học Luật Hà Nội năm 2001.
Năm 2004, cô tốt nghiệp lớp luật sư và công tác tại bộ phận thư ký quan hệ quốc tế, Văn phòng Đoàn Luật sư Hà Nội. Năm 2005, thôi việc tại Văn phòng Đoàn Luật sư Hà Nội để về làm việc tại văn phòng Luật sư Thiên Ân.
Lê Thị Công Nhân là thành viên của Khối 8406 và đồng thời là đảng viên của Đảng Thăng Tiến Việt Nam.
Lê Thị Công Nhân bị bắt tạm giam tại Hà Nội vào ngày 6 tháng 3 năm 2007 vì bị cáo buộc hoạt động “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, và bị xóa tên khỏi danh sách Đoàn Luật sư Hà Nội.
Vào ngày 11 tháng 5 năm 2007, sau hơn hai tháng tạm giam, cô và Nguyễn Văn Đài được đem ra xét xử, bị kết án 4 năm tù giam và 3 năm quản chế. Ngày 06 tháng 03 năm 2010, Lê Thị Công Nhân đã thi hành xong 3 năm tù, cô được thả về và chịu sự quản chế tại địa phương.
Hoạt động
Lê Thị Công Nhân tham gia phong trào đòi đa nguyên, đa đảng. Lê Thị Công Nhân đã từng viết tham luận, nội dung tố cáo Tổng Công đoàn Việt Nam hiện nay không bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam vi phạm nhân quyền và kêu gọi thế giới hỗ trợ cả tinh thần lẫn vật chất để lập ra những công đoàn độc lập cho công nhân Việt Nam, thể hiện đúng chức năng của Đảng Cộng sản Việt Nam được nêu trong điều 4 Hiến pháp Việt Nam 1992. (“Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.”)
Cô là phát ngôn viên công khai của Đảng Thăng Tiến Việt Nam, cô đã trả lời một số cuộc phỏng vấn của các đài và báo chí ngoại quốc và viết bài nói về thực trạng của Việt Nam. Vào tháng 12 năm 2006, trả lời cuộc phỏng vấn hội đoàn Lên Đường ở hải ngoại với những lời lẽ phê phán chỉ thị số 37/2006/CT-TTg củaThủ tướng chính phủ về việc quy định một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí, cô nói: “Là một luật sư thì tôi xin khẳng định với những hiểu biết cá nhân của mình rằng chỉ thị 37-TTG ngày 29/11/2006 là hoàn toàn vi hiến”.
Cô đã được mời tham dự Hội nghị Công đoàn Tự do tổ chức tại Warszawa, thủ đô của Ba Lan, (28 – 30 tháng 10 năm 2006), nhưng cô không tham dự được vì bị công an giữ lại trước khi lên máy bay.
Từ đầu tháng 12 năm 2006 đến tháng 2 năm 2007, cô đã cùng luật sư Nguyễn Văn Đài tổ chức các lớp học về dân chủ và nhân quyền, vận động giới thiệu các tổ chức như Đảng Dân chủ, Đảng Thăng Tiến Việt Nam, Khối 8406… cho một số sinh viên, trí thức và người khiếu kiện, tại văn phòng luật sư Thiên Ân…
Người con gái thứ hai là Đỗ thị Minh Hạnh *.
Hãy biết về cô qua ghi chép của Bác 8 Bến Tre:
Minh Hạnh sinh ngày 13-3 năm 1985 trong một gia đình cả cha mẹ đều là cán bộ Cộng Sản ở Di Linh, Lâm Đồng. Năm 18 tuổi cô đã bắt đầu hoạt động bênh vực cho những người dân oan Lâm Đồng làm đơn khiếu kiện đât đai. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, Minh Hạnh vào Sài Gòn tiếp tục học trường Cao Đẳng Kinh tế.
Năm 2005 cô đến Hà Nội giúp đỡ dân oan khiếu kiện đất đai và bị án 3 tháng tù giam. Khi hay tin chánh quyền CSVN cho Trung quốc đầu tư khai thác Bauxit tại Tây nguyên, cô đã bí mật cùng Nguyễn Hoàng Quốc Hùng đến tận nơi chụp ảnh các nông trường của TQ tại đây và chuyển đi toàn cầu qua mạng Internet.
Năm 2007 Minh Hạnh đã tổ chức cho công nhân người Việt bị áp bức tại công ty nước ngoài để biểu tình và đình công để được tăng lương và an toàn lao động. Tháng 12 năm 2009 cô đã bí mật đi đường bộ sang Cambuchia, Thái Lan để đến Malaysia tham dự đại hội kỳ 2 của Ủy ban về người lao động Việt nam.
Những hoạt động yêu nước đó của Minh Hạnh đã đẩy cô vào tù.
Vào ngày sinh nhật thứ 27 của Minh Hạnh, tác giả Ngô An viết những giòng sau đây về cô:
Hôm nay – ngày 13 tháng 3 – sẽ là một ngày rất bình thường nếu tôi không biết Hạnh. Tôi còn nợ cô bé ấy nhiều lắm. Có nhiều điều còn nhớ mãi, có những chuyện sẽ không thể nào quên. Thế nhưng, Hạnh vào tù đã được 3 năm, tôi chưa bao giờ viết được một bài trọn vẹn cho em.
Có lẽ, tình càm tôi dành cho Hạnh đã bão hòa, đã đầy ắp để mỗi con chữ về Hạnh cũng là thừa. Có lẽ, tôi nhìn thấy sự thừa thãi trong những dòng chữ của mình vì đã có nhiều người viết về Hạnh mặc dù họ chưa được gặp em một lần. Mặc dù họ chưa được một lần nghe Hạnh hát, những bài hát do em tự đặt lời, giọng tự nhiên, trong sáng, không chải chuốt. Nhưng, quả thật, những dòng chữ họ dành cho Hạnh thật ấm áp, thật nghĩa tình như đã quen Hạnh từ lâu.
Những ai đã có lần biết Hạnh, có lẽ sẽ nhớ mãi đôi mắt long lanh sáng của em chứa cả một bầu tâm huyết, Hạnh tin ở con người, cuộc sống, Hạnh tin mãnh liệt ở lý tưởng và điểm đến trên con đường chông gai mà em đã chọn. Bởi đó là hoài bão của em. Hoài bão của Hạnh không phải là một người chồng giàu, một căn nhà đẹp mà là một cuộc sống công bằng, cơm no cho người nghèo, áo ấm cho kẻ không nhà. Và em đã chọn một lối đi riêng cho mình – không giống những cô gái đồng trang lứa – để thực hiện hoài bão đó.
Tác giả Vũ Đông Hà viết về Minh Hạnh: “Hạnh đã cùng với Hùng lên đường, phẫn nộ nhưng không hận thù, hiền hòa nhưng dũng cảm, chông gai nhưng không khiếp nhược, thất bại nhưng không sờn lòng”.
Thi sĩ Trần Trung Đạo đã viết “Mấy vần thơ cho Đỗ thị Minh Hạnh”:
Đất nước mình không có hôm nay
Nếu hai ngàn năm trước không có bà Trưng, bà Triệu
Và sẽ tiếp tục sống trong độc tài nô lệ
Nếu không có những người con gái như em
Dòng sông dài và phiến đá chông chênh
Nhưng nếu tất cả đều co ro, sợ hãi
Nếu tất cả đều đứng nhìn, e ngại
Dân tộc này rồi sẽ ra sao?
Lịch sử đang chờ em để bước sang trang
Dân tộc vịn vai em để đi cùng nhân loại
Những người chết đang bắt đầu sống lại
Những người đi đang lần lượt quay về
Và Hạnh đã viết trong thư gởi mẹ từ trong tù:
“Má ơi, con rất là đau buồn, con không buồn thân thể con, ở tù bao nhiêu năm cũng được… Họ bảo con hãy nhận tội đi rồi sẽ được giảm xuống 4 năm, nhưng không, ở đời thì chết chỉ có một lần mà thôi… để cho họ thấy rằng, họ không được phép coi thường tinh thần bất khuất của dân tộc. Mỗi dân tộc, mỗi một con người, nhất là người lãnh đạo đất nước phải biết rằng “Đặt quyền lợi và danh dự của tổ quốc lên trên quyền lợi cá nhân của mình chứ…”
Người con gái thứ ba tôi muốn nói đến là Trịnh Kim Tiến *. Cha già bị công an vô cớ đánh chết, cô gạt những giọt nước mắt bi thương, lao ra đường cùng bạn bè tham gia hầu hết những cuộc biểu tình chống Trung Cộng xâm lược.
Sắp bước lên xe hoa về nhà chồng nhưng cô gái trẻ vẫn đau đáu với quê hương. Bài viết mới nhất của cô đăng trên Face book:
Chắc chắn rằng không chỉ mình tôi mà tất cả mọi người, ai cũng đều mong mỏi đất nước của mình một ngày nào đó “sánh vai cường quốc năm châu”, vươn đôi vai ngang tầm thế giới.
Nhưng một điều thật đáng buồn, những vấn nạn xã hội, kinh tế, văn hóa đã khiến hình ảnh của đất nước, dân tộc Việt Nam xấu đi quá nhiều trong mắt bạn bè Quốc tế. Khi người Việt cầm visa, hay hộ chiếu của mình qua các nước du lịch, đi học cũng như định cư , họ thường bắt gặp những ánh mắt kì lạ nhìn về phía họ.
Phải chăng do nhiều yếu tố  khiến chúng ta thua kém bạn bè. Người Việt ta vốn dòng máu Lạc Hồng, truyền thống  ngàn năm văn hiến, tôi tin rằng chúng ta không bao giờ bằng lòng và chấp nhận điều đó.
Từ những thứ nhỏ bé nhất như gánh hàng rong ở Việt Nam cho đến những hãng hàng không  cũng có những chênh lệch với nước bạn.
Và tấm lòng của cô với những thân phận nghèo khó:
Không chỉ đọc, mà thực sự tôi còn chứng kiến nhiều lần những cảnh tượng nhức nhối xót thương.  Mỗi buổi chiều tôi thường cùng mẹ sang bên ngõ chợ mua đồ ăn, nhìn thấy hình ảnh những người phụ nữ gày gò, đen xạm , ôm chặt quang gánh chạy thật nhanh mỗi khi thấy chiếc xe đồn của phường đi đến dẹp chợ, đến mức rơi cả một chiêc dép bên chân lại. Cứ như thể họ đang đi chạy nạn, tránh bom đạn hay đang bị cướp giật. Những dân phòng, công an phường tay cầm dùi cui, vẻ mặt dữ dằn nhìn những người phụ nữ đang thi nhau chạy hàng. Có đôi khi có những sự giằng co, van xin kịch liệt diễn ra giữa đôi bên nếu những người phụ nữ đó không kịp chạy. Những giọt nước mắt tức tưởi, cay đắng, ngậm ngùi đôi gánh hàng rong nuôi lớn con từng ngày .
Và ước mơ của cô: 
Không biết đến bao giờ đất nước tôi  có thể vươn lên tầm cỡ thế giới, nhưng tôi thực sự mong có một ngày, một ngày như thế. Một ngày trên khuôn mặt của những người dân tôi không phải là những nét măt u sầu, ủ rũ mà là những nụ cười hạnh phúc, yên vui. Con người được tôn trọng cùng với nghề nghiệp mà họ đã bỏ sức ra lao động chính đáng kiếm tiền lương thiện.
Hãy cho tôi, thế hệ của tôi còn được sống trong niềm hãnh diện về dân tộc và đất nước thân yêu của chúng tôi.
Người con gái Việt Nam – Sáng tác & trình bày: Dzuy Linh
.
Người con gái thứ tư mà rất nhiều người biết đến và cảm phục là Huỳnh Thục Vy *. Cô còn khá trẻ mà những bài viết của cô về đất nước, về hiến pháp, về dân chủ, về nhà nước pháp quyền…uyên bác, sắc sảo đến không ngờ. Không những chỉ viết, cô gái trẻ ấy đã sống rất kiên cường. Cô dũng mãnh nhìn thẳng vào bạo quyền và đối chọi lại không một chút nao núng.
Sau đây là một số đoạn trích trong bài “Tính chính danh của Hiến Pháp” mà cô vừa viết trên BBC:
Dù có xuất phát từ nhu cầu hay tình trạng nào, khi một thực thể chính trị mang vào mình cái vai trò của một Nhà nước thì bản thân nó phải có khả năng tự vận động để thực hiện những chức năng bắt buộc, nhằm có được lý do chính đáng cho sự tồn tại của mình.
Nếu thiếu đi những lý do này, Nhà nước sẽ chỉ tồn tại trong sự bất chính. Những lý do đó là: sự đồng thuận trao quyền của người dân, sự hoàn thành tốt các chức năng quản lý và phát triển xã hội của Nhà nước đó, và cuối cùng là sự đảm bảo trách nhiệm bảo vệ chủ quyền Quốc gia và thiết lập sự hiện hữu hài hoà của cộng đồng mà nó quản lý với cả cộng đồng nhân loại.
Dù được thành lập theo cách nào, một chính quyền chính danh phải có được những điều kiện trên, hoặc tiến hành càng sớm càng tốt những thay đổi để có được những điều kiện đó.
Các chế độ độc tài được kiến lập từ sự trao quyền của người dân thông qua một cuộc bầu cử mang tính mị dân, như trường hợp cuộc bầu cử năm 1998 đưa Hugo Chavez của Venezuela lên cầm quyền, thường không có được những nhận thức sâu sắc về sự kiện trao quyền quan trọng này.
“Một khế ước phải có hai bên tham gia, hai bên phải đặt bút ký kết”.
Thậm chí những kẻ độc tài mới trỗi dậy nhờ một cuộc bầu cử mị dân như thế sẽ cảm thấy đắc ý với những chiêu thức lừa bịp dân chúng ngoạn mục của mình chứ không phải cảm thấy vinh hạnh vì được lên cầm quyền nhờ sự trao quyền nghiêm túc bằng cả ý thức và tinh thần trách nhiệm của người dân như trong chế độ dân chủ tự do thực sự. Vì thế, đối với những kẻ độc tài này, nhân dân và quyền lực xuất phát từ nhân dân chỉ là một trò cười, là một thứ để hắn ta lợi dụng.
Ở mức độ nghiêm trọng hơn, các chế độ hình thành từ “cướp chính quyền” như kiểu cách mà những người Cộng sản Việt Nam đã làm để lên nắm quyền, càng không nhìn nhận vai trò của sự trao quyền này bởi cái tâm thức rằng: chính quyền là do họ cướp được chứ không phải do người dân giao phó cho…Vì thế khi đã nắm được quyền lực trong tay, những kẻ chuyên quyền sẽ sử dụng quyền lực và các nguồn lực Quốc gia như thứ tài sản riêng, bất chấp lợi ích của đại đa số người dân và vận mệnh của cả dân tộc.
Ấy thế nhưng, bất cứ thực thể nào trong thế giới tồn tại được và có thể tồn tại lâu dài cũng chỉ vì nó có lý do để đảm bảo cho sự hiện hữu của mình. Thiếu đi tính chính đáng và sự chính danh thì sự tồn tại này chỉ là một chuỗi những nỗ lực bám víu khó khăn và tiềm ẩn nhiều nguy cơ.
Bởi vậy, ta không ngạc nhiên khi tất cả các chế độc độc đoán đều sợ bị lật đổ. Nỗi sợ hãi này xuất phát từ bản chất bất chính của nó. Ngai vàng đặt trên sự lừa bịp, các vấn nạn xã hội, sự không cân xứng và hài hoà của các thiết chế xã hội, sự nghèo khổ và mất tự do của người dân trở thành một thứ quyền lực đáng thèm khát nhưng đầy bất hạnh của những kẻ khát quyền lực và của cải bất chính.
Bốn cô gái trẻ yêu nước và rất đẹp ấy  đang đối mặt với những thách thức phi lý không cần có. Một cô đang ở trong tù, chịu sự đối xử khắc nghiệt và tàn nhẫn. Một cô đã ra khỏi tù nhưng bị quản thúc nghiêm ngặt. Một cô phải luôn luôn đương đầu với mọi rắc rối đang vây quanh, mỗi bước đi của cô đều có người theo dõi, mọi phương tiện viết lách và giao tiếp của cô đều bị tịch thu, cả gia đình cô đang đối đầu với hình phạt nặng nề về tài chính, sắp bị cưỡng chế đến nơi…
Những cô gái ấy đang rất khó khăn. Các cô không được tự do, thoải mái như các cô gái khoe mông để câu đại gia, như các cô gái ngất xỉu vì gặp được sao Hàn, như các cô gái suốt ngày chỉ biết ăn diện và đi shopping…Trong xã hội đầy nghịch cảnh như hiện nay, các cô gái trẻ có thể tự do làm mọi việc, kể cả những việc suy đồi bại hoại, ngoại trừ việc yêu nước theo kiểu cách của riêng mình.
Vì vậy bốn cô gái xinh đẹp, yêu nước theo cách thức của riêng mình nói trên đang bị bao vây, ngăn chận. Nhưng không vì thế mà những tia sáng chói lọi  phát ra từ tâm hồn thanh cao và  trí tuệ sáng rỡ của các cô không xuyên qua được bức màn u ám để mang lại sự lạc quan cho mọi người.
Tôi vẫn tin vào thế hệ trẻ Việt Nam.

