Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2011

Cảnh giác với Trung Quốc, dân chủ với dân (*)

(*) Nguyên văn bài viết của ông Nguyễn Trọng Vĩnh-cựu tướng lĩnh và từng có hơn 10 năm làm  Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại  Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa . 
Với từng ấy cương vị và thời gian công tác, tác giả không những có đầy đủ điều kiện để hiểu đúng và sâu sắc về Trung Quốc mà còn qua đó hun đúc lòng yêu nước và sự  trung thành với lý tưởng của Đảng,  nên tôi tin chắc rằng những điều ông nói ra không phải vì động cơ cá nhân hay vì sai lầm. Gần đây trước tình hình mới của đất nước ta ông lại tự nguyện dấn thân vào hoạt động thực tiễn của phong trào yêu nước bất chấp tuổi cao sức yếu . Một lão thành cách mạng như vậy thật dáng kính nể.  Trên tinh thần đó Blogger tôi xin đăng lại nguyên văn bài viết của ông dưới đây để có thêm bạn đọc.  

1. Những lời nói của Đới Bỉnh Quốc và những điều nhất trí giữa hai Thứ trưởng Việt Nam và Trung Quốc bao hàm những gì?
“Những tranh chấp biển, đảo do đàm phán song phương giải quyết không có sự can thiệp của nước thứ ba”. Song phương thì Trung Quốc có thể cậy mạnh đe dọa hoặc dỗ dành mua chuộc, thế giới không bao giờ biết được sự thật, không bao giờ giải quyết được gì vì Trung Quốc luôn kiên trì chỉ một câu “Chủ quyền đối với Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường sa) không thể tranh cãi”. “Không có gì phải đàm phán về Tây Sa (Hoàng Sa)”.
Đàm phán tập thể thì Trung Quốc thất lý. Nước thứ ba không can thiệp thì một mình Trung Quốc cậy mạnh mặc sức hoành hành ngang ngược, uy hiếp nước yếu.

Trước nay Trung Quốc đã làm rất nhiều việc sai trái, đến gây hấn, cắt cáp tàu Bình Minh 2, rồi phá hoạt động của tàu Viking II, thế mà Đới Bỉnh Quốc xoen xoét nêu: “Hòa bình ổn định là lợi ích của hai nước”. Lời nói chưa ráo mép thì 6 ngày sau tàu cá Trung Quốc dàn hàng ngang, có tàu ngư chính đứng phía sau cấm tàu cá của ngư dân ta ra hoạt động tại ngư trường vốn hành nghề lâu đời gần Hoàng Sa, đuổi ngư dân ta chạy không còn làm ăn gì được.
Câu nói đó còn hàm ý rằng Trung Quốc làm gì thì làm, nói gì thì nói, lãnh đạo Việt Nam nên im lặng để giữ “hòa bình ổn định”! Nguy hiểm hơn nữa, ông Đới còn nhấn mạnh “hai bên cần hướng dẫn dư luận ngăn ngừa những bài bình và những hành động làm tổn hại tình hữu nghị hai nước”.
Ngăn ngừa những bài bình hàm ý là yêu cầu ta bịt miệng báo chí, không được đả động đến Trung Quốc; ngăn ngừa những hành động, hàm ý yêu cầu Việt Nam cấm trấn áp biểu tình chống Trung Quốc.

2. Sao lại đàn áp những công dân yêu nước, biểu tình hòa bình phản đối Trung Quốc?
Thời Pháp còn cai trị nước ta, chúng tôi đã từng biểu tình nhiều lần, lúc thì đòi thành lập “Mặt trận dân chủ Đông Dương”, lúc thì đòi ngày làm 8 giờ, định ra mức lương tối thiểu, lúc thì đòi lập “Nghiệp đoàn”, “Hội Ái hữu”, lúc thì nghe tuyên truyền về lập “Mặt trận phản đế”.
Bọn cảnh sát, mật thám chỉ tìm cách bắt người diễn thuyết, chứ không bắt người biểu tình. Bấy giờ thường chúng chỉ tìm bắt đồng chí Đặng Xuân Khu (Trường Chinh), đồng chí Lương Khánh Thiện.
Bây giờ ở ta, công an bắt nhiều người biểu tình, thế là không bằng thời Pháp thuộc, bắt người biểu tình lại còn đánh đập dã man, làm nhục thì không khác thời Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu là mấy.
Nhìn tấm ảnh 4 người công an khiêng tay chân người bị bắt như khiêng lợn đưa lên xe buýt và tên Minh đạp nhiều cái lên mặt lên miệng người đó thì người hiền như bụt cũng phải phẫn nộ, cho là ác ôn, không còn tính người. Đương nhiên tôi cũng phẫn nộ, cũng nghĩ như thế. Sáu điều Bác Hồ dạy công an, trong đó có 2 điều: “Tự mình phải cần kiệm liêm chính” và “Đối với dân phải kính trọng, lễ phép” - bỏ hết rồi hay sao? Văn kiện, báo chí thường nêu Công an là bạn dân, báo Công An cũng nêu khẩu hiệu Công an là bạn dân, nay thực hiện ngược lại Công an là trị dân ư?
Những cuộc đàn áp biểu tình vừa qua, hẳn là đúng ý ông Đới Bỉnh Quốc.
3. Tự hào và đau lòng
Tôi là đảng viên Đảng Cộng sản do đồng chí Nguyễn Ái Quốc kính yêu sáng lập. Tôi rất tự hào, về Đảng của tôi đã lãnh đạo nhân dân lập nên nhiều kỳ tích, làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám giành lại quyền độc lập tự chủ, khiến hình ảnh Việt Nam lại xuất hiện trên bản đồ thế giới, kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, làm nên trận Điện Biên Phủ lừng lẫy 5 châu, chấn động địa cầu, buộc thực dân Pháp phải cuốn cờ về nước, đã đánh bại hơn nửa triệu quân trang bị hết sức hiện đại, kể cả B52 của siêu cường Mỹ mà từ hơn 200 năm lập quốc chưa hề biết thua ai. Đảng của tôi được các đảng anh em bè bạn ngưỡng mộ, các nước đang phát triển khâm phục, phương Tây cũng vì nể.
Tôi rất tự hào.
Giờ đây vẫn là Đảng của tôi lãnh đạo nhưng không có tự do, không được tự do tư tưởng, không được phát biểu quan điểm, ý tưởng khác với ý kiến chính thống, báo chí không dám thông tin đầy đủ, không dám nói thật, đi biểu tình yêu nước cũng ngại. Không có dân chủ, hoặc dân chủ hình thức, giả tạo, có vấn đề hàng trăm hàng ngàn người góp ý kiến cũng bỏ ngoài tai, kế hay, ý tốt không được tiếp thu, cấm nhiều hơn lắng nghe,… thậm chí để công an đàn áp trắng trợn dân biểu tình yêu nước, còn đánh đập, hành hạ tàn nhẫn và còn có nhiều việc làm khiếm nhã khác nữa khiến dân mất lòng tin, dư luận thế giới chê cười phê phán gay gắt Việt Nam.
Tôi rất đau lòng.
4. Dân là sức mạnh
Bác Hồ đã nói chí lý rằng “Dễ trăm lần không dân cũng chịu / Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Thực tế đã chứng minh, toàn dân nổi dậy mới có cách mạng tháng Tám, toàn dân kháng chiến mới thắng Pháp, thắng Mỹ.
Những việc làm quang minh chính đại, ích nước lợi dân, được dân ủng hộ chung tay góp sức thì dù có khó khăn cũng có thể vượt qua. Trái lại, những việc làm mờ ám, chỉ vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, tổn dân, hại nước, nhân dân phản đối thì trước sau gì cũng lộ ra, kết cục chẳng mấy tốt đẹp. Chính quyền thân dân, trọng dân, dân chủ với dân thì dân tin, dân gắn bó. Đối lập với dân, áp bức thì dân oán, quá đáng thì dân chống lại. “Con giun xéo lắm cũng quằn”, “Tức nước thì vỡ bờ”, “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Lẽ đời là thế.
N.T.V.
Nguồn: boxitvn.blogspot

--------------
*****

Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2011

Ai là ĐỊCH, ai là TA ?


Bức ảnh trên đây đã trở thành phổ biến trên mạng internet mấy tuần nay . Ngay cả những người thiếu thông tin nhất cũng nhận ra đó là một cú đạp chân vào mặt một người đang bị khống chế tứ chi...Những người có nhiều thông tin hơn thì biết nạn nhân là một người biểu tình  ở ngay giữa thủ đô  Hà Nội để bày tỏ sự  phản đối trước những hành động xâm lấn biển đảo Việt Nam của phía TQ trong thời gian gần đây . Cũng không khó gì để  biết thêm những chi tiết khắc, như người mặt thường phục đang đạp chân là đại úy Minh, CA Quận Hoàn Kiếm, v.v... Để nhận rõ hơn về cú đạp, bạn có thể xem đoạn video dưới đây:


Cả bức ảnh và đoạn video trên đây giờ đã nỗi  tiếng với cái tên "cú đạp vào lòng yêu nước"...Tiếc thay, điều trớ trêu là người tung ra cú đạp kia lại là một sĩ quan  "Công an Nhân dân"!... khiến dư luận  phân vân không biết  ai là ĐỊCH ai là TA nữa (?)  Nhưng lại càng đáng tiếc và đáng buồn hơn là rất nhiều người Việt Nam vẫn chưa biết gì hoặc vô cảm hoặc cố tình làm ngơ như không biết gì về sự kiện nói trên...!  Đất nước này sẽ đi về đâu khi cái ác lấn át cái thiện hoặc lẫn lộn với nhau?


*****

Thứ Tư, 20 tháng 7, 2011

Khi nói về "hệ tư tưởng" của người Việt Nam

Mới đây trong khi "lướt mạng" thấy có bài viết của tác giả Ngô Nhân Dụng trong đó cung cấp khá nhiều thông tin liên quan đến "sự thật lịch sử"- loại thông tin mà blogger tôi cũng đang truy tầm. Tác giả cũng đề cập đến chủ đề "hệ tư tưởng" của người Việt Nam với một cách nhìn khá thú vị. Vì vậy xin mạn phép  post lại nguyên văn bài viết lên blog cá nhân của mình để làm tài liệu và cũng để có thêm nhiều bạn đọc về chủ đề quan trọng này. 

Tôi chỉ xin có một lời bình như sau: 
Nếu nói "ý thức hệ" hay "hệ tư tưởng" trong phạm trù quan hệ Việt-Trung thì ngoài những gì thấy được trong thời kỳ sau CM tháng Tám 1945 đến nay ta không thể bỏ qua những tàn dư của cả thời kỳ "1.000 năm Bắc thuộc". Hay đúng ra những sai lầm của thời kỳ này cũng chỉ là do hậu quả của 1.000 năm Bắc thuộc.  Đó là  những giáo tín và thói mê tín dị đoan mà kẻ thù Phương bắc đã dày công gieo rắc trong tiềm thức người Việt trong suốt quá trình hàng ngàn năm xâm lấn và thống trị của chúng.  Hiểu như vậy sẽ công bằng hơn đối với những người cách mạng chân chính của cả hai dân tộc Viêt Nam và Trung Quốc, đồng thời để nhận diện rõ hơn rằng chủ nghĩa bành trướng Đại Hán là thủ phạm; và người Việt Nam muốn chống lại nó một cách thật sự thành công thì trước hết phải biết loại bỏ những tàn dư của mọi tín ngưỡng và giáo lý cùng với những hậu quả đã ăn sâu bám rể trong tiềm thức của mình. 

Xin đơn cử một vài ví dụ tưởng chừng "vô hại" nhưng rất tai hại: Đó là  nhiều người Việt ngày nay vẫn tin đến mức thần bí rằng người tàu có khả năng "yiểm bùa"chỗ này chỗ kia trên đất nước chúng ta, khiến dân tộc VN không thể ngóc đầu lên được (!?). Thậm chí mỗi khi có điều gì khác thường thì dân ta có xu hướng lại cho đó là do "tàu gây ra"... (!?)  Mặc khác, tuy rất thù hận đối phương nhưng người Việt từ quan chức đến thường dân ai đều ít nhiều có tâmlý "tâm phục" và "quy phục". Chẳng hạn trước vấn nạn "hàng tàu" mọi người vẫn cứ  vô tư sử dụng hàng nhập lậu các loại từ TQ , mà không có lấy một đợt vận động hẵn hoi nhằm tẩy chay , nhất là trước tình trạng khủng hoảng kinh tế và nhập siêu kéo dài như gần đây. Tinh thần thì tiêu cực, thiếu tự tin; đa số cho rằng  nếu xảy ra chiến tranh thì "ta thua tàu là cái chắc!"Lạ thay, khi nói điều này, người nói như thể tự coi mình là "vô can" vậy!  Không ít kẻ tuy nắm trong tay quyền lực nhưng bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi kẻ thù nên  thường núp dưới chiêu bài gọi là"khôn khéo", "mềm dẽo" để tránh trớ không làm đầy đủ chức năng của mình trong khi những người không có quyền hành gì thì chỉ có cách đứng ngoài chỉ trích, phê phán trong tuyệt vọng.  

Nhận thấy những sự thật trớ trêu như trên, thỉnh thỏang lại có ý kiến kêu gọi "thoát Hán" để nói lên nỗi bức bách bế tắc của dân tộc. Nhưng thực ra và đúng ra  trước hết là phải tự giải thoát chính mình thì đúng hơn. Phải chăng chung quy đều bắt nguồn từ một thói xấu phổ biến của người Việt,  đó là chỉ tỏ ra rộng lượng đối với người đã quá cố và thích ngợi ca những chiến công trong quá khứ (đôi khi chỉ là ngụy tạo) để lấp liếm sự yếu kém của hiện tại hay cái mà mình không có (?). Có người đúc kết rằng người Việt hay luyến tiếc về quá khứ, ảo vọng về tương lai, nhưng coi thường hiện tại. Có lẽ vì thế, người Việt tin rằng "sống gửi thác về"...và có lễ lạc ma chay thuộc loại "sang trọng" nhất thế giới ?

Ngày nay nhiều người đổ hết tội lỗi cho ý thức hệ CS và XHCN..., nhưng thực ra suy cho cùng tất cả đều bắt nguồn từ hậu quả của những thói hư tật xấu đã hình thành từ thời kỳ 1.000 năm Bắc thuộc! Thiết nghĩ, để thực sự ĐÁNH BẠI HẴN HOI kẻ thù Phương Bắc, người Việt Nam trước hết phải gột bỏ  cho được mọi tàn dư tư tưởng mê tín dị đoan cùng với tâm lý bị khuất phục và nỗi sợ hãi luôn ám ảnh trước kẻ thù truyền kiếp này. Không làm được điều đó, có lẽ dân tộc này sẽ chỉ mãi là đứa trẻ yếu gầy trước một big boy quen trò bắt nạt.  