Thứ Năm, 29 tháng 3, 2012

Người tốt việc tốt Hồ Cương Quyết

Cái tên Hồ Cương Quyết  thuần Việt  giàu ngữ nghĩa cùng với cuộc đời bình dị nhưng đầy sức chiến đấu của ông tạo thành môt tấm gương sáng về lòng yêu nước mà có lẽ nhiều người Việt chính cống chưa chắc  có được. Đó  là sự gẩy gọn, đơn giản, không úp mở  trong cách hiểu về con người và đất nước Việt Nam; đó là thái độ dứt khoát, cương quyết  đối với kẻ thù bất kể chúng là ai, từ đâu đến...Đối với ông không bao giờ có chỗ cho sự do dự hoặc toan tính vòng vo "khéo léo" trước kẻ thù; tất cả phải được đặt lên mặt bàn để nói cho ra nhẽ. Thiết nghĩ, nếu người Viêt Nam nào cũng như ông thì không kẻ nào dám bén mảng xâm phạm chủ quyền biển đảo của tổ quốc. Tôi nghĩ, hơn ai hết Hồ Cương Quyết là một mẫu hình "người tốt việc tốt" lý tưởng mà người ta vẫn thường phát động thi đua và bình chọn... 

Nôi dung cuộc phỏng vấn của Báo Xa xứ dành cho ông Hồ Cương Quyết mới đây xuât hiện trên boxitvietnam  ngày 29/3/2012  với  tiêu đề Trò chuyện với đạo diễn bộ phim “Hoàng Sa – nỗi đau mất mát” André Menras Hồ Cương Quyết  cho ta thêm những thông tin về con người thú vị này. 


…”Kháng chiến kiểu mới”…
Đó là một câu mà đạo diễn bộ phim “Hoàng Sa – nỗi đau mất mát” – André Menras Hồ Cương Quyết trả lời báo “Xa Xứ” tại buổi gặp gỡ mới đây trong chuyến công du trình chiếu bộ phim mà ông là đạo diễn và viết kịch bản . Hiếm có một người ngoại quốc nào yêu Việt Nam đến thế, gắn bó với Việt Nam trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ giải phóng thống nhất đất nước. Từng bị chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cầm tù. Sau này, đất nước thống nhất ông vẫn giúp đỡ Việt Nam, xin được nhiều học bổng cho sinh viên Việt du học…trong những năm gần đây ông cũng là người lên tiếng mạnh mẽ về hành động bành trướng xâm chiếm biển đảo của nhà cầm quyền Trung Quốc, quyên góp giúp đỡ các gia đình ngư dân Lý Sơn – Quảng Ngãi. Bộ phim tài liệu “Hoàng Sa nỗi đau mất mát” của ông là một minh chứng cho tình yêu Việt Nam, trách nhiệm công dân (ông có quốc tịch Việt Nam) với chủ quyền bờ cõi dân tộc.
Sau đây là nội dung cuộc trò chuyện của báo “Xa Xứ” với ông André Menras Hồ Cương Quyết.
BBT báo Xa Xứ