Cuối cùng blogger tôi cũng muốn đưa một lại bức ảnh chụp cuộc hội đàm gần đây nhất giữa  hai vị bộ trưởng QP VN và TQ diễn ra ngay sau vụ tàu hải giám TQ cắt cáp tàu Bình Minh 2 của Việt Nam đang hoạt động sâu bên trong vùng đặc quyền kinh tế của mình . Những người theo dõi sát tin tức chắc sẽ nhận ra cái trò hề "đánh - đàm và đàm-đánh" mà phía Trung Quốc hay sử dụng để lừa phỉnh, lung lạc, thâm chí đe dọa phía Việt Nam. Ai cũng biết sau lần đàm phán  nói trên, tàu Trung Quốc lại tiếp tục cắt cáp của tàu Vikking đồng thời vẫn bắt tàu, cướp cá của dân chài Việt Nam như thường lệ.  Chỉ tiếc rằng phía Việt Nam dường như vẫn chưa nhận rõ âm mưu của đối phương. Hay đó cũng là do hậu quả một lá bùa đã yiểm nào đó, nếu không nói là một nỗi sợ hãi truyền kiếp?     


                                   
                                                 Phải độc lập về tư tưởng
                                                                Tác giả: Ngô Nhân Dụng

Ông Ðới Bỉnh Quốc, ủy viên phụ trách về đối ngoại trong Thường Vụ Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Trung Quốc có lần viết rằng nước ông không bao giờ có chính sách xâm chiếm các nước khác.
 Ðọc xong ai cũng phải bật cười. Không riêng gì người Việt Nam mà người Tây Tạng, người Uyghur, người Cao Ly (Hàn Quốc), người Mông Cổ, Mãn Châu và Ðài Loan, nếu học sử đều biết đất nước họ đã từng bị người Hán tấn công, chiếm đóng, khai thác, bóc lột rất nhiều lần. Thời gian mà nhà Ðường chiếm nước ta, đặt tên là An Nam thì họ cũng gọi tên Hàn Quốc là An Ðông. Trong các nhóm người này, hiện giờ chỉ còn những dân tộc Việt và Hàn còn đứng riêng chưa bị nuốt vào trong bụng Trung Quốc.
Cái tên Trung Quốc được dùng từ thời nhà Chu, trong sách Mạnh Tử ông nhiều lần nói đến tên này; mà trong thời Chiến Quốc ông sống thì những vùng phía Nam Trường Giang (thường gọi là sông Dương Tử) vẫn chưa thuộc Trung Quốc. Cái tên này chỉ là một danh từ địa lý chứ không phải tên một quốc gia; cho tới khi Tôn Trung Sơn lập Trung Hoa Dân Quốc nó mới thông dụng. Trước đó, để gọi tên nước Trung Hoa người ta chỉ dùng tên của các triều đại, gọi là nước Hán, nước Ðường, nước Tống, vân vân. Ông Tôn Trung Sơn người Quảng Ðông, thời xưa không thuộc vùng đất gọi là Trung Quốc. Nhưng người Tây Tạng, người Mông Cổ ngày nay không ai muốn bị gọi là người Trung Quốc.
Người Uyghur không may mắn như vậy. Họ vốn là một dân tộc hùng cường và văn minh, thuộc giống Turk. Họ cũng dũng mãnh như người Mông Cổ, đã từng làm chủ soái các bộ lạc du mục khác ở phía Bắc nước Tầu. Ðời Ðường gọi họ là Hồi Hột nhưng bị họ phản đối, đổi thành Hồi Cốt, đời Nguyên gọi là Duy Ngô Nhĩ, cho tới bây giờ. Họ đã đặt ra chữ viết riêng trước các bộ lạc du mục khác. Khi Thành Cát Tư Hãn đặt ra những đạo luật đầu tiên cho cả đế quốc Mông Cổ, ông đã phải dùng chữ Uyghur để ghi chép. Ðời Nguyên Thế Tổ, ông nhờ các vị lạt ma thông thái đặt ra một lối viết riêng, thống nhất ngôn ngữ Mông Cổ. Nhưng ngày nay, người Uyghur chịu thân phận làm một giống dân thiểu số trong tỉnh Tân Cương, lâu lâu lại nổi lên chống chính sách đồng hóa của Cộng Sản Trung Quốc và bị đàn áp tàn nhẫn.
Hai dân tộc rất dũng mãnh ở Mãn Châu và Mông Cổ đã từng xâm chiếm và thống trị nước Tầu một cách tàn bạo, nhà Nguyên kéo dài cả trăm năm, nhà Thanh gần bốn trăm năm. Hai triều đại đó đã góp công mở mang ảnh hưởng của Trung Quốc, nhà Nguyên chiếm thêm Ðại Lý và suýt nữa thì chiếm cả Việt Nam; nhà Thanh thì chiếm lấy Tây Tạng, xóa bỏ bản hiệp ước mà vua nhà Ðường công nhận Tây Tạng độc lập vào thế kỷ thứ 8. Người Mông Cổ đã chinh phục một vùng rộng lớn, kéo dài từ Cao Ly, bán đảo Sơn Ðông, qua các nước Hồi Giáo ở Trung Á, cho tới sông Volga, Kiev (Ukraina bây giờ), tới tận Hungary, Ba Lan, về phía Nam tiến xuống tới Syria, trước khi diệt nhà Tống chiếm nước Tầu. Khi Kublai, thường gọi là Nguyên Thế Tổ, chuyển kinh đô của ông từ Karakurum về Bắc Kinh vì thế lực của ông ở cố đô không mạnh bằng người anh họ, ông ta đã mở đầu một quá trình tự đồng hóa, biến người Mông Cổ thành người Trung Quốc, mặc dù trong triều đình ông chỉ dùng các vị thượng thư gốc Mông Cổ, hoặc người Tây Tạng, Uyghur, Á Rập, Thổ, tuyệt nhiên không dùng người Trung Hoa. Người Mông Cổ còn may mắn giữ được một mảnh đất ngoài xa, đất đai khí hậu người Trung Hoa không chịu nổi, bây giờ mang tên nước Mông Cổ. Còn người Mãn Châu thì hoàn toàn bị đồng hóa.
Trung Quốc không phải là một dân tộc. Trên căn bản, đó là một đế quốc, bao gồm rất nhiều dân tộc. Mỗi lần uy quyền trung ương tan rã, các mảnh đất thuộc Trung Quốc hoặc bị các đế quốc khác chiếm, hoặc tự tuyên bố lập thành quốc gia riêng. Vì không có ý thức dân tộc, ít nhất cho tới thời Dân Quốc, người dân Trung Hoa có thể chịu sống dưới các chính quyền ngoại quốc, như những thời Nam Bắc Triều kéo dài nhiều thế kỷ mà miền Bắc do các giống dân từ phương Bắc kéo xuống cai trị, hoặc thuộc vào nước Liêu (từ Mãn Châu), nước Kim, đế quốc Mông Cổ, hoặc triều đình Mãn Thanh,vân vân.
Ngay bây giờ, nhiều người dân ở Quảng Ðông vẫn nuôi lòng hoài cổ, muốn nghiên cứu để xác nhận và phục hồi một nền văn hóa Nam Việt, nhất là sau khi người ta tìm ra ngôi mộ của vị vua nước Nam Việt thấy cái ấn tín viết Văn Ðế Hành Tỷ. Tức là ông vua, cháu nội Triệu Ðà, vẫn tự xưng mình là Ðế, mặc dù trong sử Tầu viết rằng ông đã chịu thần phục hoàng đế nhà Hán, chịu nhận chỉ phong Vương mà thôi. Trong ngôi mộ này, ngoài cái triện đó người ta không thấy chữ Hán, các hình trang trí cũng khác hẳn lối người Hán ở phương Bắc. Tới thế kỷ thứ 10, người Quảng Ðông vẫn lập ra một nước riêng, gọi là Nam Hán, đã từng nuôi mộng độc lập. Tỉnh Vân Nam cho tới thế kỷ thứ 12 vẫn là một quốc gia độc lập, trước gọi là Nam Chiếu, sau họ Ðoàn đổi tên là Ðại Lý; cho tới khi Kublai, một cháu nội của Thành Cát Tư Hãn sai quân Mông Cổ đánh chiếm và đặt quan cai trị. Chưa đầy một ngàn năm, bây giờ thì những người dân Quảng Ðông, Quảng Tây và Vân Nam tự nhận họ là người Trung Quốc mà không thắc mắc gì cả.
Chúng ta phải tự hỏi tại sao đế quốc Mông Cổ đã từng hùng mạnh và rộng lớn như vậy mà lại tàn tạ sau một trăm năm, còn đế quốc Trung Hoa tồn tại cho tới bây giờ? Nền tảng tồn tại của đế quốc đó chính là nền văn minh Trung Hoa. Cũng vậy, đế quốc Hồi Giáo thành hình từ thế kỷ thứ 7, mặc dù bây giờ đã tan rã nhưng vẫn còn để lại một nền văn minh Hồi Giáo kéo dài từ Bắc Phi sang tới Indonesia. Văn minh Hồi Giáo dựa trên một tín ngưỡng. Văn minh Trung Hoa dựa trên cách tổ chức xã hội, gồm một nền luân lý (Khổng Giáo) và một chế độ chính trị tập quyền do Tần Thủy Hoàng thiết lập. Từ đời Hán, tuy các triều đại vẫn bài xích Tần Thủy Hoàng nhưng trong thực tế họ vẫn sử dụng các thuật trị quốc của Pháp Gia (Nội Nho, Ngoại Pháp, hoặc nói ngược lại cũng được!) Ðế quốc Mông Cổ chấp nhận tất cả các tôn giáo. Ðạo luật của Thành Cát Tư Hãn lập ra cho một xã hội du mục, không đủ để duy trì trật tự trong đám dân định cư, phương tiện giao thông thô sơ không đủ để nối liền những vùng đất kéo dài từ Âu sang Á. Ðến đời các cháu nội của Thành Cát Tư Hãn thì đã có một người cải theo đạo Hồi và liên kết với đạo quân Ai Cập chống lại anh em mình, một người khác tự biến thành người Trung Hoa để sử dụng phương pháp cai trị của họ! Cuối cùng, một đế quốc hùng mạnh như Mông Cổ mà biến mất chỉ vì đã tự đồng hóa trước một nền văn minh vững chắc!
Sống hơn hai ngàn năm bên cạnh một nước lớn với lịch sử bành trướng dữ tợn như Trung Quốc, dân tộc Việt Nam (cũng như dân Cao Ly) vẫn còn tồn tại, đó là một hiện tượng lạ, đáng ngạc nhiên. Người Việt Nam có thể tự hào, họ là những người học trò của văn minh Trung Hoa, nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc mình. Trong đó, quan trọng nhất là những đặc tính phóng khoáng, trọng cá nhân và tôn trọng quyền bình đẳng của phụ nữ, những đặc tính văn hóa của các dân tộc phát xuất từ các đảo phía Nam. Người Việt Nam tồn tại cũng nhờ giữ được tiếng nói riêng, với văn phạm khác tiếng Tầu, và xã hội Việt Nam dựa trên làng xã khác với bên Tầu dựa trên các gia tộc.
Trong lịch sử, các vị vua Việt Nam thường chịu thần phục vua Tầu, nghĩa là tự nhận là phận dưới, không dám tranh giành ngôi vị (danh xưng hoàng đế) với các ông vua Tầu ở Biện Kinh hoặc Nam Kinh (đời Tống) hay Bắc Kinh (đời Nguyên). Nhưng ngoài những việc cống tiến giống như các nước nhỏ khác ở chung quanh nước Tầu, vua nước Nam vẫn không chịu khuất phục. Người Mông Cồ thường bắt vua các nước nhỏ trong đế quốc của họ phải tới triều bái hoàng đế nhà Nguyên, nhưng các vị vua nhà Trần đã từ chối. Có lúc Trần Nhân Tôn ngỏ ý muốn chấp nhận điều kiện đó để dân chúng khỏi bị họa binh đao, nhưng các vị tướng như Trần Hưng Ðạo đã phản đối, với câu nói nổi tiếng: Xin chém đầu tôi trước đã! Cuối cùng nhà Nguyên cũng phải thôi. Cùng thời gian đó, vua Miến Ðiện cũng từ chối không gửi con sang Bắc Kinh, và nước họ cũng bị xâm lăng ba lần đẫm máu, như nước ta.
Mặc dù ông Ðới Bỉnh Quốc ba hoa nói nước ông không nuôi tham vọng bá chủ bao giờ, hiện nay Trung Quốc đang chèn ép nước Việt Nam một cách có tính toán. Họ coi cả vùng Biển Ðông của nước ta là ao nhà của họ, cho tầu hải giám, ngư chính đi giám sát, tuần tiễu giống như cho cảnh sát đi tuần trên đường phố của nước Việt Nam!
Người Việt Nam chắc chắn không chịu cảnh làm nô lệ. Trung Quốc vin vào lá thư của ông Phạm Văn Ðồng gửi ông Chu Ân Lai năm 1958 để coi các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về họ, kể cả các vùng biển chung quanh! Ðối với bất cứ nước nhỏ nào ở bên cạnh Trung Quốc, chỉ đợi chính quyền nước đó theo đuổi những chính sách sai lầm là người Trung Quốc nhân dịp đè nén. Mối sai lầm lớn nhất là từ khi đảng Cộng Sản Việt Nam chấp nhận “tư tưởng Mao Trạch Ðông” làm đường lối chỉ đạo quốc gia, rồi sau đó thi hành các chính sách giống hệt như Cộng Sản Trung Quốc, từ chỉnh huấn đến cải cách ruộng đất, cho tới cả chế độ lao cải; rồi sau lại tính đem chủ nghĩa cộng sản với tư tưởng Mao Trạch Ðông bành trướng trong khắp vùng Ðông Nam Á. Trong các thứ nô lệ, không gì nguy hiểm bằng nô lệ tư tưởng. Nếu người cầm quyền ở nước ta còn tiếp tục bắt chước “mô hình Trung Quốc” trong việc phát triển quốc gia, thì tình trạng nô lệ về tư tưởng sẽ còn trầm trọng hơn nữa.
Muốn giữ nền độc lập, trước hết phải độc lập về tư tưởng. Trên thế giới hiện nay, mô thức phát triển có hiệu quả và mang lại hạnh phúc cao nhất cho người dân là lối tổ chức xã hội theo các quy tắc dân chủ tự do, về kinh tế cũng như chính trị. Ðối với người Việt Nam, đi theo con đường đó không những là tìm con đường phát triển hữu hiệu nhất mà còn là con đường duy nhất để bảo vệ độc lập dân tộc đối với nước láng giềng phía Bắc.


Thứ Sáu, 15 tháng 7, 2011

Sau Tuyên bố chung...dân chài Việt Nam lại bị bắt nạt

Chỉ vài tuần lễ sau Tuyên bố chung cấp thứ trưởng Việt-Trung được đưa ra với những lời cam kết này nọ...,  thì lại có tin dưới đây (Nguồn Báo Thanh niên này 14/7/2011).     Thử hỏi người Việt Nam bình thường nào lại có thể không "bức xúc"?

Tàu cá báo cáo bị hải quân nước ngoài bắt giữ, tịch thu hải sản

Chiều 14.7, ông Võ Mưa (83 tuổi, ở P.6, TP Tuy Hòa, Phú Yên) cho biết qua máy ICOM, anh Võ Văn Sỹ (27 tuổi, ở cùng P.6, thuyền trưởng tàu cá PY-90369TS) đã điện báo tin là tàu cá PY-90368TS do anh Võ Văn Tú (31 tuổi, con ông Mưa, làm thuyền trưởng) cùng với 8 ngư dân trên tàu bị hải quân nước ngoài bắt giữ vào lúc 15 giờ ngày 13.7, trong lúc đánh bắt ở ngư trường Trường Sa.
Hiện nay gia đình chưa có thông tin gì thêm về vụ việc trên. Ông Mưa đề nghị các cơ quan chức năng tạo điều kiện giúp đỡ để các ngư dân trên tàu cá PY-90368TS sớm trở về. Chiều cùng ngày, đại tá Nguyễn Văn Thắm - Chính ủy Bộ đội biên phòng tỉnh Phú Yên cho biết đang tiến hành xác minh nguồn tin báo của ngư dân về việc tàu cá PY-90368TS bị hải quân nước ngoài bắt giữ.
* UBND xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi) hôm qua cho biết tàu cá QNg-98868TS do ngư dân Nguyễn Thừa (38 tuổi, ở xã Phổ Quang) làm thuyền trưởng cùng 9 ngư dân khác đã bị tàu chiến của Trung Quốc mang số hiệu 44861 rượt đuổi, lấy hải sản và đánh đập trong khi đang hành nghề lưới cản tại vùng biển quần đảo Hoàng Sa vào hôm 5.7.
Theo thông tin ban đầu, sau một hồi rượt đuổi, tàu chiến Trung Quốc đã thả ca-nô gồm 10 người có trang bị súng, dùi cui xông lên tàu cá, đánh đập thuyền trưởng Thừa và lục soát khắp tàu lấy khoảng 1 tấn cá; sau đó đuổi không cho các ngư dân tiếp tục hành nghề tại vùng biển này nữa. Hiện tàu cá QNg-98868TS và các ngư dân vẫn chưa trở về địa phương.
Đức Huy - Hiển Cừ

 

Nhân sĩ kiến nghị về bảo vệ và phát triển đất nước

Trong một cử chỉ mà cá nhân tôi cho là "hơi khác thường", Tuần Việt Nam số ra hôm nay (chính xác lúc 6 giờ sáng ngày 14/7/2011) đã cho đăng nội dung bản kiến nghị của 20 vị nhân sĩ tiêu biểu cho các tầng lớp và ngành nghề trong nước hiện nay gửi Quốc Hội và Bộ Chính trị hiến kế về bảo vệ và phát triển đất nước trong bối cảnh tình hình mới gần đây.  Dưới đây là nguyên văn bài báo (gồm cả lời bình của Tuần VN và nội dung Kiến nghị nói trên)* 

Một số nhân sĩ gửi kiến nghị bảo vệ và phát triển đất nước

Để vươn lên giành thời cơ, thoát hiểm họa, cả dân tộc ta, từ người lãnh đạo, cầm quyền đến người dân thường phải dấn thân cùng với cả nhân loại tiến bộ đấu tranh cho những giá trị đang là nền tảng cho một thế giới tiến bộ, đó là hòa bình, tự do dân chủ, quyền con người, bảo vệ môi trường, nhóm nhân sĩ kiến nghị.
Ngày 13/7/2011, 20 nhân sĩ, trí thức đã gửi bản kiến nghị đến Quốc hội và Bộ Chính trị về bảo vệ và phát triển đất nước trong tình hình hiện nay.
Bản kiến nghị gồm có 3 phần: phần 1 phân tích sâu về những sự kiện xảy ra gần đây trong quan hệ Việt - Trung, phần 2 nói về thực trạng còn nhiều bất cập trong nước và phần cuối cùng nêu 5 điểm kiến nghị với lãnh đạo Đảng và Quốc hội.
Trong danh sách ký tên đính kèm bản kiến nghị, có nhiều tên tuổi như ông Hồ Uy Liêm (Phó Chủ tịch thường trực Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam (VUSTA)), Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh ( nguyên Đại sứ VN tại Trung Quốc), nhà nghiên cứu Trần Việt Phương, Trần Đức Nguyên (nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng), GS Hoàng Tụy, GS Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Trung, Phạm Chi Lan, Chu Hảo (nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và công nghệ), nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, Linh mục Huỳnh Công Minh, ông Lê Hiếu Đằng, Gs Tương Lai, Luật sư Trần Quốc Thuận, chuyên gia kinh tế Vũ Thành Tự Anh, Thiền sư Lê Mạnh Thát, nhà văn Nguyên Ngọc, Ts Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Hữu Châu Phan, Nguyễn Đình An.
"Độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ đang bị uy hiếp"
Trước tình hình Biển Đông nóng lên, nhóm nhân sĩ cho rằng, "Độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta đang bị uy hiếp, xâm phạm nghiêm trọng".
"Từ khát vọng trở thành siêu cường, với vai trò là "công xưởng thế giới" và chủ nợ lớn nhất của thế giới, dưới chiêu bài "trỗi dậy hòa bình", Trung Quốc đang ra sức phát huy quyền lực dưới mọi hình thức, nhằm thâm nhập và lũng đoạn nhiều quốc gia trên khắp các châu lục...Thời gian gần đây, Trung Quốc đã có những bước leo thang nghiêm trọng trong việc thực hiện âm mưu độc chiếm Biển Đông với nhiều hành động bất chấp luật pháp quốc tế, ngang nhiên xâm phạm chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của các quốc gia giáp Biển Đông. Trung Quốc tự ý vạch ra cái gọi là "đường chữ U 9 đoạn", thường được gọi là "đường lưỡi bò", chiếm hơn 80% diện tích Biển Đông, nhiều lần tuyên bố trước thế giới toàn bộ vùng "lưỡi bò" này thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc và đã liên tục tiến hành nhiều hoạt động bất hợp pháp trên Biển Đông để khẳng định yêu sách trái luật quốc tế này.
Hiện nay Trung Quốc đang ráo riết tăng cường lực lượng hải quân, chuẩn bị giàn khoan lớn, tiến hành nhiều hoạt động quân sự hoặc phi quân sự ngày càng sâu vào vùng biển các quốc gia trong vùng này, gắn liền với những hoạt động chia rẽ các nước ASEAN trong quan hệ với Trung Quốc.
Trên vùng Biển Đông thuộc lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, năm 1974 Trung Quốc đã tấn công chiếm nốt các đảo ở Hoàng Sa, năm 1988 đánh chiếm thêm 7 đảo và bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa của ta; từ đó đến nay thường xuyên tiến hành các hoạt động uy hiếp và xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền của nước ta, như tự ý ra lệnh cấm đánh bắt cá trên Biển Đông, xua đuổi, bắt giữ, cướp tài sản của các tàu đánh cá trên vùng này, gây sức ép để ngăn chặn hoặc đòi hủy bỏ các hợp đồng mà các tập đoàn kinh doanh dầu khí của nước ngoài đang hợp tác với Việt Nam, liên tục cho các tàu  hải giám đi tuần tra như đi trên biển riêng của nước mình. Gần đây nhất, tàu Trung Quốc cắt cáp quang và thực hiện nhiều hành động phá hoại khác đối với tàu Bình Minh 02 và tàu Viking II của ta đang hoạt động trong vùng thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam; đó là những bước leo thang nghiêm trọng trong các chuỗi hoạt động uy hiếp, lấn chiếm vùng biển của nước ta.
Vị trí địa lý tự nhiên, vị thế địa chính trị và địa kinh tế trong bối cảnh quốc tế hiện nay khiến cho Việt Nam bị Trung Quốc coi là chướng ngại vật trên con đường tiến ra biển phía Nam để vươn lên thành siêu cường...", bản kiến nghị viết.

Từ phân tích trên, nhóm nhân sĩ cho rằng "xem xét cục diện quan hệ hai nước, phải nhìn nhận thẳng thắn rằng Trung Quốc đã đi được những bước quan trọng trong việc thực hiện ý đồ chiến lược của họ".
Kiến nghị dẫn chứng: Nhập siêu của ta từ Trung Quốc mấy năm qua tăng rất nhanh (năm 2010 gấp 2,8 lần năm 2006) và từ năm 2009 xấp xỉ bằng kim ngạch xuất siêu của nước ta với toàn thế giới. Hiện nay, nước ta phải nhập khẩu từ Trung Quốc khoảng 80-90% nguyên vật liệu cho công nghiệp gia công của ta, một khối lượng khá lớn xăng dầu, điện, nguyên liệu và thiết bị cho những ngành kinh tế khác; khoảng 1/5 kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc là hàng tiêu dùng, chưa kể một khối lượng tương đương như thế vào nước ta theo đường nhập lậu. Đặc biệt nghiêm trọng là trong những năm gần đây, 90% các công trình kinh tế quan trọng như các nhà máy điện, luyện kim, hóa chất, khai thác bô-xít, khai thác ti-tan... được xây dựng theo kiểu chìa khóa trao tay (EPC) rơi vào tay các nhà thầu Trung Quốc với nhiều hệ quả khôn lường.
Trong khi đó Trung Quốc nhập khẩu từ nước ta chủ yếu dưới dạng vơ vét nguyên liệu, nông sản và khoáng sản, với nhiều hệ quả tàn phá môi trường. Ngoài ra còn nạn cho Trung Quốc thuê đất, thuê rừng ở vùng giáp biên giới, nạn tiền giả từ Trung Quốc tung vào. Sự yếu kém của nền kinh tế trong nước chính là mảnh đất màu mỡ cho sự xâm nhập, thậm chí có mặt chi phối, lũng đoạn về kinh tế của Trung Quốc. Chưa nói tới hệ quả khôn lường của việc Trung Quốc xây nhiều đập trên thượng nguồn hai con sông lớn chảy qua nước ta.
Cũng không thể xem thường sự xâm nhập của Trung Quốc vào các nước xung quanh ta. Nếu Trung Quốc thực hiện được mưu đồ độc chiếm Biển Đông, Việt Nam coi như bị bịt đường đi ra thế giới bên ngoài.
Trong khi đó tình hình đất nước lại có nhiều khó khăn và mối nguy lớn...
Theo các nhân sĩ trên, do "vị trí địa lý nước ta không thể chuyển dịch đi nơi khác, nên toàn bộ thực tế hiện nay buộc dân tộc ta phải tạo được bước ngoặt có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh của đất nước: Là nước láng giềng bên cạnh Trung Quốc đầy tham vọng đang trên đường trở thành siêu cường, Việt Nam phải bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, trở thành một đối tác được Trung Quốc tôn trọng, tạo ra một mối quan hệ song phương thật sự vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Mặt trận gìn giữ lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, biển đảo, vùng trời của nước ta trong Biển Đông đang rất nóng do các bước leo thang lấn chiếm ngày càng nghiêm trọng của Trung Quốc... Tuy nhiên, mặt trận nguy hiểm nhất đối với nước ta mà Trung Quốc muốn dồn quyền lực và ảnh hưởng để thực hiện, đó là: thâm nhập, lũng đoạn mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa của nước ta...
Sự xuất hiện một Trung Quốc đang cố trở thành siêu cường với nhiều mưu đồ và hành động trái luật pháp quốc tế, bất chấp đạo lý, gây nhiều tác động xáo trộn thế giới, tạo ra một cục diện mới đối với nước ta trong quan hệ quốc tế: Hầu hết mọi quốc gia trên thế giới, có lẽ ngoại trừ Trung Quốc, đều mong muốn có một Việt Nam độc lập tự chủ, giàu mạnh, phát triển, có khả năng góp phần xứng đáng vào gìn giữ hòa bình và ổn định trong khu vực, thúc đẩy những mối quan hệ hữu nghị, hợp tác vì sự bình yên và phồn vinh của tất các các nước hữu quan trong khu vực và trên thế giới"
Các nhân sĩ này cho rằng: "cục diện thế giới mới này là cơ hội lớn, mở ra cho đất nước ta khả năng chưa từng có trong công cuộc phát triển và bảo vệ Tổ quốc, qua đó giành được cho nước ta vị thế quốc tế xứng đáng trong thế giới văn minh ngày nay. Để vươn lên giành thời cơ, thoát hiểm họa, cả dân tộc ta, từ người lãnh đạo, cầm quyền đến người dân thường phải dấn thân cùng với cả nhân loại tiến bộ đấu tranh cho những giá trị đang là nền tảng cho một thế giới tiến bộ, đó là hòa bình, tự do dân chủ, quyền con người, bảo vệ môi trường
Kiến nghị 5 điểm
Từ những phân tích trên, các nhân sĩ "khẩn thiết  kiến nghị với Quốc hội và Bộ Chính trị"
1. Công bố trước toàn thể nhân dân ta và nhân dân toàn thế giới thực trạng quan hệ Việt - Trung; nêu rõ những căn cứ phù hợp với luật pháp quốc tế, có sức thuyết phục về chủ quyền của Việt Nam đối với biển đảo ở vùng Biển Đông để làm sáng tỏ chính nghĩa của nước ta; khẳng định thiện chí trước sau như một của nước ta xây dựng, gìn giữ quan hệ hữu nghị, hợp tác láng giềng tốt với Trung Quốc, nhưng quyết tâm bảo vệ độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia của mình ... Chúng ta luôn phân biệt những mưu đồ và hành động phi đạo lý và trái luật pháp quốc tế của một bộ phận giới lãnh đạo Trung quốc, khác với tình cảm và thái độ thân thiện của đông đảo nhân dân Trung quốc đối với nhân dân Việt Nam. Chúng ta sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước, đặc biệt coi trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước Đông Nam Á và các nước lớn, cùng với các nước có liên quan giải quyết hoà bình các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông.
2. Trình bày rõ với toàn dân thực trạng đất nước hiện nay, thức tỉnh mọi người về những nguy cơ đang đe dọa vận mệnh của Tổ quốc, dấy lên sự đồng lòng và quyết tâm của toàn dân đem hết sức mạnh vật chất, tinh thần, trí tuệ để bảo vệ và phát triển đất nước. Cải cách sâu sắc, toàn diện về giáo dục và kinh tế ngày càng trở thành yêu cầu cấp thiết, là kế sâu rễ bền gốc để nâng cao dân trí, dân tâm, dân sinh làm cơ sở cho quá trình tự cường dân tộc và nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.
3. Tìm mọi cách thực hiện đầy đủ các quyền tự do, dân chủ của nhân dân đã được Hiến pháp quy định, nhằm giải phóng và phát huy ý chí và năng lực của nhân dân cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tận dụng được cơ hội mới, đáp ứng được những đòi hỏi và thách thức mới của tình hình khu vực và thế giới hiện nay.
4. Kêu gọi toàn thể quốc dân đồng bào, mọi người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài, không phân biệt chính kiến, tôn giáo, dân tộc, địa vị xã hội, hãy cùng nhau thực hiện hòa hợp, hòa giải, đoàn kết dân tộc với lòng yêu nước, tinh thần vị tha và khoan dung. Tất cả hãy cùng nhau khép lại quá khứ, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, để từ nay tất cả mọi người đều một lòng một dạ cùng nắm tay nhau đứng chung trên một trận tuyến vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng nhau dốc lòng đem hết trí tuệ, nghị lực sáng tạo và nhiệt tình yêu nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta.
5. Lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam với tính cách là đảng cầm quyền duy nhất và cũng là người chịu trách nhiệm toàn diện về tình hình đất nước hiện nay, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, giương cao ngọn cờ dân tộc và dân chủ đẩy mạnh cuộc cải cách chính trị, giải phóng mọi tiềm năng của nhân dân cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy lùi mọi tệ nạn tham nhũng và tha hóa, đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng yếu kém và lệ thuộc hiện nay, chuyển sang thời kỳ phát triển bền vững, đưa dân tộc ta đồng hành với cả nhân loại tiến bộ vì hòa bình, tự do dân chủ, quyền con người, bảo vệ môi trường.