Báo Xa Xứ (Xa Xứ) : Nhiều khi chúng tôi tự hỏi – không hiểu sao anh lại yêu Việt Nam của chúng tôi đến thế? Anh còn hơn rất nhiều những người Việt “nguyên bản” không phải “hàng nhái” mà thờ ơ với vận mệnh dân tộc. Xuất phát điểm của tình yêu ấy từ đâu, thưa anh?
André Menras Hồ Cương Quyết (AM HCQ) : Xin được nói và sửa ngay cái câu “Việt Nam của chúng tôi…” Việt Nam là tổ quốc của tôi, của các anh nữa chứ (cười hóm hỉnh). Tôi là một giáo viên sang Việt Nam dạy tiếng Pháp tại Miền Nam Việt Nam khi quân xâm lược Mỹ đang hiện diện ở đó. Khi đó tôi ở Đà Nẵng, tôi đã tận mắt chứng kiến các tội ác như tra tấn, mổ bụng mà đội quân này và Đại Hàn gây ra với nhân dân Việt Nam. Là một thanh niên Pháp, sống trong hòa bình và các giá trị của cuộc cách mạng mạng Pháp 1789 “ tự do, bình đẳng, bác ái”. Lúc đó tôi không biết Maxr, Lenin… tôi phản đối chiến tranh với nhiệt huyết của tuổi trẻ. Tôi đã xác định ủng hộ cuộc kháng chiến giành độc lập tự do mà các bạn đang tiến hành. Cụ thể là ủng hộ Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng một cách công khai. Tôi đã phất cờ MTGP trước Nghị Viện chính quyền Sài Gòn… Bị bắt, bị tù tại khám Chí Hòa. Tôi bị tù cùng với những thanh niên tranh đấu, với những người cộng sản, và chính họ đặt cho tôi cái tên Hồ Cương Quyết. Ý chi đấu tranh vì độc lập tự do dân tộc của họ đã làm tôi cảm phục. Càng bị tra tấn họ càng vững vàng. Trong số họ có những người đã hi sinh (xúc động và khóc, ) tinh thần đó, hình ảnh đó lý tưởng độc lập tự do của họ đã cho tôi tình yêu và sức mạnh tới tận bây giờ. Khi đã mang tên là Hồ Cương Quyết thì tôi sẽ cương quyết tới cùng để bảo vệ chủ quyền độc lập của dân tộc Việt Nam trước bất cứ một kẻ xâm lược nào, cường quốc nào, dù mạnh tới đâu… dù tôi là một người bình thường, một người “Tà Ru” nghĩa là “Tù Ra”. Trong tù tôi học Tiếng Việt, đọc lại lịch sử Pháp và biết nhân dân Pháp đã từng ủng hộ Việt Nam. Tôi học sử Pháp từ trong tù đấy (cười)…
clip_image002
clip_image004
clip_image005
Trò chuyện tại VP Ban Biên tập báo Xa Xứ
clip_image007
Bìa báo Xa Xứ số 252, ra ngày 27.3.2012
clip_image009
Buổi chiếu phim “Hoàng Sa Việt Nam-nỗi đau mất mát” tối 26.3 Tại Praha, CH.Séc. Ảnh: Xa Xứ
Xa Xứ: Chúng tôi thấy tình yêu Việt Nam của anh lũy tiến lên trong thời gian gần đây. Các vấn đề như khai thác bauxite tại Tây Nguyên, biển đảo, biên giới. Anh đã lên tiếng với trách nhiệm của một công dân, một người gắn bó với Việt Nam. Anh có nghĩ mình sẽ gặp trở ngại từ phía chính quyền khi anh bầy tỏ tình yêu nhất là khi anh làm bộ phim “Hoàng Sa Nỗi Đau Mất mát”?
AM HCQ: Lúc trước tôi và bạn bè tôi đã hi sinh vì độc lập tự do cho Việt Nam. Những giá trị ấy không bao giờ thay đổi, nó phải được bảo toàn và giữ vững. Thời gian qua cho thấy Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị mất chủ quyền độc lập trước âm mưu bành trướng bá quyền kiểu mới của nhà cầm quyền Trung Quốc. Các ngư dân Miền Trung bị bức hại, đánh đập, bắn chết khi đang hành nghề trên vùng biển truyền thống của mình. Khi dã tâm xâm lược, chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa – Biên giới. Khi Trung Quốc khai thác bauxiter trên một địa bàn địa chiến lược quan trọng – Tây Nguyên – “nóc nhà của Đông Dương”…ngày một gia tăng. Tôi không thể im lặng. Tôi xác định giai đoạn này là tiến hành “Một Cuộc Kháng Chiến Kiểu Mới” để giữ vững độc lập tự do cho Việt Nam trước bất cứ kẻ thù nào, cường quốc nào dù là Mỹ hay Trung Quốc…và giữ giá trị thiêng liêng là độc lập mà tôi đã tranh đấu. ..bộ phim của tôi được sự ủng hộ của BVH&TT – BNG – và nguyên Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết…nhưng khi chiếu tại thành phố Hồ Chí Minh thì bị cấm mà không hề có văn bản, tên người ra lệnh cấm, mặc dù phim đã có giấy phép. Vì chẳng có chứng cớ, nên tôi khó biết, khó hiểu, nó cứ chung chung như là “tàu lạ” còn đây là “người lạ”… không có ai trả lời câu hỏi của tôi là lệnh từ đâu? Như thế là có vấn đề: trong lãnh đạo bây giờ không có thống nhất về vấn đề đó. Có người phản đối, có người ủng hộ tôi. Tôi không sợ bất cừ điều gì, có người kể chuyện một phóng viên UPI bị hành hung, Lãnh sự quán Pháp tại SG cũng khuyên tôi cẩn thận khi đi ngoài đường bị “tai nạn” xe…khi còn trẻ tôi đã chẳng sợ, giờ hơn sáu mươi rồi, có gì phải sợ đâu. Tôi không lật đổ chế độ, không manh động, không ai có thể nói tôi là “phản động”, tôi không yêu Việt Nam…tôi không tham gia bất cứ một đảng phái nào, tôi không có tài sản lớn, không ai mua chuộc chuộc nổi tôi, lương hưu của tôi là hai nghìn Ero. Tôi chỉ có một tình yêu Việt Nam và vì nền độc lập của Việt Nam mà tôi tranh đấu từ khi còn trẻ tới giờ. Tôi chỉ nói lên sự thật, mặc dù có một số người ở Việt Nam không muốn nói lên sự thật. Không dũng cảm nói lên sự thật, trong đó có một số người lãnh đạo, nhưng không phải là tất cả. Hiện nay, dân chủ đang gõ cửa, đang sửa đổi hiến pháp, đó là tín hiệu đáng mừng. Nhân dân không ai muốn lật đổ chính quyền, họ đi biểu tình là biểu thị lòng yêu nước. Sức mạnh là lòng dân chứ không hẳn là vũ khí hiện đại. Sợ nhất là khi người dân dửng dưng trước hiểm họa chủ quyền bị đe dọa. Khi làm phim tôi gặp những gia đình ngư dân ở Lý Sơn, người thân của họ bị Trung Quốc bắt giữ, đánh đập, đối xử như súc vật, đòi tiền chuộc…(xúc động và khóc). Tôi buồn và giận chính quyền vì không có biện pháp cứu trợ giúp đỡ gia đình họ. Họ vẫn bất chấp hiểm nguy ra khơi như để khẳng định chủ quyền biển đảo, chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa từ bao đời nay là của Việt Nam. Họ thự sự là những chiến sĩ của Việt Nam. Phải có chính sách hỗ trợ gia đình họ như miễn phí về việc học hành của con họ, trợ cấp lương thực, vốn cho họ để họ tiếp tục hành nghề. Họ đơn độc trên biển, không có hải quân, tầu bảo vệ biên phòng…nếu Việt Nam mất đảo là sẽ mất biển luôn, tương lai của Việt Nam sẽ thế nào? Tây Nguyên thì Trung Quốc hiện diện rồi, rừng đầu nguồn TQ thuê rồi, dù Đại Tướng Võ Nguyên Giáp cùng bao nhiêu bậc tướng lĩnh, cựu chiến binh, lão thành cách mạng, trí thức, văn nghệ sĩ phản đối. Bây giờ là biển, ngư trường, thềm lục địa…nền độc lập của Việt Nam chưa bao giờ bị đe dọa như bây giờ…
Xa Xứ : Được biết, anh đã tham gia cuộc biểu tình phản đối âm mưu xâm lược lấn chiếm, đòi TQ tôn trọng chủ quyền biên giới hải đảo của Việt Nam. Anh nghĩ thế nào về các cuộc biểu tình tự phát tại TP HCM và Hà Nội trong thời gian vừa qua?
AM HCQ: Đó là biểu thị lòng yêu nước, ý thức về chủ quyền, về độc lập tự do của Việt Nam từ xưa tới nay. Ôn hòa, không kích động, bài xích Trung Quốc. Chỉ yên cầu TQ tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, tuân thủ luật pháp về biển, luật pháp quốc tế. Chính quyền muốn mạnh, muốn giữ vững phải dựa vào lòng dân. Hoàn toàn không có sự chống đối, bạo động, kích động lật đổ chính quyền. Các cuộc biểu tình mang ý nghĩa đó. Tôi đã đi biểu tình, để nói lên sự căm phẫn của tôi đối với nhà cầm quyền Trung Quốc, và biểu lộ sự ủng hộ toàn diện của tôi với nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân các nước bạn ASEAN mà cái “ lưỡi bò“  của Trung Quốc muốn chiếm đoạt biển đảo thiết yếu cho cuộc sống hôm nay và sự phồn hoa ngày mai. Tôi đi biểu tình để vợi bớt sự cay đắng tích lũy từ nhiều tháng, nhiều năm qua. Cùng đi với tôi là những người bạn đã từng chia sẻ hoạn nạn và chung lưng đấu cật đấu tranh trong nhà tù của chế độ độc tài làm tay sai cho xâm lược Mỹ. Thế là thế hệ lục tuần chúng tôi đã gặp lại nhau, với đầu óc, trái tim và niềm tự hào của tuổi hai mươi, đoàn kết chống lại cuộc xâm lược mới. Khẩu hiệu chúng tôi hô vang là những lời trong sáng, không một chút vẩn đục hận thù. Đó là biểu hiện của một sức mạnh an nhiên, hầu như vui tươi, không một chút sợ hãi. Và chắc chắn là không sợ những cái dùi cui mà chúng tôi đã thấy ngay trước mặt. Chúng tôi đã nhận lời chính quyền TP.HCM, cụ thể là ông Nguyễn Thành Tài, Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân, và ông Nguyễn Văn Đua, Phó Bí thư thường trực Thành ủy, đã có nhã ý mời chúng tôi đối thoại. Với hai vị, chúng tôi đã khẳng định là chúng tôi kiên quyết lên án thái độ hiếu chiến, bành trướng chủ nghĩa của chính quyền Bắc Kinh ở Biển Đông. Chúng tôi cũng nói rõ với các vị không gì và chẳng ai có thể ngăn chận được sự phẫn nộ xuất phát từ lòng yêu nước của nhân dân, bởi đó là sự phẫn nộ lành mạnh, chính đáng và cần thiết để bảo vệ đất nước. Đó là sự phẫn nộ cứu quốc. Chúng tôi đã yêu cầu chính phủ và Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện để thể hiện trong tinh thần trách nhiệm, hòa bình, kiên quyết, toàn diện trong sự tôn trọng trật tự. Có những tình huống mà im lặng không giúp ta tránh né được hiểm nguy, ngược lại chỉ làm tăng mối họa vì đối phương lầm tưởng im lặng là bạc nhược. Làm
sao có thể trông mong vào sự ủng hộ của công luận thế giới nếu ta cấm đoán chính nhân dân ta lên tiếng? Phản ứng ngoại giao tất nhiên là cần thiết, nhưng không đủ để tranh thủ được sự đoàn kết quốc tế mà Việt Nam rất cần trong lúc này. Làm sao mà những người đã từng dựa vào sức mạnh của nhân dân để giải phóng và thống nhất đất nước ngày nay lại có thể cản ngăn quyền thông tin và hành động của nhân dân? Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam? Ta không nên tự bằng lòng với những cuộc họp của mấy chuyên gia Việt Nam để khẳng định điều ấy một cách âm thầm với vài chuyên gia quốc tế. Các hội nghị ấy đều quan trọng, nhưng chúng ta cần khẳng định chủ quyền ấy trong các trường học, trong các chương trình sử địa ở cả nước. Tôi rất sửng sốt và đau buồn khi thấy trên đảo Lý Sơn, nơi xuất phát của những ngư dân vẫn kiên trì đánh cá ở vùng biển Hoàng Sa, hòn đảo đứng đầu sóng ngọn gió trong cuộc tranh đấu để khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, con em của họ không được biết gì về địa lý của những hải đảo, nơi mà cha anh của các em bị hải quân Trung Quốc bắt bớ, giam cầm, nhận chìm tàu thuyền. Biết bao tấm bản đồ hành chính Việt Nam còn thiếu vắng đảo Hữu Nhật và Quang Ánh, những địa danh mang nặng nghĩa tình vì tại đây, tổ tiên của họ trong hải đội Hoàng Sa đã hy sinh! Tôi rất hiểu vị thế cực kỳ khó khăn và tế nhị của các nhà lãnh đạo Việt Nam mong muốn tránh cho nhân dân mình đã trải qua bao đau thương trong suốt lịch sử dân tộc phải gánh chịu những hy sinh mới. Ai cũng biết Trung Quốc là một cường quốc kinh tế và quân sự có khả năng làm hại và tàn phá to lớn, nhất là đối với những nước lân cận như Việt Nam. Nhà cầm quyền Trung Quốc đã chứng tỏ họ không ngần ngại làm đổ máu Việt Nam: năm 1974, năm 1979, năm 1988. Ngày nay họ vẫn tiếp tục, họ vin vào bất cứ biểu hiện kháng cự chính đáng nào để hành động khiêu khích, giết chóc, phá hủy và chiếm đóng. Những con người đã làm đổ máu chính nhân dân họ, thanh niên của nước họ năm 1989, những con người ấy không biết băn khoăn, coi trọng mạng sống con người là gì. Nhưng sợ hãi không đẩy lùi được hiểm họa. Ngược