Ghi chú: * Bạn đọc cũng có thể đọc toàn văn kiến nghị cùng với bản scan bản gốc của nó và kèm theo lời mời ký tên tham gia Kiến nghị (nếu bạn mong muốn)  được đăng tải trên trang BoxitVN tại đường link dưới đây:
http://boxitvn.blogspot.com/2011/07/toan-van-kien-nghi-ve-bao-ve-va-phat.html

--------------

Thứ Hai, 11 tháng 7, 2011

Thư ngỏ gửi ông Hồ Cẩm Đào

Kính thưa ông Hồ Cẩm Đào -Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc  kiêm Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,

Dù biết ông rất bận với công việc lãnh đạo một đất nước đông dân nhất thế giới lại đang ở vào thời kỳ phát triển nhanh đến chóng mặt trong nhiều năm nay, tôi vẫn mong được ông tiếp nhận  bức thư mà tôi trân trọng chuyển đến ông đây. Xin cảm ơn ông trước nếu được ông hạ cố đọc thư hoặc  nghe thư ký của ông báo cáo lai.  Vì tôi biết ông sẽ hoàn toàn có quyền không làm điều đó với tôi - một người không phải là công dân của nước ông lại  đang nói ra những điều mà có thể ông không thích nghe.
Tuy nhiên tôi thấy mình có trách nhiệm phải nói,  vì nghĩ rằng, ngoài việc lãnh đạo đất nước Trung Hoa vĩ đại, ông còn đang muốn lãnh đạo cả thế giới này trong một ngày càng sớm càng tốt. Tôi cũng xin thưa với ông rằng bức thư này không phải của một em học sinh phổ thông vẫn thường viết để ca ngợi lãnh tụ của mình, mà là của một người cùng thế hệ với ông, tức là đã từng chứng kiến các thời kỳ quan hệ của hai nước Trung, Việt.
Để khỏi mất thời giờ, tôi xin phép ông được đi thẳng vào nội dung.
Có lẽ hiếm có trường hợp trên thế giới có trạng thái quan hệ láng giềng như giữa Việt Nam và Trung Quốc. Lịch sử cho thấy ngay từ thời kỳ đầu lập quốc người Hán đã có xu hướng tiến về phương nam. Tốt thôi, đó là quy luật của sự sống: đồng cỏ ở phía Nam bao giờ cũng xanh hơn ở phía Bắc. Hơn nữa thời xa xưa đất rộng người thưa, người Bách Việt còn thưa thớt đâu đã đủ sức mà khai thác cho xuể.  Cũng tốt thôi khi hai nền văn minh  Hán tộc và Việt tộc  có dịp hội nhập với nhau sớm như vây – điều mà cả thế giới ngày nay cũng đang cổ súy . Có lẽ ông cũng nên cho khắc thêm một dấu ấn đáng tự hào rằng Trung Quốc đã thực hiện hội nhập từ thời thượng cổ!
Vì thế, tôi thấy không cần nói nhiều về quá khứ xa xưa làm gì,  mà chỉ muốn nhắc ông nhớ về quá khứ và hiểu về quá khứ đúng với sự thật lịch sử của nó.  Bởi vì tôi được biết qua một cuộc khảo sát do một cơ quan học thuật Mỹ tiến hành gần đây tại 6 tình thành lớn nhất Trung Quốc cho thấy kết qủa hết sức ngạc nhiên rằng có đến   90% người  Trung Quốc tin rằng Việt Nam và các nước Đông Nam Á đã và đang chiếm cứ đất đai và biển đảo của cha ông người Trung Quốc …, và do đó, giờ đây họ có quyền đòi lại (!?) Nếu ông không tin, xin  ông hãy gọi một vài chuyên gia hàng đầu của Trung Quốc như Giáo sư Vương Hàn Lĩnh lên báo cáo với ông thì chắc rằng tình trạng hiểu biết sai lệch như vậy còn nghiêm trọng hơn nhiều. Tôi thấy trên mạng, nhất là trong giới "quân luận" của nước ông đâu đâu cũng sặc mùi hiếu chiến kêu gọi tiêu diệt bọn giặc Việt Nam về tội chiếm nhiều đất đai và biển đảo của Trung Quốc lại còn vong ơn bạc nghĩa nữa! Chẳng lẽ bọn họ không quán triệt lời chỉ huấn của ông với phương châm  "bốn tốt" và "16 chữ vàng"?. Tôi trộm nghĩ,  là một người lãnh đạo hẳn ông biết rõ điều gì sẽ xảy ra nếu sự hiểu sai lệch như vậy cứ lan truyền trong dân chúng của một đất nước  1,5 tỷ người, lại đang trên đà phát triển rất cần năng lượng và không gian sống? Đó là chưa kể hơn 60 triệu Hoa kiều  phiêu bạt khắp nơi trên thế giới, gần đây đã tràn sang chiếm lĩnh cả vùng đất thưa dân cư ở  Siberi và miền tây nam nước Nga khiến cho người Nga vô cùng lo lắng. Người Trung Quốc cũng đang di dân tự do sang tận Châu Phi xa xôi nữa. Ôi có lẽ tôi không nên tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu số đông này một ngày kia đều theo chủ nghĩa đại Hán. Điều tôi lo sợ nhất là họ vẫn tưởng mình là "con trời" sinh ra để thống trị thiên hạ, và do đó chả coi ai ra gì...   Nhân đây tôi xin trích đăng lại tấm bản đồ trên Wikipedia cho thấy cương vực Trung Quốc thời nhà Hạ chỉ bằng một giọt dầu so với toàn bộ diện tích nước Trung Quốc ngày nay để ông và đồng bào của ông khỏi phải xít xoa về sự ”thua thiệt” lãnh thổ của mình.
Giờ xin phép ông cho tôi trở lại với quan hệ Viêt-Trung. Tôi sẽ không nói về quá khứ xa xôi, mà chỉ nói qua về quá khứ gần đây nhất. Đã có một thời hoàng kim trong quan hệ Việt-Trung mà trong đó nhân dân hai nước đều rất hân hoan với tình hữu nghị và giáo lý cách mạng  rằng sẽ  không bao giờ tái diễn tình trạng chiến tranh xâm lược giữa các quốc gia  cùng thể chế  xã hội chủ nghĩa . Thời đó tôi may mắn đã được sang học tập tại một tỉnh miền Nam của nước ông nên không thể nhầm lẫn về trạng thái tinh thần như nói trên.  Chúng tôi đã được các thầy cô giáo dạy hát  “Việt nam Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông …, chung một mối tình hữu nghị …” và nhiều ca từ thật hay ho khác nữa bằng cả hai thứ tiếng Viêt và Trung mà giờ đây tôi vẫn còn thuộc lòng. Thứ tình cảm hữu nghị đó nó mạnh lắm, sâu nặng lắm,  đến nỗi sau này khi  ông Đặng Tiểu Bình xua quân sang xâm lược  biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979 thì  không chỉ dân thường mà cả giới lãnh đạo Việt Nam đều bị bất ngờ!  Vẫn biết, trước đó các ông đã từng đánh chiếm  quần đảo Hoàng Sa, nhưng đó là cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc với một chính thể không phải là cộng sản. Không biết đến giờ có còn ai  tơ tưởng vào  cái luận điểm cho rằng giữa các nước xã hôi chủ nghĩa thì không bao giờ có chiến tranh(!?).
Còn nhớ, các ông đã không thể đợi quá lâu sau cuộc chiến tranh biên giới ác liệt đó, lại đã bắt đầu dùng vũ lực để tìm chỗ đứng chân tại quần đảo Trường Sa cách đất liền Trung Quốc hàng ngàn dặm lúc đó đang  nằm dưới quyền kiểm soát của  nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Giờ xem lại những hình ảnh video  do chính  lính Trung Quốc quay  lại cảnh  họ   xả đạn bắn giết không thương tiếc vào đám công binh Việt nam trên tay không vũ khí,  ai cũng thấy đó là hành động dã man chỉ có ở đội quân của một quốc gia không bình thường. Đó là sự tái hiện của lòng tham vô đáy của chủ nghĩa bành trướng đại Hán đã có từ ngàn xưa. 
Gần đây các ông còn tỏ ra vội vã hơn thế qua việc cậy thế đông  áp dụng chiến thuật "biển người" để xâm chiếm Biển Đông. Cả ngày lẫn đêm lính thủy giả dân sự của các ông  săn lùng bắt bớ,  phạt vạ và, bắn giết  những ngư dân Việt Nam vô tội  ngay tại chính các ngư trường truyền thống của họ khiến họ không biết làm gì để kiếm sống. Cái vô lý là ở chỗ, bổng dưng một ngày, có kẻ lạ xông vào nhà cướp tất cả và buộc chủ nhà phải ra đi. Nếu là ông, ông sẽ làm gì, thưa ông ? Những người mang sắc phục nhà nước Trung Hoa đó  hành xử không khác nào bọn hải tặc Somali. Nói cách khác họ là bọn cướp biển được nhà nước tổ chức, hay ngắn gọn là  “cướp biển nhà nước” -  tiếng Anh là “state pirates”. Phải chăng vì các lực lượng  hải quân của các ông  đang quá sung sức lại nóng lòng muốn “thử nghiệm”  nên đã quá đà hung hãn như vậy (?)  Cũng có thể ông chưa được cấp dưới báo cáo đầy đủ về tình trạng “lạm dụng” này.  Nhưng tôi  nghĩ,  nếu không có chỉ thị của ông thì cấp dưới của một đội quân khét tiếng “kỹ luật sắt” không bao giờ dám làm như  vây, nhất là mới đây họ còn cho 3 chiến tàu với đội hình thủy chiến hẵn hoi tiến sâu  vào bên trong lãnh hải của Việt Nam để phá phách một cách rất ngang ngược. Chẳng lẽ họ không ý thức rằng hành động như thế  rất dễ châm ngòi nổ cho một cuộc chiến tranh? Họ quả đang chơi trò chơi với lửa, hay họ thưc sự muốn chiến tranh? Chỉ có các ông mới biết được. Xin mời ông xem đoạn video do người của ông quay dưới đây để xem lính của ông ngang ngược như thế nào. 
http://www.youtube.com/watch?v=Kk9Mz4j9Jqg&NR=1 


Dù sao tôi cũng thấy nên khuyên ông,  với tư cách người đứng đầu của một quốc gia đông dân như Trung Quốc, ông nên sớm kiểm soát tình hình kẻo  những hành động thái quá kia sẽ không chỉ  phá hoại hình ảnh khả kính của ông mà thậm chí có thể làm đảo lộn cả sự yên bình của chính đất nước ông. Tôi  tưởng nước ông  chủ trương "trỗi dậy hòa bình" mà sao giờ lại hung hãn như vậy? Nhưng các ông ước gì thì được nấy thôi. Theo tôi được biết, với những sự kiện mới rồi, sự phẩn nộ  đã lên đến cao độ trong lòng người dân Việt Nam. Chính phủ Việt Nam sẽ hành động như thế nào tôi chưa được rõ, nhưng về phía người dân có lẽ đã hình thành một trào lưu căm phẫn chưa từng thấy trong lịch sử quan hệ Việt-Trung. Thậm chí tôi nghĩ mối căm thù này còn hơn cả với người Mỹ trước đây.  Dư luận thế giới cũng đang chuyển theo hướng rất bất lợi cho các ông rồi đấy.   Đó là một  chuyển biến mới mà ông cũng nên biết.
Thưa ông, từ góc độ của những người có hiểu biết và có lương tri, tôi tha thiết đề nghị ông vì  số phận của hàng triệu gia đình ngư dân nước Việt mà ra lệnh cho thủ hạ của ông sớm chấm dứt lối hành xử kẻ cướp như nói trên. Ông cũng thừa biết sức chịu đựng của con người có hạn. Các ông đã quá quen với lối hành xử của  “con trời” như vẫn tự cho phép mình, nhưng người Việt dù chỉ là “con đất”, “con nước” (sơn tinh, thủy tinh)  thì cũng phải có quyền được sinh sống ngay trong  lãnh thổ và lãnh hải cổ truyền và đã được luật pháp quốc tế công nhận. Những vùng nào  còn tranh chấp là một chuyện hoàn toàn khác. Nếu các ông động chạm đến phần lãnh thổ thiêng liêng của “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” thì chính là các ông đang “kích hoạt” tinh thần quật cường của người Việt.  Ông biết đấy, người Việt Nam bản tính nhẫn nhục, nhẫn nhục đến nỗi bị các ông khinh miệt thì phải (?). Nhưng chắc ông cũng biết, hễ khi đã phải đánh thì đánh đến cùng, đánh đến thắng lợi thì mới thôi. Điều này ông có thể đọc thấy trong lịch sử Trung Quốc và cũng thấy từ kinh nghiệm của quân  Nguyên-Mông và của các thực dân Pháp, Mỹ. Và chắc ông cũng thừa biết biết khi mục đích của các ông không đạt được thì những hậu quả còn khủng khiếp hơn nhiều, nhất là khi bản thân nước Trung Quốc của ông cũng đang còn rất nhiều vấn đề ngỗn ngang bên trong nó.  
Tôi nói đến đây chắc ông lại nghĩ, Việt Nam thắng đươc Pháp, Mỹ là nhờ ơn Trung Quốc, và rồi ông lại tuôn ra hàng tràng những lời trách móc thậm tệ và không quên đi tới kết luận: “Phải dạy cho Việt nam” những bài học (!?) Nếu vậy thì tôi cũng xin thưa, có thể nói rằng không ai được lợi nhiều bằng Trung Quốc từ  cuộc chiến đấu của người Việt Nam chống lại các thế lực đế quốc. Chính một số người lãnh đạo Trung Quốc mà tiêu biểu là ông Đặng Tiểu Bình cùng với các cuộc chiến tranh xâm lược mà họ vừa gây ra đối với Việt Nam đã giúp người Việt Nam tỉnh ngộ. Tôi tin rằng với đà này, và chỉ có sự thật này, người Việt Nam sẽ dứt khoát đoạn tuyệt với mối quan hệ bất bình đẳng với người Trung Quốc. Nhân dân Việt Nam dù coi trọng những giá trị tự nhiên  của mối quan hệ truyền thống (cả tốt lẫn xấu) với nhân dân Trung Quốc, nhưng có lẽ giờ đây đã quá đủ  để nói lời chia tay với mối quan hệ bất bình đẳng truyền kiếp của quá khứ.  Liên quan đến hệ quả này, xin ông hãy để vài phút nhìn ngó xung quanh để thấy có bao nhiêu nước láng giềng của Trung Quốc còn thực sự là bạn của Trung quốc?  Tục ngữ Hán-Việt đều có câu: “bán anh em xa mua láng giềng gần”. Vậy mà tiếc thay các ông đang hành xử  hoàn toàn ngược lại.
Cảm ơn ông và xin gửi ông lời chào trân trọng.  
Dân chài Quảng Ngãi
Hà Nội, Việt nam


--------------
*****

Chủ Nhật, 10 tháng 7, 2011

Chủ quyền Trung Quốc bị Việt Nam xâm phạm?