lại, khi bị chó sủa mà anh bỏ chạy, thì nó sẽ đuổi theo anh và cắn anh. Cụ Bùi Thượng 73 tuổi, vô địch lặn nước sâu ở Lý Sơn, rất biết điều ấy: “ Gặp một con cá mập lớn, thì phải đối mặt với nó, nhìn trừng mắt vào nó. Có như thế thì nó mới không tấn công“. Có những thời điểm phải biết đối mặt. Đó là vấn đề sống còn. Đối mặt trước hết là nói thật, nói sự thật. Ở Bình Châu và Lý Sơn, tôi đã phỏng vấn những ngư dân ngày ngày phải liều mạng ra khơi. Họ kể rằng họ đã đụng phải những đoàn tàu đánh cá Trung Quốc tới sát đảo 20 hải lý. Những đội đánh cá Trung Quốc tổ chức chặt chẽ, hung hãn, chắc là được sự yểm trợ của hải quân Trung Quốc đóng căn cứ ở Hoàng Sa. Còn ngư dân Việt Nam, tôi không thấy ai nói là cảm thấy được bảo vệ hay yểm trợ! Và khi gặp họa, thì bị bắt, bị giam cầm, bị tịch thu cá mú và thiết bị, và những món nợ to lớn phải trả. Thân cô thế cô, như ông Tiêu Viết Là, người xã Bình Châu, bốn lần bị Trung Quốc bắt giam. Trợ cấp của nhà nước hoặc không có, hoặc không thấm vào đâu. Phải anh hùng đến mức nào mới tiếp tục đi khơi ra lộng trong tình hình như vậy! Món tiền tượng trưng hai triệu đồng mà chính quyền thi thoảng ban phát nơi này nơi kia không thay đổi được số phận của họ. Món tiền hàng tỉ đồng mà các đại gia bỏ ra để xây tượng đài ở Trường Sa không giúp gì cho họ sống qua ngày. Phải lên tiếng, phải nói về họ. Họ phải được hưởng một chương trình hỗ trợ chính thức của Nhà nước, một chương trình ưu tiên và tối thiểu cũng phải cung cấp lương thực, nhu yếu phẩm và thuốc men. Con cái của họ phải được học và chăm sóc sức khỏe hoàn toàn miễn phí. Các cháu các em phải được coi là nghĩa tử quốc gia. Bảo vệ các em, mẹ của các em là bảo vệ biển đảo, là bảo vệ đất nước một cách cụ thể và hữu hiệu. Trong bối cảnh ấy, tôi lại càng sửng sốt khi thấy chính quyền tìm cách giảm nhẹ trách nhiệm của Trung Quốc. Hãy nói chuyện tàu lạ với ngư dân Trung Bộ, họ sẽ sửa ngay “tàu Trung Quốc“. Họ chẳng “lạ“ gì, sự thật rành rành đối với họ. Tại sao phải giấu cả tên bọn hung thủ mà không ai không biết? Nhiều bạn nói với tôi: Trung Quốc không như Mỹ đâu: họ khôn lắm, nên nguy hiểm hơn nhiều. Không chắc! Đúng là gần kề thì hiểm họa càng lớn và lâu dài, đúng là họ có kế hoạch bành trướng bạo liệt về mọi mặt – kinh tế, quân sự, ngoại giao và tuyên truyền đối nội – nhưng chưa chắc là họ đã cân nhắc đầy đủ những hậu quả của chính sách xâm lược ấy. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thực là “khôn“ không? Leo thang quân sự như vậy, họ đang tạo điều kiện xích lại gần nhau giữa những nước ASEAN mà lợi ích ở Biển Đông bị đe dọa. Sau các sự kiện Tây Tạng, Tân Cương, họ đang đánh mất chút uy tín còn lại đối với công luận quốc tế. Họ mở ra một trận tuyến mới, nghĩa là phải ghìm ở đây những lực lượng, nghĩa là chuyển hướng một phần đầu tư cần thiết cho công cuộc phát triển kinh tế vào một cuộc phiêu lưu tốn kém chắc chắn sẽ làm họ sa lầy. Đã qua rồi cái thời mà họ có thể ngang nhiên chiếm đoạt Hoàng Sa, ngang nhiên đánh chìm tàu tiếp vận của Việt Nam tại Bãi Gạc Ma. Trung Quốc đang phát triển mạnh, song chính sự phát triển ấy đang khoét sâu những mâu thuẫn nội tại, khuếch đại những bất bình đẳng xã hội. Nguy cơ xảy ra rối loạn xã hội không thể dùng đàn áp mà đẩy lùi mãi mãi, và những rối loạn ấy sẽ đe dọa sự phát triển kinh tế mà thực chất là tư bản chủ nghĩa. Không cần phải là nhà tiên tri cũng thấy được rằng: khó khăn của Bắc Kinh đang ở trước mặt, chứ không phải ở sau lưng. Đó là điều chắc chắn. Và lúc đó, họ sẽ phải trả lời trước nhân dân Trung Quốc, trước những người mà họ sách nhiễu, đàn áp, trấn lột. Còn một bài học Lịch sử nữa mà nhà cầm quyền Trung Quốc muốn quên – như thế không “ khôn “ tí nào – đó là: về lâu dài, không thể làm nên điều gì khi họ đi ngược lại ý chí của các dân tộc, bởi vì sức mạnh thực sự nằm trong nhân dân, chứ không nằm trong họng súng, trong số lượng vũ khí. Ở Lý Sơn, tôi có dịp tham dự một nghi thức rất có ý nghĩa, nói lên ý chí của người dân hải đảo. Khi một ngư dân mất tích vì bão biển hay vì lí do bí ẩn nào đó, gia đình nào có khả năng xây mộ và mời thầy cúng, thì tổ chức một cái lễ rất độc đáo, có lẽ có một không hai, để gọi hồn người đã khuất về nhập vào một hình nhân nặn bằng đất sét được phù phép. Hình nhân được an táng trong một cái mộ gọi là « mộ gió », để thân nhân có thể tới cúng viếng. Mê tín chăng? Có thế. Nhưng không chỉ có thế. Tôi nghĩ việc này có một ý nghĩa sâu sắc: phong tục mấy trăm năm này nói lên ý chí của những người sống, kiên quyết giành lại từ biển cả, từ kẻ địch cái gì quý nhất, mang về cho gia đình, cho đất nước. Đó là thông điệp rất rõ ràng gửi tới kẻ xâm lược:  “Dù các người làm gì đi nữa, chúng tôi vẫn gắn bó với những người đi biển, gắn bó với biển, với văn hiến này, với đất nước này. Những điều ấy, không gì, không ai có thể chiếm đoạt được .”
Tôi rất buồn và đau đớn khi xem lại các tấm ảnh chụp về cuộc biểu tình tại Hà Nội. Không cắt dán lắp ghép – của những công an quần áo màu lục hay màu lam, đội mũ, đi ủng, hay những công an mặc thường phục; họ xô đẩy, lôi kéo, đấm đá; họ đá cả vào mặt một thanh niên đã ngã xuống. Những bức ảnh này chụp điều mọi người đều chứng kiến trên đường phố. Khi xem các ảnh đó, hơi hám của chế độ cũ trở lại trong ký ức tôi, và một vị máu mặn đắng trở lại trong miệng. Vị máu mà tôi đã hơi quên, gay gắt trên môi trên lưỡi. Đó là cái vị mà tôi đã nếm qua dưới chân bức tượng Thuỷ quân Lục chiến ở Sài Gòn khi tôi treo lá cờ Giải phóng, và mật vụ của Thiệu tay cầm đá đã động quyền cước mạnh mẽ đánh tôi rách da sọ! Tôi lại còn được nếm chính cái vị máu ấy lúc hứng dùi cui mưa trên đầu, khi chúng tôi kháng cự việc chúng đày những người anh em tù đi Côn Đảo trong sân khu BC của Chí Hoà; lúc đầu tôi không ngừng va đập vào mỗi nấc thang, vì bị lũ "đầu trâu mặt ngựa", đi ủng và mang dùi cui, nắm chân kéo lên xà lim biệt giam. Đừng mong rằng tôi sẽ làm giống như một số người bạn tôi, cựu tù nhân chính trị của chế độ Sài Gòn. Nhân danh một quá khứ quang vinh, họ im lặng cam chịu chấp nhận những khốn khổ thê thảm hiện tại. Họ sợ phải lên tiếng cùng với thế hệ thanh niên của họ đang xuống đường. Họ bám víu vào hình ảnh đầy hào quang của họ trong quá khứ và nhắm mắt trước những hình ảnh hiện tại vì sợ bị chóng mặt hay buồn nôn. Tôi rất mến những người bạn này, nhưng cũng rất thương cho họ. Chắc họ khổ tâm lắm! Khổ tâm hơn tôi nhiều. Tôi đơn giản hy vọng rằng những hành xử man rợ và phản quốc, mà những hình ảnh biểu tình ngày 17 tháng 7 năm 2011 tại Hà Nội đã cho tôi thấy, sẽ đánh thức dậy lòng can đảm trong tuổi hai mươi của họ... và làm cho họ khoẻ mạnh hơn. Tuổi trẻ ngày hôm nay cần đến một hình ảnh sống động và đàng hoàng của họ! Trước làn sóng đang dâng lên, hợp pháp, lành mạnh và cứu rỗi, sự đàn áp sẽ lên đến những mức nào trong cái bẩn thỉu, sự hãi sợ, và sự ngu xuẩn? Có phải người ta sẽ mở lại các trại tập trung? Có phải người ta sẽ xử dụng xe tăng theo kiểu Thiên An Môn? Có phải người ta sẽ bắn vào quần chúng? Tra tấn? Thủ tiêu? Liệu có ai ngây thơ đến độ tin rằng nhân dân Việt Nam cũng giống như nhân dân Trung Quốc, và sẽ cúi đầu trước roi vọt? Bởi vì phong trào đã âm ỉ từ lâu như thế, và đã tiến lên như thế, sẽ không dừng lại. Đó không phải là một phong trào bột phát lửa rơm của sinh viên: nó đã tụ hợp được trên những điểm mấu chốt những trí thức có tiếng tăm, có quá khứ ái quốc đầy uy tín, được kính trọng và được lắng nghe, những quân nhân mà sự vinh quang phục vụ tổ quốc cũng như sự liêm khiết không ai có thể nghi ngờ. Nó bắt rễ rất sâu trong quá khứ yêu nước và trong văn hoá đại chúng.
Quả là đến lúc dừng lại dùi cui, để mở mắt nhìn và để dỏng tai nghe: con đường đàn áp là bế tắc. Hỡi quý ông mang dùi cui, cái vị máu trong miệng đó, và cái nỗi thịnh nộ đó, mà mỗi ngày các phản ứng hèn hạ của quý ông mỗi làm cho thêm người cùng nếm trải, đang đưa quý ông, và gia đình, và cả đất nước này đến thảm hoạ. Mà kẻ hưởng lợi độc nhất là xâm lược Bắc Kinh. Chỉ có một lối thoát, chỉ có một lối ra duy nhất cho tất cả những vấn đề liên quan đến công cuộc bảo vệ quốc gia, nền độc lập dân tộc, việc hiện đại hoá nền kinh tế. Đó là nhanh chóng và can đảm mở cánh cửa dân chủ, mở ra cuộc đối thoại tự do với các công dân, khuyến khích họ thực sự tham gia một cách tích cực vào những quyết định trọng đại. Không có gì, không có ai, không một đảng nào có thể tước đoạt lâu dài những quyền tối thượng đó của nhân dân, không có thế lực nào có thể bóp nghẹt hơi thở lành mạnh và cần thiết của lòng yêu nước. Điều này đúng cho việc bảo vệ các hải đảo và vùng biển cũng như đúng cho tất cả những vấn đề khác của đất nước. Hôm 5.6.2011, trong lần biểu tình đầu tiên trước cửa Lãnh sự quán Trung Quốc tại thành phố HCM, một lãnh đạo cấp cao của thành phố, mà tôi đã có lần gặp gỡ thân mật, mời tôi đối thoại, cùng với một số người bạn tôi. Vị này gọi tôi là đồng chí. Tôi đã có phản ứng lễ độ nhưng quả quyết khi trả lời rằng danh từ này chưa bao giờ có một ý nghĩa chung nhất và bền vững. Tôi cho rằng có đồng chí khi này và có đồng chí khi khác: hãy cho biết anh làm gì ở đây hôm nay, và tôi sẽ nói tôi có là đồng chí của anh hay không. Bà bán cháo, khi nhập vào dòng biểu tình để biểu lộ một cách ôn hoà sự phẫn nộ của bà, là đồng chí của tôi. Vị lãnh đạo đã mượn kiểu giảng đạo chính trị để nhân danh sự "ổn định chính trị" mà thuyết phục tôi từ bỏ quyền lợi hợp pháp và nhiệm vụ của người công dân yêu nước, mà chính là phải biểu lộ công khai sự phẫn nộ khi đất nước bị xâm lược và nhân dân bị sỉ nhục, phải chăng vị đó là đồng chí của tôi? "Đồng chí" ấy nói về kiểu "ổn định chính trị" nào vậy? Kiểu buông xuôi? Ông ta đang nói gì với tôi vậy? Rằng vấn đề tối cao về độc lập dân tộc là tôi không cần phải lo? Rằng tôi phải ngoan ngoãn về nhà, câm nín trong tủi hổ, đọc biết qua Internet là những "đồng chí" cấp cao đó thương lượng sau lưng tôi với bọn cướp vẫn đang tiếp tục cướp bóc, về kinh tế, quân sự, chính trị, ngoại giao, văn hoá, đồng thời khích động lòng thù hận trên chính nhân dân họ chống lại tôi? Đó là tình đồng chí mà tôi được trao cho ư? Không, cám ơn, nghìn lần không, tôi không muốn nhận và tôi buồn nôn. Vì nó sẽ bôi quá nhiều ô uế lên ký ức về những người mà tôi biết bao yêu mến và cảm phục, những người với máu trong miệng và trên môi, vâng, chính họ, trong ngục tù của đế quốc, đã cho tôi bài học về ý nghĩa đích thực của danh từ Việt Nam tuyệt đẹp "Đồng chí", tôi - kẻ chưa bao giờ thốt lên chữ đó bằng tiếng Pháp. Vâng, với những người đó, tôi vẫn là, và sẽ luôn luôn là đồng chí, với vinh dự, với tình yêu. Và điều này tăng thêm cho tôi ý chí đem lại cho những chữ này ý nghĩa thực thụ của chúng, để tôi có thể có phần hãnh diện. May mắn thay cho Việt Nam và tương lai của nó, tôi không phải là người cộng sản duy nhất và cũng không là công dân duy nhất suy nghĩ như thế...
Nguồn: Xa xứ (Cộng hoà Séc) số 252, ra ngày 27.3.2012

--------------

Thứ Hai, 26 tháng 3, 2012

Có không "ngôn ngữ Hán-Việt" (Sino-Vietnamese language)?

Chữ Việt cổ (cột giữa) bên cạnh các chữ cổ khác
Mới đây blog Trương Thái Du có đưa lên một bài viết với đầu đề “Trả lời một câu hỏi nhỏ… The term “Sino Vietnamese Language” 汉越)” (Xem tại đây: http://truongthaidu.wordpress.com/2012/03/16/tr%e1%ba%a3-l%e1%bb%9di-m%e1%bb%99t-cau-h%e1%bb%8fi-nh%e1%bb%8f/)

Bản thân tôi không chuyên sâu về lịch sử ngôn ngữ, nhưng dẫu sao cũng đã qua một khóa sau đại học về ngôn ngữ tại Anh quốc và có hơn 10 năm làm giáo viên Anh văn  nên cũng có chút ít “cảm nhận” điều gì đó không ổn nếu gọi là "ngôn ngữ Hán-Việt" hay "tiếng Hán-Việt". Lại thấy tác giả bài viết cũng tỏ ra thận trọng muốn tham khảo ý kiến nên tôi đã đóng góp ngay một comment ngắn gọn rằng "không có ngôn ngữ Hán-Việt” với dụng ý nhắc tác giả xem lại vấn đề. Nhưng sau đó vẫn thấy bài viết  lưu truyền rộng rãi trên mạng. nên tôi thấy cần nêu lại vấn đề này một cách “có đầu có đuôi” để mọi người cùng suy ngẫm. Đây không phải một "việc nhỏ" như tác giả nói; nó liên quan đến nguồn cội và tương lai của tiếng Việt.

Để viết bài này, tôi đã lục tìm lại các nguồn tài liệu khác nhau, kể cả Wikipedia-một cơ sở dữ liệu mở cho phép đăng tải mọi ý kiến không chính thức- nhưng chưa thấy một tài liệu nào đủ sức thuyết phục về cái gọi là “ngôn ngữ Hán –Việt”, trừ một vài trường hợp có lẽ do người viết hiểu sai khái niệm “từ, ngữ “thành “ngôn ngữ” hoặc gán ghép các từ đó với nhau một cách vô thức mà ra. Cũng có thể do tôi chưa tìm kiếm hết được mọi nguồn tài liệu. Song có thể nói có rất ít cơ sở để khẳng định tính chính danh của thuật ngữ  “ngôn ngữ Hán-Việt” hay “tiếng Hán-Việt”. Nói cách khác nếu có ai đó sử dụng thuật ngữ này thì đó chỉ  là những trường hợp cá biệt. Hơn nữa về mặt tâm lý chính trị-xã hội, thì việc sử dụng rộng rãi tên gọi “ngôn ngữ Hán-Việt” là không có lợi cho Việt Nam, nó gợi lên rằng người Việt không có ngôn ngữ riêng - điều này hoàn toàn không đúng nếu xét về lịch sử hơn 4000 năm, trong đó có 1000 năm bị Bắc thuộc xen vào giữa. Không có lý gì 2000 năm trước Bắc thuộc dân tộc Việt Nam không có tiếng nói và chữ viết riêng của mình?. Tôi tin đây là một “góc khuất” của lịch sử cần được tiếp tục tìm kiếm và giải mã.

Về mặt lý thuyết cũng không có cơ sở để đặt tên là “ngôn ngữ Hán –Việt” . Bởi lẽ, đã nói đến ngôn ngữ là phải nói đến chủ thể đích thực của nó. Chủ thể đó là một cộng đồng dân tộc cùng sử dụng chung ngôn ngữ đó, không lẫn lộn với ngôn ngữ khác; nó tồn tại và phát triển trong một quá trình lịch sử đủ dài để khẳng định mình. Trong trường hợp cụ thể của Việt Nam, ta thấy  không hề có khái niệm cộng đồng (hoặc dân tộc) Hán-Việt; chỉ có cộng đồng người Hoa sống bên cạnh cộng đồng người Việt; có khái niệm người Việt gốc Hoa, nhưng ai có ngôn ngữ riêng của người ấy. Chỉ có khái niệm  "từ ngữ Hán-Việt" mà thôi, tức là những từ ngữ có nguồn gốc từ sự kết hợp giữa tiếng Hán và tiếng Việt trong quá trình Bắc thuộc và giao lưu giữa hai dân tộc; dù mật độ pha tạp có đến bao nhiêu phần trăm đi nữa, nhưng nó chỉ sử dụng trong cộng đồng người Việt, người Trung Quốc bình thường không thể hiểu được, thì nó phải gọi là "tiếng Việt", không thể gọi là "tiếng Hán-Việt". Điều tương tự vẫn xảy ra đối với nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới. Ví dụ, tiếng Nùng có rất nhiều từ ngữ Việt trong đó, nhưng không  gọi là “tiếng Việt-Nùng”; tiếng Đan Mạch giống tiếng Đức đến mức hai bên có thể hiểu nhau  nhưng không gọi là "tiếng Đức-Đan",v.v... Trường hợp tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung ... được nhiều nước khác nhau sử dụng như một ngôn ngữ quốc gia, khi cần phân biệt người ta goi tên ghép như tiếng Anh Mỹ, tiếng Anh Úc, tiếng Anh Ấn Độ v.v... là chuyện hoàn toàn khác.
Ngoài ra cũng cần thấy rằng lâu nay vẫn tồn tại dai dẳng hai quan điểm khác nhau về cách đánh giá nguồn gốc tiếng Việt và tiếng Trung. Tuy nhiên cả hai quan điểm đều thống nhất rằng tiếng Việt và tiếng Hán đã song tồn hàng ngàn năm trước thời kỳ Bắc thuộc. Trong khi một quan điểm mặc nhận rằng tiếng Việt vay mượn rất nhiều từ tiếng Hán, quan điểm kia lại cho rằng tiếng Trung  là kết quả của việc tiếng Hán vay mượn (đánh cắp) từ tiếng Việt cổ (của người Bách Việt) trong suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm trước và sau công nguyên khi người Hán chinh phục hoàn toàn người Bách Việt ở bờ Nam sông Dương Tử . Giả thuyết này chứng minh bằng cách chỉ ra nhiều từ ngữ tiếng Việt cổ trong tiếng Hán và hiện tượng danh từ đi trước tính từ cùng nhiều chứng cứ khác, xem ra cũng rất có sức thuyết phục.

Tóm lại, theo tôi, chỉ có khái niệm “từ ngữ Hán-Việt” chứ hòan toàn không có cơ sở nào để gọi “ngôn ngữ Hán- Việt” hoặc “tiếng Hán-Viêt”. Là người Việt Nam chúng ta cần nhận thức rõ điều này để cùng nhau bảo vệ giá trị ngôn ngữ và văn hóa của dân tộc đồng thời chú ý giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt-điều mà Cụ  Hồ Chí Minh đã từng rất chú ý làm gương . Không hiểu sao bây giờ  không ai làm việc này, lại còn có xu hướng lạm dụng bừa bãi việc ghép từ ngữ Hán vào tiếng Việt (?)

Có thể các "bạn" Trung Quốc thích thuật ngữ "ngôn ngữ Hán-Viêt", "tiếng Hán-Việt" , nhưng người Việt Nam thì không, thậm chí phải bác bỏ nó mới phải. Không chỉ về ngôn ngữ , mà có nhiều vấn đề liên quan đến cội nguồn dân tộc Việt cũng rất được cần xem lại. Ví dụ, đáng lẽ phải truy tìm lại tiếng Việt cổ (bị mất sau 1000 năm bắc thuộc) thì giai cấp phong kiến Việt Nam đã ra sức truyền bá chữ Nho, giờ lại định truyền bá về "tiếng Hán-Việt" thì thật là đáng buồn!. Hình như người Việt Nam ngày nay quên mất rằng nguồn gốc các vua Hùng thực sự đã xuất phát từ Hồ Động Đình thuộc tĩnh Hồ Nam của lãnh thổ Trung Quốc bây giờ ; và Hai Bà Trưng khởi binh phục quốc cũng ngay bên trong lãnh thổ miền nam Trung  Quốc (?). Trong nhiều trường hợp người Việt ta cứ vô tư trích dịch sử sách của Trung Quốc để làm sử của Việt Nam, rốt cuộc mưa dầm thấm lâu rồi thấy “mình từ người Hán mà ra cả” thì thật là sai lầm!

Chủ Nhật, 25 tháng 3, 2012

Tản mạn chuyện chiến tranh và hòa bình


Nhìn cảnh quân đội Mỹ ào ạt quay lại Châu Á thấy người Trung Hoa gian, thâm, nhưng vẫn dại!. Sau chiến tranh Việt Nam năm1975 đáng lẽ Mỹ đã dần rút quân khỏi khu vực này để nhường bước cho nền độc lập thật sự của các quốc gia trong khu vực. Thật ra chẳng nhân dân nước nước nào tại đây muốn để Mỹ đóng quân trên lãnh thổ của mình. Đó há chẳng phải cũng là mong đợi của nhân dân  Trung Quốc ? Nhưng rốt cuộc sự thô bạo bặm trợn  của  chủ nghĩa bành trướng đại Hán đã khiến thế giới lo sợ và các quốc gia nhỏ yếu hơn trong khu vực phải tiếp tục lựa chọn điều ít xấu hơn cho mình, đó là để người Mỹ tiếp tục ở lại, thậm chí tăng cường hơn nữa sự hiện diện quân sự tại đây.
Hàn Quốc là một trong những trọng điểm đóng quân của Mỹ. Tại đây người Mỹ có thể đi-về như trên chính lãnh thổ của mình . Khu vực biên giới Bàn-môn-điếm là điểm nóng bậc nhất thế giới không phải chỉ vì cuộc xung đột hai miền Nam-Bắc Triều Tiên mà chính vì nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ cuộc tranh giành thế giới giữa hai siêu cường Mỹ-Trung. Philippines cũng là một điểm đóng quân lý tưởng của quân đội Mỹ chừng nào Trung Quốc còn lăm le độc chiếm biển Đông. 
TT Mỹ Obama  thăm quan Bàn-môm-điếm mới đây
Mọi động tĩnh chính trị, ngoại giao đều xoay quanh cuộc chơi quyền lực giữa các siêu cường. Còn nhớ một thời sau chiến tranh Việt Nam, người ta thi nhau tiên đoán về "thế giới đa cực"(multi-polar), "thế giới lưỡng cực" (bi-polar), "thế giới đơn cực" (single-polar) và cho rằng thế giới sẽ không còn chiến tranh hoặc nếu có chiến tranh sẽ là chiến tranh hủy diệt ,v.v...Có một số người quả quyết sẽ không có chiến tranh thế giới lần thứ ba (!?). Riêng một vị lãnh dạo Việt Nam còn tuyên bố rằng từ nay sẽ không kẻ thù nào dám xâm lược Việt Nam (!?). Nhưng thật trớ trêu, chỉ vài năm sau đó người Việt Nam lại đã phải ra trận và đổ máu với không ai khác là ông bạn lớn láng giềng!  Chiến tranh cũng đã và đang bùng phát khắp nơi  từ Trung Á, Tây Á đến Trung Đông và Bắc Phi và ở cả Châu Âu,  thậm chí ngay tại trung tâm nước Mỹ với một kiểu cách hoàn toàn khác, với tốc độ cực nhanh, nhưng sức công phá không kém gì một cuộc chiến tranh thông thường-đó là vụ 11/9/2001.
Trước sự thật phủ phàng này, giờ đây liệu còn ai có thể đoan chắc điều gì, ngoại trừ một thế lực siêu hình nào đó ngoài vũ trụ đang quan sát trái đất may ra có thể biết được nhân loại sẽ đi về đâu (?).
Thế mới biết, tranh giành quyền lực là một thuộc tính của loài người, thậm chí còn gay gắt hơn giữa loài vật. Người ta mãi mê không ngừng tranh giành quyền lực ở mọi cấp độ, từ đơn vị hành chính nhỏ nhất đến quốc gia, khu vực và quốc tế, thậm chí còn vươn ra ngoài vũ trụ! Thật có điên rồ không nhĩ? 
.            