Bạn sẽ vô cùng ngạc nhiên khi lắng nghe cho thật kỹ những lời bình nghiêm túc của những chính khách và chuyên gia Trung Quốc chính hiệu  trên một kênh truyên hình nghiêm túc của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại đường truyền dưới đây.

http://www.youtube.com/watch?v=WgNMzJ6_52c&feature=player_embedded#at=40

Bạn sẽ không thể không ngạc nhiên nhận ra rằng  lâu nay không chỉ dân thường mà cả giới quan chức Trung Quốc vẫn tin rằng Việt Nam xâm phạm chủ quyền lãnh thổ và biển đảo của họ...giờe lại còn liên tục chủ động gây hấn với Trung Quốc... Họ cho rằng  Đặng Tiểu Bình và Lãnh đạo Trung Quốc đã từng tính toán rất thận trọng nhiều năm trước khi ra quyết định "dạy" cho Việt Nam bài học bằng cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 . Và giờ đây trước khi đánh Việt Nam một lần nữa họ cũng đang thận trọng như vậy...như thể tuy là "bên bị hại" nhưng Trung Quốc luôn cao thượng vì hòa bình...(!?)

Bạn sẽ phải thốt lên rằng, than ôi, trên đời này sao lại có sự đổi trắng thay đen vô cùng "ngoạn mục" như vậy? Bạn sẽ bất giác vỗ đùi đánh đét một cái và kêu lên "Tiên sư thằng Tào Tháo!" ...sao mày quá giỏi trong trò đổi trắng thay đen? Chỉ khổ người dân Trung Quốc, nhất là lớp trẻ ngày nay, đều tin như vậy...(tin đến mức nếu đem ra trưng cầu dân ý thì sẽ có 85% dân Trung Quốc đồng thanh một nói tiếng "đánh Việt Nam")*

Thế mới hay sức mạnh của bộ máy tuyên truyền của một nhà nước độc tài chuyên chế mạnh và tai hại như thế nào đối với  hòa bình và nhân lọai. Nhưng nó cũng "đau" như thế nào khi quay lại với cách tiếp cận vấn đề của cơ quan truyên truyền của Việt Nam. Chẳng lẽ chúng ta mãi không hiểu tại sao các "đồng chí" Trung Quốc luôn tìm mọi cách "bịt miệng" bộ máy tuyên truyền của ta nhưng lại tự cho phép họ không ngơi nghĩ  tuyên truyền bôi nhọ Việt Nam bằng cách bóp méo sự thật lịch sử với những luận điệu và thông tin hoàn toàn trái ngược với thái độ ngạo mạn kẻ cả không mảy mai tôn trọng quan hệ láng giềng mà họ rêu rao là "4 tốt" với "16 chữ vàng"...Trong khi phía nhà chức trách Việt Nam  ra sức kìm chế , thậm chí xóa mờ những dấu tích của cuộc chiến 1979 thì phía Trung Quốc năm nào cũng kỷ niệm cuộc chiến như một thắng lợi (!?). Trong khi Chính phủ và dân chài Việt Nam cắn răng nhẫn nhục chịu thua thiệt  trước bao lần bị lấn lướt bắt nạt trên ngay chính vùng biển truyền thống của mình thì phía Trung Quốc ra rã tuyên truyền trên báo đài và truyền hình về sự "xâm phạm","khiêu khích" của nhà cầm quyền Việt Nam, v.v...

Hởi người Việt Nam, kể cả quân dân và chính khách , hãy  đừng tưởng mình chính nghĩa thì không cần tuyên tuyền để nói lên sự thật. Chân lý chỉ đúng với những dân tộc và chính thể thực sự tôn trong dân chủ và công lý, nhưng hoàn toàn không thể áp dụng đối với một đất nước rộng lớn, đông dân nhưng chưa văn minh như Trung Quốc. Nói cách khác Trung Quốc không phải là Mỹ hay Pháp. Hãy đừng để nguy cơ thua thiệt của chúng ta trở thành sự thật chỉ vì yếu kém trên mặt trận tuyên truyền ./.

Ghi chú: * theo tài liệu của Trung quốc.
--------------
*****

Thứ Sáu, 8 tháng 7, 2011

'Cảnh sát biển sẽ được trang bị tàu, máy bay hiện đại'

Đó là một tin vui mà chủ blog tôi tìm thấy trên



Trao đổi với báo chí ngày 7/7, Trung tướng Phạm Đức Lĩnh, Cục trưởng Cảnh sát biển (Bộ Quốc phòng) cho biết, thời gian tới, lực lượng cảnh sát biển sẽ được trang bị tàu có trọng tải trên 2.000 tấn, hoạt động liên tục 40 ngày đêm trên biển cùng máy bay hiện đại. - Nhiều năm qua, ngư dân Việt Nam thường xuyên bị tàu nước ngoài đe dọa về tính mạng và tài sản khi đánh bắt trên vùng biển chủ quyền. Trách nhiệm của lực lượng cảnh sát biển được thể hiện ra sao?
- Chúng tôi tổ chức phương thức hoạt động trên cơ sở duy trì sự có mặt cảnh sát biển càng nhiều ngày trên biển càng tốt đặc biệt ở vùng biển giáp ranh, chồng lấn. Những năm gần đây cảnh sát biển Việt Nam đã tăng cường hoạt động để ngư dân thấy có lực lượng cảnh sát biển thì yên tâm hơn nhất là khi có tình huống phức tạp. Đồng thời, nếu bà con ngư dân vượt sang biển nước khác thì chúng tôi cũng thông báo, ngăn chặn việc vi phạm vùng biển nước bạn.
Tuy nhiên, do diện tích vùng biển nước ta lên tới 1 triệu km2, phương tiện hạn chế nên các vùng biển xa thì chưa thể đi thường xuyên. Các phương tiện chưa bảo đảm đi trong thời tiết phức tạp, sóng gió cấp 9-10 hoặc dài ngày trên biển. Hiện tại lực lượng cảnh sát biển chỉ đáp ứng được 30-40% so với yêu cầu.
Còn về vấn đề khai thác thủy sản trên biển thì theo tôi chỉ khi nào giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các quốc gia trong khu vực có văn bản ký hợp tác khai thác thủy sản thì bà con mới thực sự yên tâm đánh bắt.
- Cảnh sát biển là một trong các cơ quan đầu mối hợp tác chung về nghề cá với Trung Quốc. Hiện nay việc hợp tác như thế nào?
- Hợp tác với các lực lượng của Trung Quốc trên biển thì cảnh sát biển là một cơ quan đầu mối, cùng phối hợp với hải quân, bộ đội biên phòng và Cục Khai thác bảo vệ nguồn lợi thủy sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Hàng năm hai nước đều duy trì việc rà soát vùng đánh cá chung, trong quá trình đó kiểm tra cả tàu Việt Nam và Trung Quốc. Nhìn chung, việc hợp tác đã có kết quả tốt, góp phần chấn chỉnh hoạt động đánh bắt thủy sản.
Chúng tôi đã đề nghị Chính phủ cho phép lập đường dây nóng giữa cảnh sát biển Việt Nam và Trung Quốc. Nếu chưa triển khai được toàn bộ thì thực hiện trước ở một số tỉnh miền biển.
- Ngoài việc hợp tác, chúng ta cần chủ động trang bị phương tiện như thế nào để đảm bảo việc duy trì an ninh, trật tự trên vùng biển chủ quyền?
- Về mặt phương tiện, dù kinh tế nhiều khó khăn nhưng Chính phủ rất quan tâm tới các lực lượng bảo vệ, giữ gìn trật tự, an ninh trên biển. Tới đây cảnh sát biển sẽ được tập trung đầu tư tàu và sẽ có tàu trên 2.000 tấn, đảm bảo hoạt động liên tục 40 ngày đêm trong thời tiết phức tạp gió cấp 12 sóng cấp 9; tàu cứu nạn, sân bay trực thăng, buồng quân y cấp cứu được 120 người... Ngoài ra, cảnh sát biển cũng được trang bị máy bay để tuần thám toàn bộ vùng biển thềm lục địa Việt Nam.
- Trong trường hợp quốc gia khác thực hiện thăm dò dầu khí, đặt giàn khoan trên vùng đặc quyền kinh tế thì thì cảnh sát biển sẽ bảo vệ chủ quyền như thế nào?
- Bảo vệ vùng biển chủ quyền phải là sức mạnh tổng hợp chứ không thể chỉ do một lực lượng mà có thể làm được. Trên biển, tất cả lực lượng có tàu thuyền đều phải tham gia bảo vệ chủ quyền. Trong đó hải quân, cảnh sát biển, bộ đội biên phòng là lực lượng nòng cốt.
Nếu nước ngoài đến thăm dò trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa - tức là vùng biển chủ quyền của ta thì phải bảo vệ đến cùng. Đây là biển của Việt Nam chứ không phải là vùng biển chồng lấn. Việt Nam là thành viên của công ước Luật biển 1982 nên sẽ làm đúng trách nhiệm và điều khoản của Công ước, đồng thời, yêu cầu các nước khác thực hiện đúng như thế.
Còn nếu nước nào đặt giàn khoan thì rõ ràng đã vi phạm quyền chủ quyền của chúng ta. Chúng ta cương quyết không để xảy ra việc này. Tuy nhiên, chúng ta luôn tuân thủ nguyên tắc giải quyết mọi vấn đề trên cơ sở hòa bình và độc lập chủ quyền, đó là quan điểm xuyên suốt của Việt Nam.
Nguyễn Hưng ghi

--------------
*****

Thứ Tư, 6 tháng 7, 2011

Có nên bao cấp lòng yêu nước(*)

(*)Chủ blog tôi vừa nhận được e-mail của một người bạn-TS Phạm Gia Minh- một thành viên của nhóm mà chúng tôi gọi đuà là "Coffee Club". Thấy bài viết đề cập đến một chủ đề khá thú vị nên tôi xin mạn phép tác giả được post lên blog này để có thêm bạn đọc.
Quả thực có rất nhiều cách nhìn và góc độ nhìn về đất nước của chúng ta của ngày hôm nay. Nhưng có lẽ không thể và không nên bỏ qua những kinh nghiệm của quá khứ, đặc biệt là quá khứ gần đây. Và điều quan trọng hơn cả là phải biết dứt khoát từ bỏ những gì đã rõ mười mươi là là sai lầm ấu trĩ.

Với cách đặt vấn đề như vậy, chủ blog tôi trộm nghĩ, bài viết của TS Phạm Gia Minh cho thấy cách lập luận chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn: Lâu nay một bộ phận lớn dân ta vẫn quen chờ xem Đảng và Chính phủ chủ trương như thế nào trước mọi hành động dù là vô cùng ngang trái của phía Trung Quốc. Rất nhiều người vẫn cho rằng đó là việc của Đảng và Chính phủ...., mình là dân thì không việc gì phải lo lắng (?) Thật đáng buồn rằng khi giặc đã đến nhà mà vẫn phải chờ cấp trên cho lệnh đánh hay đàm thì e rằng ngay cả cái mạng sống cũng không giữ được, huống chi là giữ cái nhà (?). 
                            CÓ NÊN BAO CẤP LÒNG YÊU NƯỚC ?