Thứ Sáu, 23 tháng 3, 2012

Lạm bàn về căn bệnh dối trá ở Việt Nam


Đọc Nghị quyết TW 4 khóa XI  thấy đồng chí Tổng Bí thư quả  là "danh bất hư truyền" về tài phân tích, tổng kết, báo cáo. Bản Nghị quyết không dài lắm nhưng nêu lên được rất nhiều khuyết điểm … Lời văn cũng rất hay ho...đến nỗi cánh hưu trí chăm chú lắng nghe, đọc suốt ngày đêm, có những lúc ngồi thần trước màn hình TV ngắm diễn giả không khác nào giới trẻ ngưỡng mộ các “sao Việt” thời @. Thật đấy, chả là dù sao và ít nhất nó cũng giúp xả bớt tâm tư của người dân đang hồi vô cùng bức xúc. (Có thể  xem toàn văn NQ tại đây):
http://www.xaydungdang.org.vn/Home/vankientulieu/2012/4636/Mot-so-van-de-cap-bach-ve-xay-dung-ang-hien-nay.aspx
Tuy nhiên, nghĩ đi ngẫm lại, rằng hay thì thật là hay, nhưng có lẽ để thực hiện rốt ráo cái Nghị quyết này chắc sẽ còn tốn rất nhiều giấy mực và thời gian, không khéo hàng trăm tỷ đồng để phục vụ các ban bệ chuyên trách(?). Dư luận đang theo dõi  sát sao quá trình triễn khai NQ với những tâm trạng khác nhau.

Theo như Nghị quyết đã vạch ra,  khuyết điểm có ở mọi nơi, mọi cấp, mọi ngành lại còn kéo dài triền miên, nay đã đến hồi “đe dọa sự tồn vong của chế độ”. Tất cả cho thấy một sự thật đau lòng: Đảng đã đánh mất lòng tin nơi quần chúng nhân dân - một bảo bối của sự nghiệp cách mạng đã từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng với những lời cảnh báo từ rất sớm như “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong” và “Đẩy thuyền là dân thì lật thuyền cũng là dân”.

Đành rằng cái gì mất đều có thể lấy lại, nhưng cũng có những thứ không thể lấy lại, hoặc lấy lại cũng khó mà nguyên vẹn, nhất là trong trường hợp mất lòng tin do động cơ vụ lợi cá nhân của người trong cuộc. Đời vẫn thế mà! Nếu nhìn nhận một sự việc không có mình trong đó thì thường bao giờ cũng có vẽ sáng suốt, công bằng, bác ái…Nhưng hể có mình trong đó là méo mó, vẹo vọ liền. Khi kiểm điểm chung thì nói vanh vách như thể khuyết điểm là của ai khác, chứ quyết không phải của mình; chỉ có thành tích là "của tôi" !. Thế nên dân gian có câu “Có ai tự vác đá ghè vào chân mình?” là do xuất phát từ thực tế muôn thuở này.  Nghị quyết vạch ra rất nhiều khuyết điểm nghiêm trọng, nhưng liệu có bao nhiêu người tự nhận mình có khuyết điểm nghiêm trọng đến mức phải từ chức? Phần lớn nội dung nói về chống tham nhũng quan liêu, nhưng liệu có mấy ai tự nhận mình tham nhũng, quan liêu? Trình độ yếu kém ư, liệu có ai tự nhận mình yếu kém và xin từ chức? Nhiều kẻ vi phạm, cố ý làm sai trái phè phè ra đấy không những không mất chức còn được chuyển sang những vị trí mới để tiếp tục làm sai và tiếp tục đục khoét công của ...Vì sao vậy?  Suy cho cùng đó chính là chủ nghĩa DỐI TRÁ đã ăn sâu bám rễ trong mỗi người và trong toàn bộ hệ thống chính trị của đất nước này. Nhưng dường như điều này chưa được gọi đích danh trong Nghị quyết lần này. Thiết nghĩ chính căn bệnh dối trá mới là đối tượng cần chỉnh đốn tận gốc rễ trước khi chỉnh đốn những vấn đề khác, vì đối trá cùng với tham nhũng đích thực là một "cặp song sinh" của chế độ.

Dối trá mới nghe tưởng không có gì nguy hại lắm, vì nó vốn dĩ là thói xấu của xã hội loài người chứ đâu của riêng ai! Nhưng ở Việt Nam bệnh dối trá có những đặc thù riêng. Nó bắt nguồn từ thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc và việc lập nên chế độ hoàn toàn mới mẽ do giai cấp công nông lãnh đạo nhưng bắt buộc phải sử dụng các thành phần tư sản và trí thức với trình độ học vấn khác nhau và quan niệm sống cũng khác nhau trong guống máy chính trị-kinh tế-xã hội của đất nước.Thật quả khó để mọi thành phần cùng tồn tại bên nhau nếu không dung túng thói giả dối, đạo đức giả hoặc trưởng giả. Đó là một bước"quá độ" không kém phần bi hài. Trãi qua nhiều biến cố lịch sử với những phong trào thi đua và những đợt đấu tố trong cải cách ruộng đất, nhân văn gai phẩm, cải tạo công thương, v.v...khiến xã hội bị xáo trộn, lòng người đảo điên. Những thời kỳ kinh tế khắc khổ kéo dài khiến con người ta trở nên bon chen và thủ đoạn. Tất cả tạo nên lối sống và tư duy phức tạp, thường  mang tính hai mặt, nói và làm không đi đôi với nhau. Trong thời kỳ bí mật những người cộng sản thường phải che dấu  tung tích của mình, kể cả phải thay tên đổi họ, tuổi tác, quê quán, thậm chí cả lai lịch bố mẹ, vợ con; trong nhiều trường hợp họ được “đặc cách” giữ kín những thông tin cá nhân, kể cả khi tham gia ứng cử, bầu cử hoặc khi đã nắm giữ một cương vị lãnh đạo quan trọng. Cách làm này là cần thiết trong thời kỳ bí mật, nhưng  là yếu điểm đối với một bộ máy công quyền trong thời bình. Đó là tình trạng không minh bạch về lý lịch cá nhân, kể cả tư cách đạo đức của người cán bộ từ cấp thấp lên cấp cao. Nó khuyến khích thói tự mãn và bao biện cùng với những thói hư tật xấu như tác phong gia trưởng, tệ sùng bái cá nhân, thói xu ninh, thủ đoạn câu kết, bao che lẫn nhau  để cầu lợi.  Thói “làm thì láo, báo cáo thì hay” và thói chạy theo thành tích vốn đã phát sinh từ thời kỳ XHCN ở miền Bắc cũng là những tác nhân gây ra căn bệnh dối trá. Cấp trên thích nghe lời hay ý đẹp, cấp dưới che dấu sự thật để được lòng cấp trên, do đó có những sự thật không bao giờ được nói tới. Và ngày nay dối trá đã  trở thành một lối sống ăn sâu bám rể trong toàn bộ xã hội mà ở đó ai không biết nói dối, không biết làm ẩu và không biết "ăn theo nói leo" thì không thể tồn tại. Người mắc bệnh dối trá mất cả cảm giác tự trọng để nhận ra lỗi lầm của mình hoặc nhận ra nhưng không chịu xin lỗi. Dối trá là môi trường dung dưỡng những kẻ bất tài, vô đạo đức nhưng thích làm quan. Dối trá là môi trường ẩn nấu tuyệt vời cho bọn tham nhũng. Dối trá là phương tiện trong tay những kẻ đương chức đương quyền để “sống mòn” với địa vị và quyền lực bất chấp lợi ích chính đáng lâu dài dân tộc.

Căn bệnh dối trá chính là nguyên nhân trực tiếp của tình trạng không minh bạch (ngôn từ thời hội nhập) trong hệ thống công quyền Việt Nam ngày nay. Tình trạng thiếu minh bạnh thể hiện trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hôi, giáo dục, an ninh quốc phòng, v.v…Đâu đâu cũng thấy tình trang thông tin mập mờ, không đầy đủ hoặc bị bóp méo sai lệch bởi chính bộ máy hành chính công rất đông mà không mạnh. Mỗi khi cần giải quyết một việc gì người dân phải chạy vòng vo để tìm kiếm mà cũng không có gì để đảm bảo. Có thể nói hài hước rằng ở Việt Nam mọi thứ đều giả, chỉ có dối trá là có thật!  Tại đây mọi đứa trẻ sinh ra đã bắt đầu phải hứng chịu hậu quả của sự dối trá. Chúng lớn lên, đi học và đi làm đều ngụp lặn trong môi trường dối trá và thiếu minh bạch. Hầu hết mọi người Việt lớn bé đều tin rằng nói dối là khôn khéo cho được việc(!). Xã hội đầy rẫy những “ma hồn trận” do sự dối trá gây ra từ đồ ăn thức uống đến nhữg công trình xây dựng  .Có thể nói không ngoa rằng căn bênh dối trá đã và đang làm hỏng mấy thế hệ người Việt, và giờ đây đang tấn công vào lợi ích sống còn của dân tộc bằng cách phá hỏng mọi kế hoạch phát triển của đất nước. Bởi lẽ, một khi khái niệm đúng/sai đã bị đánh lộn sòng thì  mọi chủ trương chính sách, mọi kế hoạch, dự án của nhà nước dù đúng/sai cũng bị nghi ngờ, thậm chí bị phá sản. Có lẽ chưa bao giờ người dân tỏ ra không tin vào mọi quyết sách của nhà nước như bây giờ sau khi họ đã học được những bài học cay đắng do sự dối trá gây ra. Nói cách khác, người dân đã bị lừa dối quá nhiều bởi những thực tế phủ phàng, từ lý thuyết đến thực hành, bằng rất nhiều những công trình xây dựng kém chất lượng do bị các nhóm lợi ích đục khoét tham nhũng . Tuy mới chỉ là bề nổi của tảng băng chìm nhưng những vụ tham nhũng như PU 18, Lã Thị Kim Oanh, ODA Hành lang Đông-Tây, những vụ nhượng bán rừng và hầm mỏ cùng với những vụ thất thoát bạc nghìn tỷ của Vinashin, Vinalines, Dung Quất và của hàng loạt  “anh cả đỏ” đang trên bờ vực phá sản khiến dư luận xã hôi hết sức bất bình và bất tín. Sự kiện rò nước tại con đập Sông Tranh 2 hiện nay là một ví dụ điễn hình của loại "tội phạm kép"- tham nhũng và dối trá. Người dân không mất lòng tin sao được trước hàng loạt những vụ việc như nói trên. Dù không có hình thức bỏ phiếu thăm dò dư luận, nhưng bằng trực giác cũng có thể thấy uy tín của Đảng và của giới lãnh đạo đã giảm sút nghiêm trọng đến mức nào; giảm sút bi đát đến mức có hiện tượng phổ biến là mỗi khi thấy vị lãnh đạo  A,B,C…  xuất hiện trên TV người xem lập tức chuyển kênh hoặc tắt máy cho bỏ tức! Đã lâu rồi không còn nữa câu chuyện kính trọng và thần tượng lãnh tụ, thay vào đó là những thái độ miệt thị rất bi hài. Đó là sự thật. Và sự thật này đang tăng lên một cách đáng kinh ngạc trên quy mô cả nước. 