Nhắc đến cụm từ “ cái thời của cơ chế quan liêu , bao cấp “ hẳn những ai ở độ tuổi trên
40 vẫn còn nhớ cảnh xếp hàng cả ngày chỉ để mua mấy lạng thịt hay cân gạo v.v…
theo tem , phiếu . Cán bộ hay thường dân đều được quy định tiêu chuẩn được mua bao
nhiêu lương thực, thực phẩm và các loại nhu yếu phẩm khác tùy theo cấp bậc với mức
giá do nhà nước quy định . Hàng ngũ cán bộ nhà nước thì được phân ra làm mấy cấp ,
chẳng hạn A – cán bộ cao cấp, hàm bộ trưởng trở lên, B- cán bộ cỡ thứ trưởng , C- cỡ
đứng đầu vụ , viện , còn thấp hơn thì là D, E .Dân thì được hưởng loại tem phiếu có
chữ N . Cưới hỏi hay ma chay cũng được nhà nước quy định bằng những tiêu chuẩn cụ
thể.
Hàng hóa thì thiếu nhưng sản xuất , lưu thông lại bi “ngăn sông , cấm chợ “ và động
lực mang tính bản ngã của con người là mưu cầu cho bản thân lợi ích vật chất và tinh
thần đã không được tính đến , thậm chí còn bị ngăn cấm hoặc ít ra là cũng bị cản trở bởi
sự cào bằng ai cũng như ai. Kết cục như thế nào và vì sao phải có công cuộc Đổi mới,
chúng ta ai cũng đã rõ , rõ tới mức là ngày nay rất ít người muốn quay lại cái thời bao
cấp mông muội , trái với quy luật tự nhiên ấy nữa.
Đã là quy luật thì phải qua một quá trình nhận thức , tìm hiểu, thậm chí là va đập phũ
phàng con người ta mới “ ngộ” ra . Suốt thời bao cấp chúng ta đã không hiểu ít nhất là
hai quy luật sau :
Con người bình thường ( chưa nói tới con người có giác ngộ cao, được giáo
dục và tu luyện đặc biệt ) trước tiên luôn hành động mưu cầu lợi ích vật
chất và tinh thần cho bản thân. Đặc điểm này là nền tảng cho lý thuyết “
bàn tay vô hình” của kinh tế thị trường. Xét toàn diện hơn , nhu cầu của con
người được thể hiện theo sơ đồ Maslow bao gồm 5 cấp bậc : 1. thỏa mãn
nhu cầu cơ bản về cơm ăn áo mặc, nhà ở…2. nhu cầu được an toàn về thân
thể và tinh thần 3. nhu cầu về xã hội ( tham gia vào các hoạt động cộng đồng, tổ chức tập thể , hội đoàn, học tập v.v…4. nhu cầu được tôn trọng
trong xã hội 5. nhu cầu được thể hiện năng lực , phẩm giá và sự sáng tạo
cống hiến cho xã hội.
Trong đời sống xã hội và hoạt động kinh tế các mối tương tác nảy sinh trong
quá trình vận động , phát triển nói chung là phức tạp ( các nhà khoa học hệ
thống tạm gọi đặc điểm này là tính “ phi tuyến tính và bất định” thậm chí
nhiều khi còn “ đa vòng “ – tức là không thể phân biệt đâu là nguyên nhân ,
đâu là kết quả vì hai khái niệm này luôn luôn hoán đổi vai trò ) .. Do vậy
ý tưởng mang tính bao cấp, đó là tập trung toàn bộ quá trình thu thập, xử
lý thông tin và ra quyết định từ một trung tâm chỉ là một ảo tưởng , mặc dù
đó là một ảo tưởng ngọt ngào và hấp dẫn trước khi bị va đập với thực tiễn
khắc nghiệt đòi hỏi phải thực hiện phân cấp hoặc “mạng lưới hóa “ các hoạt
động. Thực chất đây là quá trình dân chủ hóa xã hội xét theo mọi khía cạnh.
Khi trả lại cho con người cái quyền được tự do quyết định lựa chọn mục đích phấn đấu
của bản thân cũng như phương cách để đạt mục đích đó thì xã hội sẽ phát triển đúng
quy luật, nhà nước không còn phải bao cấp như trước để có thể tập trung vào việc đề
xuất ra những chính sách điều hành vĩ mô sáng suốt và giám sát thực thi chúng có hiệu
quả.
Một cách logic , từ bỏ cơ chế bao cấp trong hoạt động kinh tế sản xuất vật chất ( hạ
tầng xã hội ) ắt phải dẫn đến những thay đổi phù hợp trong các lĩnh vực thuộc phạm
trù chính trị, tâm linh hay văn hóa- xã hội v.v…( thượng tầng kiến trúc) . Ở đây những
bước đi sao cho phù hợp là cả một nghệ thuật , nó đòi hỏi những nhà lãnh đạo đất nước
phải có tâm sáng, trí đầy và bản lĩnh như trời biển. Nói tóm lại , sự xóa bỏ bao cấp
trong các lĩnh vực ở thượng tầng kiến trúc là cái điều tất yếu phải thực hiện một cách
thận trọng, khoa học nhưng kiên quyết, đúng thời điểm vì chúng ta không ai muốn xã
hội rơi vào cảnh hỗn loạn.
Những ngày này, khi làn sóng phản đối nhà cầm quyền TQ có những hành động vi
phạm thô bạo chủ quyền lãnh hải Việt nam và một số nước ASEAN, nhiều tầng lớp
nhân dân từ các nhà trí thức có tên tuổi đến các bạn thanh niên , sinh viên , công nhân,
nông dân …với nhiệt huyết yêu nước nồng nàn và ý thức bảo vệ tương lai dân tộc đã
xuống đường tuần hành một cách ôn hòa để đồng bào cả nước cùng thế giới thấy được
tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường “ không có gì quý hơn Độc lập, Tự do” của chúng
ta mỗi khi sơn hà nguy biến . Thiết nghĩ, đó là hành động đáng được trân trọng và động
viên . Tuy nhiên ở đâu đó vẫn có ý kiến rằng “ việc ngoại giao với nước ngoài đã có
nhà nước lo, nhân dân khỏi phải can dự vào cho thêm rách việc …” .
Nếu những lời khuyên can trên từ miệng một người dân thì tôi đánh giá người ấy là vô
cảm trước vận nước và kém cỏi . Còn nếu là ý kiến của quan chức nhà nước thì có lẽ
tư duy bao cấp trong đầu người đó hẳn còn rất nặng nề, chưa hề được gột sạch dù thực
tiễn cuộc sống ngày hôm nay đã khác trước, rất khác trước.
Không thể có chỗ đứng cho cơ chế bao cấp đối với lĩnh vực thiêng liêng nhất trong trái
tim và khối óc mỗi người Việt chúng ta , đó là lòng yêu nước . Bởi lẽ biển cả trí tuệ
và lòng dũng cảm của nhân dân bao giờ cũng vô địch, nó có thể đưa cả con tàu vượt
ngàn trùng nhưng cũng có thể lật thuyền ngay cả nơi nước cạn .

Bài do tác giả TS Phạm Gia Minh gửi từ Thành phố Hồ chí Minh 3/7/2011

--------------

Khóa V: Nhớ lại và suy nghĩ (*)

(*)Phát lại một tiểu phẩm của chủ blog tôi đã đạt giải nhất trong cuộc thi viết nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Học viện Ngoại giao (1959-1009)  Hay /dỡ... xin  được lượng thứ!

Khóa V: Nhớ lại và suy nghĩ  

Ngày đầu nhập môn
Một ngày nắng nóng mùa hè năm 1964, theo giấy báo, tôi tìm đến địa chỉ Trường Cán bộ Ngoại giao-Ngoại thương để làm thủ tục nhập học. Đó là một khu khá rộng chỉ cách Chùa Láng quãng 200 mét, nằm lọt giữa vùng rau Húng Láng nổi tiếng. Khác hẳn với những gì tôi đã mường tượng , ở đó thấy toàn những dãy nhà cấp bốn đơn sơ cũ kĩ, trông giống một cơ sở sản xuất hơn là trường học. Nếu không có tấm biển hiệu nhỏ bên ngoài cổng trường (thời đó quay ra phía đường Pháo Đài Láng), chắc không mấy ai biết đây là trường đại học.
Đang ngỡ ngàng thì một người đàn ông trẻ tuổi cao lớn có khuôn mặt chữ điền với nụ cười cởi mở tiến đến bắt tay tôi và tự giới thiệu tên là Tâm. Anh mời tôi vào bên trong hành lang cho đỡ nắng, rồi lần lượt tiếp đón những người khác đang kéo đến. Khi thấy đã khá đông đủ, anh mời tất cả vào bên trong một căn phòng rộng hơn 30 mét, to hơn phòng bình thường nhưng chưa đến mức gọi là hội trường, để bắt đầu thủ tục nhập học. Căn phòng trang trí rất giản dị, nếu không nói là tuềnh toàng. Đúng ra đó chỉ là một cuộc họp để nghe đại diện nhà trường phổ biến các việc cần làm, chủ yếu là để hoàn tất các hồ sơ cá nhân và “chốt” danh sách cuối cùng của khoá học. Số là, do hoàn cảnh chiến tranh phá hoại đang leo thang, năm đó cả nước ta không tổ chức thi tuyển mà “chọn tuyển” và “cử tuyển” theo nhu cầu của các bộ/ngành; ngoại trừ những cán bộ được cơ quan cử đi học, các học sinh phổ thông hầu như chưa biết có ngành học ngoại giao. Bản thân tôi đã đăng ký ngành xây dựng và đang trong dánh sách “chờ” đi nước ngoài của Bộ Giáo dục, do đó hoàn toàn bất ngờ khi nhân được giấy gọi vào ngoại giao. Từ hôm nhận được giấy báo tôi thấy lo lo và có phần do dự. Thời đó, như đa số học sinh phổ thông, tôi thích chọn ngành kỹ thuật chứ không thích những ngành “ăn trắng mặt trơn”…; ngoài ra tôi còn có chút mặc cảm về chiều cao “khiêm tốn” của mình nên thực sự không thích làm ngoại giao. Tâm trạng thì vậy, nhưng vốn đã được giáo dục nhiều về “tinh thần, ý thức trách nhiệm” trong quá trình ở trường nội trú học sinh miền Nam nên tôi không dám từ chối. Và đó thực sự là một lựa chọn khó khăn đầu tiên trong đời tôi.
Hôm đó chúng tôi cũng được phổ biến rằng tuy không phải là trường nội trú nhưng nhà trường có thể bố trí chỗ ở tập thể cho các sinh viên ngoại tỉnh. Vậy là cũng may cho tôi vì lúc đó tôi không còn thuộc diện được ở trong trường nội trú học sinh miền Nam nhưng cũng không có gia đình ở Hà Nội. Và tôi đã quyết định xin được ở nội trú luôn hôm đó. Trong thâm tâm tôi cũng thích như vậy vì từ nhỏ toàn ở nội trú quen rồi.
Không khí buổi nhập học nói chung không có gì đặc biệt, nếu không nói là không được như mong đợi. Trường học tuềnh toàng, học sinh quá ít lại toàn nam giới khiến bọn trẻ chúng tôi mất cả hứng! Có lẽ chỉ có một chi tiết ít nhiều để lại một chút ấn tượng về “ngoại giao” theo quan niệm của tôi thời bấy giờ, đó là phong cách tiếp đón khách niềm nở của anh Tâm.
Sau này tôi mới biết thêm rằng cuộc nhập học diễn ra nhanh gọn và đơn giản như thế là vì nó được tổ chức riêng theo hai đơn vị Khoa Ngoại giao và Khoa Ngoại thương tại 2 địa điểm khác nhau; số học viên tuyển bên Khoa Ngoại thương đông hơn nhiều, chủ yếu là học sinh phổ thông và có khá nhiều nữ sinh. Điều này cũng có nghĩa là kế hoạch “tách trường” thực sự đã có từ lúc đó, nhưng gần 2 năm sau, khi Trường đang sơ tán ở Bắc Thái, mới thực hiện xong.
Khoá V còn được gọi là “Lớp Nghiệp vụ V”
Được biết, năm 1959 Bộ Ngoại giao có tổ chức một khoá đào tạo phiên dịch tiếng Anh chính quy đầu tiên tại một cơ sở nhỏ ở Bưởi nhằm kịp thời phục vụ nhu cầu công tác đối ngoại đang tăng lên sau hoà bình lập lại. (Nghe nói cựu Bộ trưởng Nguyễn Di Niên cũng thuộc khoá đó). Những năm sau Bộ gửi học viên ngoại giao vào Khoa Ngoại giao-Ngoại thương trực thuộc Trường Kinh tế Kế hoạch (nay là Đại học Kinh tế Quốc dân). Đến năm 1963 mới tách ra thành Trường Cán bộ Ngoại giao-Ngoại thương đóng trụ sở tại Láng.
Vì thế theo thứ tự, khoá tôi là Khoá V (thời gian học 5 năm, nhập học hè 1964, ra trường năm 1969). Đây là khoá bắt đầu có tuyển học sinh mới tốt nghiệp phổ thông (chứ không phải chỉ có “cán bộ cử đi học” như trước đây); tổng số ban đầu quãng 50 người, sau “rơi rớt” dần còn hơn 40 người. Tôi còn nhớ thành phần học viên rất khác nhau về tuổi tác và xuất xứ nghề nghiệp. Khoảng một nửa là học sinh mới tốt nghiệp năm 1964. Thuộc diện này ngoài tôi ra có Nguyễn Quý Bính, Đỗ Công Minh, Nguyễn Văn Sơn, Cao Danh Quyền, Ngô Văn Hoa, Đinh Quang Tiến, Nguyễn Văn Cung, Triệu Kỷ Nguyên và một vài người nữa tôi không còn nhớ rõ. Một số tốt nghiệp 1-2 năm trước, trong đó có Nguyễn Thành Châu, Nguyễn Văn Khoa, Đỗ Tất Chất, Thân Xuân Lê, Phạm Văn Nhữ, Phùng Mai, Nguyễn Hồng Phong… đặc biệt có hai người tên là Tung và Tăng - một sự trùng hợp thật thú vị! Diện cán bộ đi học gồm các anh Phạm Tấn Vọng, Hồ Liên (của Bộ Ngoại giao); các anh Sâm, Thực, Dong và Lân (Bộ Công an); có cả một số cán bộ chủ nhiệm HTX như anh Luân, anh Khổn, anh Hạt, anh Bảng; anh Tuyến và hai sĩ quan quân đội là Trần Hải (hải quân) và Ngô Ngọc Phiếu (pháo binh). “Phái yếu” chỉ có một người duy nhất là chị Tâm (cũng là cán bộ của Bộ Công An cử đi học). Khoá được biên chế thành 2 lớp theo ngôn ngữ Anh và Pháp trên cơ sở một phần theo nguyện vọng cá nhân một phần theo sự phân công của tổ chức; mỗi lớp trên dưới 20 người. Các môn chính trị, nghiệp vụ thì học chung như nhau.
Khoá V còn được gọi là “lớp nghiệp vụ V” từ khi có Khoá VI (niên khoá 1965-66). Khoá này gồm 2 loại lớp chuyên ngành là lớp Phiên dịch (chương trình học nặng về ngoại ngữ); và lớp Nghiệp vụ (năng về các môn nghiệp vụ).Vì thấy Khoá V cũng học nhiều nghiệp vụ hơn nên mọi người quen gọi là “Lớp nghiệp vụ V”, thế thôi.
Chưa ấm chỗ đã phải đi sơ tán
Đầu năm 1964, trước thất bại nặng nề tại chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ phát động chiến tranh phá hoại bằng không quân chống miền Bắc. Đầu tiên chúng tạo ra vụ “Vịnh Bắc Bộ” để lấy cớ dùng hải quân và không quân đánh phá ven biển Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ninh, Hải Phòng. Cuộc chiến tranh nhanh chóng “leo thang” ra toàn miền Bắc, đến cuối năm đó về cơ bản không còn giới hạn nữa; máy bay địch tuy chưa thật sự “chạm” vào Thủ đô nhưng ngày nào cũng nghe loa phóng thanh thông báo “máy bay địch cách thành phố…kilômét” với những cự ly ngày càng ngắn dần và nghe rõ tiếng bom và đạn rốc-két vang rền; trên bầu trời xuất hiện nhiều vệt khói của tên lửa phòng không hoặc máy bay chiến đấu của ta xuất phát từ các căn cứ quanh Hà Nội.
Trước diễn biến tình hình ngày càng nghiêm trọng, chúng tôi thực sự chỉ được ở lại Trường quãng hơn 1 tháng, chỉ đủ để chuẩn bị cho công cuộc sơ tán toàn trường “một cách triệt để và lâu dài” (theo cách nói của Lãnh đạo ta thời đó). Chúng tôi thực sự không thấy lo lắng gì về chuyện phải đi sơ tán, nên dù được ở lại trường trong thời gian ngắn vẫn hăm hở bắt đầu những buổi học đầu tiên, đặc biệt là môn ngoại ngữ. Ngoài giờ học tôi tranh thủ cùng vài người bạn đi tham quan một số địa điểm nổi tiếng như Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm, Văn Miếu, Quảng trường Ba Đình, Công viên Thống Nhất…, dạo qua cổng một số trường đại học lớn như Bách Khoa, Kinh tế Kế hoạch…, đi chơi Chợ Đồng xuân và khu phố cổ. Hồi đó tôi phân vân: Hà Nội đâu có gì đẹp và đáng yêu đến mức như được mô tả trong thơ ca và âm nhạc? Thế nhưng sau này khi rời Hà Nội đi sơ tán tôi mới hiểu điều đó; mỗi khi nghe một bài hát, bài thơ về Hà Nội tự dưng tôi cảm thấy xúc động vô cùng….Có lẽ Hà Nội luôn đáng yêu hơn nhiều khi ta xa nó - một thứ tình yêu mà khi đang sống ngay trong lòng nó ta có thể không nhận ra.
Chưa kịp “ấm chỗ” tại Láng thì khoảng cuối tháng 9 năm 1964 toàn trường (lúc đó vẫn gồm cả Khoa Ngoại thương) được lệnh sơ tán lên Bắc Thái. Chúng tôi di chuyển theo nhiều nhóm bằng các phương tiện khác nhau, chủ yếu là tàu hỏa và đi bộ (thời kỳ đó Mỹ còn đang “nắn gân” Trung Quốc nên chưa oanh tạc 2 tuyến đường sắt nối với Trung Quốc). Nhóm tôi đi tàu hỏa xuống ga Ba Hàng, Huyện Phổ Yên (cách Thị xã Thái Nguyên khoảng 30 km) đúng vào buổi chiều tối. Để giữ bí mật địa điểm sơ tán và đề phòng máy bay phát hiện, vừa xuống ga chúng tôi phải di chuyển ngay. Ngoài đồ đạc tư trang mỗi người phải mang vác thêm những dụng cụ bếp ăn tập thể như nồi niêu, xoong chảo, gạo, củi, … Tất cả tiến nhanh về phía bờ sông cách ga độ 2 km. Hôm đó trời sáng trăng và mùa nước sông cạn, nên chúng tôi cứ việc xắn quần lội qua một cách dễ dàng, có phần thích thú nữa. Qua sông chúng tôi lại cuốc bộ khoảng 7 km thì đến địa điểm tập kết tại làng Xuân Trù, xã Xuân Phong, sau đó đi về các hướng theo sự phân công từ trước. Chúng tôi đi xuyên qua một thôn tên là Cổ Pháp để tới một xóm nhỏ tên là Thái Cao là nơi đóng quân cuối cùng. Lúc đó đã quãng 11 giờ khuya, nhưng các gia đình vẫn thức chờ đón nhận sinh viên. Không khí vui vẻ, đầm ấm khiến chúng tôi quên cả mệt mỏi sau một ngày hành quân liên tục. Sau màn chào hỏi, anh Vọng, lớp trưởng phối hợp với mấy cán bộ địa phương công bố danh sách ai ở nhà nào…, rồi chúng tôi theo chân các bác chủ nhà về từng gia đình. Tôi cùng anh Hồ Liên và Ngô Văn Hoa được phân về ở với gia đình vợ chồng bác Tuấn. Đêm đó tuy đã khuya nhưng cả chủ và khách vẫn nán lại trò chuyện, có lẽ 2-3 giờ sáng mới đi ngủ.
Đến miền trung du xa tiếng bom đạn
Sáng hôm sau, không ai bảo ai, chúng tôi đều thức dậy thật sớm. Tôi rất nôn nóng muốn nhìn rõ cảnh quang ban ngày và biết thêm về gia đình mà mình sẽ ở trong thời gian tới. Quang cảnh không có gì đặc biệt lắm, nhưng khác biệt so với những làng quê đồng bằng Bắc Bộ mà tôi đã từng qua. Đó là một vùng trung du với đầy đủ những đặc điểm riêng của nó: những quả đồi nhấp nhô xen giữa các thung lũng trong đó có ruộng lúa, nương ngô và bãi cỏ. Đồng ruộng ở đây rất hẹp chứ không thẳng cánh cò bay như ở vùng đồng bằng. Xa xa là những rặng núi màu xanh thẫm báo hiệu ranh giới với vùng Tây Bắc. Những đồi thông khiến quang cảnh ở đây khác hẳn với miền xuôi. Hầu hết nhà dân đều ở trên đồi; vùng đất trũng để trồng lúa hoặc ngô; vùng đất ven đồi trồng khoai, sắn, đậu… Dạo đó là đầu mùa đông, trời đã khá lạnh, nhưng bầu trời thật quang đãng. Tôi cảm thấy thích nơi đây, thấy nó như một miền quê đẹp, thoáng đãng và thơ mộng .
Đang mải ngắm cảnh và nghĩ ngợi mung lung thì có tiếng mời gọi của cô con gái bác chủ nhà: “Mời các anh vào ăn con củ héo với nhà em”… Có lẽ đó là lời mời chào lạ lẫm nhất mà tôi từng nghe trong cả cuộc đời…Tôi thật sự tò mò muốn biết “con củ héo” là gì…Và phải mất cả một quá trình từ nhìn, nếm và nghe giải thích tôi mới thực sự hiểu đó là khoai lang được treo cho đến khi khô kiệt thì đem luộc chín, để nguội rồi mới ăn. Ăn như thế khoai sẽ ngọt như mật và rất thơm ngon.
Từ đó về sau (mặc dù không phải là nhà nhân chủng học) tôi cũng muốn tìm hiểu xem người vùng trung du Bắc Bộ và miền Nam có gì liên quan với nhau (?)…Và tôi đã mạo muội kết luận là có. Ví dụ, từ “con củ” ở đây gần giống với từ “củ lang” ở quê tôi, và có sự trùng hợp hoàn toàn ở các từ “bắp” (ngô), “củ mì” (sắn)…và một số tên các loài vật và dụng cụ khác. Đăc biệt, như ở quê tôi, dân vùng này cũng lấy tên người con cả để gọi cha mẹ; cũng kéo cày, bừa bằng 2 trâu hoặc bò (chứ không phải 1 con như ở đồng bằng Bắc bộ). Có lẽ chỉ các nhà chuyên môn nhân chủng học và khảo cổ học mới giải thích được những hiện tượng trùng hợp như vậy. Dù sao đối với tôi đó là một phát hiện mới khá lý thú.  
Trong bữa ăn sáng với “con củ héo” đầu tiên đó, chúng tôi được hiểu thêm về gia chủ. Bác Tuấn có 4 người con: 2 trai, 2 gái. Con trai lớn tên là Tuấn đang chuẩn bị cưới vợ trước khi đi nghĩa vụ quân sự, cô con gái tên là Tuyên, mới 12 tuổi nhưng đã lộ vẻ e ấp của một cô thôn nữ, tiếp đến là một cô con gái nữa và cậu út tên Chinh mới 2 tuổi. Có thể thấy đó là một gia đình “khá giả” trong điều kiện của nông thôn miền Bắc thời kỳ trước chiến tranh phá hoại. Nhà có 3 gian, 2 chái và một căn nhà ngang dùng làm bếp, có sân gạch phía trước và vườn ba bên với luỹ tre bao quanh. Ở gần bếp có một giếng khơi, nước rất trong, mát và sạch. Nhà được xây bằng gạch và gỗ xoan, lợp ngói trông rất chắc chắn và “hợp thời”; tuy không quá rộng nhưng diện tích đủ chỗ tối đa cho 8-9 người ở. Gia chủ dành hẳn gian bên phải để kê 3 cái gường nhỏ chừa một lối đi hẹp ở giữa cho 3 khách sinh viên. Gian giữa kê ban thờ và bộ bàn ghế tiếp khách chung cho cả nhà. Gian trái kê một chiếc sập gỗ và môt chiếc chõng tre. Hai gian chái là nơi ở chính và cũng là kho đồ đạc, thóc gạo của gia đình. Bếp núc và ăn uống hầu hết đều ở nhà ngang, chỉ khi nào có cúng giỗ, tiệc tùng thì mới ăn ở nhà trên.
Cùng ăn cùng ở,… Dân đi làm, sinh viên đi học
Cả Khoá được chia ra thành các nhóm 2-3 người đến ở cùng các gia đình khác trong cái xóm nhỏ không quá 20 nóc nhà. Nhiều trường hợp giữa chừng có thay đổi chỗ ở, nhưng riêng tôi ở nhà bác Tuấn từ đầu đến cuối nên còn nhớ rõ địa chỉ bưu điện là “nhà Ông Tuấn - xóm Thái Cao, Thôn Cổ Pháp, Xã Xuân Phong, Huyện Phổ Yên, Tỉnh Bắc Thái”.
Có một điều tôi luôn thán phục là thái độ bao dung, rộng lượng của các gia đình có sinh viên ở mặc dù trong quá trình đó chắc chắn chúng tôi đã gây ra rất nhiều khó khăn, bất tiện cho họ. Chúng tôi từ đâu đâu bổng đến sống trong nhà của họ, làm đảo lộn tất cả nếp sống của họ, thậm chí ăn bớt khẩu phần thức ăn vốn đã khan hiếm của họ…, vậy mà lúc nào họ cũng vui vẻ chấp nhận chúng tôi. Không những thế, càng ở lâu mối quan hệ “chủ-khách” càng thân tình, sâu nặng như người trong một nhà. Bây giờ nhớ lại, không sao lý giải nổi tại sao thời đó người dân tốt đến thế? và tại sao mọi người đều dễ dãi và mọi thứ đều đơn giản như vậy?....Có lẽ chỉ những người trong cuộc mới có thể hình dung được, nhưng chưa chắc ai cũng có thể trả lời một cách thoả đáng những câu hỏi trên.          
Ngay từ hôm sau khi đến nơi sơ tán, chúng tôi bắt tay vào việc đào hầm trú ẩn và lên rừng kiếm vật liệu về làm lớp học đồng thời kết hợp kiếm củi đun. Chỉ vài tuần sau đã có một lớp học “dã chiến” rộng gần trăm mét vuông, nửa ngầm, nửa nổi trên mặt đất, trông cũng khá đẹp mắt. Bàn ghế chủ yếu làm bằng tre, bương, vầu, nứa…; cũng có bục giảng và bảng đen khá hoành tráng. Một nhà bếp tập thể cũng được nhanh chóng dựng lên với đầy đủ “trang thiết bị” như lò đun, giá để nồi niêu, xoong chảo và cả bàn ghế ăn…, tất thảy đều làm bằng tre, bương, lá và đất bùn trộn rơm rạ. Chính nơi đây đã để lại nhiều kỷ niệm nhất về quãng đời sơ tán của sinh viên chúng tôi. Tôi còn nhớ, người trực tiếp chăm sóc bếp núc cho Khoá V là bác Liễu, một cấp dưỡng không chỉ giỏi tay nghề mà còn chuẩn mực về phong cách nghề nghiệp. Bác lúc nào cũng ăn mặc chỉnh tề, đầu tóc chải mượt, làm gì cũng gọn gàng, sạch sẽ, ngăn nắp. Nghe nói, bác nguyên là một đầu bếp “lưu dung” từ thời Pháp, sau làm ở Nhà khách Chính phủ ta, toàn những chỗ có sẵn nguyên liệu, thực phẩm tươi ngon. Ấy vậy nhưng khi đi sơ tán bác Liễu rất giỏi trong việc cải tiến các món “mầm đá”. Trong hoàn cảnh thiếu thốn mọi thứ, bột mì thường mốc và hôi, chỉ có ít tóp mỡ hoặc bì lợn, nước mắm là thứ “xa xỉ”…, nhưng bác Liễu vẫn chế biến làm sao để bữa nào chúng tôi ăn cũng thấy ngon miệng. Thế mới hay chứ! Phụ bếp với Bác có chị Luân, chị Bảy, cũng là những người chúng tôi luôn biết ơn và quý mến .
Những ngày đầu chưa có lớp học, chúng tôi tranh thủ học ngay trong nhà dân với môn ngoại ngữ. Ít lâu sau có hội trường dã chiến cả Khoá bắt đầu tập trung học các môn nghiệp vụ. Trời mùa đông ở Bắc Thái rất lạnh, nhưng sáng nào thầy trò cũng đều có mặt đúng giờ và đông đủ; không khí dạy và học rất hào hứng, một phần vì thời đó không có thú vui gì để đánh lạc hướng chúng tôi. Trong mắt tôi, các thầy tiếng Anh ai cũng giỏi và có phong cách hấp dẫn. Ngoài các thầy cũ từ Hà Nội lên đây, lớp tôi còn được bổ sung thêm mấy thầy của khoa Ngoại thương. Tôi rất thích một vài thầy trẻ tuổi với phong cách và giọng phát âm “chuẩn” như thầy Nghĩa, thầy Thạch. Tôi cũng thích thầy Bích, thầy Mỹ Điền vì ngoài việc dạy tiếng Anh, các thầy còn nói nhiều chuyện lý thú về cây cảnh, vật nuôi…
Học các môn nghiệp vụ thường dễ buồn ngủ vì chỉ lắng nghe thụ động. Hôm nào gặp bài kém hấp dẫn thì càng dễ buồn ngủ hơn. Nghe giảng vào mùa hè gió mát thì lại càng dễ bị ngủ thiếp lúc nào không hay. Hồi đó ngủ gật trong lớp hay vắng mặt đều bị phê bình rất nặng. Có quá nhiều thầy thay nhau lên lớp các môn chính trị và nghiệp vụ nên khó có thể nhớ hết như với các thầy ngoại ngữ. Người chúng tôi nhớ lâu nhất có lẽ là thầy Bát dạy môn Sử quan hệ quốc tế vì mỗi khi vào lớp thầy đã thấp lùn lại hay cúi gập người chào như Hề Sạc-lô, tưởng chừng sắp lộn người xuống đất! Nhưng chúng tôi rất mến thầy vì thầy rất hiền và nhiệt tình. Môn luật của Thầy Vệ có lẽ là một trong những “môn buồn ngủ” nhất. Những lúc buồn ngủ quá mọi người chỉ mong có báo động máy bay. Nghe hài hước, nhưng đó là sự thật, vì được giải toả cơn buồn ngủ! Những tình huống như thế thường xảy ra vào các năm 1967-68, những năm cao điểm của cuộc chiến tranh phá hoại. Căm thù giặc là một chuyện, nhưng chúng tôi cũng rất thích “mục kích” cảnh máy bay gầm rú giữa làn đạn tên lửa phòng không hoặc những cuộc không chiến. Đã có một số máy bay rơi xuống vùng sơ tán và chúng tôi được dịp cùng dân quân vây bắt phi công Mỹ. Thời đó mỗi năm có một hai đợt tập quân sự kéo dài hàng tháng, nhưng chúng tôi vẫn không ngại, trái lại còn lấy làm thích thú. Những hoạt động quân sự như thế chúng tôi coi như được “thay đổi không khí” và cảm thấy rất hào hứng tham gia..
Có một khó khăn lớn đối với chúng tôi để học tốt môn ngoại ngữ. Đó là chúng tôi phải học trong điều kiện hầu như không có trang thiết bị nghe nhìn và tài liệu tham khảo. Để khắc phục, thầy trò luôn tìm nhiều cách khác nhau; một trong những cách tốt nhất là đọc to và học thuộc lòng. Học môn nào cũng thế, bọn chúng tôi thường cầm sách ra cánh đồng, ở đó tha hồ đọc to mà không ảnh hưởng đến người khác. Bếp cũng là nơi học lí tưởng, nhất là vào mùa Đông hay những ngày mưa. Chỉ khi cần viết thì mới ngồi trên giường. Buổi tối có thể nằm nhẩm bài, rất hiệu quả mà không tốn dầu đèn. Về cách học này, tôi phục nhất là Ngô Văn Hoa ở cùng nhà. Hắn có thể ngâm nga cả buổi mà không mỏi mồm, thuộc lòng đến nỗi khi trả bài có thể đọc lại nguyên xi không thiếu dấu chấm phẩy! Hắn còn có tài nói chuyện đến mức “kiến trong lỗ cũng chui ra”, khiến cô con gái tuổi trăng tròn của chủ nhà cứ nghếch mắt lên mà nghe! Cách học nói to như thế, nhất là với môn ngoại ngữ, lúc đầu làm dân làng buồn cười, nhưng rồi họ cũng thấy quen và trở thành bình thường. Thời đó chúng tôi học được rất nhiều về ban đêm, đơn giản vì không học thì cũng chẳng có thú vui gì khác để bận tâm. Âu đó cũng là một “lợi thế” của sinh viên thời sơ tán! 