Thiết nghĩ, để thực sự chỉnh đốn Đảng và chỉnh đốn thành công, nên chăng trong nhiều việc cần làm thì việc đầu tiên là phải chữa trị căn bệnh dối trá đang lan tràn ở đất nước này. Ví dụ, người dân không thể chấp nhận những ứng cử viên vào các chức vụ lãnh đạo mà lý lịch không rõ ràng, thậm chí cha mẹ đích thực là ai cũng không biết. Bộ máy công quyền không thể cứ tiếp tục dung nạp mãi những tấm bằng dỡm có được bằng tiền hoặc các thủ đoạn dối trá. Không thể nói mãi "chính quyền của dân, do dân, vì dân" trong khi vẫn tiếp tục "hành dân" từ những công vụ đơn giản hàng ngày như khai sinh, khai tử, đăng ký hộ tịch...Thật phi lý khi chính quyền nắm trong tay mọi quyền lực, chức năng mà không thể bảo vệ được người tiêu dùng trước vấn nạn hàng giả và thực phẩm độc hại lan tràn. Một vấn đề cấp thiết nữa là, phải đảm bảo quyền của mọi công dân Việt Nam được tiếp cận thông tin một cách rõ ràng, minh bạch về chủ quyền toàn và vẹn lãnh thổ, biển đảo của tổ quốc mình. Nghịch lý thay, bên cạnh Điều lệ đảng còn có đến 19 điều cấm đối với đảng viên mà không sao ngăn chặn được tệ nạn dối trá, trong khi đó lại cấm đảng viên cùng nhân dân đấu tranh vì công lý và tiến bộ xã hội (?)./.    

Thứ Ba, 20 tháng 3, 2012

Người Việt có xấu xí ?

Lời giới thiệu : Lang thang trên mạng thấy bài này hay hay cóp về (và xin lỗi tác giả được cắt bớt một số đoạn cho ngắn gọn đồng thời thêm vài hình ảnh minh họa). Mọi người hãy chịu khó đọc nhé...sẽ thấy trong này có những idea độc đáo thú vị !
Tác giả bài này là ông Phan Thanh Tâm, nghe nói  là cháu năm đời của cụ Phan Thanh Giản. Trước 1975, ông làm ở Việt Tấn Xã, Sài Gòn. Sau 75, ông vượt biển trên một chiếc thuyền nhỏ 13 người từ năm 1976. Lưu lạc một tháng trời giáp một vòng bờ biển các nước Đông Nam Á, đâu đâu ông cũng bị người ta đẩy trở lui ra biển cả. Chặng cuối cùng là đảo Palawan, Philippines , thuyền được nhận trở lại vào bờ, nhờ sự can thiệp của một ông cố đạo người Ý đang coi một họ đạo tại đảo này. Ông là một trong nhũng «thuyền nhân» đầu tiên được đặt chân lên đảo nói trên. Bài này viết cách đây 6-7 năm rồi, với một phong thái thẳng thắn, nhưng ôn hoà, về một vấn đề tự-bản khá gay gắt. Tác giả sẵn lòng cho phép đăng lại để độc giả có dịp chia sẻ những suy nghĩ với ông. Dưới đây là nội dung bài viết.
 
Nhiều dân tộc đều nhận mình là xấu xí.   Bây giờ đến lượt người Trung Hoa. Cuốn Người Trung Hoa Xấu Xí xuất bản ban đầu ở Đài Loan; sau đó được tái bản ở lục địa. Họ đã biết nghĩ, tuy là môt nước lớn, văn hoá lâu đời, nhưng nếu cứ mãi ra rả về những cái vĩ đại thì theo nhà báo Bá Dương, tác giả cuốn sách, Trung Hoa sẽ đi đến chỗ diệt vong mà thôi». Chủ đích của tác giả Bá Dương là nếu muốn phục hưng dân tộc, phải bắt đầu bằng việc thừa nhận các khuyết điểm, sai trái của mình.
Đọc người rồi ngẫm đến ta. Tác giả Bá Dương, là nhà báo, nhà văn, nhà thơ và là sử gia, sinh năm 1920, chạy sang Đài Loan năm 1949, ở tù 10 năm vì các bài viết bị xem là phạm thượng. Ra tù ông đi diễn thuyết về hiện tượng Người Trung Hoa Xấu Xí. Cuốn sách gồm những bài nói chuyện của ông và của những người tranh luận với ông. Có người cho rằng nếu không đọc được sách của Bá Dương là một sự thiệt thòi lớn. Sách hấp dẫn hơn chuyện chưởng của Kim Dung vì nó khiến thiên hạ phải đọc người rồi ngẫm đến ta. Thấy sao nó giống dữ vậy. Giống dễ sợ. Theo ông, văn hoá Trung Hoa đã biến thành một đầm nước chết, càng lâu càng thối, thành một vại tương rồi. Đăc tính rõ nhất của người Trung Hoa là dơ bẩn, hỗn loạn, ồn ào. Có nhiều nơi, nếu người Trung Hoa đến ở là những người khác dọn đi.
Bất kỳ ở chân trời góc biển nào hễ có người Trung Hoa là có cắn xé nhau. Mỗi người Trung Hoa đều là một con rồng, nói năng vanh vách, cứ như là ở bên trên chỉ cần thổi một cái là tắt được mặt trời, ở dưới thì tài trị quốc bình thiên hạ có dư. Nhưng nếu ba người Trung Hoa họp lại với nhau, ba con rồng này lại biến thành một con heo, một con giòi. Người Trung Hoa vĩnh viễn không đoàn kết được. Mỗi người lại còn có đầy đủ lý do để có thể viết một quyển sách nói tai sao họ lại không đoàn kết. Bất cứ xã hội người Hoa nào it nhất cũng phải có 365 phe phái tìm cách tiêu diệt lẫn nhau. Họ chưa biết tầm quan trọng của sự hợp tác; nhưng họ có thể viết ngay cho anh xem một quyển sách nói tại sao cần phải đoàn kết, hay ho đến Thượng Đế cũng có thể khóc được. Những thói xấu đó đã thâm căn cố đế. Cái loại triết học xâu xé nhau đó lại đẻ ra nơi chúng ta một hành vi đặc thù khác: chết cũng không chịu nhận lỗi. Họ thích nói khoác, nói suông, nói dối, nói láo, nói những lời độc địa. Hễ cứ có dính đến lập trường chính trị hay tranh quyền đoạt lợi là những lời nói độc địa sẽ được tuôn ra vô hạn định.
Người Trung Hoa sống tại Mỹ cũng vậy, nào cánh tả, cánh hưũ, trung lập, độc lập, thiên tả, trung, trung thiên hưũ, hưũ thiên trung vân vân và vân vân, chẳng biết đường nào mà mò. Người này đối với kẻ nọ đều mang mối cựu thù như nó giết bố mình. Thật không hiểu là thứ dân tộc gì? Đối xử với người Trung Hoa tệ hại nhất không phải là người nước ngoài, mà chính là ngươi Trung Hoa với nhau. Bán rẻ, hăm doạ người Trung Hoa lại không phải là người Mỹ mà là người Hoa. Người Tây Phương có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Trung Hoa đã đánh nhau rồi thì cưù hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đơi cũng chưa hết. Sống trường kỳ trong cái hũ tương lâu ngày quá tự nhiên sinh ra thói cẩu thả. Một mặt tự đại khoe khoang, còn mặt khác tự ti, ích kỷ; không có can đảm dám khen người khác, chỉ có dũng khí dùng để đả kích kẻ khác; chửi bới sau lưng; yêu thì sợ chúng cười, ghét thì sợ chúng thù. Họ vĩnh viễn không thể nào so sánh được với người Do Thái, chỉ cần so sánh với người Nhật, ngươi Đại Hàn là cũng thấy bị thua tới cả trăm nghìn năm ánh sáng rồi.
Người Hoa sợ sệt đủ mọi thứ trên đờì. Cái não trạng hãi sợ này đã nuôi dưỡng bao nhiêu bạo chúa, làm tổ ấm cho bao nhiêu bạo quan. Vì vậy bạo chúa, bạo quan không bao giờ bị tiêu diệt, và đã biến dân tộc Trung Hoa thành một dân tộc hèn mọn. Sức tưởng tượng, óc suy xét, tư tưởng của giới trí thức bị bóp chết, xơ cứng. Trong 4000 năm, từ Khổng Tử trở đi, không còn có một nhà tư tưởng nào lớn nữa. Cái hũ tương văn hoá, cái hũ tương thối làm cho người Trung Hoa xấu xí, không thể dùng tư tưởng của mình giải quyết, phải bắt chước, phải dùng cái tư tưởng của kẻ khác; lớn lên trong tham ô, hỗn loạn , chiến tranh, giết chóc, bần cùng, cho nên chẳng bao giờ có cảm giác an toàn, lúc nào cũng hoảng hốt, lo âu. Trung Hoa diện tích rộng thế, lâu đời thế mà người Hoa lại có một tâm địa thật hẹp hòi, không muốn ai hơn mình. Phải chăng Thượng Đế đã phú cho chúng ta có một nội tâm xấu xa?
Trên đây là những đoạn trích các ý tưởng trong sách của nhà báo Bá Dương. Ai cũng biết, gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Hơn một ngàn năm bị đô hộ, lại sống sát nách một kẻ như thế, chẳng lẽ ta gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn?
Họ (Tàu) sao ta (VN) vậy hay ta tệ hơn thì chẳng có gì lạ cả. Hơn nữa, mỗi dân tộc có mỗi bệnh trạng xã hội. Bệnh trạng của ta cọng thêm bệnh trạng của anh bạn láng giềng thì chắc phải hết thuốc chữa; hèn gì nước ta lúc nào cũng loay hoay như gà mắc đẻ, lệt bệt đi sau hửi đít thiên hạ. Nếu văn hoá Trung Hoa đã biến thành một cái hũ tương thối thì văn hoá ta là cái hũ gì? Hũ vàng hay là hũ mắm thối? Còn Người VN ra sao? Thử nhìn thoáng vào gương xem.

Mẫu người Việt Nam
Trong cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim có đoạn tả tính tình người VN trước năm 1930 như sau: Về đàng trí tuệ và tính tình, thì người VN có cả các tính tốt và các tính xấu.
Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lấy sự nhân nghĩa, lễ, trí, tín làm năm đạo thường cho sự ăn ở.
Tuy vậy cũng có hay tính tinh vặt, cũng có khi quỷ quyệt, và hay bài bác chế nhạo. Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn sự hoà bình, nhưng mà đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỹ luật. Tâm đia thì nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang, và ưa trang hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma, tin quỷ, sùng sự lễ bái nhưng mà vẫn không nhiệt tin tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn. Đàn bà thì hay làm lụng và hay đảm đang, khéo chân, khéo tay, làm được đủ moi việc mà lại biết lấy việc gia đạo làm trọng, hết lòng chiều chồng, nuôi con,thường giữ được các đức tính rất quý là tiết, nghĩa, cần, kiệm.
Nơi nào có vỉa hè là có hàng ăn  nhếch nhác
Với mẫu người nói trên và nếu cho rằng, văn hoá là sinh hoạt, ta không hiểu văn hoá ta là văn hoá gì, lại có thể sinh ra một tay gian hùng nhưng rất thành công như Trần Thủ Độ. Việt Nam Sử Lược của học gỉả Trần Trọng Kim cho biết, vì cốt gây dựng cơ nghiệp cho nhà Trần, dù tàn bạo đến đâu Trần Thủ Độ cũng làm cho được. Ông đã chôn sống cả giòng họ Lý. Trước đó, Trần Thủ Độ nói với vua Lý Huệ Tông, tuy đã bỏ ngôi vua, xuất gia đi tu, môt câu để đời “nhổ cỏ thì phải nhổ cả rể cái”. Trong khi đó, Nguyễn Trãi, đại công thần của vua Lê Lợi, thảo ra Bình Ngô Đại Cáo, môt bản văn chương giá trị, và là tác gỉả câu đầy tình người 'Thương người như thể thương thân', trong tập Gia Huấn Ca, thì lại bị giết cả họ vì bị kết tội là dùng người thiếp đẹp và giỏi thơ, Nguyễn Thị Lộ, để mưu hại nhà vua. 
Trong cuốn Từ Thực Dân Đến Cộng Sản, tác giả Hoàng văn Chí cho biết, vào những năm 1954 và 1956, khi Cộng Sản Việt Nam đem chiến thuật «Cải Cách Ruộng Đất» của Mao Trạch Đông, áp dụng tại Bắc Việt, mới thấy người mình sao lại có đầu óc nô lệ dữ vậy. Đúng như cụ Trần Trọng Kim phê bình: «Từ tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì mình cũng lấy Tàu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tàu là giỏi, không bắt chước được là dở». Mà theo Bá Dương, Trung Hoa hiện tại còn là một nước dã man nguyên thuỷ, thì việc Cộng Sản Việt Nam đưa ra phương châm: “thà sai hơn là bỏ sót” trong khi phát động chiến dịch long trời lở đất nói trên cũng là điều hiển nhiên thôi. Ở các nước văn minh thì khác. Nguyên tắc luật pháp của CSVN là: thà bắt lầm hơn tha lầm. 
Mạng nhện các loại giây điện thể hiện tính cách  người Việt 
Mặt khác, trên sân khấu chình trị nước ta có một “diễn viên kỳ tài”, chữ của nhà văn Vũ Thư Hiên khi nói về Hồ Chí Minh, một người làm cách mạng chuyên nghiệp, được huấn luyện tại Nga, tên thật là Nguyễn Sinh Cung. Ông tiến, ông thoái, khi hai bước, khi ba bước, khi khóc, khi cười, khi ôm hôn thắm thiết, biến ảo khôn lường. Cả thế giới đều nghe danh ông. Cho đến nay chưa ai biết rõ «con đường bác đi». Theo giáo sư Nga Anatoli Sokolov, chuyên viên Liên Sô về Việt Nam Học, tại Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Phương ở Mạc Tư Khoa, trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh, ông có trên 150 bí danh. Để cho «chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới» ông sẵn sàng mua chiến thắng đó *«dẫu phải đốt sạch cả dãy Trường Sơn» hay phải «đánh Mỹ đến người VN cuối cùng». Không hiểu khí thiêng sông núi VN thế nào mà lại có thể sinh ra một con ngươi kỳ dị như vậy? Chính ông đã gây ra bao cuộc bể dâu, chết chóc.
Hồi thập niên 60, có bài Tâm Ca Số Năm của Phạm Duy mang tên Để Lại Cho Em nói lên thực tế của đất nước: «Bây giờ chỉ còn là một mảnh đất bị chia cắt, cày xới lên bởi bom đạn. Hận thù nhân danh chủ nghĩa, bạo lực vênh vang bề thế»; và «Đường về tương lai nghẽn lối». Thế hệ đàn anh chỉ đề lại «những giả dối, đê hèn, và vụng dại». Bài hát lưu hành ở miền Nam rồi rơi vào quê lãng, bị át bởi tiếng xe tăng, máy bay, hoả tiển, AK, M16. Vũ khí này được cung cấp bởi các nước đồng minh của hai miền Nam Bắc. Đó là hệ quả của việc tìm đường cứu nước của bậc tiền bối. Kẻ đi Tàu, đi Nga, ngưòi đi Tây, đi Nhật, đi Mỹ. Ai cũng cho là thuốc mình mang về là thuốc tiên; nhưng vì muốn độc quyền trị nước nên VN thành nơi thử lửa cuộc chiến tranh lạnh. Nước ta hết nạn hủ nho, thì đến nạn hủ Marx, hủ Mao. «Tôi không có tư tưởng ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác Lê Nin ». Hồ Chí Minh đã khẳng định như thế (1).
Trong ba mươi năm nội chiến từng ngày, nửa nước từ con sông Bến Hải trở ra Bắc theo Nga, theo Tàu; nửa nước phía Nam chống lại bằng dựa vào Tây, vào Mỹ. Cuối cùng miền Nam sụm vì đỡ hoài thì ắt có ngày bị đánh gục. Lại nữa, Hoa Kỳ rút lời cam kết, ngưng viện trợ. Chỉ nội hai tháng 03 và 04 năm 1975, cả một chế độ tan tành. Khôn sống, mống chết. Tướng tá cao chạy xa bay, tìm đường thoát thân. Trong lúc trời đất nổi cơn gió bụi mới thấy nhân tài, khôn lanh thì nhiều như lá mùa Thu, còn tuấn kiệt thì như sao mai buổi sớm. Có bao nhiêu người đứng lại chịu chết, chịu tù, chịu nhục, chịu chia sẻ với thuộc cấp? Anh hùng tất phải hiếm. Điều đó dễ hiểu. Nhưng đâu rồi câu hát “Dân ta hằng anh dũng, dân ta vẫn oai hùng, dân ta dù nguy biến không nao”?
Ảnh tư liệu chiến tranh Việt Nam: Giết người máu lạnh...
Ngày 30/04/1975 là ngày phơi bày rõ ràng bộ mặt của cấp lãnh đạo hai miền: Miền Nam hèn kém, miền Bắc xảo trá, đê tiện, đầu óc nô lệ. Sau khi chiếm Sài Gòn, nhà cầm quyền Cộng Sản tìm cách tiêu diệt các thành phần tinh nhuệ bằng học tập cải tạo và vơ vét, cướp bóc tài sản của miền Nam một cách có hệ thống bằng hai chữ quản lý. Họ lại đốt sách báo và cấm lưu trữ các sản phẩm văn hoá cũ như thời Tần Thuỷ Hoàng. Họ cố xoá bỏ căn cước của dân miền Nam. Dân miền này không thấy được giải phóng mà thấy mình là dân bị trị, bị người anh em làm nhục, trả thù vì thế mới có chuyện người Việt dù chết vẫn tìm cách lao đầu ra biển, làm mồi cho hải tặc, cho sóng dữ. Đến ngay «cả cái cột đèn nếu biết đi cũng còn muốn bỏ nước ra đi». Dân tộc VN, có quá khứ dài lâu; anh em như thể chân tay, sao lại không thể sống chung với nhau, mà lại đi ra xứ người sống với thiên hạ?

Con Rồng Cháu Tiên?
...và kẻ có quyền đạp mặt người dân
Sau thế chiến thứ hai, chỉ trong vòng 20 năm, hai nước chiến bại, Đức và Nhật đã phục hưng nhanh chóng, trở thành cường quốc kinh tế. Ông Bá Dương đã ví họ, “chẳng khác nào, một anh khổng lồ ba đầu sáu tay, đùng một cái bị đánh gục xuống đất, một lúc sau từ từ hồi tỉnh, đứng dậy phủi quần aó bước đi, vẫn đường đường là một hảo hán”.
Còn nước ta, Việt Nam là một nước nghèo. Đời sống nói chung so với các nước ở Đông Nam Á hãy còn thấp. Theo tin báo, nhà nước lại tăng cường tốc độ các bức tường lửa để kiểm soát các ngươì vào Internet. Người dân chưa được tự do sử dụng máy in, một phát minh từ thế kỷ 15 của ông Johann Gutenberg. Mọi ấn phẩm đều phải có giấy phép của nhà cầm quyền. Ở thời đại tin học mà còn phải làm báo chui, báo lậu như tờ Thao Thức của một số sinh viên thì phải kể là chuyện lạ bốn phương.
Tháng 05/1999, nhà văn Dương Thu Hương , từ trong nước đã gửi lén ra Hải Ngoại một đoản văn. Theo bà: “sau chiến tranh ngót một phần tư thế kỷ, trên dải đất này vẫn chỉ nghe rõ tiếng vỗ cánh của bầy quạ đen trên các nghĩa địa nối dài từ bắc vào Nam, từ nam ra Bắc” và «Chiến tranh không làm cho các công dân chín chắn hơn, khôn ngoan hơn, sử dụng quyền công dân mạnh bạo hơn mà ngược lại nó khiến đám đông hèn nhát hơn, dễ thoả hiệp hơn vơi sự nhục nhã, dễ cúi đầu hơn trước tội ác». Tại sao vậy? Ông Nguyễn Gia Kiểng, thuộc nhóm Thông Luận trong bài Vết Thương 30/04/1999 cho rằng: "Đó là vì dân tộc ta đã rã hàng, mỗi người tự thấy mình cô đơn, có muốn cũng chẳng làm được gì. Đó cũng là vì đã quá chán đất nước, đã mệt mỏi, đã mất ý chí và lòng tự hào. Đảng Cọng Sản VN không phải chỉ đánh gục phe quốc gia hay miền Nam. Họ đã đánh gục được cả dân tộc VN. Chúng ta đã bị đả thương quá đau nên không thể đứng dậy».
Còn Hải Ngoại, được coi như là một VNCH nối dài thì thế nào? Tờ báo Hợp Lưu số 49 viết: «có nước nào trên thế giới chỉ bé tí bằng lỗ chân lông như Bolsa tiểu quốc, thế mà cái gì cũng thặng dư lạm phát. Báo chí thì rợp trời kín đất như lá mùa Thu. Văn bút thì chúng tôi có đến nhị vị chủ tịch (dù bây giờ chả còn ai trên thế giới công nhận, nhưng mặc xác thế giới, chúng tôi cứ là văn bút, cứ là chủ tịch, làm gì nhau?), cộng đồng cũng đương kim hai ngài Tổng Thống (dù thật thà mà nói, trông mặt các ngài, con nít sẽ khóc thét như gặp ma, người lớn sẽ nôn nao ruột gan muốn ói), và chính phủ lưu vong cùng đảng phái yêu nước, nói không phải khoe, trung bình mỗi tháng mọc thêm chừng mươi cái, nhanh, nhiều như nấm dại mùa Đông». Sang đây, mất tất cả, thiên hạ mơ có quyền lực, mong có cái danh. Ông nào cũng tự cho mình có sứ mệnh, như «ai bao năm từng lê gót nơi quê người» của thuở nào. Vàng thau lẫn lộn, không biết đâu là thật, đâu là giả.
Năm 1958 hai tác giả William J Lederer và Eugene Burdick cho phát hành cuốn The Ugly American (Người Mỹ Xấu Xí), nói về thói hư, vụng về, ngu dốt, tham nhũng, dốc tướng, của các chính khách Mỹ. Cuốn sách gây xôn xao trong chính trường Hoa Kỳ, bán rất chạy. Hơn sáu triệu ấn bản được bán ra. Tổng Thống Mỹ Eisenhower phải cho thành lập một uỷ ban gồm chín nhân vật có uy tín để duyệt xét lại các chương trình viện trợ quân sự. Thượng Viện Hoa Kỳ cùng lập một nhóm nghiên cưú cuốn sách và gửi cho mỗi Nghị sĩ mỗi người một cuốn. Ông Bá Dương viết, họ có năng lực sửa sai, tự điều chỉnh mình. Thay vì lấy tay che đít, họ nói toáng lên cho mọi người biết “'tôi có bệnh trĩ đây”. Họ có được cái trí tuệ và dũng cảm, tìm cách sửa đổi và giải quyết một cách thoả đáng những lỗi lầm.
Nước Việt Nam cứ lẩn quẩn trong vòng chậm tiến, cũng «hoang mang lúng túng chẳng kém các cụ nhà Nho cách đây một thế kỷ» là vì ta không biết mình biết ta. Ta cần có một cuốn Người Việt Xấu Xí để «nôn ra được tất cả những thứ dơ bẩn trong ruột», rồi tìm ăn những thứ có chất dinh dưỡng tốt, giúp ta có thể tự phản tỉnh. Bỏ chuyện tự kiêu hão, giấy rách giữ lấy lề hay đói cho sạch rách cho thơm, thẳng thắn nói lên những tệ hại của dân tộc mình, để cùng nhau cải tiến. Trong thế kỷ và thiên niên kỷ mới, nhân loại đang tiến nhanh tiến mạnh trong cuộc cách mạng truyền thông, chúng ta phải lẹ lẹ lên. Chậm thì chết. Chúng ta hãy hè nhau vạch áo cho mọi người cùng xem, nếu không, thay vì Con Rồng Cháu Tiên lại trở thành Con Khùng Cháu Điên mất. Phải không quý vị?

Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này