Trong thiếu thốn, khó khăn, vất vả nhưng “cuộc đời vẫn đẹp sao, …”
Trường cán bộ Ngoại giao-Ngoại thương sơ tán trên một địa bàn rất rộng; trên thực tế chỉ là danh nghĩa trong quãng 2 năm đầu với một số hoạt động chung như sinh hoạt Đảng-Đoàn, phân bổ giảng viên, trao đổi tài liệu, giáo trình, v. v.. Riêng Khoa Ngoại giao năm đầu sơ tán có 3 khoá (3, 4 và 5) nhưng tổng số học viên chỉ quãng 200 người. Ít lâu sau Khoá III, rồi Khoá IV lần lượt ra trường, thay vào bằng các khoá Trung cấp chuyên nghiệp văn thư kế toán ngoại giao. Niên khoá 1965-66 tuyển tiếp Khoá VI (đại học). Lực lượng học viên nhanh chóng được “trẻ hoá” và điều này ít nhiều cũng đã “thổi” một luồng gió mới vào không khí nơi sơ tán.      
Khoá V chúng tôi đóng quân toàn bộ ở xóm Thái Cao, khá tách biệt với Trường và Khoa nên cũng hạn chế trong đi lại giao lưu; hàng tháng chỉ một vài dịp sang làng Cổ Pháp (nơi có hội trường rộng hơn) để họp, nghe phổ biến thời sự hoặc nghe giảng một số môn học chung. Đó cũng là nơi để tổ chức văn nghệ hoặc hội họp. Những cuộc họp qúa đông với nhân dân địa phương thì phải tổ chức ngoài trời tận bên thôn Xuân Trù. Chúng tôi không ngại đi họp xa như thế, vì đó là những dịp đông vui, được gặp lại bạn bè và trao đổi kinh nghiệm rất bổ ích và lý thú. Nhưng những dịp như thế thật là hiếm hoi.
Tôi còn nhớ, trong bối cảnh sơ tán với bao cách trở, khó khăn, thiếu thốn nhưng vẫn luôn tồn tại một lĩnh vực hoạt động có thể nói không hề bị ảnh hưởng bởi chiến tranh. Đó là văn nghệ. Hồi đó tuy chỉ có ánh đèn măng-xông với phông màn, đạo cụ và trang phục “tự chế” chúng tôi vẫn có những đêm văn nghệ không kém phần hấp dẫn so với bất cứ đêm văn nghệ của bất cứ thời nào. Tôi còn nhớ tuy ít người và chỉ có một nữ nhưng Khoá V có thể tham gia biểu diễn hầu hết các thể loại ca, múa, nhạc, kịch…, khi cần đóng giả luôn các vai nữ! Hát đồng ca thì hầu như ai cũng tham gia được; hát hay thì có Hoa, Viêm; chèo có Tuyến, Lương; nhạc cụ có Minh, Hải; thơ có Thân Xuân Lê… Một lần chúng tôi dàn dựng cả vở “Hòn đảo thần vệ nữ” trong đó tôi thủ vai cậu Gioóc với câu: “Hết ngày dài lại đêm thâu, chúng tôi đi trên đất Phi Châu…” (và không ngờ sau này tôi đã có 3 năm công tác ở đất Châu Phi buồn tẻ như thế!). Một lần khác tôi lên sân khấu với một tiết mục “xiếc” tự nghĩ ra, bắt đầu bằng việc biến một chiếc cốc rỗng thành cốc có nước…Tiết mục đó trông thật quá khiến một anh Khoá IV xung phong lên sân khấu để bị tôi dùng nhọ nồi (vì thời đó lấy đâu ra son phấn) bôi lên mặt biến thành một còn …mèo! Sau vụ đó tôi phải trốn mấy ngày trước sự lùng sục của anh ta. Kể ra tôi đã hơi quá đáng khi “lừa” một bậc đàn anh như thế.
Chúng tôi cũng đã ra những tờ báo tường với rất nhiều bài bình luận, chuyện ngắn, thơ ca. hò vè, tranh vẽ, v.v… thật phong phú! Bây giờ mỗi khi gặp lại nhau chung tôi vẫn còn nhắc lại những tác phẩm “bất hủ” đó. Quả thật giờ đây nghĩ lại khó ai có thể lý giải được tại sao chúng tôi vẫn rất lạc quan yêu đời trong suốt quá trình gian nan vất vả kéo dài như vậy.
Tôi cũng rất nhớ các buổi “ăn đêm” với những nồi cháo thịt chim, thịt cóc, thịt rắn…mà chúng tôi tự săn bắt được. Về chuyện này tôi phục nhất là Triệu Kỷ Nguyên về tài nghệ “hái lượm” và chế biến các món “sơn hào, hải vị đồng quê” như thế. Trong khung cảnh sơ tán, đối với chúng tôi, đó không chỉ là những bữa ăn cải thiện chất dinh dưỡng mà còn là những buổi liên hoan nho nhỏ rất vui và thân mật.
Trở về xây dựng lại mái trường xưa
Thấm thoát đã ngót 5 năm trôi qua với Khoá V tại nơi sơ tán. Ở đó tuy không quá xa Hà Nội nhưng chúng tôi không mấy dịp được trở về Hà Nội. Ở lâu quá hoá quen nên cũng không trông mong gì. Nhưng cái gì đến đã đến. Đó là khoảng giữa tháng 8 năm 1969 sau khi Tổng thống Mỹ Nixon buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc, Lãnh đạo Bộ đã cử Khoá V làm “tiền trạm” trong cuộc trở về Thủ đô. Thế là chúng tôi trở lại mái trường xưa ở Láng, cũng trong một cuộc hành quân khá vất vả, nhưng rất vui và hào hứng, đặc biệt là không phải “đề phòng máy bay địch” như lúc ra đi.
Khu trường trông hoang tàng so với lúc chúng tôi nhập học. Một xí nghiệp dệt đã “trưng dụng” nó trong những năm sơ tán vừa mới rút đi để lại những dãy nhà hoen ố với cơ man gach, đá, phế liệu và rác rưởi. Thế là chúng tôi đã là những người đầu tiên phải đứng ra khắc phục hậu quả, kể cả vụ “tranh chấp lãnh thổ” với người anh em Ngoại thương và một bộ phận công nhân còn ở lại . Vì lúc trở về đã chia tách thành hai trường nên khuôn viên trường cũ phải được chia đôi. Cơ sở vật chất vốn đã quá nghèo nên không có gì để tranh chấp, nhưng lãnh thổ thì bao giờ cũng khó thoả hiệp. Vì đông sinh viên hơn nên bên Ngoại thương đòi 2/3 diện tích; và bên Ngoai giao không thể bác bỏ điều này. Tuy nhiên khi vạch đường ranh giới cụ thể thì lại có vấn đề, vì đường này cắt qua 3 dãy nhà (trước đây là mặt sau, bây giờ là mặt tiền) nơi một bộ phận công nhân của xí nghiệp sơ tán chưa chuyển đi nên hàng rào phân chia phải dừng lại ở đó và cả hai bên đều chưa thể đưa người của mình vào. Tình trạng tranh chấp đã dẫn đến vài vụ xô sát giữa “ba bên” (sinh viên hai trường và công nhân). Cuối cùng, vì nhiều lý do khác nhau, phần diện tích tranh chấp đã thuộc về Trường Ngoại thương, mà dấu tích vẫn còn đến ngày nay với bức tường lệch sang phía Học Viên Ngoại giao hàng chục mét. Chúng tôi chỉ biết tự an ủi rằng, với chiếc cổng mới trổ ra phía Đường Láng, trường mình được “nở hậu”!
Tôi còn nhớ chỉ khoảng 2 tuần sau khi Khoá tôi trở về Hà Nội thì Bác Hồ mất và quốc tang diễn ra ngày 3/9/1969 (Nghe nói Bác đã thực sự ra đi vài ngày trước, nhưng Lãnh đạo ta chủ trương thông báo sau Quốc khách 2/9 để thuận bề làm quốc tang). Khoá V vì thế cũng chứng kiến sự kiện đau buồn vô hạn đó của đất nước. Chúng tôi không ai cầm được nước mắt khi nghe Tổng bí thư Lê Duẩn đọc bài điếu văn trong đó có trích đoạn Di chúc của Bác. Vậy là Bác Hồ đã vĩnh viễn ra đi mà không được chứng kiến ngày đất nước thống nhất.
Cuộc hội ngộ sau 40 năm
Sau nhiều lần dự định không thành, trước Tết Kỷ Sửu vừa rồi, Ban liên lạc cựu sinh viên Khoá V đã tổ chức thành công chuyến trở lại thăm nơi sơ tán 40 năm trước. Tuy chưa đủ tất cả, nhưng đó là lần hội ngộ đông đủ nhất của Khoá V với bà con Xóm Thái Cao kể từ ngày tạm thời chia tay năm 1969.
Chiếc xe thuê bao khởi hành từ Hà Nội lúc 7 giờ sáng đưa chúng tôi theo đường số 3 đến thị trấn Ba Hàng (Huyện Phổ Yên) rồi rẽ phải để vào xã Tiên Phong. Xe đi đến đâu mọi ngưòi bùi ngùi nhớ lại những kỷ niệm của thời sơ tán..., rồi thi nhau kể lại điều mình còn nhớ, cả những câu chuyện tiếu lâm và những bài thơ con cóc… Tất cả như một cuốn phim tái hiện lại đầy ắp những kỷ niệm xưa. Mải vui chuyện, xe chạy quá đoạn đáng ra phải rẽ lúc nào không hay. Nhưng thật ra, có để ý cũng không thể xác định kịp, vì quang cảnh đã hoàn toàn thay đổi với rất nhiều khu dân cư mới hình thành trong sự “biến mất” của những cánh rừng thông thơ mộng ngày xưa. Những quả đồi cũng dường như lún xuống trước sức nặng của nhà cửa và dân cư đông đúc. Phải sau 7- 8 lần dừng xe hỏi đường, cuối cùng chúng tôi mới đến đúng nơi cần đến, đó là ngã ba giữa xóm Thái Cao (xem ảnh)
image001
Chiếc xe vừa mới đỗ lại, như có một giác quan đặc biệt, chúng tôi và những người dân nơi đây đã nhận ra nhau ngay. Thế là chuyện hàn huyên nổ như ngô rang kể từ giây phút đó…
Để tranh thủ thời gian, chúng tôi liền chia nhau thành hai nhóm lần lượt vào thăm và tặng quà từng gia đình nơi có sinh viên ở. Kế hoạch là không để sót một gia đình nào nhưng phải kịp rời khỏi xóm trước 12 giờ trưa. Vì biết rằng sau từng ấy năm hầu hết các ông bà chủ nhà có sinh viên trọ nay đã qua đời và con cháu họ lấy chồng hoặc làm ăn nơi khác…, chúng tôi xác định đây là chuyến đi “khảo sát” nhằm nối lại quan hệ và cần thực hiện “chớp nhoáng” để không gây phiền phức nào đối với gia chủ hoặc chính quyền địa phương. Nhưng rốt cuộc chuyến thăm đã kéo dài hơn dự định mà vẫn chưa đủ để mọi người chuyện trò hàn huyên. Chủ, khách mừng mừng tủi tủi , xúc động vỡ oà trong nước mắt… Cũng may là hầu hết các gia đình đều có ít nhất một người con hoặc cháu ở lại nơi nền nhà xưa để đón tiếp chúng tôi.
Hai vợ chồng chủ nhà của tôi nay đều đã qua đời. Cậu con trai cả đã hy sinh trong chiến trường miền Nam, 2 cô con gái đều lấy chồng địa phương khác. Cậu út Chinh ngày xưa nay đã có rất đông con cháu nên đã xây nhà ở chỗ khác nhường lại nền nhà cổ cho người con trai cả của mình. Được thông báo, vợ chồng ông Chinh tất bật kéo đến để gặp chúng tôi. (xem ảnh ông Chinh và vợ bế cháu nội)
image002
Đúng ra chỉ có ông Chinh là người duy nhất của gia đình chủ nhà có thể nhận ra chúng tôi. Nhưng các thành viên khác trong gia đình đều tỏ ra biết khá rõ về chúng tôi như những người thân thiết của họ, vì họ vẫn thường nói chuyện với nhau về chúng tôi.
Chỉ tiếc thời gian quá ít; chủ khách chỉ kịp trao đổi thông tin về ai mất ai còn, đang làm gì ở đâu v.v… Chúng tôi chỉ kịp trao đổi số điện thoại và hen gặp lại vào dịp sau. Tôi đã kịp chụp một số ảnh bằng chiếc máy kỹ thuật số mang theo người, trong đó có ảnh cái giếng của bếp ăn tập thể thuộc “hệ thống công sự dã chiến” thời sơ tán. Nghe nói dân làng có ý giữ lại để làm kỷ niệm nên nó mới còn đến bây giờ (xem ảnh).
image004
Chuyến đi tuy ngắn ngủi nhưng thật sự ý nghĩa, đã phần nào giúp chúng tôi cởi bỏ được mặc cảm “vô ơn bội nghĩa” đối với nơi đã cưu mang mình trong suốt ngót 5 năm sơ tán.
Thay cho lời kết
Giờ đây ngoảnh lại đã tròn 45 năm kể từ Khoá V chúng tôi nhập học. Những gì đọng lại sâu nhất trong ký ức chúng tôi chính là những năm tháng sống và học tập trong hoàn cảnh sơ tán đầy khó khăn, thiếu thốn, vất vả nhưng rất đáng tự hào. Có thể nói, trong quá trình 50 năm phát triển và trưởng thành của Học viện Ngoại giao ngày nay, Khoá V có thể được coi là một trong những cột mốc đặc biệt với 5 đặc điểm riêng mà không phải khoá nào cũng có: Một là, khoá đầu tiên theo Trường đi sơ tán, và đầu tiên trở về khôi phục Trường sau 5 năm vắng chủ; hai là, khoá chứng kiến quá trình chia tách Ngoại giao-Ngoại thương và thành lập Trường cán bộ Ngoại giao; ba là, khoá có số học viên rất ít nhưng thành phần rất “đa dạng”về tuổi tác và xuất xứ nghề nghiệp; bốn là, tất cả sinh viên tốt nghiệp của khoá đều được phân công về Bộ Ngoại giao và một vài bộ/ngành quan trọng khác; năm là, khoá đầu tiên có tuyển học sinh phổ thông “cùng thời” với 2 cựu Tổng thống Mỹ: Clinton và Bush (sinh năm 1946, vào đại học năm 1964) - một sự trùng hợp khá thú vị!./.
(Đã được đăng tại tập san Học viện Ngoại giao:  http://www.dav.edu.vn/thanh-nien-sinh-vien/bai-viet-cua-sinh-vien/88-khoa-v-nho-lai-va-suy-nghi.html

Hà Nội, tháng 3 năm 2009
Trần Kinh Nghị  


Bài ngẫu nhiên

Tìm blog này